Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Địa Quan »»
(s: Prajñā, 般若, 734-?): tức Bát Nhã Tam Tạng (般若三藏), vị cao tăng dịch kinh dưới thời nhà Đường, còn gọi là Bát Lạt Nhã (般剌若); xuất thân người nước Ca Tất Thí (迦畢試, Kế Tân [罽賓]), họ là Kiều Đáp Ma (喬答摩). Năm lên 7 tuổi, ông xuất gia, đến 20 tuổi thì thọ Cụ Túc Giới. Năm 23 tuổi, ông đến Na Lan Đà Tự (娜爛陀寺) ở miền trung Ấn, nương theo ba vị đại luận sư Trí Hộ (智護), Tấn Hữu (進友), Trí Hữu (智友), chuyên nghiên cứu về Duy Thức, Du Già, Trung Quán, Kim Cang Kinh, Ngũ Minh, v.v. Sau đó, ông lên thuyền chu du khắp các nước vùng Nam Hải, vào năm 781 (Kiến Trung [建中] 2) đời vua Đức Tông (德宗, tại vị 779-805) nhà Đường, ông đến Quảng Châu, rồi vào kinh đô Trường An. Vào năm 788 (Trinh Nguyên 4), ông dịch được Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅密多經) 10 quyển. Đến tháng 7 năm 790, ông phụng sắc chỉ theo sứ sang nước Ca Thấp Di La (s: Kaśmīra, p: Kasmīra, 迦濕彌羅). Không bao lâu sau, ông được ban cho hiệu Bát Nhã Tam Tạng và Tử Y. Về sau, ông còn dịch thêm một số kinh điển khác như Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), Tứ Thập Hoa Nghiêm (四十華嚴), Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經), Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà La Ni Kinh (守護國界主陀羅尼經), v.v.
(s: maṇḍa, sarpir-maṇḍa, p: maṇḍa, sappi-maṇḍa, 醍醐):
(1) chỉ loại dầu tinh chất được chế thành từ ván sữa; màu vàng trắng, đem làm bánh, rất ngọt và béo;
(2) chỉ cho một loại rượu ngon;
(3) là một trong 5 vị, tức sữa, cạo sữa, ván sữa sống, ván sữa chín và đề hồ; nên có tên gọi là Đề Hồ Vị (醍醐味);
(4) vì Đề Hồ là vị ngon nhất trong các loại sữa, nên Phật Giáo dùng để chỉ Niết Bàn, Phật tánh, giáo lý chân thật. Trong kinh điển Hán dịch của Phật Giáo Trung Quốc thời kỳ đầu, Đề Hồ có nghĩa là “bản chất, tinh túy.”
Ngoài ra, Đề Hồ còn được dùng như là một phương thuốc chữa bệnh; như trong chương Tây Vức (西域) của Ngụy Thư (魏書) có đoạn: “Tục tiễn phát tề mi, dĩ Đề Hồ đồ chi, dục dục nhiên quang trạch, nhật tam tháo thấu, nhiên hậu ẩm thực (俗剪髮齊眉、以醍醐塗之、昱昱然光澤、日三澡漱、然後飲食, có tục lệ cắt tóc xén lông mày, lấy đề hồ thoa lên, hong nắng ánh sáng, một ngày tắm giặt ba lần, sau đó mới ăn uống).” Quyển 596 của Toàn Đường Văn (全唐文), bài Tống Thái Chiểu Hiếu Liêm Cập Đệ Hậu Quy Mân Cận Tỉnh Tự (送蔡沼孝廉及第後歸閩覲省序) của Âu Dương Chiêm (歐陽詹, 756-798) lại có đoạn rằng: “Phanh nhũ vi đề hồ, đoán kim vi càn tương, dự kỳ phanh đoán dĩ biến hóa (烹乳爲醍醐、鍛金爲乾將、予期烹鍛以變化, nấu sữa thành Đề Hồ, nung vàng làm kiếm tốt, chờ đợi lúc nấu và rèn biến hóa).” Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅蜜多經) quyển 1 có giải thích rằng: “Khế Kinh như nhũ, điều phục như lạc, Đối Pháp Giáo giả như bỉ sanh tô, Đại Thừa Bát Nhã do như thục tô, Tổng Trì Môn giả thí như Đề Hồ. Đề Hồ chi vị, nhũ, lạc, tô trung vi diệu đệ nhất, năng trừ chư bệnh, linh chư hữu tình thân tâm an lạc. Tổng Trì Môn giả, Khế Kinh đẳng trung tối vi đệ nhất, năng trừ trọng tội, linh chư chúng sanh giải thoát sanh tử, tốc chứng Niết Bàn an lạc pháp thân (契經如乳、調伏如酪、對法敎者如彼生酥、大乘般若猶如熟酥、總持門者譬如醍醐。醍醐之味、乳、酪、酥中微妙第一、能除諸病、令諸有情身心安樂。總持門者、契經等中最爲第一、能除重罪、令諸眾生解脫生死、速證涅槃安樂法身, Khế Kinh như sữa, điều phục như cạo sữa, giáo lý Đối Pháp giống như ván sữa sống, Bát Nhã Đại Thừa như ván sữa chín, Tổng Trì Môn ví như Đề Hồ. Vị của Đề Hồ vi diệu số một trong các loại sữa, cạo sữa, ván sữa; có thể trừ các bệnh, khiến cho thân tâm chúng hữu tình được an lạc. Tổng Trì Môn là số một trong Khế Kinh, v.v., có thể trừ các tội nặng, khiến các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, pháp thân an lạc).” Do vì Đề Hồ được xem như là giáo lý tối thượng, Phật tánh, v.v.; cho nên xuất hiện thuật ngữ “Đề Hồ Quán Đảnh (醍醐灌頂)” để ví dụ cho việc lấy giáo pháp tối thượng giúp người hành trì để chuyển hóa vô minh, phiền não và đạt được mát mẻ, an lạc. Như trong bài thơ Hành Lộ Nan (行路難) của Cố Huống (顧況, 725-814) có câu: “Khởi tri quán đảnh hữu Đề Hồ, năng sử thanh lương đầu bất nhiệt (豈知灌頂有醍醐、能使清涼頭不熱, sao biết quán đảnh có Đề Hồ, thể khiến mát trong không nóng).” Hay trong bài Ta Lạc Phát (嗟落髮) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) cũng có câu: “Hữu như Đề Hồ quán, tọa thọ thanh lương lạc (有如醍醐灌、坐受清涼樂, lại như rưới Đề Hồ, ngồi thọ vui mát mẻ).” Lại như trong bài Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Tự (大乘本生心地觀經序) của vua Hiến Tông (憲宗, tại vị 805-820) nhà Đường có đoạn: “Tỉ phi duyệt chi giả Cam Lồ sái ư tâm điền, hiểu ngộ chi giả Đề Hồ lưu ư tánh cảnh (俾披閱之者甘露灑於心田、曉悟之者醍醐流於性境, người đọc kỹ nó như Cam Lồ rưới nơi ruộng tâm, người hiểu ngộ được nó như Đề Hồ chảy vào cảnh giới tánh).” Bên cạnh đó, trong bài Thật Tế Tự Cố Tự Chủ Hoài Uẩn Phụng Sắc Tặng Long Xiển Đại Pháp Sư Bi Minh (實際寺故寺主懷惲奉敕贈隆闡大法師碑銘) của Đổng Hạo (董浩) nhà Thanh cũng có đoạn: “Tri dữ bất tri, ngưỡng Đề Hồ ư cú kệ, thức dữ bất thức, tuân pháp nhũ ư ba lan (知與不知、仰醍醐於句偈、識與不識、詢法乳於波瀾, biết và không biết, kính Đề Hồ từng câu kệ, hiểu và không hiểu, tin sữa pháp nơi sóng cả).” Ngay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 31 có câu: “Na Sa Tăng nhất văn Tôn Ngộ Không tam cá tự, tiện hảo tợ Đề Hồ quán đảnh, Cam Lồ tư tâm (那沙僧一聞孫悟空三個字、便好似醒醐灌頂、甘露滋心, Sa Tăng một khi nghe được ba chữ Tôn Ngộ Không, tức thì giống như nước Đề Hồ rưới đầu, Cam Lồ rửa tâm).” Trong bài tán Kinh Pháp Hoa cũng có đề cập đến Đề Hồ như: “Hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội đề hồ đích đích lương (喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼, dưới cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trong miệng Đề Hồ giọt giọt tươi).”
(東極青華大帝): còn gọi là Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (青玄九陽上帝), là hóa thân của Đông Hoa Đế Quân (東華帝君), tức Mộc Công (木公) hay Đoàn Hoa Mộc Công, ngự tại Đông Cực (東極). Hậu thế thường cho là Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế và Đông Hoa Đế Quân có cùng nguyên khí hóa hợp; nhưng thực thế thì Đông Hoa Đế Quân có liên quan đến Đông Vương Công (東王公). Vương Công tức là Mộc Công, hay Đông Hoàng Thái Ất (東皇太乙), cùng với Tây Vương Mẫu (西王母) quản lý hai khí, phân thành âm dương, định ra càn khôn; về sau hóa thành Đông Hoa Đại Đế (東華大帝) và Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙救苦天尊). Khí của Thanh Hoa Đại Đế hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, thệ nguyện cứu độ chúng sanh, nên được tôn xưng là “Vạn Vị Đế Chúa Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế (萬彙帝主東極青華大帝)”, thuộc vào một trong Tứ Ngự của Đạo Giáo. Ngài Cứu Khổ Thiên Tôn cùng với Chu Lăng Thiên Tôn (朱陵天尊) và Độ Mạng Thiên Tôn (度命天尊) được gọi là Thái Ất Tam Cứu Khổ, là vị thần chủ tể tối cao cứu độ vạn loại. Sau khi biến hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế lại ứng hóa khắp mười phương, nên có hiệu là “Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (十方救苦天尊).” Chư vị Thiên Tôn trong 10 phương có hiệu là: Đông Phương Bảo Hoàng Thượng Thiên Tôn (東方寶皇上天尊), Nam Phương Huyền Chơn Vạn Phước Thiên Tôn (南方玄眞萬福天尊), Tây Phương Thái Diệu Chí Cực Thiên Tôn (西方太妙至極天尊), Bắc Phương Huyền Thượng Ngọc Thần Thiên Tôn (北方玄上玉宸天尊), Đông Nam Phương Hiếu Sanh Độ Thiên Tôn (東南方好生度天尊), Đông Bắc Phương Độ Tiên Thượng Thánh Thiên Tôn (東北方度仙上聖天尊), Tây Nam Phương Thái Linh Hư Hoàng Thiên Tôn (西南方太靈虛皇天尊), Tây Bắc Phương Vô Lượng Thái Hoa Thiên Tôn (西北方無量太華天尊), Thượng Phương Ngọc Hư Minh Hoàng Thiên Tôn (上方玉虛明皇天尊) và Hạ Phương Chơn Hoàng Động Thần Thiên Tôn (下方眞皇洞神天尊); được gọi chung là Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寶十方救苦天尊). Vị Thiên Tôn này còn quản lý luôn cả việc thần quỷ dưới Minh Phủ, hóa thành Thập Điện Minh Vương (十殿冥王) như: Đông Phương Thiên Tôn hóa thành Tần Quảng Vương (秦廣王) của điện thứ nhất, cư trú ở Huyền Minh Cung (玄冥宮); Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Sở Giang Vương (楚江王) của điện thứ hai, cư tại Phổ Minh Cung (普明宮); Tây Phương Thiên Tôn hóa thành Tống Đế Vương (宋帝王) của điện thứ ba, cư tại Củ Tuyệt Cung (糾絕宮); Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Ngũ Quan Vương (五官王) của điện thứ tư, cư tại Thái Hòa Cung (太和宮); Đông Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Diêm La Vương (閻羅王) của điện thứ năm, cư tại Củ Luân Cung (糾倫宮); Đông Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Biện Thành Vương (卞城王) của điện thứ sáu, cư tại Minh Thần Cung (明晨宮); Tây Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Thái Sơn Vương (泰山王) của điện thứ bảy, cư tại Thần Hoa Cung (神華宮); Tây Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Bình Đẳng Vương (平等王) của điện thứ tám, cư tại Thất Phi Cung (七非宮); Thượng Phương Thiên Tôn hóa thành Đô Thị Vương (都市王) của điện thứ chín, cư tại Bích Chơn Cung (碧眞宮); và Hạ Phương Thiên Tôn hóa thành Chuyển Luân Vương (轉輪王) của điện thứ mười, cư tại Túc Anh Cung (肅英宮). Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn có đầy đủ thần lực tự tại, sức trí tuệ lớn vô lượng, thường giải ách nạn, phá tà, hàng ma, cũng như giải trừ hết thảy bệnh tật cho con người; cho nên cũng có tên là Thái Ất Y Vương (太乙醫王). Ngài có đủ sức thần thông nên có thể ngao du khắp nơi như lên trời, xuống cõi người, Địa Phủ, v.v. Vì vậy, trên Trời Ngài có tên là Thái Nhất Phước Thần (太一福神), trên đời gọi là Đại Từ Nhân Giả (大慈仁者), dưới lòng đất là Nhật Diệu Địa Quân (日耀地君), nơi chỗ ngoại đạo là Sư Tử Minh Vương (獅子明王), dưới Thủy Phủ là Động Uyên Đế Quân (洞淵帝君). Ngài thường hóa hiện các thân hình, theo âm thanh để cứu độ chúng sanh, nên cũng được gọi là Thái Ất Tầm Thanh Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙尋聲救苦天尊). Trong Tống Sử (宋史), phần Phương Kỷ Truyện Hạ (方技傳下), Lâm Linh Tố (林靈素) có câu: “Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương giả, Thượng Đế chi trưởng tử, kỳ đệ hiệu Thanh Hoa Đế Quân giả, chủ Đông phương (神霄玉清王者、上帝之長子、其弟號青華帝君者、主東方, Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương là trưởng tử của Thượng Đế, em trai ông hiệu Thanh Hoa Đế Quân, chủ quản phương Đông).” Hay như trong bài thơ Bộ Hư (步虛) của Lục Du (陸游, 1125-1210) nhà Tống có câu: “Bán túy kỵ nhất hạc, khứ yết Thanh Hoa Quân (半醉騎一鶴、去謁青華君, nữa say cỡi con hạc, đến yết Thanh Hoa Quân).” Trong Thái Thượng Vô Cực Đại Đạo Tam Thập Lục Bộ Tôn Kinh (太上無極大道三十六部尊經) có câu kính lễ rằng: “Chí tâm quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, Thất Bảo phương khiên lâm, Cửu Sắc Liên Hoa tòa, vạn chơn hoàn củng nội, bách ức thoại quang trung, Ngọc Thanh Linh Bảo Tôn, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Thập Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Ức Ức Kiếp Trung, Độ Nhân Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (志心皈命禮、青華長樂界、東極妙嚴宮、七寶芳騫林、九色蓮花座、萬真環拱內、百億瑞光中、玉清靈寶尊、應化玄元始、號劫垂慈濟、大千甘露門、妙道眞身、紫金瑞相、隨機赴感、誓願無邊、大聖大慈、大悲大願、十方化號、普度眾生、億億劫中、度人無量、尋聲赴感、太乙救苦天尊、青玄九陽上帝, Một lòng quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, rừng hương thơm Bảy Báu, tòa Hoa Sen Chín Sắc, vạn loài đều củng phục, trong trăm ức hào quang, Đấng Ngọc Thanh Linh Bảo, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Mười Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Trong Muôn Ức Kiếp, Độ Người Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế).” Ngày thánh đản của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là 11 tháng 11 Âm Lịch.
(權寔): quyền nghĩa là quyền nghi, chỉ cho phương tiện cần thiết nhất thời; thật là chân thật không dối, sự chân thật tột cùng vĩnh viễn không thay đổi. Quyền thật còn gọi là chân giả. Như trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, CBETA No. 1295) quyển 25 có câu: “Đốn tiệm thiên viên, quyền thật không hữu, đinh tủy thiết thiệt, hà mục hải khẩu (頓漸偏圓、權寔空有、釘觜鐵舌、河目海口, đốn tiệm méo tròn, quyền thật không có, mỏ đinh lưỡi sắt, mắt sông miệng biển).” Hay như trong Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Thiển Chú (大乘本生心地觀經淺註, CBETA No. 367) cũng có câu: “Dĩ thuyết pháp chi công, trang nghiêm tự tánh, quyền thật tự tại, cố tôn vi vương (以說法之功、莊嚴自性、權寔自在、故尊爲王, lấy công đức thuyết pháp, trang nghiêm tự tánh, quyền thật tự tại, nên tôn xưng là vua).”
(疏): còn gọi là Sớ Văn (疏文), Văn Sớ (文疏), hay Tấu Sớ (奏疏), có hai nghĩa: (1) Là văn thư của quần thần điều trần dâng lên bậc trên như đức vua, như trong Văn Thể Minh Biện (文體明辯) của Từ Sư Tằng (徐師曾, 1546-1610) nhà Minh có giải thích rằng: “Án Tấu Sớ giả, quần thần luận gián chi tổng danh dã (按奏疏者、群臣論諫之總名也, xét Sớ Tâu là tên gọi chung của các văn thư do quần thần can gián, luận nghị).” Hay như trong Tống Sử (宋史) quyển 32, Truyện Chu Trác (朱倬傳) có đề cập rằng: “Mỗi thượng sớ, triếp túc hưng lộ cáo; nhược Thượng Đế giám lâm, Tấu Sớ phàm số thập (每上疏、輒夙興露告、若上帝鑒臨、奏疏凡數十, mỗi lần dâng sớ, thường kính cẩn thưa rõ ràng; nếu Thượng Đế giáng xuống, sớ tâu thường mười phong).” Hoặc như trong bài Khiển Hứng Thi (遣興詩) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường cũng có câu: “Thượng sớ khất hài cốt, hoàng quan quy cố hương (上疏乞骸骨、黃冠歸故鄉, dâng sớ xin hài cốt, mũ vàng về cố hương).” Tấu Sớ còn gọi là Tấu Chương (奏章), Tấu Nghị (奏議). (2) Trong khoa nghi của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo, Sớ Văn được dùng rất rộng rãi và phổ biến, với tư cách là văn thư thành kính dâng lên đấng tối cao, đấng chí tôn như Thần, Thánh, Phật; là chiếc cầu tiếp nối giữa cõi hữu hình với thế giới vô hình. Như trong Đạo Giáo có các bộ Linh Bảo Văn Kiểm (靈寶文檢), Tâm Hương Diệu Ngữ (心香妙語), v.v., là những thư tịch chuyên dùng cho khoa nghi Công Văn. Về phía Phật Giáo có bộ Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, CBETA No. 1252), 4 quyển, do Thạch Cổ Chủ Nhân Thích Nguyên Hiền (石鼓主人釋元賢) nhà Minh (1368-1662) biên soạn. Một số văn sớ thường dùng trong Đạo Giáo như: Nguyên Đán Khánh Hạ Văn Sớ (元旦慶賀文疏), Ngọc Hoàng Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玉皇上帝慶賀文疏), Thượng Nguyên Thiên Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (上元天官大帝慶賀文疏), Thái Thượng Lão Quân Khánh Hạ Văn Sớ (太上老君慶賀文疏), Huyền Thiên Thượng Đế Khánh Hạ Văn Sớ (玄天上帝慶賀文疏), Thiên Thượng Thánh Mẫu Khánh Hạ Văn Sớ (天上聖母慶賀文疏), Trương Thiên Sư Khánh Hạ Văn Sớ (張天師慶賀文疏), Trung Nguyên Địa Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (中元地官大帝慶賀文疏), Hạ Nguyên Thủy Quan Đại Đế Khánh Hạ Văn Sớ (下元水官大帝慶賀文疏), Bắc Đẩu Giải Ách Văn Sớ (北斗解厄文疏), An Phụng Thần Vị Văn Sớ (安奉神位文疏), An Phụng Trị Niên Thái Tuế Văn Sớ (安奉值年太歲文疏), v.v. Linh Bảo Văn Kiểm nhấn mạnh vai trò của Sớ Văn là: “tuyên diễn đạo pháp, lợi thế chi tân lương dã (宣演道法、利世之津梁也, bờ bến để tuyên bày đạo pháp và làm lợi ích cho cuộc đời).” Từ ý nghĩa đó, Sớ được dùng rộng rãi trong Phật Giáo như là phương tiện độ sanh cần phải có đối với mọi trường hợp, như trong tác phẩm này có giới thiệu. Đặc biệt, có một loại Sớ Văn gọi là Pháp Đường Sớ (法堂疏) được dùng trong Thiền môn, là văn từ của vị Trưởng Lão Trú Trì của một tự viện nào đó, dùng để khải thỉnh khai đường thuyết pháp.
(三河四海九江): ba sông, bốn biển, chín sông, là từ chỉ chung cho những nơi có nước như ao hồ, sông ngòi, biển cả trên khắp thế giới. Như trong Thái Thượng Linh Bảo Ngọc Quỹ Minh Chơn Đại Trai Quan Công Nghi (太上靈寶玉匱明眞大齋官功儀) của Đạo Giáo có đoạn cung thỉnh rằng: “Cẩn thượng thỉnh Tam Nguyên Quân, Thượng Nguyên Thiên Quan, Trung Nguyên Địa Quan, Hạ Nguyên Thủy Quan, Tam Cung Cửu Phủ, Bách Nhị Thập Tào, Ngũ Nhạc Đại Thần, Thập Đại Động Thiên, Tam Thập Lục Động Thiên, Nhị Thập Tứ Hóa, Tam Hà Tứ Hải, Cửu Giang Thủy Đế, Thập Nhị Hà Nguyên, Cửu Cung Chân Nhân, Thập Nhị Tiên Quân, Cửu Thiên Ty Mạng, Ngũ Nhạc Trượng Nhân, Cửu Thiên Sứ Giả, Trữ Phó Chánh Chức Tá Mạng Đại Thần, Thiên Tiên Địa Tiên, Phi Tiên Thần Tiên, Vương Đồng Ngọc Nữ, binh mã kỵ thừa, giáng lâm tiêu tòa (謹上請三元君、上元天官、中元地官、下元水官、三宮九府、百二十曹、五嶽大神、十大洞天、三十六洞天、二十四化、三河四海、九江水帝、十二河源、九宮眞人、十二仙君、九天司命、五嶽丈人、九天使者、儲副正職佐命大神、天仙地仙、飛仙神仙、王童玉女、兵馬騎乘、降臨醮座, xin cung thỉnh Tam Nguyên Quân, Thượng Nguyên Thiên Quan, Trung Nguyên Địa Quan, Hạ Nguyên Thủy Quan, Ba Cung Chín Phủ, Trăm Hai Mươi Tào, Đại Thần Năm Núi, Trời Mười Động Lớn, Trời Ba Mươi Sáu Động, Hai Mươi Bốn Hóa, Ba Sông Bốn Biển, Chín Sông Thủy Đế, Mười Hai Nguồn Sông, Chân Nhân Chín Cung, mười hai tiên quân, Cửu Thiên Ty Mạng, Ngũ Nhạc Trượng Nhân, Cửu Thiên Sứ Giả, Trữ Phó Chánh Chức Tá Mạng Đại Thần, Thiên Tiên Địa Tiên, Phi Tiên Thần Tiên, Vương Đồng Ngọc Nữ, cỡi mang binh ngựa, giáng xuống đàn cúng).” Hay như trong Thái Thượng Thần Chú Diên Thọ Diệu Kinh (太上神呪延壽妙經) cũng có đoạn: “Tam Hà Tứ Hải, Cửu Giang Bát Cực, chư chân nhân đẳng, Tiên Đồng Ngọc Nữ, Tam Giới Địa Kỳ, Tam Quan Cửu Thự, nhất thiết thần minh, văn trì thử kinh, tức vi tiêu trừ nhất thiết khổ não (三河四海、九江八極、諸眞人等、仙童玉女、三界地祇、三官九署、一切神明、聞持此經、卽爲消除一切苦惱, Ba Sông Bốn Biển, Chín Sông Tám Hướng, các vị chân nhân, Tiên Đồng Ngọc Nữ, Thổ Thần Ba Cõi, Ba Quan Chín Sảnh, hết thảy thần minh, nghe trì kinh này, tức được tiêu trừ hết thảy khổ ách).”
(s, p: saṃgha, 僧伽): gọi tắt là tăng; ý dịch là hòa (和), chúng (眾), hòa hợp (和合); cho nên còn được gọi là hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾, nghĩa là chúng tăng hòa hợp như một vị nước biển). Hoặc lấy Phạn ngữ cùng Hán ngữ hợp chung lại gọi là tăng lữ (僧侶). Ngoài ra, còn cách gọi khác như tăng gia (僧家), tăng ngũ (僧伍), v.v. Tăng là một trong ba ngôi báu, là người tín thọ giáo pháp của đức Như Lai, vâng theo đạo ấy, tinh cần tu tập, nhập vào dòng Thánh và chứng quả vị. Từ này cũng chỉ cho hàng Thánh đệ tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, theo học đạo của đức Phật, đầy đủ Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, an trú trong Tứ Hướng Tứ Quả; hoặc chỉ cho đoàn thể tín thọ Phật pháp, tu hành Phật đạo. Sau khi thành đạo, trước hết đức Phật đến vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), độ cho 5 anh em Kiều Trần Như (s: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 憍陳如) và đây được xem như khởi đầu hình thành Tăng Già. Luật sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường cho rằng muốn cấu thành Tăng Già phải có 2 điều kiện: (1) Lý hòa, tức tuân thủ giáo nghĩa Phật Giáo, lấy việc giải thoát Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) làm mục đích tối thượng. (2) Sự hòa, có 6 loại, tức Lục Hòa, gồm Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修), Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解), Thân Hòa Đồng Trụ (身和同住), Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均), Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍), Ý Hòa Đồng Duyệt (意和同悅). Ngoài ra, nguyên lai Tăng là tên gọi thông thường của Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼). Trung Quốc, Việt Nam, v.v., gọi Tỳ Kheo là Tăng, Tỳ Kheo Ni là Ni. Đặc biệt, Nhật Bản gọi tu sĩ nam là Tăng Lữ (僧侶, sōryo), tu sĩ nữ là Ni Tăng (尼僧, nisō). Sau này, ngoài hai chúng trên còn có Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerī, 沙彌尼) cũng được gọi là Tăng hay Ni. Tăng Già Tỳ Kheo và Tăng Già Tỳ Kheo Ni được gọi là hai bộ chúng. Hết thảy các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong bốn phương có tên gọi là Bốn Phương Tăng Già. Chư Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni hiện hữu trước mặt được gọi là Hiện Tiền Tăng Già. Hiện Tiền Tăng Già tất phải có từ 4 người trở lên, tập trung, hòa hợp, mới có thể thực hành pháp Yết Ma (羯磨), Bỉnh Pháp (秉法), v.v. Nếu dưới số lượng ấy, được gọi là quần, nhóm. Hơn nữa, do vì hình thức Yết Ma không giống nhau, nên số lượng chúng Tỳ Kheo cũng bất đồng. Theo Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 44, phần Chiêm Ba Kiền Độ (瞻波揵度) có nêu Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người, Tăng 20 người. Đối với Tăng 4 người, trừ Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 5 người, trừ thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 20 người thì có thể tác bất cứ pháp Yết Ma nào. Theo Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 30, phần Chiêm Ba Pháp (瞻波法), có nêu ra 5 loại tăng: (1) Vô tàm quy tăng (無慚愧僧), tức chỉ các Tỳ Kheo phá giới mà không biết xấu hổ; (2) Nhu dương tăng (羺羊僧), chỉ cho hạng Tỳ Kheo phàm phu căn tánh chậm lụt, không có trí tuệ, giống như đàn dê tụ tập mà chẳng biết gì cả; các Tỳ Kheo này cũng không biết Bố Tát, Yết Ma, thuyết giới, pháp hội, v.v.; (3) Biệt chúng tăng (別眾僧), tức là các Tỳ Kheo ở trong một phạm vi, mỗi nơi tác pháp Yết Ma riêng biệt, không đồng nhất; (4) Thanh tịnh tăng (清淨僧), tức chỉ cho các vị chuyên trì giới pháp thanh tịnh; (5) Chân thật tăng (眞實僧), chỉ cho các bậc Hữu Học và Vô Học. Riêng Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經, Taishō Vol. 3, No. 159) quyển 2 nêu ra 3 loại tăng của thế gian và xuất thế gian, gồm: (1) Bồ Tát Tăng (菩薩僧), như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), v.v.; (2) Thanh Văn Tăng (聲聞僧), như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連), v.v.; (3) Phàm phu tăng (凡夫僧). Trong Tứ Phần Luật Danh Nghĩa Tiêu Thích (四分律名義標釋, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 744) quyển 25, phần (襯體), có đoạn: “Phàm thị Tăng Già ngọa cụ, thọ dụng chi thời, bất đắc tùy nghi tương khinh tiểu Tọa Cụ, cập cấu nhị sơ bạc ố vật, nhi vi sấn thế, đắc ác tác tội (凡是僧伽臥具、受用之時、不得隨宜將輕小坐具、及垢膩疏薄惡物、而爲儭替、得惡作罪, phàm là vật trãi nằm của tăng, khi thọ dụng, không được tùy tiện lấy Tọa Cụ nhỏ nhẹ, và vật nhơ nhớp mỏng manh, mà đem cúng thay thế, [như vậy] mắc tội ác tác).” Hay trong bài tựa của Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (重治毗尼事義集要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 719) lại có đoạn: “Tỳ Ni Tạng giả, Phật pháp chi cương kỷ, Tăng Già chi mạng mạch, khổ hải chi tân lương, Niết Bàn chi yếu đạo dã (毗尼藏者、佛法之紀綱、僧伽之命脈、苦海之津梁、涅槃之要道也, Tạng Tỳ Ni là, cương kỷ của Phật pháp, mạng mạch của Tăng Già, cầu bắc qua biển khổ, đường chính của Niết Bàn vậy).”
(清虛大帝): một trong Tam Quan (三官), là Địa Quan Đại Đế (地官大帝), gọi đủ là Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Nhị Phẩm Thanh Hư Đại Đế (中元赦罪地官二品清虛大帝), Trung Nguyên Nhị Phẩm Xá Tội Địa Quan Thanh Hư Đại Đế (中元二品赦罪地官清虛大帝); lệ thuộc Thượng Thanh Cảnh (上清境). Địa Quan do khí nguyên động hỗn linh hòa với tinh màu vàng kết thành, chủ quản tất cả các cõi thần tiên của Ngũ Đế, Ngũ Nhạc. Ngày đản sanh của vị này là Rằm tháng Bảy. Vào ngày này, Địa Quan xuống nhân gian, chỉnh đốn tội phước và ân xá tội cho người; nên được gọi là Địa Quan Xá Tội (地官赦罪).
(天官): tên gọi của một trong ba vị Tam Quan Đại Đế (三官大帝), tức Thiên Quan Đại Đế (天官大帝), còn gọi là Thượng Nguyên Tứ Phước Thiên Quan Nhất Phẩm Tử Vi Đại Đế (上元賜福天官一品紫微大帝), và hai vị kia là Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Nhị Phẩm Thanh Hư Đại Đế (中元赦罪地官二品清虛大帝), Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế (下元解厄水官三品洞陰大帝). Từ thời Thượng Cổ, tại Trung Quốc đã có nghi lễ tế trời, đất và nước rồi. Ba vị Đại Đế này được thần cách hóa chỉ dưới Ngọc Hoàng Thượng Đế (玉皇上帝) một bậc, chuyên chưởng quản việc phước lộc, tội ác và giải trừ tai ách của con người. Trong dân gian vẫn truyền tụng rằng: “Thiên Quan hảo lạc, Địa Quan hảo nhân, Thủy Quan hảo đăng (天官好樂、地官好人、水官好燈, Thiên Quan thích vui, Địa Quan thích người, Thủy Quan thích đèn).” Thượng Nguyên (上元, rằm tháng giêng), Trung Nguyên (中元, rằm tháng bảy) và Hạ Nguyên (下元, rằm tháng mười) là ba ngày tế hội của ba vị Đại Đế này. Thiên Quan Đại Đế lệ thuộc vào Ngọc Thanh Cảnh (玉清境), do 3 khí xanh, vàng, trắng mà kết hợp thành, tổng chủ quản các đế vương trên trời. Mỗi năm vào ngày rằm tháng giêng, vị này thường giáng phàm xem xét tội phước của con người, nên có tên là Thiên Quan Tứ Phước (天官賜福, Quan Trời Ban Phước). Có nhiều truyền thuyết khác nhau liên quan đến vị này. Có thuyết cho rằng ông là Nghiêu Đế (堯帝); do vì nhà vua có lòng nhân lớn nên được phong làm Thiên Quan, phụng mạng Ngọc Hoàng Thượng Đế, xem xét việc tốt xấu của con người. Nghiêu Đế họ là Y Kì (伊祁), tên Phóng Huân (放勳), con vua Khốc (嚳), em của vua Chí (摰). Khi Chí lên ngôi vua thì phong cho Nghiêu là (陶侯), rồi đổi tên là Đường (唐); nên được gọi là Đào Đường (陶唐). Tương truyền Đường Nghiêu (唐堯) có dung mạo rất quái dị, lông mày có 8 sắc màu, tai có 3 lỗ thông. Khi vua Chí nhường ngôi cho Nghiêu thì bốn phương xuất hiện hung thần, ác khí, làm nguy hại đến tánh mạng của bá tánh. Nhà vua bèn sai Hậu Nghệ (后羿) đến hàng phục hung thần kia. Ông tóm thâu gió lớn nơi sông hồ, chém chết mãnh thú ven hồ Động Đình (洞庭), thâu tóm độc xà và làm cho dân chúng được yên ổn. Vua Nghiêu lại vẽ ra bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, chế định một năm có 12 tháng. Sau khi tại vị được 98 năm, vua Nghiêu truyền ngôi vị lại cho Thuấn (舜), hưởng thọ 177 tuổi; được tôn xưng là Thiên Quan Tứ Phước Thần (天官大帝賜福神). Trong Đạo Giáo tôn sùng ông là Thượng Nguyên Nhất Phẩm Tứ Phước Thiên Quan Đại Đế (上元一品賜福天官大帝). Thuyết khác cho rằng Thiên Quan là vị quan thường tâu những lời can gián lên nhà vua tên Đường Hoằng (唐宏) dưới thời Chu U Vương (周幽王, tại vị 781-771 tcn). Ông cùng với Cát Ung (葛雍), Chu Thật (周實) từ quan và sống cuộc đời vui thú điền viên. Đến thời Tống Chơn Tông (宋眞宗, tại vị 997-1022), cả ba được phong làm Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan và được tế tự hàng năm. Cũng có truyền thuyết giải thích rằng từ khi Trương Thiên Sư (張天師, 34-156, tức Trương Đạo Lục [張道陵], tự là Phụ Hán [輔漢], cháu đời thứ 8 của Trương Lương [張良], xuất thân Phong Huyện [豐縣], Tỉnh Giang Tô [江蘇省]) khai sáng Đạo Giáo về sau, dân gian mới bắt đầu biết cúng tế ba vị Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Ngoài ra, có thuyết lại cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái, đem gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người lại hạ sinh một người con, có bẩm tính khác thường. Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho 3 người này làm Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan và ra lệnh cho họ cai quản ba cõi. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Thiên Quan Bảo Cáo (天官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn: “Chí tâm quy mạng lễ: Huyền Đô Nguyên Dương, Tử Vi Cung trung, bộ Tam Thập Lục Tào, giai cửu thiên vạn chúng, khảo hiệu đại thiên thế giới chi nội, lục tịch thập phương quốc độ chi trung; phước bị vạn linh, chủ kiêm sanh thiện ác chi tịch; ân đàm Tam Giới, trí chư tiên thăng giáng chi ty, trừ vô vọng chi tai, giải thích túc ương, thoát sanh tử chi thú, cứu bạt u khổ, quần sanh thị lại, xuẩn động hàm khang, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Thượng Nguyên Cửu Khí, Tứ Phước Thiên Quan, Diệu Linh Nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân (志心皈命禮、玄都元陽、紫微宮中、部三十六曹、偕九千萬眾、考較大千世界之內、錄籍十方國土之中、福被萬靈、主兼生善惡之籍、恩覃三界、致諸仙升降之司、除無妄之災、解釋宿殃、脫生死之趣、救拔幽苦、群生是賴、蠢動咸康、大悲大願、太聖大慈、上元九氣、賜福天官、曜靈元陽大帝、紫微帝君, Một lòng quy mạng lễ: Huyền Đô Nguyên Dương, trong Tử Vi Cung, cai quản 36 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, giám sát trong khắp thế giới đại thiên, xét hồ sơ mười phương quốc độ, chủ quản hồ sơ thiện ác con người, phước nhuần vạn sinh, chủ kiểm soát hồ sơ thiện ác; ơn ban Ba Cõi, quản lý chư tiên lên xuống, trừ các tai họa, giải trừ oan khiên đời trước, thoát khỏi đường sanh tử, cứu bạt khổ ách, chúng sanh nương tựa, động vật đều yên, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Thượng Nguyên Cửu Khí, Tứ Phước Thiên Quan, Diệu Linh Nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân).”
(水官): tên gọi của một trong 3 vị của Tam Quan Đại Đế (三官大帝), tức Thủy Quan Đại Đế (水官大帝), Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế (下元解厄水官三品洞陰大帝), lệ thuộc Ngọc Thanh Cảnh (玉清境). Thủy Quan do khí của Phong Trạch (風澤) hòa với tinh của Thần Hạo (晨浩) mà thành, tổng chủ quản các vị thần tiên trong nước. Mỗi năm vào dịp rằm tháng 10, ông hạ phàm răn dạy tội phước, giải trừ các tai nạn, hạn ách cho con người. Có vài truyền thuyết về Thủy Quan Đại Đế như ông nguyên là vua Vũ (禹), nhờ có công lao trị thủy, nên được phong làm chức này. Vũ là con của vua Cổn (鯀), dưới thời vua Nghiêu (堯) trị thủy trong 9 năm trường mà vẫn không có kết quả, sau sai Vũ thay thế và trãi qua 13 năm thì thành công. Ông đặt quốc hiệu là Hạ (夏), vì vậy Trung Quốc có tên gọi khác là Hoa Hạ (華夏). Sau khi vua Vũ qua đời, Đạo Giáo tôn phụng ông là Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế; lấy Tiết Hạ Nguyên là ngày Vũ Đế giáng phàm giải ách cứu nạ cho muôn dân. Vì thế, ngày này còn được gọi là Tiêu Tai Nhật (消災日). Thuyết khác cho rằng Thủy Quan là Cát Ung (葛雍), một trong ba vị quan thường can gián nhà vua dưới thời Chu U Vương (周幽王). Họ từ quan, sống cuộc tự tại với thiên nhiên và sau được phong làm Tam Quan Đại Đế. Ngoài ra, có thuyết cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái đều gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người hạ sanh được một trai, bẩm tánh khác người; nhân đó, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho cả ba làm Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan, sắc mệnh chuyên cai quản Ba Cõi. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Thủy Quan Bảo Cáo (水官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn về Thủy Quan rằng: “Chí tâm quy mạng lễ: Dương Cốc Động Nguyên, Thanh Hoa Cung trung, bộ tứ thập nhị tào, giai cửu thiên vạn chúng, chưởng quản giang hà Thủy Đế, vạn linh chi sự, thủy tai đại hội kiếp số chi kỳ, Chỉ Nhất Pháp Vương, chưởng trường dạ tử hồn quỷ thần chi tịch, Vô Vi Giáo Chủ, lục chúng sanh công quá tội phước chi do, thượng giải thiên tai, độ nghiệp mãn chi linh, hạ tế u cục, phân nhân quỷ chi đạo, tồn vong giai thái, lực tế vô cùng, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Hạ Nguyên Ngũ Khí, Giải Ách Thủy Quan, Kim Linh Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân (志心皈命體、暘谷洞元、青華宮中、部四十二曹、偕九千萬眾、掌管江河水帝、萬靈之事、水災大會劫數之期、芷一法王、掌長夜死魂鬼神之籍、無為敎主、錄眾生功過罪福之由、上解天災、度業滿之靈、下濟幽扃、分人鬼之道、存亡皆泰、力濟無窮、大悲大願、大聖大慈、下元五氣、解厄水官、金靈洞陰大帝、暘谷帝君, Một lòng quy mạng lễ: Dương Cốc Động Nguyên, trong Thanh Hoa Cung, cai quản 42 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, Thủy Đế chưởng quản sông hồ, mọi chuyện của muôn loài, khi có tai họa về nước, kiếp số đến kỳ; Chỉ Nhất Pháp Vương, quản lý hồ sơ hồn chết đêm dài của quỷ thần; Vô Vi Giáo Chủ, phán công quá tội phước của chúng sanh; trên giải trừ thiên tai, độ các linh hồn hết nghiệp; dưới cứu đường tối tăm, chia rõ đường quỷ và người, người còn kẻ mất được an thái, sức tế độ vô cùng, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Hạ Nguyên Ngũ Khí, Giải Ách Thủy Quan, Kim Linh Động Âm Đại Đế, Dương Cốc Đế Quân).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập