Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Diệu Mãn Tự »»
(日經, Nichikyō, 1551-1620): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, vị Tổ đời thứ 27 của Diệu Mãn Tự (妙滿寺), húy là Nhật Kinh (日經); tự Thiện Hải (善海), hiệu là Thường Lạc Viện (常樂院), Thường Đàm Nghĩa Viện (常談義院); xuất thân vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]). Ông từng tham học ở Thượng Tổng, có tài hùng biện và đi truyền đạo khắp nơi trong nước. Năm 1600, ông làm trú trì đời thứ 27 của Diệu Mãn Tự. Đến năm 1608, ông có luận tranh Tông nghĩa với Quách Sơn (廓山, Kakuzan) của Tịnh Độ Tông ở Thành Giang Hộ (江戸城, Edo-jō); nhưng do vì sự đàn áp có kế hoạch của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), nên ông bại luận. Ông bị bắt buộc phải gởi thư đến các ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Tông để chứng minh về việc ông phản đối cho rằng niệm Phật là đọa Địa Ngục, và nhóm nhật kinh đã bị xử hình hay đuổi ra khỏi tông môn. Trước tác của ông có Tịnh Độ Nhật Liên Tông Luận Ký Lục (淨土日蓮宗論記錄) 1 quyển, Tịnh Độ Tông Nan Cật Nhị Thập Tam Điều (淨土宗難詰二十三條) 1 quyển, Bổn Tích Thắng Liệt Hiện Văn Sự (本迹勝劣現文事) 1 quyển, v.v.
(日仁, Nichinin, ?-1416): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, vị Tổ đời thứ 3 của Diệu Mãn Tự (妙滿寺); húy là Nhật Nhân (日仁); thông xưng là Tể Tướng A Xà Lê (宰相阿闍梨); hiệu Thiện Như Phòng (善如房), Bổn Giác Phòng (本覺房). Ông được Nhật Thập (日什) giao lại cho Diệu Pháp Tự (妙法寺) ở vùng Lục Áo (陸奥, Michinoku, thuộc Fukushima-ken [福島縣]); rồi sau đó thì được bổ nhiệm làm trú trì đời thứ 3 của Diệu Mãn Tự ở kinh đô Kyoto. Ông tiếp tục kế thừa phong trào dâng lời can gián của Nhật Thập; và năm 1398 đã cùng với Nhật Thật (日實) tố cáo Túc Lợi Nghĩa Mãn (足利義滿). Nhân đó, Nghĩa Mãn nổi giận, bắt ông đem khảo tra, nhưng ông vẫn không hề khuất phục. Ông là một trong 6 đệ tử chân truyền của Nhật Thập.
(日泰, Nittai, 1432-1506): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, vị Tổ đời thứ 16 của Diệu Mãn Tự (妙滿寺); húy là Nhật Thái (日泰), hiệu Tâm Liễu Viện (心了院); xuất thân vùng Kyoto. Ông theo hầu Nhật Tuân (日遵) ở Diệu Mãn Tự thuộc kinh đô Kyoto. Sau khi đi tham học ở các vùng Nam Đô, Tỷ Duệ Sơn, Cao Dã Sơn, ông đến truyền đạo vùng Quan Đông (關東, Kantō). Ông lấy Bổn Quang Tự (本光寺) ở vùng Phẩm Xuyên (品川, Shinagawa), Võ Tàng (武藏, Musashi, thuộc Tokyo) làm cứ điểm hành đạo, rồi tái kiến Bổn Hành Tự (本行寺) ở vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]) nhờ sự hỗ trợ đắc lực của vị Thành Chủ Tửu Tỉnh Định Long (酒井定隆). Hơn nữa, ông còn khai sáng Bổn Thọ Tự (本壽寺) ở vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa, cũng thuộc Chiba-ken [千葉縣]) và làm cho những người dân địa phương nơi đây chuyển sang Nhật Liên Tông.
(日什, Nichijū, 1314-1392): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng thời đại Nam Bắc Triều, vị Tổ khai sơn Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji), Tổ của Phái Diệu Mãn Tự (妙滿寺派, tức Hiển Bổn Pháp Hoa Tông [顯本法華宗]); húy là Nhật Thập, thông xưng là Huyền Diệu A Xà Lê (玄妙阿闍梨); xuất thân vùng Hội Tân (會津, Aizu, thuộc Fukushima-ken [福島縣]), họ Thạch Trũng (石塚). Trước kia, ông đã từng theo hầu Từ Biến (慈遍) ở Thượng Trí Viện (上智院) trên Tỷ Duệ Sơn, tu học giáo lý Thiên Thai và nỗ lực giáo hóa đồ chúng ở Đông Quang Tự (東光寺) vùng Hội Tân. Sau đó, ông ngộ được lý trong bộ Khai Mục Sao (開目抄) của Nhật Liên và cải tông theo Nhật Liên Tông. Ông chủ trương trực tiếp được trao truyền từ Nhật Liên và truyền thừa quyển kinh này. Từ năm 1381 trở đi, ông thỉnh thoảng hay lên kinh đô để dâng sớ can gián nhóm Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Mãn (足利義滿, Ashikaga Yoshimitsu), rồi đến năm 1389 thì khai sáng Diệu Mãn Tự ở kinh đô; tách riêng khỏi phái của Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) ở Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng (下總, Shimōsa). Trước tác của ông có Phúng Tụng Văn (諷誦文) 1 quyển, Chơn Gián Quy Phục Trạng (眞間歸伏狀) 1 quyển.
(法華宗, Hokkeshū) tức Nhật Liên Tông (日蓮宗, Nichirenshū): theo pháp chế hiện tại thì đây là đoàn thể tôn giáo lấy Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở vùng Thân Diên (身延, Minobu) làm Đại Bản Sơn; nhưng nếu xét về mặt lịch sử thì đây là tên gọi chung của tập đoàn tôn giáo vốn kế thừa và thực hiện giáo lý của Nhật Liên dưới thời đại Liêm Thương. Với ý nghĩa đó, Pháp Hoa Tông là tên gọi do các tông phái khác gọi về Nhật Liên Tông, hay cũng là tiếng tự xưng, và phần nhiều cách gọi này được dùng phổ biến hơn. Năm 1282, Nhật Liên (日蓮, Nichiren) chỉ danh 6 người đệ tử chân truyền của ông là Nhật Chiêu (日昭, Nisshō, 1221-1323), Nhật Lãng (日朗, Nichirō, 1245-1320), Nhật Hưng (日興, Nikkō, 1246-1333), Nhật Hướng (日向, Nikō, 1253-1314), Nhật Đảnh (日頂, Nicchō, 1252-1317 hay 1328?) và Nhật Trì (日持, Nichiji, 1250-?), với tên gọi là Lục Lão Tăng (六老僧). Sau đó, các môn phái được hình thành Dòng Phái Nhật Chiêu (日昭門流, tức Dòng Phái Banh [浜門流]), Dòng Phái Nhật Lãng (日朗門流, tức Dòng Phái Tỷ Xí Cốc [比企谷門流]), Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Phú Sĩ [富士門流]), Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流, Dòng Phái Thân Diên [身延門流]). Sau khi Nhật Liên qua đời, xuất hiện thêm Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Trung Sơn [中山門流]). Thật thể của Nhật Liên Tông thời Trung Đại chính là những môn phái vừa nêu trên. Các môn phái mở rộng vùng giáo tuyến của mình ở vùng Đông Quốc, rồi sau đó dần dần tiến về phía kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động giáo hóa cho giáo đoàn. Những nhân vật có công trong việc này là Nhật Tượng (日像, Nichizo, 1269-1342) thuộc Dòng Phái Tứ Điều (四條門流) vốn lấy Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji) làm trung tâm; Nhật Tĩnh (日靜, Nichijō, 1298-1369) của Dòng Phái Lục Điều (六條門流), lấy Bổn Quốc Tự (本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji) làm trung tâm. Kế thừa dòng phái này có Nhật Tôn (日尊, Nisson, ?-1603) của Dòng Phái Phú Sĩ; rồi Nhật Thân (日親, Nisshin, 1407-1488) và Nhật Chúc (日祝, Nisshū, 1437-1513) của Dòng Phái Trung Sơn. Họ không những tiếp cận hàng công gia khanh tướng, mà còn lấy tầng lớp thương gia, công nhân và nông dân làm môn đồ; nhờ vậy đã tạo dựng được rất nhiều tự viện khắp nơi. Bên cạnh đó, những cuộc luận tranh về lập trường Tích Môn hay Bổn Môn của Kinh Pháp Hoa, cũng như điểm hay dở trong kinh bắt đầu được triển khai. Về phía Dòng Phái Lục Điều, Nhật Trận (日陣, Nichijin, 1339-1419) sáng lập ra Bổn Thiền Tự (本禪寺, Honzen-ji), rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Trận (日陣門流, tức Dòng Phái Bổn Thành Tự [本成寺, Honjō-ji]). Còn về phía Dòng Phái Tứ Điều, hai chùa Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji) và Diệu Liên Tự (妙蓮寺, Myōren-ji) chia rẽ nhau; Nhật Long (日隆, Nichiryū, 1385-1464) thì chủ trương tính hay dở của kinh, lấy Bổn Hưng Tự (本興寺) ở vùng Ni Khi (尼崎, Amazaki) và Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji) ở kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động truyền đạo, rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Bát Phẩm [八品門流]). Trường hợp Nhật Thập (日什, Nichijū, 1314-1392) thì khai cơ Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji) và sáng lập ra Dòng Phái Nhật Thập (日什門流, tức Dòng Phái Diệu Mãn Tự [妙滿寺門流]). Nhật Thân sáng lập Bổn Pháp Tự (本法寺, Hompō-ji), còn Nhật Chúc thì có Đảnh Diệu Tự (頂妙寺, Chōmyō-ji), và hình thành Dòng Phái Quan Tây Trung Sơn (關西中山門流). Những ngôi già lam này mở rộng phạm vi hoạt dộng ở vùng Tây Quốc, còn ở kinh đô Kyoto thì có được 21 ngôi chùa. Dưới thời đại Chiến Quốc, Nhật Liên Tông đã cùng với với dân chúng trong thôn xóm hình thành đội tự vệ. Trước uy lực mạnh mẽ như thế này, các giáo đoàn của những tông phái khác tập trung lại với nhau tại Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), hợp với các nhà Đại Danh có thế lực, dòng võ lực đàn áp Nhật Liên Tông. Từ đó, xảy ra vụ Loạn Thiên Văn Pháp Hoa (天文法華の亂) vào năm thứ 5 (1536) niên hiệu Thiên Văn (天文). Khi ấy, các chùa ở kinh đô đều phải lánh nạn đi nơi khác, và sau mới được phép cho trở về. Đến thời Trung Đại, chủ trương gọi là “Bất Thọ Bất Thí (不授不施, Không Nhận Không Cho)” của Nhật Liên Tông bị những nhà lãnh đạo chính quyền đương thời như Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) chống đối kịch liệt. Cho nên xảy ra các vụ pháp nạn lớn, nhiều tăng lữ cũng như tín đồ phải hy sinh trong mấy lần pháp nạn này. Đến thời Cận Đại, tổ chức giáo dục chư tăng được thiết lập. Về mặt xuất bản cũng rất thịnh hành, các bức di văn của Nhật Liên từ đó được lưu hành rộng rãi. Truyện Nhật Liên cũng được lưu bố khắp nơi, cho nên xuất hiện các tác phẩm như Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚), Nhật Liên Đại Thánh Nhân Ngự Truyền Ký (日蓮大上人御傳記), v.v. Đặc sắc lớn của Nhật Liên Tông thời Cận Đại là triển khai cuộc vận động Phật Giáo tại gia, trong đó cuộc vận động Quốc Trụ Hội (國柱會) của Điền Trung Trí Học (田中智學) là đối ứng với sự hưng thịnh của quốc gia Minh Trị (明治, Meiji); rồi Bổn Đa Nhật Sanh (本多日生) tổ chức thành Thiên Tình Hội (天晴會), thâu nạp toàn tầng lớp trí thức và quân nhân. Trong khi đó, nhóm Sơn Điền Tam Lương (山田三良) thì thành lập Pháp Hoa Hội (法華會). Vào thời kỳ Đại Chánh (大正, Taishō), Chiêu Hòa (昭和, Shōwa), tôn giáo tân hưng thuộc hệ Nhật Liên Tông bắt đầu triển khai. Sau thời chiến, một số hội khác ra đời như Linh Hữu Hội (靈友會, Reiyūkai), Lập Chánh Giao Thành Hội (立正佼成會, Risshōkōseikai), Sáng Giá Học Hội (創価學会, Sōkagakkai), v.v., và Nhật Liên Tông trở thành tôn giáo đại chúng. Căn cứ vào tài liệu Nhật Bản Sử Từ Điển (日本史辭典, Nihonshijiten) của Triêu Vĩ Trực Hoằng (朝尾直弘, Asao Naohiro), Vũ Dã Tuấn Nhất (宇野俊一, Uno Shunichi), Điền Trung Trác (田中琢, Tanaka Migaku), nhà xuất bản Giác Xuyên Thư Điếm (角川書店, 1996) cho biết rằng hiện tại Nhật Liên Tông có một số dòng phái chính (theo thứ tự tên dòng phái, chùa trung tâm) như: (1) Môn Lưu Banh (浜門流), Diệu Pháp Tự (妙法寺, Myōhō-ji, Kamakura); (2) Môn Lưu Lãng (朗門流), Diệu Bổn Tự (妙本寺, Myōhon-ji, Kamakura), Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji, Musashi); (3) ; (4) Môn Lưu Tảo Nguyên (藻原門流), Diệu Quang Tự (妙光寺, Myōkō-ji, Kamifusa); (5) Môn Lưu Lục Điều (六條門流), Bổn Quốc Tự (本國寺, Honkoku-ji, Kyōto); (6) Môn Lưu Trung Sơn (中山門流), Bổn Diệu Pháp Hoa Kinh Tự (本妙法華經寺, Honmyōhokkekyō-ji, Shimofusa); (7) Môn Lưu Tứ Điều (四條門流), Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji, Kyoto); (8) Phái Bất Thọ Bất Thí (不受不施派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (9) Môn Phái Bất Thọ Bất Thí Giảng (不受不施派講門派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (10) Môn Lưu Phú Sĩ (富士門流), Đại Thạch Tự (大石寺, Daiseki-ji, Suruga); (11) Phái Bổn Thành Tự (本成寺派), Bổn Thành Tự (本成寺, Honjō-ji, Echigo); (12) Phái Diệu Mãn Tự (妙滿寺派), Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji, Kyoto); (13) Phái Bát Phẩm (八品派), Bổn Hưng Tự (本興寺, Honkō-ji, Settsu), Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji, Kyoto); (14) Phái Bổn Long Tự (本隆寺派), Bổn Long Tự (本隆寺, Honryū-ji, Kyoto).
(安土宗論, Azuchi-no-shūron): cuộc luận tranh về Tông nghĩa giữa hai Tông phái được tiến hành ở Tịnh Hành Viện (淨行院) của Phái Trấn Tây (鎭西派) thuộc Tịnh Độ Tông, trong khuôn viên Từ Ân Tự (慈恩寺) ở Thôn An Thổ (安土村, Azuchi-mura), Quận Bồ Sanh (蒲生郡, Kamō-gun), Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]), dưới thời đại An Thổ Đào Sơn (安土桃山, Azuchimomoyama). Vào trung tuần tháng 5 năm 1597 (Thiên Chánh [天正] 7), vị Tăng của Phái Trấn Tây là Ngọc Niệm (玉念) từ Quan Đông (關東, Kantō) đến Thành An Thổ (安土城, Azuchi-jō) của Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), rồi đàm luận về pháp trong vòng 7 ngày. Khi ấy, có 2 tín đồ của Nhật Liên Tông là Kiến Bộ Thiệu Trí (建部紹智) và Đại Hiếp Truyền Giới (大脇傳介) mới đặt ra những điều chất vấn về pháp; nhân đó Ngọc Niệm mới bảo 2 người này nên đi hỏi những vị tăng họ đã quy y theo; nên cuộc tranh luận kéo dài đến 11 ngày. Từ Vụ Pháp Nạn Thiên Văn (天文の法難, Tembun-no-hōnan) trở đi, Nhật Liên Tông đã tiến hành luận tranh với các phái Tịnh Độ Tông khắp nơi; nên đương thời Tín Trưởng cũng có ác cảm với tông này. Vào ngày 27 tháng 5 năm 1579, trong sự canh giữ nghiêm mật và có sự giám sát của nhà cầm quyền lúc bấy giờ, hai Tông phái này đã tiến hành luận tranh về Tông nghĩa, mỗi bên ngồi đối lập nhau 4 người. Phía Tịnh Độ Tông thì có Ngọc Niệm, Giáo Liên Xã Thánh Dự Trinh An (敎蓮社聖譽貞安) của Tây Quang Tự (西光寺), Tưởng Liên Xã Tín Dự Động Khố (想蓮社信譽洞庫), Tổ khai sơn Chánh Phước Tự (正福寺) ở vùng Cận Giang (近江, Ōmi); và Trợ Niệm (助念) của Nhất Tâm Viện (一心院) thuộc Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in) ở kinh đô Kyoto làm Thư Ký. Còn phía Nhật Liên Tông thì có Nhật Quang (日珖) ở Đảnh Diệu Tự (頂妙寺), Nhật Đế (日諦) của Thường Quang Viện (常光院), Nhật Uyên (日淵) của Cửu Viện Tự (久遠寺) Thuộc Diệu Mãn Tự (妙滿寺), và vị tăng của Pháp Âm Viện (法音院) thuộc Diệu Hiển Tự (妙顯寺) làm Thư Ký. Hai bên ngồi đối mặt nhau để tranh luận dưới sự phán xét của Thiết Tẩu Cảnh Tú (鐵叟景秀) ở Nam Thiền Tự (南禪寺), Hoa Khê Chánh Tắc (華溪正稷), Cư sĩ Nhân Quả (因果, học giả của Hoa Nghiêm Tông) và Tiên Giác Phường (仙覺坊, học tăng của Pháp Tướng Tông). Mười ba câu hỏi được nêu lên và cuối cùng thì do sự can thiệp của Cư sĩ Nhân Quả cũng như ý đồ của Tín Trưởng, nên Tịnh Độ Tông thắng luận. Với kết quả đó, các ngôi chùa của Nhật Liên Tông ở kinh đô phải nộp tiền phạt; từ Nhật Quang trở đi phải trở về ẩn cư, không được ló mặt ra ngoài hoạt động. Hơn nữa, Tín Trưởng còn ban bố chính sách khắp toàn quốc, cấp tiền thưởng cho những ai gây áp bức cho Nhật Liên Tông, và ông có kế hoạch muốn đàn áp thẳng tay tông phái này. Về sau, đến thời Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) thì Nhật Liên Tông mới được khôi phục lại.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập