Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Quy luật của cuộc sống là luôn thay đổi. Những ai chỉ mãi nhìn về quá khứ hay bám víu vào hiện tại chắc chắn sẽ bỏ lỡ tương lai. (Change is the law of life. And those who look only to the past or present are certain to miss the future.)John F. Kennedy
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Điệp »»
(安然, Annen, 841-915?): học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, húy là An Nhiên (安然), thông xưng là Ngũ Đại Viện A Xà Lê (五大院阿闍梨), Bí Mật Đại Sư (秘密大師); hiệu là Phước Tập Kim Cang (福集金剛), Chơn Như Kim Cang (眞如金剛); thụy hiệu là A Giác Đại Sư (阿覺大師); xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Hồi còn nhỏ, ông theo hầu Viên Nhân (圓仁, Ennin), rồi đến năm 859 thì thọ Bồ Tát giới với vị này. Sau khi Viên Nhân qua đời, ông theo hầu Biến Chiếu (遍照, Henjō) và chuyên tâm nghiên cứu về Mật Giáo cũng như Hiển Giáo. Năm 877, ông nhận được điệp phù cho sang nhà Đường cầu pháp, nhưng việc ông có lên thuyền đi hay không thì có nhiều thuyết khác nhau. Cùng năm đó, ông được trao truyền cho các sở học về Tất Đàm, Kim Cang Giới của Viên Nhân từ Đạo Hải (道海, Dōkai) và Trường Ý (長意, Chōi). Vào năm 984, ông lại được Biến Chiếu trao truyền cho Thai Tạng (胎藏) cũng như Kim Cang Giới Thọ Vị Quán Đảnh (金剛界授位灌頂), và trở thành Tam Bộ Đô Pháp Truyền Pháp Đại A Xà Lê (三部都法傳法大阿闍梨). Ông dựng nên Ngũ Đại Viện (五大院) ở trên Tỷ Duệ Sơn và sống ở đây chuyên tâm nghiên cứu cũng như trước tác, nên ông được gọi là bậc tiên đức của Ngũ Đại Viện. Trước tác của ông có Bắc Lãnh Giáo Thời Vấn Đáp Sao (北嶺敎時問答抄), Bồ Đề Tâm Nghĩa Lược Vấn Đáp Sao (菩提心義略問答抄), Phổ Thông Thọ Bồ Tát Giới Nghi Quảng Thích (普通授菩薩戒儀廣釋), Bát Gia Bí Lục (八家秘錄), Thai Kim Tô Đối Thọ Ký (胎金蘇對受記), Giáo Thời Tránh Luận (敎時諍論), v.v., tổng cọng hơn 100 bộ. Trong khi đó, theo truyền thuyết về An Nhiên thì đương thời cũng có một nhân vật cùng tên với ông, nhưng người đó đến giữa đời bần cùng đói mà chết. An Nhiên kế thừa Viên Nhân và Viên Trân (圓珍, Enchin), tuyên dương giáo chỉ Viên Mật Nhất Trí của Thiên Thai Tông Nhật Bản, lập nên Giáo Tướng Phán Thích (敎相判釋) của Ngũ Thời Ngũ Giáo (五時五敎) và làm cho Mật Giáo hưng long tột đỉnh.
(玄機): có hai nghĩa khác nhau. (1) Ý trời, thiên cơ. Như trong Trần Thư (陳書), chương Cao Tổ Kỷ Hạ (高祖紀下), có câu: “Cao Tổ nãi đạo huyền cơ nhi phủ mạt vận (高祖乃蹈玄機而撫末運, vua Cao Tổ bèn theo ý trời mà an ủi mạt vận).” Hay trong hồi thứ nhất của Hồng Lâu Mộng (紅樓夢) cũng có câu: “Thử nãi huyền cơ, bất khả dự tiết (此乃玄機、不可預泄, thiên cơ thế này, không thể tiết lộ).” (2) Nghĩa lý vi diệu, thâm áo. Như trong bài thứ 3 của Đạo Gia Tứ Thủ Phụng Sắc Soạn (道家四首奉敕撰) do Trương Thuyết (張說, 667-730) nhà Đường sáng tác có câu: “Kim lô thừa đạo quyết, ngọc điệp khải huyền cơ (金爐承道訣、玉牒啟玄機, lò vàng vâng bí quyết, điệp ngọc mở lý mầu).” Hay trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 18, phần Đối Cơ Môn (對機門), Hàng Châu Phật Nhật Sơn Trí Tài Thiền Sư Pháp Từ (杭州佛日山智才禪師法嗣), lại có đoạn: “Bất tu biện vọng cầu chơn, bất dụng tị huyên thủ tĩnh, nhân nhân cảo nhật đương không, xứ xứ huyền cơ độc hồi (不須辨妄求眞、不用避喧取靜、人人杲日當空、處處玄機獨迴, chẳng nên bỏ vọng tìm chân, không cần lánh ồn lấy tĩnh, người người trời sáng trên không, chốn chốn huyền cơ hiện rõ).” Hoặc trong bài tựa của Tiêu Thích Kim Cang Kinh Khoa Nghi Hội Yếu Chú Giải (銷釋金剛經科儀會要註解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 24, No. 467) quyển 1, cũng có câu: “Toát huyền cơ ư chưởng ác, phát diệu nghĩa ư ngôn tiền (撮玄機於掌握、發妙義於言前, nắm huyền cơ nơi bàn tay, phát diệu nghĩa nơi lời nói).”
(玄文): có mấy nghĩa khác nhau.
(1) Chỉ cho loại hoa văn có màu đen huyền. Như trong Sở Từ (楚辭), chương 9, phần Hoài Sa (懷沙) có câu: “Huyền văn xử u hề, mông tẩu vị chi bất chương (玄文處幽兮、矇瞍謂之不章, hoa văn đen chỗ tối chừ, mắt mờ bảo chẳng thấy rõ).” Nhà ngôn ngữ học Khương Lượng Phu (姜亮夫, 1902-1995) chú thích rằng: “Huyền văn, hắc văn dã (玄文、黑文也, huyền văn là hoa văn màu đen).”
(2) Chỉ cho chiếu lịnh hay Thánh chỉ của triều đình. Như trong bài Tiêu Bái Thái Úy Dương Châu Mục Biểu (蕭拜太尉揚州牧表) của Giang Yêm (江淹, 444-505) nhà Lương thời Nam Triều có câu: “Huyền văn ký giáng, điêu điệp tăng huy (玄文旣降,雕牒增輝, chiếu chỉ ban xuống, điệp khắc rạng ngời).”
(3) Chỉ cho văn từ thâm áo. Như trong bài Vị Long Tuyền Tự Mộ Tạo Tàng Kinh Lâu Khải (爲龍泉寺募造藏經樓啟) của Củng Tự Trân (龔自珍, 1792-1841) nhà Thanh có đoạn rằng: “Minh chi sĩ đại phu, tịch thừa bình chi thanh hà, vãng vãng thám bí điển, vấn huyền văn, Chi Na thạnh hữu thuật tác (明之士大夫、席承平之清暇、往往探祕典、問玄文、支那盛有述作, các nhà sĩ đại phu nhà Minh, nhân những lúc nhàn rỗi thời thái bình, học hỏi văn từ thâm áo, nên Trung Hoa có rất nhiều trước tác).” Trong Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán (修華嚴奧旨妄盡還源觀, Taishō Vol. 45, No. 1876) có đoạn: “Bị Tam Tạng chi huyền văn, bằng Ngũ Thừa chi diệu chỉ, phồn từ tất tước, khuyết nghĩa phục toàn (備三藏之玄文、憑五乘之妙旨、繁辭必削、缺義復全, đủ Ba Tạng ấy huyền văn, nương Năm Thừa ý diệu, từ nhiều bỏ bớt, nghĩa thiếu lại tròn).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 2 cũng có đoạn rằng: “Đại Giác di ngôn, quần sanh pháp lạc, thậm thâm áo nghĩa, bí mật huyền văn, Long Vương kính nhi hải tạng thu, Đế Thích khâm nhi thiên thần phủng (大覺遺言、群生法樂、甚深奧義、秘密玄文、龍王敬而海藏收、帝釋欽而天神捧, đấng Đại Giác dặn dò, chúng sanh hưởng pháp lạc, thâm sâu áo nghĩa, bí mật huyền văn, Long Vương kính trọng mà biển cả thu giữ, Đế Thích khâm phục mà thiên thần trân trọng).”
(靈山): tiếng gọi tắt của Linh Thứu Sơn (靈鷲山), hay còn gọi là Thứu Phong (鷲峰), Thứu Lãnh (鷲嶺), tiếng phiên âm của nguyên ngữ Sanskrit là Kỳ Xà Quật Sơn (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山), tên ngọn núi nằm ở phía Đông Bắc Thành Vương Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), hiện tại nằm ở phía Đông Rajgir của Ấn Độ. Đây là một trong những thánh địa của Phật Giáo, là nơi đức Phật đã từng thuyết pháp; cho nên người ta cho rằng phần lớn các kinh điển Đại Thừa như Pháp Hoa, Bát Nhã, Đại Bảo Tích, Vô Lượng Thọ, v.v., và cũng như câu chuyện Niêm Hoa Vi Tiếu của Thiền Tông đều phát xuất từ đây. Trong bộ Long Hưng Phật Giáo Biên Niên Thông Luận (隆興佛敎編年通論) quyển 12 do Thạch Thất Sa Môn Tổ Tú (石室沙門祖琇) ở Phủ Long Hưng (隆興府) soạn, có đoạn: “Huyền Trang … sưu dương Tam Tạng tận Long Cung chi sở trữ, nghiên cứu Nhất Thừa cùng Thứu Lãnh chi di chỉ, tinh dĩ tải ư Bạch Mã hoàn hiến Tử Thần, tầm mông hạ chiếu sắc sứ phiên dịch (玄奘…搜揚三藏盡龍宮之所儲、研究一乘窮鷲嶺之遺旨、並已載於白馬還獻紫宸、尋蒙下詔敕使翻譯, Huyền Trang … tìm tòi Tam Tạng kinh điển tận chốn Long Cung tàng trữ, nghiên cứu giáo lý Nhất Thừa soi rõ yếu chỉ của Thứu Lãnh, cùng bỏ lên Bạch Mã mang về dâng Hoàng triều, mong trên hạ chiếu cho người phiên dịch).” Trong bài thơ Linh Ẩn Tự (靈隱寺) của thi sĩ Tống Chi Vấn (宋之問, khoảng 656-712) đầu thời nhà Đường có câu trứ danh là: “Thứu Lãnh uất thiều nghiêu, Long Cung tỏa tịch liêu, lâu quán thương hải nhật, môn đối Triết Giang triều, quế tử nguyệt trung lạc, thiên hương vân ngoại phiêu (鷲嶺鬱岧嶢、龍宮鎖寂寥、樓觀滄海日、門對浙江潮、桂子月中落、天香雲外飄, Thứu Lãnh rậm vút cao, Long Cung mờ tịch liêu, trên lầu biển xanh ngắm, cửa tựa Triết Giang triều, hàng quế trăng thầm rụng, hương trời mây trắng bay).” Hoặc trong bài Hòa Vương Ký Thất Tùng Triệu Vương Xuân Nhật Du Đà Sơn Tự (和王記室從趙王春日遊陀山寺) của Lạc Tân Vương (駱賓王, khoảng 619-687) nhà Đường cũng có câu: “Điểu dư bồi phỏng đạo, Thứu Lãnh hiệp thê chơn, Tứ Thiền minh tĩnh nghiệp, Tam Không quảng thắng nhân, tường hà sơ điệp giản, huệ nhật kiểu trùng luân, diệp ám Long Cung mật, hoa minh Lộc Uyển xuân (鳥旟陪訪道、鷲嶺狎棲眞、四禪明靜業、三空廣勝因、祥河疏疊澗、慧日皎重輪、葉暗龍宮密、花明鹿苑春, cờ xí lên vấn đạo, Thứu Lãnh dưỡng nuôi chơn, Bốn Thiền sáng nghiệp lắng, Ba Không rõ duyên nhân, sông từ trong khe mát, trời tuệ tỏ thế nhân, lá che Long Cung thẳm, hoa tươi Lộc Uyển xuân).”
(六供): Theo Đinh Phúc Bảo Phật Học Đại Từ Điển (丁福保佛學大詞典), căn cứ vào Tăng Đường Thanh Quy (僧堂清規) 3 do Diện Sơn Thụy Phương (面山瑞方, Menzan Zuihō, 1683-1769), tăng sĩ Tào Động Tông của Nhật Bản soạn, Lục Cúng là 6 phẩm vật dâng cúng lên chư Phật của Thiền lâm; gồm (1) hoa (華), (2) hương lô (香爐, lò hương), (3) chúc (燭, đèn nến), (4) thang (湯, nước nóng), (5) quả (果) và (6) trà (茶). Đối với Mật Tông, Lục Cúng cũng là pháp tu cúng dường căn bản, gồm (1) hoa (花), (2) linh (鈴), (3) thiêu hương (燒香, hương đốt), (4) phạn thực (飯食, thức ăn), (5) đồ hương (塗香, hương xoa), và (6) đăng minh (燈明, đèn). Sáu vật cúng này tượng trưng cho Sáu Trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp. Sáu vật này còn biểu tượng cho Lục Độ (s: ṣaḍ-pāramitā, ṣaṭ-pāramitā, 六度), tức Lục Độ Ba La Mật (六度波羅蜜), gồm Bố Thí Ba La Mật (s, p: dāna-pāramitā, 布施波羅蜜), Trì Giới Ba La Mật (s: śīla-pāramitā, p: sīla-pāramitā, 持戒波羅蜜), Nhẫn Nhục Ba La Mật (s: kṣānti-pāramitā, p: khantī-pāramitā, 忍辱波羅蜜), Tinh Tấn Ba La Mật (s: vīrya-pāramitā, p: virya-pāramitā, 精進波羅蜜), Thiền Định Ba La Mật (s: dhyāna-pāramitā, p: jhāna-pāramitā, 禪定波羅蜜) và Trí Tuệ Ba La Mật (s: prajñā-pāramitā, p: paññā-pāramitā, 智慧波羅蜜). Theo bài tán “Nhân duyên tự tánh sở xuất sanh, sở hữu chủng chủng vi diệu, hoa hương đăng đồ quả nhạc, phụng hiến Thượng Sư Tam Bảo tôn, duy nguyện từ bi ai nạp thọ (因緣自性所出生、所有種種微妙、華香燈塗果樂、上獻上師三寶尊、惟願慈悲納受, nhân duyên tự tánh vốn sanh ra, vốn có các thứ mầu nhiệm, hoa hương đèn dầu quả nhạc, dâng cúng Thượng Sư Tam Bảo trên, cúi xin từ bi thương thọ nhận)” vốn thường được dùng trong các buổi lễ Cúng Ngọ hay trong đàn Lục Cúng Hoa Đăng (六供華燈), được tìm thấy trong Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080), Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Hạ, Du Già Diệm Khẩu Chú Tập Toản Yếu Nghi Quỹ (瑜伽燄口註集纂要儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1084) quyển Hạ, v.v.; Lục Cúng ở đây là hoa, hương, đèn, dầu, quả và âm nhạc. Như vậy, cho dầu định nghĩa về Lục Cúng có khác nhau đi chăng nữa, một số vật dâng cúng quan trọng không thể thiếu được như hoa quả, thức ăn, nước uống, đèn, hương, v.v. Như Mật Giáo giải thích về ý nghĩa và tầm quan trọng của 5 loại vật dâng cúng như sau:
(1) Hoa là tâm của chư Phật; khi hoa khai mở thì tượng trưng cho vạn đức mật vận (萬德密運, muôn đức âm thầm chuyển vận), là công đức viên mãn của chư Phật. Lấy hoa dâng cúng chư Phật tức là làm cho trang nghiêm tâm của chính mình.
(2) Hương là một loại thể giới tánh. Dùng hương dâng cúng các đấng Như Lai có nghĩa là trang nghiêm Giới Thể (戒體) của chính mình. Sự trang nghiêm của ngoại tướng kết hợp với sự trang nghiêm của nội tướng, hợp nhất thành trang nghiêm Năm Phần Pháp Thân.
(3) Đèn là ánh sáng chiếu soi của chư Phật, tức chính là trí tuệ nội tâm. Lấy hết thảy ánh sáng mà dâng cúng lên các đấng Như Lai thì sẽ được ánh sáng chiếu rọi khắp, ánh sáng cùng giao nhau, chiếu tận đến bờ bên kia của trí tuệ và hiển hiện công đức trang nghiêm của trí tuệ nội tâm.
(4) Trà bản nguyên là loại nước thanh tịnh, biểu thị cho Pháp Tánh (法性). Lấy trà dâng cúng Phật, tức là mười phương các đức Như Lai ứng hóa vào thân ta, dùng loại “nước thanh tịnh của Pháp Tánh” để trước rửa sạch khí bất tịnh của tự thân, biến thành Pháp Tánh Thân (法性身), Vô Cấu Thân (無垢身, thân không dơ bẩn) và trở thành trang nghiêm Pháp Tánh.
(5) Quả tượng trưng cho thức ăn, lấy sự viên mãn to lớn của thức ăn vi diệu biểu thị cho một loại viên thành. Loại Thiền ý có vị thù thắng như vậy, có nghĩa lý vô cùng thâm sâu; cho nên dâng cúng thức ăn và quy y chư Phật thì sẽ có được thiện quả, tượng trưng cho sự viên thành pháp vị. Đó là một loại “quả công đức trang nghiêm nội tâm.”
Trong Niệm Tụng Kết Hộ Pháp Phổ Thông Chư Bộ (念誦結護法普通諸部, Taishō Vol. 18, No. 904) có nêu một số câu thần chú khi dâng cúng các phẩm vật. Như Chơn Ngôn dùng cho hương đốt là: “Án bạt chiết la đỗ bệ a (唵跋折羅杜鞞阿).” Chơn Ngôn dùng cho rãi hoa là: “Án bạt chiết la bổ sắt bệ án (唵跋折羅補瑟鞞唵).” Chơn Ngôn dâng cúng đèn là: “Án bạt chiết la lô kế nễ (唵跋折羅盧計你).” Chơn Ngôn cho hương xoa là: “Án bạt chiết la kiền đề già (唵跋折羅犍提伽).” Trong Thánh Hạ Dã Hột Lí Phược Đại Uy Nỗ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm Cúng Dường Niệm Tụng Nghi Quỹ Pháp Phẩm (聖賀野紇哩縛大威怒王立成大神驗供養念誦儀軌法品, Taishō Vol. 20, No. 1072A) có đoạn rằng: “Mỗi nhật thủ chủng chủng thời hoa tán đàn thượng, thiêu hương đồ hương đăng minh ẩm thực cập quả tử, gia trì phân bố tứ biên cúng dường, tùy lực sở biện trần thiết trang nghiêm, mỗi nhập đạo tràng kiền thành tác lễ, phát lộ sám hối tùy hỷ khuyến thỉnh hồi hướng phát nguyện (每日取種種時花散壇上、燒香塗香燈明飲食及果子、加持分布四邊供養、隨力所辦陳設莊嚴、每入道塲虔誠作禮、發露懺悔隨喜勸請迴向發願, mỗi ngày lấy các thứ hoa hiện thời rãi trên đàn, hương đốt, hương xoa, đèn sáng, thức ăn uống và bánh kẹo, gia trì phân chia bốn phía cúng dường, tùy sức bày biện, thiết trí trang nghiêm, mỗi khi vào đạo tràng thì chí thành đảnh lễ, phát lộ sám hối, tùy hỷ cung thỉnh, hồi hướng và phát nguyện).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Đại Trai Phổ Lợi Đạo Tràng Tánh Tướng Thông Luận (法界聖凡水陸大齋普利道塲性相通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1498) quyển 4 có nêu rõ 6 loại điệp cho Lục Cúng là: “Lục cúng điệp, hương nhất, hoa nhất, quả nhất, đồ nhất, tiểu thực nhất, pháp bảo nhất (六供牒、香一、華一、果一、塗一、小食一、法寶一, sáu loại điệp dâng cúng gồm hương một tờ, hoa một tờ, quả một tờ, đồ thoa một tờ, thức ăn một tờ, pháp bảo một tờ).” Trong Ư Mật Sấm Thí Thực Chỉ Khái (於密滲施食旨槩, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1082) lại có đoạn rằng: “Nhiên chư Phật tức ngã Hóa Thân, cố Quan Âm, phóng quang dĩ thỉnh chư Phật dã, Phật chí tắc thân Lục Cúng dĩ cúng dường chi, thử Phổ Hiền hạnh dã (然諸佛卽我化身、故觀音、放光以請諸佛也、佛至則伸六供以供養之、此普賢行也, như vậy chư Phật là Hóa Thân của ta, cho nên đức Quan Âm phóng hào quang để thỉnh chư Phật; khi Phật đến thì bày sáu món cúng mà cúng dường Ngài, đây là hạnh của đức Phổ Hiền).” Đàn Lục Cúng trong lòng văn Sớ nêu trên là Lục Cúng Hoa Đăng (六供華燈), một trong bộ ba của nghi thức Chạy Đàn: Lục Cúng, Khai Tịch và Bạt Độ (hay Chẩn Tế). Múa Lục Cúng Hoa Đăng là một điệu múa cổ xưa của Phật Giáo do các vị sư Ấn Độ truyền vào Việt Nam. Sau khi du nhập vào xứ Đàng Trong tại Thuận Hóa-Phú Xuân, được các vị Tổ sư trong chốn Thiền môn xứ Huế tiếp thu và phát triển lên đến đỉnh cao nghệ thuật, điệu múa Lục Cúng Hoa Đăng từ đó trở thành là một loại hình âm nhạc đặc thù của Phật Giáo xứ Huế. Điệu múa này được diễn múa theo sáu lần dâng cúng; tương ứng với mỗi lần cúng là một lễ vật cúng dường lên đức Phật gồm: hoa, hương, đèn, trà, quả, nhạc. Vì vậy môi trường diễn xướng của điệu múa này luôn được trình diễn trong những hoàn cảnh đặc biệt như lễ An Vị Phật, lễ Lạc Thành Chùa hay lễ hội, vía Phật. Hình thức này cũng được thể hiện với ý nghĩa nguyện cầu cho những người đã khuất giải thoát oan khiên trong các trai đàn Chẩn Tế, Giải Oan Bạt Độ, v.v. Do đó, điệu múa Lục Cúng Hoa Đăng tồn tại với thời gian theo sự phát triển của văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Đến thời vua Minh Mạng (1820-1840), Lục Cúng Hoa Đăng đã được tiếp thu và cải biên thành một loại hình âm nhạc cung đình, trở thành một điệu múa đặc sắc được lưu truyền cho đến ngày nay. Trong quá trình tiến hành Lục Cúng Hoa Đăng, có một số bài tán theo các điệu tán cổ xưa trong kho tàng âm nhạc Phật Giáo như tán trạo, tán rơi, tán xấp và có cả Thài—một điệu tán rất cổ xưa—để dâng cúng trong nghi lễ cúng Phật cũng như chư Tổ, như bài Nhân Duyên ở trên, hay bài La Liệt (羅列) được đề cập trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Hạ: “La liệt hương hoa kiến bảo đàn, trùng trùng Phật cảnh nhất hào đoan, tâm dung diệu lí hư không tiểu, đạo khế chơn như pháp giới khoan, tướng hảo từ bi thu nguyệt mãn, hóa thân đằng xứ mộ vân phiền, hương yên đôi lí chiêm ứng hiện, vạn tượng sum la hải ấn hàm (羅列香花建寶壇、重重佛境一毫端、心融妙理虛空小、道契眞如法界寬、相好慈悲秋月滿、化身騰處暮雲繁、香煙堆裏瞻應現、萬象森羅海印含, la liệt hương hoa lập báu đàn, hàng hàng cảnh Phật sợi lông bằng, tâm thâu lí mầu hư không nhỏ, đạo hợp chơn như pháp giới tròn, tướng tốt từ bi trăng thu rọi, hóa thân khắp chốn mây chiều tan, trong làn mây khói chư Phật hiện, vạn pháp bao la biển trí hàm).” Hoặc bài Phật [Phù] Diện (佛面) được tìm thấy trong Du Già Tập Yếu Thí Thực Nghi Quỹ (瑜伽集要施食儀軌, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1080), Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển Thượng, Du Già Diệm Khẩu Chú Tập Toản Yếu Nghi Quỹ (瑜伽燄口註集纂要儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1084) quyển Thượng, v.v.: “Phật diện do như tịnh mãn nguyệt, diệc như thiên nhật phóng quang minh, viên quang phổ chiếu ư thập phương, hỷ xả từ bi giai cụ túc (佛面猶如淨滿月、亦如千日放光明、圓光普照於十方、喜捨慈悲皆具足, mặt Phật giống như trăng tròn lắng, cũng như ngàn trời tỏa hào quang, ánh sáng chiếu khắp cõi mười phương, hỷ xả từ bi thảy đầy đủ)”, v.v.
(判官): còn gọi Quỷ Phán Quan (鬼判官). Trong Thập Điện Diêm La (十殿閻羅), ở hai bên của vua Diêm La tại mỗi điện đều có một vị Phán Quan phụ tá xử lý phiên tra công việc các vong hồn và chịu trách nhiệm thẩm tra các u hồn được dẫn đến Minh Phủ. Phán Quan có thể phân làm 4 loại: Thưởng Thiện Ty (賞善司), Phạt Ác Ty (罰惡司), Tra Sát Ty (查察司) và Thôi Phán Quan (崔判官). Ba tên đầu là chức danh, chỉ có chức cuối cùng thì thấy xuất hiện nhiều trong các thư tịch. Như trong Tây Du Ký (西遊記) cũng như truyền thuyết của các địa phương thường hay có tên vị này. Tương truyền Thôi Phán Quan tên là Giác (玨), người sống dưới thời Tùy Đường. Vào năm 633 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 7) nhà Đường, ông ra làm quan Huyện Lịnh Trường Tử (長子), Lộ Châu (潞州). Có thuyết cho rằng ông “ban ngày quản lý việc dương gian, tối xét xử các oan hồn dưới Âm Phủ, sai khiến người và quỷ, có năng lực như thần minh.” Trong dân gian có nhiều truyền thuyết về việc xử án của Thôi Giác (崔玨); trong đó có vụ án làm sáng tỏ con hổ làm thương tổn người được lưu truyền rộng rãi nhất. Truyền thuyết kể rằng nơi giáp giới phía tây nam Huyện Trường Tử và sông Thấm (沁) có một dãy núi lớn, tên là Điêu Hoàng Lãnh (雕黃嶺); xưa kia nơi đó thường có thú dữ xuất hiện. Một hôm, có chàng tiều phu lên núi đốn củi, không may bị con mãnh hổ ăn thịt. Người mẹ góa chồng hay tin đau lòng không muốn sống nữa, bèn lên Huyện đường kêu oan. Thôi Giác tức khắc phát lịnh bài, sai lính dịch Mạnh Hiến (孟憲) cầm điệp phù lên núi bắt cọp. Hiến lấy điệp phù ra đọc tụng trước Miếu Sơn Thần và dâng cúng trước án thần; khi ấy có một con cọp từ sau miếu lủi trốn ra. Hiến bèn dùng linh phù bắt con cọp dẫn về Huyện đường. Thôi Giác tức thì thăng đường, liệt kê tội phạm do con hổ gây ra từ trước đến nay; khi nghe mỗi tội như vậy, con hổ đều cúi đầu nhận chịu. Cuối cùng, ông phán quyết rằng: “Ăn thịt mạng người, tội không thể tha.” Con hổ nghe vậy đập đầu vào bậc cấp mà chết. Sau khi Thôi Giác qua đời, bá tánh đều lập miếu thờ ông ở khắp nơi. Tuy nhiên, cũng có thuyết nêu lên tên 4 vị phán quan có tên gọi hơi khác là: Chưởng Hình Phán Quán (掌刑判官, coi về hình phạt), Chưởng Thiện Bộ Phán Quan (掌善簿判官, coi về hồ sơ việc thiện), Chưởng Ác Bộ Phán Quan (掌惡簿判官, coi về hồ sơ việc ác) và Chưởng Sanh Tử Bộ Phán Quan (掌生死簿判官, coi về hồ sơ sống chết); trong đó vị cuối cùng là thủ lãnh tất cả. Tương truyền vị danh thần nhà Tống là Bao Thanh Thiên (包青天) cũng đã từng làm việc dưới Âm Phủ, có tên là Trương Bảo (張保), chuyên giám sát những người vượt ngục, trông coi hồ sơ sanh tử của con người và tuyên phạt những cực hình. Hình tượng các vị Phán Quan thường được tạc có đội mũ mềm trên đầu, mang cân đai, chân mang đôi hài mũi đen, trừng con mắt sáng quắt, tay trái cầm sổ thiệc ác, tay phải cầm cây bút sanh tử. Như vậy Quỷ Phán Quan là vị Phán Quan cõi Âm Phủ vốn có trong truyền thống văn hóa của Trung Quốc. Vì vậy, thế gian vẫn thường xưng tụng ông rằng: “Quân mạo tranh nanh, quân tâm công chánh, thanh lâm hắc tắc, duy quân sở mạng (君貌猙獰、君心公正、青林黑塞、唯君所命, Tướng người hung tợn, tâm người công chánh, rừng xanh chốn tối, chỉ người quản hạt).”
(神京): (1) Đế đô, thủ đô. Như trong bài Phụng Hòa Biệt Việt Vương (奉和別越王) của Trương Đại An (張大安, ?-?) nhà Đường có câu: “Lệ nhật khai phương điện, giai khí tích thần kinh (麗日開芳甸、佳氣積神京, trời đẹp bày thơm cõi, khí tốt tụ kinh đô).” Hay trong bài Tiểu Trùng Sơn (小重山) của Hòa Ngưng (和凝, 898-955) thời Ngũ Đại có đoạn: “Xuân nhập thần kinh vạn mộc phương, cấm lâm oanh ngữ hoạt, điệp phi cuồng (春入神京萬木芳、禁林鶯語滑、蝶飛狂, xuân đến đế đô cây cỏ thơm, vườn cấm oanh líu lo, bướm bay rối rít).” Trong bài Võ Xương Khởi Nghĩa Chơn Sử (武昌起義真史) của Tào Á Bá (曹亞伯, 1875-1937) cũng có câu: “Bỉnh nhĩ bạch mao, báo nhĩ tiên đức, trùng tân Cửu Đỉnh, tái điện thần kinh (秉爾白茅、報爾先德、重新九鼎、再奠神京, giữ vững ý chí người, báo đáp đức lớn người, trùng tu mới Cửu Đỉnh, tái thiết chốn thần kinh).” (2) Giống như tiên cảnh, kinh đô của tiên nữ. Như trong Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籤) quyển 42 có đoạn: “Chiêu chơn hạ lưu, quán ngã ngọc sương, vũ quần phân phân, y ngã tiên thường, việt quá thủy hỏa, phi đăng thần kinh (招眞下流、灌我玉霜、羽裙紛紛、衣我仙裳、越過水火、飛登神京, mời Chơn Quân xuống dòng, rưới sương ngọc ta, quần long phấp phới, mặc áo tiên ta, vượt qua nước lửa, bay lên tiên cảnh).”
có tên gọi khác như Mộ Xuân (暮春), Mạt Xuân (末春), Quý Xuân (季春), Vãn Xuân (晚春), Diểu Xuân (杪春), Khiết Xuân (褉春), Tàm Nguyệt (蠶月), Hoa Nguyệt (花月), Đồng Nguyệt (桐月), Đào Nguyệt (桃月), Quái Nguyệt (夬月), Gia Nguyệt (嘉月), Thần Nguyệt (辰月), Đạo Nguyệt (稻月), Anh Duẩn Nguyệt (櫻筍月), Cô Tẩy (姑洗), Đào Lãng (桃浪), Vu Phong (雩風), Ngũ Dương Nguyệt (五陽月), Đào Quý Nguyệt (桃季月), Hoa Phi Nguyệt (花飛月), Tiểu Thanh Minh (小清明), Trúc Thu (竹秋), Phu Nguyệt (夫月), Mộ Nguyệt (暮月), Thần Nguyệt (辰月), Oa Nguyệt (窩月), Tú Nguyệt (宿月), Thương Nguyệt (商月), Anh Nguyệt (莫月), Linh Nguyệt (靈月), Vân Nguyệt (雲月). Một số câu hay cho tháng Ba như phụng tình hoa tín (鳳情花信, phụng quyến luyến tin tức hoa nở), vũ trạc xuân trần (雨濯春塵, mưa tẩy sạch bụi Xuân), bình tinh điểm lục (萍星點綠, bèo trôi điểm màu xanh), đào vũ phiên hồng (桃雨翻紅, mưa Đào phất phơ màu hồng), tuế hàn linh tiết (歲寒令節, năm rét tiết khó), cấm hỏa lương thần (禁火良辰, cấm lửa dịp tốt). Một số từ dùng cho Tiết Thanh Minh như liễu yên ngưng thoại (柳煙凝瑞, khói liễu đọng điềm lành), lan bội nghênh hy (蘭佩迎禧, ngọc đeo đón điều tốt), xuân thâm bích hải (春深碧海, Xuân sâu thẳm như biển xanh), hoa mãn thiên trì (花滿天池, hoa đầy khắp hồ Trời), phong hoa chánh tú (風花正秀, hoa gió rực rỡ), đồng quan du xuân (童冠遊春, trẻ đội mũ đi chơi Xuân), Lê hoa lạc viện (梨花落院, hoa Lê rơi rụng nơi tòa viện), liễu nhứ phi tường (柳絮飛牆, tơ liễu bay qua tường). Các từ dùng cho tháng Ba nhuận như Tam Xuân nghi cửu (三春宜久, ba tháng mùa Xuân vẫn còn lâu), nhuận quy trừ tận (潤歸除盡, ẩm ướt về dứt sạch). Từ ngữ dùng cho truy điệu vào tháng này là oanh đề hoa lão (鶯啼花老, oanh khóc hoa già cỗi), điệp trướng xuân tàn (蝶悵春殘, bướm buồn Xuân tàn tạ).
(聖冏, Shogei, 1341-1420): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống khoảng vào giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, vị Tổ thời Trung Hưng của Dòng Trấn Tây (鎭西流); húy là Thánh Quynh (聖冏), thông xưng là Tam Nhật Nguyệt Thượng Nhân (三日月上人); hiệu là Tây Liên Xã (西蓮社), Liễu Dự (了譽); thụy hiệu là Thánh Quynh Thiền Sư (聖冏禪師); xuất thân vùng Thường Lục (常陸, Hitachi, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]); con của Bạch Cát Chí Ma Thủ Nghĩa Quang (白吉志摩守義光). Ông bắt đầu xuất gia theo Liễu Thật (了實) ở Thường Phước Tự (常福寺) thuộc vùng Thường Lục, rồi học Tịnh Độ Giáo của Dòng Trấn Tây với Liên Thắng (蓮勝) cũng như Đinh Huệ (定慧); và tu học hết giáo nghĩa của các Tông khác. Sau đó, ông kế thừa trú trì Thường Phước Tự, chỉ đạo dạy dỗ học đồ, viết ra bộ Nhị Tạng Tụng Nghĩa (二藏頌義) và hệ thống hóa Tông nghĩa Tịnh Độ. Hơn nữa, ông đã làm sáng tỏ dòng huyết mạch truyền thừa từ thời đức Thích Ca trở về sau, cũng như Viên Đốn Giới từ thời Viên Nhân (圓仁) trở đi; và nêu rõ tính độc lập của Tịnh Độ Tông. Ông còn chỉnh đốn lại chế độ truyền pháp của Ngũ Trùng Tương Truyền (五重傳承); rồi đến năm 1393, lần đầu tiên ông truyền áo nghĩa cho đệ tử là Thánh Thông (聖聰). Vào năm 1415, thể theo lời thỉnh cầu của Thánh Thông, ông chuyển đến ở tại thảo am ở Tiểu Thạch Xuyên (小石川, Koishikawa), Giang Hộ (江戸, Edo). Trước tác của ông có Thích Tịnh Độ Nhị Tạng Nghĩa (釋淨土二藏義) 30 quyển, Tịnh Độ Nhị Tạng Nhị Giáo Lược Tụng (淨土二藏二敎略頌) 1 quyển, Truyền Thông Ký Nhữu Sao (傳通記糅鈔) 48 quyển, Quyết Nghi Sao Trực Điệp (決疑鈔直牒) 10 quyển, Phá Tà Hiển Chánh Nghĩa (破邪顯正義) 1 quyển, Tịnh Độ Chơn Tông Phú Pháp Truyện (淨土眞宗付法傳) 1 quyển, Hiển Tịnh Độ Truyền Giới Luận (顯淨土傳戒論) 1 quyển, Giáo Tướng Thập Bát Thông (敎相十八通) 2 quyển, v.v.
(鷲峰): hay Thứu Lãnh (鷲嶺), Thứu Đài (鷲臺), Thứu Đầu Sơn (鷲頭山); là từ gọi tắt của Linh Thứu Sơn (靈鷲山), phiên âm của nguyên ngữ Sanskrit là Kỳ Xà Quật Sơn (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山), tên ngọn núi nằm ở phía Đông Bắc Thành Vương Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), hiện tại nằm ở phía Đông Rajgir của Ấn Độ. Đây là một trong những Thánh địa của Phật Giáo, là nơi đức Phật đã từng thuyết pháp; cho nên người ta cho rằng phần lớn các kinh điển Đại Thừa như Pháp Hoa, Bát Nhã, Đại Bảo Tích, Vô Lượng Thọ, v.v., và cũng như câu chuyện Niêm Hoa Vi Tiếu của Thiền Tông đều phát xuất từ đây. Trong bộ Long Hưng Phật Giáo Biên Niên Thông Luận (隆興佛敎編年通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1512) quyển 12 do Thạch Thất Sa Môn Tổ Tú (石室沙門祖琇) ở phủ Long Hưng (隆興府) soạn, có đoạn: “Huyền Trang … sưu dương Tam Tạng tận Long Cung chi sở trữ, nghiên cứu Nhất Thừa cùng Thứu Lãnh chi di chỉ, tinh dĩ tải ư Bạch Mã hoàn hiến Tử Thần, tầm mông hạ chiếu sắc sứ phiên dịch (玄奘…搜揚三藏盡龍宮之所儲、研究一乘窮鷲嶺之遺旨、並已載於白馬還獻紫宸、尋蒙下詔敕使翻譯, Huyền Trang … tìm tòi Tam Tạng kinh điển tàng trữ tận chốn Long Cung, nghiên cứu giáo lý Nhất Thừa soi rõ yếu chỉ của Thứu Lãnh, cùng bỏ lên Bạch Mã mang về dâng Hoàng triều, mong trên hạ chiếu cho người phiên dịch).” Trong bài thơ Linh Ẩn Tự (靈隱寺) của thi sĩ Tống Chi Vấn (宋之問, khoảng 656-712) đầu thời nhà Đường có câu trứ danh là: “Thứu Lãnh uất thiều nghiêu, Long Cung tỏa tịch liêu, lâu quán thương hải nhật, môn đối Triết Giang triều, quế tử nguyệt trung lạc, thiên hương vân ngoại phiêu (鷲嶺鬱岧嶢、龍宮鎖寂寥、樓觀滄海日、門對浙江潮、桂子月中落、天香雲外飄, Thứu Lãnh rậm vút cao, Long Cung mờ tịch liêu, trên lầu biển xanh ngắm, cửa tựa Triết Giang triều, hàng quế trăng thầm rụng, hương trời mây trắng bay).” Hoặc trong bài Hòa Vương Ký Thất Tùng Triệu Vương Xuân Nhật Du Đà Sơn Tự (和王記室從趙王春日遊陀山寺) của Lạc Tân Vương (駱賓王, khoảng 619-687) nhà Đường cũng có câu: “Điểu dư bồi phỏng đạo, Thứu Lãnh hiệp thê chơn, Tứ Thiền minh tĩnh nghiệp, Tam Không quảng thắng nhân, tường hà sơ điệp giản, huệ nhật kiểu trùng luân, diệp ám Long Cung mật, hoa minh Lộc Uyển xuân (鳥旟陪訪道、鷲嶺狎棲眞、四禪明靜業、三空廣勝因、祥河疏疊澗、慧日皎重輪、葉暗龍宮密、花明鹿苑春, cờ xí lên vấn đạo, Thứu Lãnh dưỡng nuôi chơn, Bốn Thiền sáng nghiệp lắng, Ba Không rõ duyên nhân, sông từ trong khe mát, trời tuệ tỏ thế nhân, lá che Long Cung thẳm, hoa tươi Lộc Uyển xuân).” Trong Đại Đường Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện (大唐大慈恩寺三藏法師傳, Taishō Vol. 50, No. 2053) quyển 6, bài Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo Tự (大唐三藏聖教序), lại có đoạn: “Song Lâm, Bát Thủy, vị đạo xan phong; Lộc Uyển, Thứu Phong, chiêm kỳ ngưỡng dị (雙林、八水、味道餐風、鹿苑、鷲峰、瞻奇仰異, Song Lâm, Tám Sông [của Ấn Độ], nếm đạo ăn phong; Lộc Uyển, Thứu Phong, nhìn kỳ trông lạ).” Ngoài ra, từ Thứu Phong còn từ dùng thay thế cho tự viện Phật Giáo. Như trong bài thơ Tái Tập Chu Lâm Tu Trạch (再集朱林修宅) của Đỗ Giới (杜岕, 1617-1693) nhà Thanh có câu: “Tửu hát thi nhân ái vũ thiên, hồi quang tháp hỏa Thứu Phong yên (酒喝詩人愛雨天、迴光塔火鷲峰煙, rượu uống thi nhân thích trời mưa, chiều tà tháp rực chùa khói mờ).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.239 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập