Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống là một sự liên kết nhiệm mầu mà chúng ta không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự khi chưa nhận ra mối liên kết ấy.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Định Huệ »»
(了實, Ryōjitsu, 1303-1386): vị tăng của Phái Bạch Kỳ (白旗派) thuộc Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Liêm Thương và Nam Bắc Triều, húy Liễu Thật (了實), hiệu là Thạnh Liên Xã (盛蓮社), Thành A (成阿). Lúc trẻ, ông theo xuất gia với Liên Thắng (蓮勝) ở Pháp Nhiên Tự (法然寺) vùng Thường Lục (常陸, Hitachi). Đến năm 1330 ông thọ Viên Đốn Giới với Định Huệ (定慧) ở Quang Minh Tự (光明寺) vùng Liêm Thương. Trong khoảng niên hiệu Diên Nguyên (延元, 1336-1340), ông được vị Thành chủ Tá Trúc Nghĩa Đôn (佐竹義敦, Satake Yoshiatsu) quy y theo, nên kiến lập ra Thường Phước Tự (常福寺) ở vùng Qua Liên (瓜連, Urizura), và nới đây đã trở thành cứ điểm phát triển giáo đoàn của Tịnh Độ Tông vùng Quan Đông. Môn đệ của ông có Thánh Quynh (聖冏), Lương Hựu (良祐), Liên Không (蓮空), v.v.
(聖冏, Shogei, 1341-1420): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống khoảng vào giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, vị Tổ thời Trung Hưng của Dòng Trấn Tây (鎭西流); húy là Thánh Quynh (聖冏), thông xưng là Tam Nhật Nguyệt Thượng Nhân (三日月上人); hiệu là Tây Liên Xã (西蓮社), Liễu Dự (了譽); thụy hiệu là Thánh Quynh Thiền Sư (聖冏禪師); xuất thân vùng Thường Lục (常陸, Hitachi, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]); con của Bạch Cát Chí Ma Thủ Nghĩa Quang (白吉志摩守義光). Ông bắt đầu xuất gia theo Liễu Thật (了實) ở Thường Phước Tự (常福寺) thuộc vùng Thường Lục, rồi học Tịnh Độ Giáo của Dòng Trấn Tây với Liên Thắng (蓮勝) cũng như Đinh Huệ (定慧); và tu học hết giáo nghĩa của các Tông khác. Sau đó, ông kế thừa trú trì Thường Phước Tự, chỉ đạo dạy dỗ học đồ, viết ra bộ Nhị Tạng Tụng Nghĩa (二藏頌義) và hệ thống hóa Tông nghĩa Tịnh Độ. Hơn nữa, ông đã làm sáng tỏ dòng huyết mạch truyền thừa từ thời đức Thích Ca trở về sau, cũng như Viên Đốn Giới từ thời Viên Nhân (圓仁) trở đi; và nêu rõ tính độc lập của Tịnh Độ Tông. Ông còn chỉnh đốn lại chế độ truyền pháp của Ngũ Trùng Tương Truyền (五重傳承); rồi đến năm 1393, lần đầu tiên ông truyền áo nghĩa cho đệ tử là Thánh Thông (聖聰). Vào năm 1415, thể theo lời thỉnh cầu của Thánh Thông, ông chuyển đến ở tại thảo am ở Tiểu Thạch Xuyên (小石川, Koishikawa), Giang Hộ (江戸, Edo). Trước tác của ông có Thích Tịnh Độ Nhị Tạng Nghĩa (釋淨土二藏義) 30 quyển, Tịnh Độ Nhị Tạng Nhị Giáo Lược Tụng (淨土二藏二敎略頌) 1 quyển, Truyền Thông Ký Nhữu Sao (傳通記糅鈔) 48 quyển, Quyết Nghi Sao Trực Điệp (決疑鈔直牒) 10 quyển, Phá Tà Hiển Chánh Nghĩa (破邪顯正義) 1 quyển, Tịnh Độ Chơn Tông Phú Pháp Truyện (淨土眞宗付法傳) 1 quyển, Hiển Tịnh Độ Truyền Giới Luận (顯淨土傳戒論) 1 quyển, Giáo Tướng Thập Bát Thông (敎相十八通) 2 quyển, v.v.
(永明道潛, Yōmei Dōsen, ?-961): vị tăng của Pháp Nhãn Tông Trung Quốc, sống ở Vĩnh Minh Tự (永明寺) vùng Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), xuất thân Phủ Hà Trung (河中府, Tỉnh Sơn Tây), họ Võ (武). Ông xuất gia lúc còn nhỏ, đến yết kiến Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益), trãi qua nhiều năm tham cứu và cuối cùng được khai ngộ và ấn khả. Sau đó, ông đi tham vấn khắp chốn tùng lâm, và dừng chân nơi một ngôi chùa cổ ở Cù Châu (衢州, Tỉnh Triết Giang) đọc kinh tạng. Khi ấy, vâng mệnh của Trung Ý Vương (忠懿王) họ Tiền, ông vào phủ nội truyền Bồ Tát giới cho nhà vua, và được ban cho hiệu là Từ Hóa Định Huệ Thiền Sư (慈化定慧禪師). Nhà vua còn lập nên Huệ Nhật Vĩnh Minh Tự (慧日永明寺, tức Tịnh Từ Tự [淨慈寺]) và thỉnh ông đến trú trì chùa này. Tăng chúng vân tập theo ông có đến 5.000 người. Vào năm thứ 2 niên hiệu Kiến Long (建隆), ông thị tịch.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập