Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Địa Quan »»

(s: Prajñā, 般若, 734-?): tức Bát Nhã Tam Tạng (般若三藏), vị cao tăng dịch kinh dưới thời nhà Đường, còn gọi là Bát Lạt Nhã (般剌若); xuất thân người nước Ca Tất Thí (迦畢試, Kế Tân [罽賓]), họ là Kiều Đáp Ma (喬答摩). Năm lên 7 tuổi, ông xuất gia, đến 20 tuổi thì thọ Cụ Túc Giới. Năm 23 tuổi, ông đến Na Lan Đà Tự (娜爛陀寺) ở miền trung Ấn, nương theo ba vị đại luận sư Trí Hộ (智護), Tấn Hữu (進友), Trí Hữu (智友), chuyên nghiên cứu về Duy Thức, Du Già, Trung Quán, Kim Cang Kinh, Ngũ Minh, v.v. Sau đó, ông lên thuyền chu du khắp các nước vùng Nam Hải, vào năm 781 (Kiến Trung [建中] 2) đời vua Đức Tông (德宗, tại vị 779-805) nhà Đường, ông đến Quảng Châu, rồi vào kinh đô Trường An. Vào năm 788 (Trinh Nguyên 4), ông dịch được Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅密多經) 10 quyển. Đến tháng 7 năm 790, ông phụng sắc chỉ theo sứ sang nước Ca Thấp Di La (s: Kaśmīra, p: Kasmīra, 迦濕彌羅). Không bao lâu sau, ông được ban cho hiệu Bát Nhã Tam Tạng và Tử Y. Về sau, ông còn dịch thêm một số kinh điển khác như Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), Tứ Thập Hoa Nghiêm (四十華嚴), Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經), Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà La Ni Kinh (守護國界主陀羅尼經), v.v.
(s: maṇḍa, sarpir-maṇḍa, p: maṇḍa, sappi-maṇḍa, 醍醐):
(1) chỉ loại dầu tinh chất được chế thành từ ván sữa; màu vàng trắng, đem làm bánh, rất ngọt và béo;
(2) chỉ cho một loại rượu ngon;
(3) là một trong 5 vị, tức sữa, cạo sữa, ván sữa sống, ván sữa chín và đề hồ; nên có tên gọi là Đề Hồ Vị (醍醐味);
(4) vì Đề Hồ là vị ngon nhất trong các loại sữa, nên Phật Giáo dùng để chỉ Niết Bàn, Phật tánh, giáo lý chân thật. Trong kinh điển Hán dịch của Phật Giáo Trung Quốc thời kỳ đầu, Đề Hồ có nghĩa là “bản chất, tinh túy.”
Ngoài ra, Đề Hồ còn được dùng như là một phương thuốc chữa bệnh; như trong chương Tây Vức (西域) của Ngụy Thư (魏書) có đoạn: “Tục tiễn phát tề mi, dĩ Đề Hồ đồ chi, dục dục nhiên quang trạch, nhật tam tháo thấu, nhiên hậu ẩm thực (俗剪髮齊眉、以醍醐塗之、昱昱然光澤、日三澡漱、然後飲食, có tục lệ cắt tóc xén lông mày, lấy đề hồ thoa lên, hong nắng ánh sáng, một ngày tắm giặt ba lần, sau đó mới ăn uống).” Quyển 596 của Toàn Đường Văn (全唐文), bài Tống Thái Chiểu Hiếu Liêm Cập Đệ Hậu Quy Mân Cận Tỉnh Tự (送蔡沼孝廉及第後歸閩覲省序) của Âu Dương Chiêm (歐陽詹, 756-798) lại có đoạn rằng: “Phanh nhũ vi đề hồ, đoán kim vi càn tương, dự kỳ phanh đoán dĩ biến hóa (烹乳爲醍醐、鍛金爲乾將、予期烹鍛以變化, nấu sữa thành Đề Hồ, nung vàng làm kiếm tốt, chờ đợi lúc nấu và rèn biến hóa).” Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅蜜多經) quyển 1 có giải thích rằng: “Khế Kinh như nhũ, điều phục như lạc, Đối Pháp Giáo giả như bỉ sanh tô, Đại Thừa Bát Nhã do như thục tô, Tổng Trì Môn giả thí như Đề Hồ. Đề Hồ chi vị, nhũ, lạc, tô trung vi diệu đệ nhất, năng trừ chư bệnh, linh chư hữu tình thân tâm an lạc. Tổng Trì Môn giả, Khế Kinh đẳng trung tối vi đệ nhất, năng trừ trọng tội, linh chư chúng sanh giải thoát sanh tử, tốc chứng Niết Bàn an lạc pháp thân (契經如乳、調伏如酪、對法敎者如彼生酥、大乘般若猶如熟酥、總持門者譬如醍醐。醍醐之味、乳、酪、酥中微妙第一、能除諸病、令諸有情身心安樂。總持門者、契經等中最爲第一、能除重罪、令諸眾生解脫生死、速證涅槃安樂法身, Khế Kinh như sữa, điều phục như cạo sữa, giáo lý Đối Pháp giống như ván sữa sống, Bát Nhã Đại Thừa như ván sữa chín, Tổng Trì Môn ví như Đề Hồ. Vị của Đề Hồ vi diệu số một trong các loại sữa, cạo sữa, ván sữa; có thể trừ các bệnh, khiến cho thân tâm chúng hữu tình được an lạc. Tổng Trì Môn là số một trong Khế Kinh, v.v., có thể trừ các tội nặng, khiến các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, pháp thân an lạc).” Do vì Đề Hồ được xem như là giáo lý tối thượng, Phật tánh, v.v.; cho nên xuất hiện thuật ngữ “Đề Hồ Quán Đảnh (醍醐灌頂)” để ví dụ cho việc lấy giáo pháp tối thượng giúp người hành trì để chuyển hóa vô minh, phiền não và đạt được mát mẻ, an lạc. Như trong bài thơ Hành Lộ Nan (行路難) của Cố Huống (顧況, 725-814) có câu: “Khởi tri quán đảnh hữu Đề Hồ, năng sử thanh lương đầu bất nhiệt (豈知灌頂有醍醐、能使清涼頭不熱, sao biết quán đảnh có Đề Hồ, thể khiến mát trong không nóng).” Hay trong bài Ta Lạc Phát (嗟落髮) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) cũng có câu: “Hữu như Đề Hồ quán, tọa thọ thanh lương lạc (有如醍醐灌、坐受清涼樂, lại như rưới Đề Hồ, ngồi thọ vui mát mẻ).” Lại như trong bài Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Tự (大乘本生心地觀經序) của vua Hiến Tông (憲宗, tại vị 805-820) nhà Đường có đoạn: “Tỉ phi duyệt chi giả Cam Lồ sái ư tâm điền, hiểu ngộ chi giả Đề Hồ lưu ư tánh cảnh (俾披閱之者甘露灑於心田、曉悟之者醍醐流於性境, người đọc kỹ nó như Cam Lồ rưới nơi ruộng tâm, người hiểu ngộ được nó như Đề Hồ chảy vào cảnh giới tánh).” Bên cạnh đó, trong bài Thật Tế Tự Cố Tự Chủ Hoài Uẩn Phụng Sắc Tặng Long Xiển Đại Pháp Sư Bi Minh (實際寺故寺主懷惲奉敕贈隆闡大法師碑銘) của Đổng Hạo (董浩) nhà Thanh cũng có đoạn: “Tri dữ bất tri, ngưỡng Đề Hồ ư cú kệ, thức dữ bất thức, tuân pháp nhũ ư ba lan (知與不知、仰醍醐於句偈、識與不識、詢法乳於波瀾, biết và không biết, kính Đề Hồ từng câu kệ, hiểu và không hiểu, tin sữa pháp nơi sóng cả).” Ngay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 31 có câu: “Na Sa Tăng nhất văn Tôn Ngộ Không tam cá tự, tiện hảo tợ Đề Hồ quán đảnh, Cam Lồ tư tâm (那沙僧一聞孫悟空三個字、便好似醒醐灌頂、甘露滋心, Sa Tăng một khi nghe được ba chữ Tôn Ngộ Không, tức thì giống như nước Đề Hồ rưới đầu, Cam Lồ rửa tâm).” Trong bài tán Kinh Pháp Hoa cũng có đề cập đến Đề Hồ như: “Hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội đề hồ đích đích lương (喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼, dưới cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trong miệng Đề Hồ giọt giọt tươi).”
(權寔): quyền nghĩa là quyền nghi, chỉ cho phương tiện cần thiết nhất thời; thật là chân thật không dối, sự chân thật tột cùng vĩnh viễn không thay đổi. Quyền thật còn gọi là chân giả. Như trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, CBETA No. 1295) quyển 25 có câu: “Đốn tiệm thiên viên, quyền thật không hữu, đinh tủy thiết thiệt, hà mục hải khẩu (頓漸偏圓、權寔空有、釘觜鐵舌、河目海口, đốn tiệm méo tròn, quyền thật không có, mỏ đinh lưỡi sắt, mắt sông miệng biển).” Hay như trong Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Thiển Chú (大乘本生心地觀經淺註, CBETA No. 367) cũng có câu: “Dĩ thuyết pháp chi công, trang nghiêm tự tánh, quyền thật tự tại, cố tôn vi vương (以說法之功、莊嚴自性、權寔自在、故尊爲王, lấy công đức thuyết pháp, trang nghiêm tự tánh, quyền thật tự tại, nên tôn xưng là vua).”
(疏): còn gọi là Sớ Văn (疏文), Văn Sớ (文疏), hay Tấu Sớ (奏疏), có hai nghĩa: (1) Là văn thư của quần thần điều trần dâng lên bậc trên như đức vua, như trong Văn Thể Minh Biện (文體明辯) của Từ Sư Tằng (徐師曾, 1546-1610) nhà Minh có giải thích rằng: “Án Tấu Sớ giả, quần thần luận gián chi tổng danh dã (按奏疏者、群臣論諫之總名也, xét Sớ Tâu là tên gọi chung của các văn thư do quần thần can gián, luận nghị).” Hay như trong Tống Sử (宋史) quyển 32, Truyện Chu Trác (朱倬傳) có đề cập rằng: “Mỗi thượng sớ, triếp túc hưng lộ cáo; nhược Thượng Đế giám lâm, Tấu Sớ phàm số thập (每上疏、輒夙興露告、若上帝鑒臨、奏疏凡數十, mỗi lần dâng sớ, thường kính cẩn thưa rõ ràng; nếu Thượng Đế giáng xuống, sớ tâu thường mười phong).” Hoặc như trong bài Khiển Hứng Thi (遣興詩) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường cũng có câu: “Thượng sớ khất hài cốt, hoàng quan quy cố hương (上疏乞骸骨、黃冠歸故鄉, dâng sớ xin hài cốt, mũ vàng về cố hương).” Tấu Sớ còn gọi là Tấu Chương (奏章), Tấu Nghị (奏議). (2) Trong khoa nghi của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo, Sớ Văn được dùng rất rộng rãi và phổ biến, với tư cách là văn thư thành kính dâng lên đấng tối cao, đấng chí tôn như Thần, Thánh, Phật; là chiếc cầu tiếp nối giữa cõi hữu hình với thế giới vô hình. Như trong Đạo Giáo có các bộ Linh Bảo Văn Kiểm (靈寶文檢), Tâm Hương Diệu Ngữ (心香妙語), v.v., là những thư tịch chuyên dùng cho khoa nghi Công Văn. Về phía Phật Giáo có bộ Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252), 4 quyển, do Thạch Cổ Chủ Nhân Thích Nguyên Hiền (石鼓主人釋元賢) nhà Minh (1368-1662) biên soạn. Một số văn sớ thường dùng trong Đạo Giáo như: Nguyên Đán Khánh Hạ Văn Sớ (元旦慶賀文疏), Ngọc Hoàng Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玉皇上帝慶賀文疏), Thượng Nguyên Thiên Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (上元天官大帝慶賀文疏), Thái Thượng Lão Quân Khánh Hạ Văn Sớ (太上老君慶賀文疏), Huyền Thiên Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玄天上帝慶賀文疏), Thiên Thượng Thánh Mẫu Khánh Hạ Văn Sớ (天上聖母慶賀文疏), Trương Thiên Sư Khánh Hạ Văn Sớ (張天師慶賀文疏), Trung Nguyên Địa Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (中元地官大帝慶賀文疏), Hạ Nguyên Thủy Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (下元水官大帝慶賀文疏), Bắc Đẩu Giải Ách Văn Sớ (北斗解厄文疏), An Phụng Thần Vị Văn Sớ (安奉神位文疏), An Phụng Trị Niên Thái Tuế Văn Sớ (安奉值年太歲文疏), v.v. Linh Bảo Văn Kiểm nhấn mạnh vai trò của Sớ Văn là: “tuyên diễn đạo pháp, lợi thế chi tân lương dã (宣演道法、利世之津梁也, bờ bến để tuyên bày đạo pháp và làm lợi ích cho cuộc đời).” Từ ý nghĩa đó, Sớ được dùng rộng rãi trong Phật Giáo như là phương tiện độ sanh cần phải có đối với mọi trường hợp, như trong tác phẩm này có giới thiệu. Đặc biệt, có một loại Sớ Văn gọi là Pháp Đường Sớ (法堂疏) được dùng trong Thiền môn, là văn từ của vị Trưởng Lão Trú Trì của một tự viện nào đó, dùng để khải thỉnh khai đường thuyết pháp.
(三河四海九江): ba sông, bốn biển, chín sông, là từ chỉ chung cho những nơi có nước như ao hồ, sông ngòi, biển cả trên khắp thế giới. Như trong Thái Thượng Linh Bảo Ngọc Quỹ Minh Chơn Đại Trai Quan Công Nghi (太上靈寶玉匱明眞大齋官功儀) của Đạo Giáo có đoạn cung thỉnh rằng: “Cẩn thượng thỉnh Tam Nguyên Quân, Thượng Nguyên Thiên Quan, Trung Nguyên Địa Quan, Hạ Nguyên Thủy Quan, Tam Cung Cửu Phủ, Bách Nhị Thập Tào, Ngũ Nhạc Đại Thần, Thập Đại Động Thiên, Tam Thập Lục Động Thiên, Nhị Thập Tứ Hóa, Tam Hà Tứ Hải, Cửu Giang Thủy Đế, Thập Nhị Hà Nguyên, Cửu Cung Chân Nhân, Thập Nhị Tiên Quân, Cửu Thiên Ty Mạng, Ngũ Nhạc Trượng Nhân, Cửu Thiên Sứ Giả, Trữ Phó Chánh Chức Tá Mạng Đại Thần, Thiên Tiên Địa Tiên, Phi Tiên Thần Tiên, Vương Đồng Ngọc Nữ, binh mã kỵ thừa, giáng lâm tiêu tòa (謹上請三元君、上元天官、中元地官、下元水官、三宮九府、百二十曹、五嶽大神、十大洞天、三十六洞天、二十四化、三河四海、九江水帝、十二河源、九宮眞人、十二仙君、九天司命、五嶽丈人、九天使者、儲副正職佐命大神、天仙地仙、飛仙神仙、王童玉女、兵馬騎乘、降臨醮座, xin cung thỉnh Tam Nguyên Quân, Thượng Nguyên Thiên Quan, Trung Nguyên Địa Quan, Hạ Nguyên Thủy Quan, Ba Cung Chín Phủ, Trăm Hai Mươi Tào, Đại Thần Năm Núi, Trời Mười Động Lớn, Trời Ba Mươi Sáu Động, Hai Mươi Bốn Hóa, Ba Sông Bốn Biển, Chín Sông Thủy Đế, Mười Hai Nguồn Sông, Chân Nhân Chín Cung, mười hai tiên quân, Cửu Thiên Ty Mạng, Ngũ Nhạc Trượng Nhân, Cửu Thiên Sứ Giả, Trữ Phó Chánh Chức Tá Mạng Đại Thần, Thiên Tiên Địa Tiên, Phi Tiên Thần Tiên, Vương Đồng Ngọc Nữ, cỡi mang binh ngựa, giáng xuống đàn cúng).” Hay như trong Thái Thượng Thần Chú Diên Thọ Diệu Kinh (太上神呪延壽妙經) cũng có đoạn: “Tam Hà Tứ Hải, Cửu Giang Bát Cực, chư chân nhân đẳng, Tiên Đồng Ngọc Nữ, Tam Giới Địa Kỳ, Tam Quan Cửu Thự, nhất thiết thần minh, văn trì thử kinh, tức vi tiêu trừ nhất thiết khổ não (三河四海、九江八極、諸眞人等、仙童玉女、三界地祇、三官九署、一切神明、聞持此經、卽爲消除一切苦惱, Ba Sông Bốn Biển, Chín Sông Tám Hướng, các vị chân nhân, Tiên Đồng Ngọc Nữ, Thổ Thần Ba Cõi, Ba Quan Chín Sảnh, hết thảy thần minh, nghe trì kinh này, tức được tiêu trừ hết thảy khổ ách).”
(s, p: saṃgha, 僧伽): gọi tắt là tăng; ý dịch là hòa (和), chúng (眾), hòa hợp (和合); cho nên còn được gọi là hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾, nghĩa là chúng tăng hòa hợp như một vị nước biển). Hoặc lấy Phạn ngữ cùng Hán ngữ hợp chung lại gọi là tăng lữ (僧侶). Ngoài ra, còn cách gọi khác như tăng gia (僧家), tăng ngũ (僧伍), v.v. Tăng là một trong ba ngôi báu, là người tín thọ giáo pháp của đức Như Lai, vâng theo đạo ấy, tinh cần tu tập, nhập vào dòng Thánh và chứng quả vị. Từ này cũng chỉ cho hàng Thánh đệ tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, theo học đạo của đức Phật, đầy đủ Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, an trú trong Tứ Hướng Tứ Quả; hoặc chỉ cho đoàn thể tín thọ Phật pháp, tu hành Phật đạo. Sau khi thành đạo, trước hết đức Phật đến vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), độ cho 5 anh em Kiều Trần Như (s: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 憍陳如) và đây được xem như khởi đầu hình thành Tăng Già. Luật sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường cho rằng muốn cấu thành Tăng Già phải có 2 điều kiện: (1) Lý hòa, tức tuân thủ giáo nghĩa Phật Giáo, lấy việc giải thoát Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) làm mục đích tối thượng. (2) Sự hòa, có 6 loại, tức Lục Hòa, gồm Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修), Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解), Thân Hòa Đồng Trụ (身和同住), Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均), Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍), Ý Hòa Đồng Duyệt (意和同悅). Ngoài ra, nguyên lai Tăng là tên gọi thông thường của Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼). Trung Quốc, Việt Nam, v.v., gọi Tỳ Kheo là Tăng, Tỳ Kheo Ni là Ni. Đặc biệt, Nhật Bản gọi tu sĩ nam là Tăng Lữ (僧侶, sōryo), tu sĩ nữ là Ni Tăng (尼僧, nisō). Sau này, ngoài hai chúng trên còn có Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerī, 沙彌尼) cũng được gọi là Tăng hay Ni. Tăng Già Tỳ Kheo và Tăng Già Tỳ Kheo Ni được gọi là hai bộ chúng. Hết thảy các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong bốn phương có tên gọi là Bốn Phương Tăng Già. Chư Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni hiện hữu trước mặt được gọi là Hiện Tiền Tăng Già. Hiện Tiền Tăng Già tất phải có từ 4 người trở lên, tập trung, hòa hợp, mới có thể thực hành pháp Yết Ma (羯磨), Bỉnh Pháp (秉法), v.v. Nếu dưới số lượng ấy, được gọi là quần, nhóm. Hơn nữa, do vì hình thức Yết Ma không giống nhau, nên số lượng chúng Tỳ Kheo cũng bất đồng. Theo Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 44, phần Chiêm Ba Kiền Độ (瞻波揵度) có nêu Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người, Tăng 20 người. Đối với Tăng 4 người, trừ Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 5 người, trừ thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 20 người thì có thể tác bất cứ pháp Yết Ma nào. Theo Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 30, phần Chiêm Ba Pháp (瞻波法), có nêu ra 5 loại tăng: (1) Vô tàm quy tăng (無慚愧僧), tức chỉ các Tỳ Kheo phá giới mà không biết xấu hổ; (2) Nhu dương tăng (羺羊僧), chỉ cho hạng Tỳ Kheo phàm phu căn tánh chậm lụt, không có trí tuệ, giống như đàn dê tụ tập mà chẳng biết gì cả; các Tỳ Kheo này cũng không biết Bố Tát, Yết Ma, thuyết giới, pháp hội, v.v.; (3) Biệt chúng tăng (別眾僧), tức là các Tỳ Kheo ở trong một phạm vi, mỗi nơi tác pháp Yết Ma riêng biệt, không đồng nhất; (4) Thanh tịnh tăng (清淨僧), tức chỉ cho các vị chuyên trì giới pháp thanh tịnh; (5) Chân thật tăng (眞實僧), chỉ cho các bậc Hữu Học và Vô Học. Riêng Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經, Taishō Vol. 3, No. 159) quyển 2 nêu ra 3 loại tăng của thế gian và xuất thế gian, gồm: (1) Bồ Tát Tăng (菩薩僧), như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), v.v.; (2) Thanh Văn Tăng (聲聞僧), như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連), v.v.; (3) Phàm phu tăng (凡夫僧). Trong Tứ Phần Luật Danh Nghĩa Tiêu Thích (四分律名義標釋, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 744) quyển 25, phần (襯體), có đoạn: “Phàm thị Tăng Già ngọa cụ, thọ dụng chi thời, bất đắc tùy nghi tương khinh tiểu Tọa Cụ, cập cấu nhị sơ bạc ố vật, nhi vi sấn thế, đắc ác tác tội (凡是僧伽臥具、受用之時、不得隨宜將輕小坐具、及垢膩疏薄惡物、而爲儭替、得惡作罪, phàm là vật trãi nằm của tăng, khi thọ dụng, không được tùy tiện lấy Tọa Cụ nhỏ nhẹ, và vật nhơ nhớp mỏng manh, mà đem cúng thay thế, [như vậy] mắc tội ác tác).” Hay trong bài tựa của Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (重治毗尼事義集要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 719) lại có đoạn: “Tỳ Ni Tạng giả, Phật pháp chi cương kỷ, Tăng Già chi mạng mạch, khổ hải chi tân lương, Niết Bàn chi yếu đạo dã (毗尼藏者、佛法之紀綱、僧伽之命脈、苦海之津梁、涅槃之要道也, Tạng Tỳ Ni là, cương kỷ của Phật pháp, mạng mạch của Tăng Già, cầu bắc qua biển khổ, đường chính của Niết Bàn vậy).”
(清虛大帝): một trong Tam Quan (三官), là Địa Quan Đại Đế (地官大帝), gọi đủ là Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Nhị Phẩm Thanh Hư Đại Đế (中元赦罪地官二品清虛大帝), Trung Nguyên Nhị Phẩm Xá Tội Địa Quan Thanh Hư Đại Đế (中元二品赦罪地官清虛大帝); lệ thuộc Thượng Thanh Cảnh (上清境). Địa Quan do khí nguyên động hỗn linh hòa với tinh màu vàng kết thành, chủ quản tất cả các cõi thần tiên của Ngũ Đế, Ngũ Nhạc. Ngày đản sanh của vị này là Rằm tháng Bảy. Vào ngày này, Địa Quan xuống nhân gian, chỉnh đốn tội phước và ân xá tội cho người; nên được gọi là Địa Quan Xá Tội (地官赦罪).
(天官): tên gọi của một trong ba vị Tam Quan Đại Đế (三官大帝), tức Thiên Quan Đại Đế (天官大帝), còn gọi là Thượng Nguyên Tứ Phước Thiên Quan Nhất Phẩm Tử Vi Đại Đế (上元賜福天官一品紫微大帝), và hai vị kia là Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Nhị Phẩm Thanh Hư Đại Đế (中元赦罪地官二品清虛大帝), Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế (下元解厄水官三品洞陰大帝). Từ thời Thượng Cổ, tại Trung Quốc đã có nghi lễ tế trời, đất và nước rồi. Ba vị Đại Đế này được thần cách hóa chỉ dưới Ngọc Hoàng Thượng Đế (玉皇上帝) một bậc, chuyên chưởng quản việc phước lộc, tội ác và giải trừ tai ách của con người. Trong dân gian vẫn truyền tụng rằng: “Thiên Quan hảo lạc, Địa Quan hảo nhân, Thủy Quan hảo đăng (天官好樂、地官好人、水官好燈, Thiên Quan thích vui, Địa Quan thích người, Thủy Quan thích đèn).” Thượng Nguyên (上元, rằm tháng giêng), Trung Nguyên (中元, rằm tháng bảy) và Hạ Nguyên (下元, rằm tháng mười) là ba ngày tế hội của ba vị Đại Đế này. Thiên Quan Đại Đế lệ thuộc vào Ngọc Thanh Cảnh (玉清境), do 3 khí xanh, vàng, trắng mà kết hợp thành, tổng chủ quản các đế vương trên trời. Mỗi năm vào ngày rằm tháng giêng, vị này thường giáng phàm xem xét tội phước của con người, nên có tên là Thiên Quan Tứ Phước (天官賜福, Quan Trời Ban Phước). Có nhiều truyền thuyết khác nhau liên quan đến vị này. Có thuyết cho rằng ông là Nghiêu Đế (堯帝); do vì nhà vua có lòng nhân lớn nên được phong làm Thiên Quan, phụng mạng Ngọc Hoàng Thượng Đế, xem xét việc tốt xấu của con người. Nghiêu Đế họ là Y Kì (伊祁), tên Phóng Huân (放勳), con vua Khốc (嚳), em của vua Chí (摰). Khi Chí lên ngôi vua thì phong cho Nghiêu là (陶侯), rồi đổi tên là Đường (唐); nên được gọi là Đào Đường (陶唐). Tương truyền Đường Nghiêu (唐堯) có dung mạo rất quái dị, lông mày có 8 sắc màu, tai có 3 lỗ thông. Khi vua Chí nhường ngôi cho Nghiêu thì bốn phương xuất hiện hung thần, ác khí, làm nguy hại đến tánh mạng của bá tánh. Nhà vua bèn sai Hậu Nghệ (后羿) đến hàng phục hung thần kia. Ông tóm thâu gió lớn nơi sông hồ, chém chết mãnh thú ven hồ Động Đình (洞庭), thâu tóm độc xà và làm cho dân chúng được yên ổn. Vua Nghiêu lại vẽ ra bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, chế định một năm có 12 tháng. Sau khi tại vị được 98 năm, vua Nghiêu truyền ngôi vị lại cho Thuấn (舜), hưởng thọ 177 tuổi; được tôn xưng là Thiên Quan Tứ Phước Thần (天官大帝賜福神). Trong Đạo Giáo tôn sùng ông là Thượng Nguyên Nhất Phẩm Tứ Phước Thiên Quan Đại Đế (上元一品賜福天官大帝). Thuyết khác cho rằng Thiên Quan là vị quan thường tâu những lời can gián lên nhà vua tên Đường Hoằng (唐宏) dưới thời Chu U Vương (周幽王, tại vị 781-771 tcn). Ông cùng với Cát Ung (葛雍), Chu Thật (周實) từ quan và sống cuộc đời vui thú điền viên. Đến thời Tống Chơn Tông (宋眞宗, tại vị 997-1022), cả ba được phong làm Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan và được tế tự hàng năm. Cũng có truyền thuyết giải thích rằng từ khi Trương Thiên Sư (張天師, 34-156, tức Trương Đạo Lục [張道陵], tự là Phụ Hán [輔漢], cháu đời thứ 8 của Trương Lương [張良], xuất thân Phong Huyện [豐縣], Tỉnh Giang Tô [江蘇省]) khai sáng Đạo Giáo về sau, dân gian mới bắt đầu biết cúng tế ba vị Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Ngoài ra, có thuyết lại cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái, đem gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người lại hạ sinh một người con, có bẩm tính khác thường. Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho 3 người này làm Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan và ra lệnh cho họ cai quản ba cõi. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Thiên Quan Bảo Cáo (天官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn: “Chí tâm quy mạng lễ: Huyền Đô Nguyên Dương, Tử Vi Cung trung, bộ Tam Thập Lục Tào, giai cửu thiên vạn chúng, khảo hiệu đại thiên thế giới chi nội, lục tịch thập phương quốc độ chi trung; phước bị vạn linh, chủ kiêm sanh thiện ác chi tịch; ân đàm Tam Giới, trí chư tiên thăng giáng chi ty, trừ vô vọng chi tai, giải thích túc ương, thoát sanh tử chi thú, cứu bạt u khổ, quần sanh thị lại, xuẩn động hàm khang, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Thượng Nguyên Cửu Khí, Tứ Phước Thiên Quan, Diệu Linh Nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân (志心皈命禮、玄都元陽、紫微宮中、部三十六曹、偕九千萬眾、考較大千世界之內、錄籍十方國土之中、福被萬靈、主兼生善惡之籍、恩覃三界、致諸仙升降之司、除無妄之災、解釋宿殃、脫生死之趣、救拔幽苦、群生是賴、蠢動咸康、大悲大願、太聖大慈、上元九氣、賜福天官、曜靈元陽大帝、紫微帝君, Một lòng quy mạng lễ: Huyền Đô Nguyên Dương, trong Tử Vi Cung, cai quản 36 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, giám sát trong khắp thế giới đại thiên, xét hồ sơ mười phương quốc độ, chủ quản hồ sơ thiện ác con người, phước nhuần vạn sinh, chủ kiểm soát hồ sơ thiện ác; ơn ban Ba Cõi, quản lý chư tiên lên xuống, trừ các tai họa, giải trừ oan khiên đời trước, thoát khỏi đường sanh tử, cứu bạt khổ ách, chúng sanh nương tựa, động vật đều yên, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Thượng Nguyên Cửu Khí, Tứ Phước Thiên Quan, Diệu Linh Nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân).”
(水官): tên gọi của một trong 3 vị của Tam Quan Đại Đế (三官大帝), tức Thủy Quan Đại Đế (水官大帝), Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế (下元解厄水官三品洞陰大帝), lệ thuộc Ngọc Thanh Cảnh (玉清境). Thủy Quan do khí của Phong Trạch (風澤) hòa với tinh của Thần Hạo (晨浩) mà thành, tổng chủ quản các vị thần tiên trong nước. Mỗi năm vào dịp rằm tháng 10, ông hạ phàm răn dạy tội phước, giải trừ các tai nạn, hạn ách cho con người. Có vài truyền thuyết về Thủy Quan Đại Đế như ông nguyên là vua Vũ (禹), nhờ có công lao trị thủy, nên được phong làm chức này. Vũ là con của vua Cổn (鯀), dưới thời vua Nghiêu (堯) trị thủy trong 9 năm trường mà vẫn không có kết quả, sau sai Vũ thay thế và trãi qua 13 năm thì thành công. Ông đặt quốc hiệu là Hạ (夏), vì vậy Trung Quốc có tên gọi khác là Hoa Hạ (華夏). Sau khi vua Vũ qua đời, Đạo Giáo tôn phụng ông là Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế; lấy Tiết Hạ Nguyên là ngày Vũ Đế giáng phàm giải ách cứu nạ cho muôn dân. Vì thế, ngày này còn được gọi là Tiêu Tai Nhật (消災日). Thuyết khác cho rằng Thủy Quan là Cát Ung (葛雍), một trong ba vị quan thường can gián nhà vua dưới thời Chu U Vương (周幽王). Họ từ quan, sống cuộc tự tại với thiên nhiên và sau được phong làm Tam Quan Đại Đế. Ngoài ra, có thuyết cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái đều gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người hạ sanh được một trai, bẩm tánh khác người; nhân đó, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho cả ba làm Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan, sắc mệnh chuyên cai quản Ba Cõi. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Thủy Quan Bảo Cáo (水官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn về Thủy Quan rằng: “Chí tâm quy mạng lễ: Dương Cốc Động Nguyên, Thanh Hoa Cung trung, bộ tứ thập nhị tào, giai cửu thiên vạn chúng, chưởng quản giang hà Thủy Đế, vạn linh chi sự, thủy tai đại hội kiếp số chi kỳ, Chỉ Nhất Pháp Vương, chưởng trường dạ tử hồn quỷ thần chi tịch, Vô Vi Giáo Chủ, lục chúng sanh công quá tội phước chi do, thượng giải thiên tai, độ nghiệp mãn chi linh, hạ tế u cục, phân nhân quỷ chi đạo, tồn vong giai thái, lực tế vô cùng, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Hạ Nguyên Ngũ Khí, Giải Ách Thủy Quan, Kim Linh Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân (志心皈命體、暘谷洞元、青華宮中、部四十二曹、偕九千萬眾、掌管江河水帝、萬靈之事、水災大會劫數之期、芷一法王、掌長夜死魂鬼神之籍、無為敎主、錄眾生功過罪福之由、上解天災、度業滿之靈、下濟幽扃、分人鬼之道、存亡皆泰、力濟無窮、大悲大願、大聖大慈、下元五氣、解厄水官、金靈洞陰大帝、暘谷帝君, Một lòng quy mạng lễ: Dương Cốc Động Nguyên, trong Thanh Hoa Cung, cai quản 42 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, Thủy Đế chưởng quản sông hồ, mọi chuyện của muôn loài, khi có tai họa về nước, kiếp số đến kỳ; Chỉ Nhất Pháp Vương, quản lý hồ sơ hồn chết đêm dài của quỷ thần; Vô Vi Giáo Chủ, phán công quá tội phước của chúng sanh; trên giải trừ thiên tai, độ các linh hồn hết nghiệp; dưới cứu đường tối tăm, chia rõ đường quỷ và người, người còn kẻ mất được an thái, sức tế độ vô cùng, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Hạ Nguyên Ngũ Khí, Giải Ách Thủy Quan, Kim Linh Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân).”
(中元): tức Trung Nguyên Tiết (中元節), đối với Thượng Nguyên (中元) nhằm ngày rằm tháng giêng âm lịch, Hạ Nguyên (下元) vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, Trung Nguyên nhằm vào ngày rằm tháng 7 âm lịch. Trung Nguyên Tiết là tên gọi của Đạo Giáo, Vu Lan Bồn Tiết (盂蘭盆節) là tên gọi của Phật Giáo, còn gọi là Trung Nguyên Phổ Độ (中元普渡), Hiếu Tử Tiết (孝子節).Thuyết Tam Nguyên này phát xuất từ Đạo Giáo, sau này lễ Trung Nguyên được hỗn hợp với truyền thống Vu Lan Bồn của Phật Giáo để cúng dường và cầu siêu độ cho các vong linh đã quá cố. Vì vậy khi nói đến Trung Nguyên cũng có nghĩa là Vu Lan Bồn. Bên cạnh đó, theo truyền thống Phật Giáo, rằm tháng 7 cũng là ngày xá tội vong nhân, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣) của chư tăng ni, như trong Tuế Thời Quảng Ký (歲時廣記) quyển 29, phần Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記) có đề cập rằng: “Tứ nguyệt thập ngũ nhật nãi Pháp Vương cấm túc chi thần, Thích tử hộ sanh chi nhật, tăng ni dĩ thử nhật tựu Thiền sát kết hạ lực, hựu vị chi Kết Chế; cái trưỡng dưỡng chi tiết tại ngoại hành, khủng thương thảo mộc trùng loại; cố cửu thập nhật An Cư, chí thất nguyệt thập ngũ nhật Giải Hạ, hựu vị chi Giải Chế (四月十五日乃法王禁足之辰、釋子護生之日、僧尼以此日就禪剎結夏力、又謂之結制、蓋長養之節在外行、恐傷草木蟲類、故九十日安居、至七月十五日解夏、又謂之解制, rằm tháng tư là ngày đấng Pháp Vương [đức Phật] cấm túc [giới hạn đi ra ngoài], là ngày người con Phật bảo vệ sinh mạng, tăng ni lấy ngày này đến các Thiền viện Kết Hạ An Cư, còn gọi là Kết Chế; lấy năng lực đó nuôi lớn, giới hạn việc đi ra ngoài, sợ làm tổn thương cây cỏ, côn trùng; cho nên sau 90 ngày An Cư, đến ngày rằm tháng 7 thì Giải Hạ [kết thúc kỳ Kết Hạ An Cư], còn gọi là Giải Chế).” Sau ngày Giải Hạ, từ ngày 16 tháng 7 âm lịch trở đi, cuộc sống mới bắt đầu; vì vậy ngày rằm tháng 7 cũng tượng trưng cho sự phục hoạt và sinh sống mới. Xưa kia, trong dân gian vẫn thường gọi lễ hội này là Quỷ Tiết (鬼節). Tương truyền có một hôm nọ, cửa địa ngục mở tung ra, các âm linh, quỷ sứ dưới âm ty được tự do thoát ra ngoài. Người nào có chủ thì về nhà mình, người không chủ thì đi lang thang, vất vưởng đây đó; cho nên, trong dân gian thường thiết lễ tụng kinh cầu nguyện vào dịp tháng 7 để cầu siêu độ các âm linh cô hồn, để họ không gây họa cho con người, và trở lại phò trợ cho tật bệnh tiêu trừ, gia trạch bình an. Về truyền thuyết của lễ hội này, bên cạnh thuyết đệ tử của đức Phật là Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連) cứu mẹ như được thuyết trong Vu Lan Bồn Kinh (s: Ulambanasūtra, 盂蘭盆經) của Phật Giáo, về phía dân gian cung như Đạo Giáo, có truyền thuyết khác đến tiền giấy. Theo thuyết của Thái Luân (蔡倫, khoảng 63-121) thời Đông Hán (東漢, 25-220) sau khi phát minh ra tiền giấy, cuộc sống hưng thịnh, khá giả, tiền của dư dật. Anh trai ông là Thái Mạc (蔡莫) cùng với chị Huệ Nương (慧娘) thấy vậy rất thèm muốn. Cả hai cùng đến gặp Thái Luân xin học cách chế tạo giấy. Tuy nhiên, tâm của Thái Mạc thì quá nôn nóng muốn làm giàu, nên công phu học tập tuy chưa thuần thục đã vội mở tiệm kinh doanh. Cuối cùng, kết quả cho thấy rằng giấy do ông làm ra có phẩm chất không tốt, bị mọi người chê trách; cả hai vợ chồng ngồi buồn rầu rĩ. Chợt Huệ Nương nảy ra một diệu kế, bàn nhỏ với chồng và thực hiện. Có một đêm nọ, người dân hàng xóm bỗng nhiên nghe tiếng khóc lóc thảm thiết vọng lại từ nhà của Thái Mạc. Mọi người chạy đến xem hư thực, mới biết là Huệ Nương đã chết tối hôm qua. Đến sáng hôm sau, trước mặt mọi người, Thái Mạc kêu gào bi thương bên quan tài vợ hiền, vừa khóc vừa đốt giấy. Bỗng nhiên, từ trong quan tài vọng ra tiếng nói rằng: “Mở cửa ra, mở cửa ra ! Ta sống lại đây !” Người tham dự kinh sợ, cuối cùng có người gan dạ mới dám bước đến mở nắp quan tài ra. Huệ Nương từ trong quan tài bước ra kể với mọi người rằng sau khi bà qua đời, sanh xuống cõi âm; khi ấy Diêm Vương xét tội trạng và ban cực hình, chịu cực khổ muôn vàn. Nhưng nhờ có Thái Mạc đốt giấy tiền, chúng tiểu quỷ thâu lấy đem dâng cho Diêm Vương; cho nên Diêm Vương mới tha cho trở về lại dương gian. Nghe vậy, Thái Mạc giả vờ hỏi: “Ta đâu có đốt tiền.” Huệ Nương lấy tay chỉ vào đống tro tàn bảo: “Dưới cõi âm đó chính là tiền.” Từ đó, người dân mới phát hiện ra công dụng và lợi ích của tiền giấy; họ đỗ xô đến tiệm của Thái Mạc mua giấy tiền về cúng. Ngày Huệ Nương sống lại cũng đúng vào rằm tháng bảy; cho nên cũng nhân ngày này, dân chúng mua giất tiền đốt dâng cúng tổ tiên cũng như những người đã qua đời. Theo Đạo Giáo, ngày Thượng Nguyên là ngày Thiên Quan (天官) ban phước; ngày Trung Nguyên là ngày Địa Quan (地官) xá tội; và ngày Hạ Nguyên là ngày Thủy Quan (水官) giải ách. Cho nên, vào ngày rằm tháng 7, dân gian thường chuẩn bị các mâm cỗ cúng rất phong phú để dâng cúng cho Địa Quan cũng như tổ tiên quá cố. Về tập tục cúng tế vào dịp Trung Nguyên này, có nhiều tài liệu ghi lại như tác phẩm Đường Lục Điển (唐六典, tức Đại Đường Lục Điển [唐六典]) ghi rằng: “Trung Thượng Thự thất nguyệt thập ngũ nhật tấn Vu Lan Bồn (中尚署七月十五日進盂蘭盆, vào ngày rằm tháng bảy, Trung Thượng Thự [cơ quan chuyên trách đồ ẩm thức hiến cúng] hiến cúng Vu Lan Bồn).” Như vậy, đương thời việc tiến cúng Vu Lan Bồn vào dịp Trung Nguyên là định lệ trong cung nội. Trong Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) quyển 8 do (孟元老, ?-?) nhà Tống soạn có đoạn: “Tiên sổ nhật, thị tỉnh mại minh ngoa hài, kim tê giả đái, ngọc thải y phục, … cập ấn mại Tôn Thắng Mục Liên Kinh (先數日、市井賣冥器靴鞋、金犀假帶、五綵衣服、… 及印賣尊勝目蓮經, trước [Trung Nguyên] vài ngày, phố xá có bán các thứ giày dép, tê giác vàng, dây đai giả, y phục lụa năm màu đồ âm binh, … và mua Tôn Thắng Mục Liên Kinh).” Hay như trong Đế Kinh Cảnh Vật Lược (帝京景物略) quyển 2 do Lưu Đồng (劉侗, khoảng 1593-1636) và Vu Dịch Chánh (于奕正, ?-?) nhà Minh soạn, có kể rằng: “Thập ngũ nhật, chư tự kiến Vu Lan Hội, dạ ư thủy thứ phóng đăng, nhật phóng hà đăng (十五日、諸寺建盂蘭會、夜於水次放燈、日放河燈, vào ngày rằm, các chùa mở hội Vu Lan, đêm về thả đèn trên nước, ban ngày thả đèn trên sông).” Hoặc như trong Huyền Đô Đại Hiến Kinh (玄都大獻經) của Đạo Giáo có dạy rằng: “Thất nguyệt thập ngũ nhật, Trung Nguyên chi tiết dã; … thị nhật Địa Quan hiệu duyệt, sưu thuyết chúng nhân, phân biệt thiện ác, chư thiên Thánh chúng, phổ nghệ cung trung, giản định kiếp số nhân quỷ bộ lục, ngạ quỷ tù đồ, nhất thời câu tập, dĩ kỳ nhật tác Huyền Đô đại trai, địch ư Ngọc Kinh, cập thái hoa quả, thế gian sở hữu kỳ dị chi vật, ngoạn lộng phục sức, tràng phan bảo cái, trang nghiêm cúng dường chi cụ, thanh thiện ẩm thực, bách vị phân phương, hiến chư chúng Thánh, cập dữ đạo sĩ, dữ kỳ nhật nguyệt giảng tụng thị kinh, thập phương Đại Thánh, cao lục linh thiên, tù đồ ngạ quỷ, đương thời giải thoát, nhất câu bão mãn, miễn ư chúng khổ, đắc tuyển nhân trung; nhược phi như thử, nan khả bạt thoát (七月十五日、中元之節也、…是日地官校閱、搜說眾人、分別善惡、諸天聖眾、譜詣宮中、簡定劫數人鬼簿錄、餓鬼囚徒、一時俱集、以其日作玄都大齋、敵於玉京、及採諸花果、世間所有奇異之物、玩弄服飾、幢幡寶蓋、莊嚴供養之具、清膳飲食、百味芬芳、獻諸眾聖、及與道士、與其日月講誦是經、十方大聖、高錄靈篇、囚徒餓鬼、當時解脫、一俱飽滿、免於眾苦、得選人中、若非如此、難可拔脫, ngày rằm tháng bảy là Tiết Trung Nguyên; ngày này Địa Quan xét duyệt, sưu tra mọi người, phân biệt thiện ác; các Thánh trên trời, tập trung trong cung điện, định rõ sổ bộ kiếp số của quỷ và con người, chúng quỷ đói giam tù, cùng lúc tập họp, lấy ngày này làm ngày cúng chay Huyền Đô, tranh nhau cúng ở Ngọc Kinh; cùng chọn các thứ hoa quả, những vật kỳ dị hiếm có trên đời, áo quần trang phục vua đùa, tràng phan lọng báu, các vật cúng dường trang nghiêm, mâm cỗ ăn uống trong sạch, trăm vị thơm ngon, hiến cúng các bậc Thánh, cùng những đạo sĩ, vào ngày tháng này giảng tụng kinh này; các Đại Thánh trong mười phương, ghi rõ sổ linh; chúng quỷ đói bị giam cầm, lúc bấy giờ được giải thoát, hết thảy đều no đủ, xa lìa các khổ, được sanh làm người; nếu không làm như vậy, khó được giải thoát)”, v.v. Lễ hội này cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống tâm linh con người Á Châu, dầu bất cứ tôn giáo nào đi nữa; cho nên, văn chương, thi phú ca ngợi nhiều về nó. Như Linh Cô Sở (令孤楚, 766-837) có làm bài thơ Nhật Tặng Trương Tôn Sư (日贈張尊師) về Tiết Trung Nguyên rằng: “Ngẫu lai nhân thế trị Trung Nguyên, bất hiến Nguyên Đô vị nhật nhàn, tịch tịch phần hương tại tiên quán, tri sư diêu lễ Ngọc Kinh San (偶來人世值中元、不獻元都未日閒、寂寂焚香在仙觀、知師遙禮玉京山, tình cờ nhân thế gặp Trung Nguyên, chẳng cúng Nguyên Đô chưa an nhàn, lẳng lặng đốt hương nơi tiên quán, biết thầy xa lễ Ngọc Kinh San).” Thi sĩ Ân Nghiêu Phiên (殷堯藩, ?-?) nhà Đường có bài Trung Nguyên Quán Pháp Sự Bộ Hư (中元觀法事步虛) rằng: “Ngột đô khai bí lục, bạch thạch lễ tiên sanh, thượng giới thu quang tịnh, Trung Nguyên dạ khí thanh, tinh thần triều đế xứ, tư hạc bộ hư thanh, ngọc động hoa trường phát, châu cung nguyệt tối minh, tảo đàn thiên địa túc, đầu giản quỷ thần kinh, thảng tứ Đao Khuê Dược, hoàn lưu bất tử danh (兀都開秘籙、白石禮先生、上界秋光淨、中元夜氣清、星辰朝帝處、鷥鶴步虛聲、玉洞花長發、珠宮月最明、掃壇天地肅、投簡鬼神驚、儻賜刀圭藥、還留不死名, kinh đô bày bí điển, đá trắng lạy tiên sanh, cõi trên ánh thu lắng, Trung Nguyên đêm khí trong, sao trời chầu đế chúa, cò hạc bước thong dong, động ngọc hoa nở ngát, cung báu trăng sáng ngần, quét đàn trời đất dịu, gieo ống quỷ thần kinh, nếu ban Đao Khuê Thuốc [thuốc tán viên bột], lưu mãi bất tử danh).” Trong khi đó, Biên Cống (邊貢, 1476-1532) nhà Minh có làm bài Trung Nguyên Kiến Nguyệt (中元見月) như sau: “Tọa ái thanh quang hảo, cánh thâm bất hạ lâu, bất nhân phùng nhuận nguyệt, kim dạ thị trung thu (坐愛清光好、更深不下樓、不因逢閏月、今夜是中秋, ngồi ngắm ánh trăng sáng, hồi lâu chẳng xuống lầu, chẳng hay gặp tháng nhuận, đêm nay là giữa thu)”, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập