Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Diêm Phù Đề »»
(s, p: candana, 栴檀 hay 旃檀): âm dịch là Chiên Đàn Na (栴檀那), Chơn Đàn (眞檀), là tên của một loại cây có hương thơm ở các vùng nhiệt đới như Ấn Độ, v.v. Nó là loại thực vật, cây rất to lớn, cao đến mấy trượng, gỗ của nó có mùi thơm ngào ngạt, thuộc khoa Sơn Trà (山茶). Người ta thường dùng nó để tạc tượng Phật và Bồ Tát, còn rễ của nó thì nghiền thành bột làm hương. Có các loại như Hoàng Đàn (黃檀), Bạch Đàn (白檀), Xích Đàn (赤檀), Tử Đàn (紫檀), v.v., phần lớn được dùng làm thuốc. Như cây Bạch Đàn thì trị bệnh sốt, còn Xích Đàn thì trị phù thủng. Nếu nói về hương thì loại Bạch Đàn là thơm nhất. Trong Ngũ Khổ Chương Cú Kinh (五苦章句經, hay Tịnh Trừ Tội Cái Ngu Lạc Phật Pháp Kinh [淨除罪盍娛樂佛法經], do Trúc Đàm Vô Lan [竺曇無蘭] nhà Đông Tấn dịch) có giải thích về loại thực vật quý hiếm này rằng: “Mạc quá Chiên Đàn, kỳ hương vô lượng, hương giá quý ư Diêm Phù Đề kim; hựu liệu nhân bệnh, nhân hữu trú độc, đầu thống thể nhiệt, ma chiên đàn tiết, dĩ đồ kỳ thượng; nhược dĩ phục chi, bệnh tức trừ dũ, nhất thiết chúng sanh, mạc bất nguyện đắc; hữu nhân đại đắc Chiên Đàn Hương thọ, thúc tân mại chi, vô mãi chi giả; Phật tại thế thời, sở thuyết kinh pháp, linh nhân đắc đạo, vô bất độ giả; bát Nê Hoàn hậu, thập nhị bộ kinh, lưu tại thế gian, động hữu quyển số, vô nhân thị giả, diệc như Chiên Đàn, thúc tân mại chi, vô hữu mãi chi giả dã (莫過栴檀、其香无量。其香無量、香价贵于阎浮提金。香價貴於閻浮提金、又疗人病。又療人病、人有中毒。人有中毒、头痛体热。頭痛體熱、磨栴檀屑。磨栴檀屑、以涂其上。以塗其上、若以服之。若以服之、病即除愈。病卽除愈、一切众生。一切眾生、莫不愿得。莫不願得、有人大得栴檀香树。有人大得栴檀香樹、束薪卖之。束薪賣之、无买之者。無買之者、佛在世时。佛在世時、所说经法。所說經法、令人得道。令人得道、无不度者。無不度者、般泥洹后。般泥洹後、十二部经。十二部經、留在世间。留在世間、动有卷数。動有捲數、无人视者。無人視者、亦如栴檀。亦如栴檀、束薪卖之。束薪賣之、无有买之者也。無有買之者也, chớ có xem thường Chiên Đàn, hương thơm của nó vô lượng, hương giá quý như vàng của cõi Diêm Phù Đề; lại có thể trị được bệnh con người, có người trúng độc, đầu đau thân thể phát nóng, mài bột Chiên Đàn, đem thoa lên chỗ đau nhức; nếu uống nó vào, bệnh tức giảm ngay; hết thảy chúng sanh, nên cầu nguyện để có được; có người may được một cây Chiên Đàn Hương, bó thành củi đem bán, chẳng ai mua nó cả; khi đức Phật còn tại thế, các kinh pháp do ngài thuyết, giúp người đắc đạo, chẳng ai không được độ; sau khi ngài nhập Niết Bàn, mười hai bộ kinh, lưu lại thế gian, có rất nhiều quyển, chẳng ai dòm ngó đến; cũng như Chiên Đàn, bó thành củi đem bán, chẳng ai thèm mua cả vậy).”
(s: Tuṣita, p: Tusita, t: Dgaḥ-ldan, 兜率陀): từ gọi tắt của Đâu Suất Đà Thiên (兜率陀天), còn gọi là Đô Suất Thiên (都率天), Đâu Thuật Thiên (兜術天), Đâu Suất Đa Thiên (兜率多天), Đâu Sư Đà Thiên (兜師陀天), Đổ Sử Đa Thiên (覩史多天), Đâu Sử Đa Thiên (兜駛多天); ý dịch là Tri Túc Thiên (知足天), Diệu Túc Thiên (妙足天), Hỷ Túc Thiên (喜足天), Hỷ Lạc Thiên (喜樂天); là cõi trời thứ 4 trong 6 cõi trời của Dục Giới, nằm giữa cõi Dạ Ma Thiên (夜摩天) và Nhạo Biến Hóa Thiên (樂變化天), giữa hư không mây dày đặc. Cõi trời này nằm cách cõi Diêm Phù Đề (s, p: Jampudīpa, 閻浮提) 320.000 do tuần (s, p: yojana, 由旬), cách cõi trời Dạ Ma Thiên 160.000 do tuần. Về tên cõi trời này, Lập Thế A Tỳ Đàm Luận (立世阿毘曇論) quyển 6 có giải thích rằng cõi này hoan lạc, no đủ, vật chất chẳng thiếu gì, nên có tên gọi như vậy. Phật Địa Kinh Luận (佛地經論) quyển 5 lại cho rằng hậu thân của Bồ Tát sẽ giáo hóa ở cõi này và tu nhiều về pháp Hỷ Túc, nên có tên là Hỷ Túc Thiên (喜足天). Cõi trời này có hai viện nội và ngoại. Đâu Suất Nội Viện (兜率內院) là chỗ ở của vị sắp thành Phật (tức Bồ Tát bổ xứ), nay là cõi Tịnh Độ của Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒). Vị này hiện cũng là Bồ Tát bổ xứ, đang tuyên thuyết Phật pháp tại đây; nếu trú tại đây tròn 40 năm, vị ấy sẽ hạ sanh xuống cõi người, thành Phật dưới cây Long Hoa (龍華). Hơn nữa, xưa kia đức Thích Ca Như Lai khi còn là thân Bồ Tát, cũng từ cõi trời này hạ sanh xuống nhân gian và thành Phật. Tương truyền nội viện có 49 ngôi viện, có thể là y cứ vào Di Lặc Thượng Sanh Kinh (彌勒上生經, Taishō 14, 419) cho rằng: “Thử Ma Ni quang hồi toàn không trung, hóa vi tứ thập cửu trùng vi diệu bảo cung (此摩尼光廻旋空中、化爲四十九重微妙寶宮, ánh sáng viên ngọc Ma Ni này xoay quanh trong không trung, hóa thành bốn mươi chín lớp cung điện báu vi diệu)”. Ngoại viện thuộc về Dục Giới Thiên (欲界天), là nơi cư trú của thiên chúng, hưởng thọ dục lạc. Tuổi thọ của chúng sanh trên cõi trời này khoảng 4.000 năm, một ngày đêm trên đó tương đương với 400 năm dưới cõi người. Thọ mạng 4.000 tuổi ấy được tính tương đương với 6.700.000.000 (thực tế là 5.670.000.000) năm. Ngoài ra, khi chúng sanh của cõi này động tình dục thì cả hai đều chấp tay, tự nhiên thành âm dương; đứa bé sơ sanh của họ giống như hài nhi 8 tuổi dưới dương gian; đến 7 tuổi đứa bé thành nhân, thân dài 4 do tuần, áo dài 8 do tuần, rộng 4 do tuần, v.v. Mật Giáo an trí vị Thiên tử này tại phương Tây Bắc của Kim Cang Bộ Viện (金剛部院), ngoài Hiện Đồ Thai Tạng Giới Mạn Trà La (現圖胎藏界曼茶羅). Hình tượng của vị trời này có thân hình lộ sắc da màu trắng, tay phải gập lại, đặt nơi ngực, cầm cành hoa sen búp; tay trái bắt ấn, kê trên bắp đùi; hai bên có hai người nữ hầu, thân cũng để lộ da trắng, tay phải của họ đều cầm cành sen búp. Chủng tử của vị trời này là taṃ, hình Tam Muội Da là cành hoa sen búp trên lá. Tại Điện Di Lặc (彌勒殿) của Thái Vân Tự (白雲寺) ở Thái Châu (泰州), Tỉnh Giang Tô (江蘇省) có hai câu đối: “Thử Như Lai đại đỗ bao dung bả thế gian sự toàn hóa thành vô biên Phật pháp, thị Bồ Tát mãn tâm hoan hỷ tương Đâu Suất Cung tận cố tác Tỳ Lô đạo tràng (此如來大肚包容把世間事全化成無邊佛法、是菩薩滿心歡喜將兜率宮盡做作毗盧道塲, Như Lai này bụng lớn bao dung lấy chuyện thế gian thảy hóa thành vô biên Phật pháp, Bồ Tát ấy đầy tâm hoan hỷ đem Cung Đâu Suất trọn biến làm Tỳ Lô đạo tràng).”
(曼陀): tên một loài hoa, gọi đủ là Mạn Đà La (s: māndāra, māndārava, māndāraka, 曼陀羅), ý dịch là thiên diệu (天妙), duyệt ý (悅意), thích ý (適意), bạch (白). Nó còn được gọi là Mạn Đà Lặc Hoa (曼陀勒華), Mạn Na La Hoa (曼那羅華), Mạn Đà La Phạn Hoa (曼陀羅梵華), Mạn Đà La Phàm Hoa (曼陀羅帆華). Đây là một trong 4 loại hoa trời và là tên loài hoa trên thiên giới. Hoa có màu đỏ, rất đẹp làm cho người nhìn thấy sanh tâm vui mừng. Cây của nó giống như cây Ba Lợi Chất Đa (s: pārijāta, pārijātaka, pāriyātraka, p: pāricchattaka, 波利質多, tên loại cây trên cung trời Đao Lợi [s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa,忉利]). Tên khoa học của loài hoa này là Erythrina indica (Coral tree), sanh sản ở Ấn Độ, nở hoa vào mùa hè, đến khoảng tháng 6, 7 thì kết trái, lá rất sum sê. Bên cạnh đó, nó còn có tên khoa học khác là Calotropis gigantean, là loài thực vật thuộc Mã Lợi Cân (馬利筋), cũng được gọi là Mạn Đà La, thường dùng để dâng cúng cho thần Thấp Bà (s: Śiva, p: Siva, 濕婆). Tại Bồ Tát Đảnh Văn Thù Điện (菩薩頂文殊殿) ở Ngũ Đài Sơn (五臺山), Tỉnh Sơn Tây (山西省), Trung Quốc có câu đối: “Bách đạo tuyền phi giản lưu công đức thủy, ngũ phong vân dũng thiên vũ Mạn Đà hoa (百道泉飛澗流功德水、五峰雲湧天雨曼陀花, trăm lối khe bay suối chảy nước công đức, năm núi mây tuôn trời mưa hoa Mạn Đà).” Trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (s: Mahāparinirvāṇasūtra, 大般涅槃經, Taishō No. 374) có đoạn: “Thiện Kiến Thái Tử kiến dĩ, tức sanh ái tâm, hỷ tâm, kính tín chi tâm, vi thị sự cố nghiêm thiết chủng chủng cúng dường chi cụ nhi cúng dường chi; hựu phục bạch ngôn: 'Đại Sư thánh nhân, ngã kim dục kiến Mạn Đà La hoa.' Thời Điều Bà Đạt Đa tức tiện vãng chí Tam Thập Tam Thiên, tùng bỉ thiên nhân cầu tác chi (善見太子見已、卽生愛心、喜心、敬信之心、爲是事故嚴設種種供養之具而供養之、又復白言、大師聖人、我今欲見曼陀羅花、時調婆達多卽便徃至三十三天、從彼天人而求索之, Thái Tử Thiện Kiến thấy xong, tức sanh tâm yêu thích, tâm vui mừng, tâm kính tín, vì việc này nên trang nghiêm thiết bày các vật phẩm cúng dường để cúng dường; rồi lại thưa rằng: 'Thưa Đại Sư thánh nhân, con nay muốn thấy hoa Mạn Đà La.' Khi ấy Điều Bà Đạt Đa bèn qua đến cõi Trời Ba Mươi Ba, theo thiên nhân ở đó mà cầu xin hoa).” Hay trong Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên Kinh (佛說觀彌勒菩薩上生兜率天經, Taishō No. 452) cũng có đoạn: “Bách thiên thiên tử tác thiên kỷ nhạc, trì thiên Mạn Đà La hoa, Ma Ha Mạn Đà La hoa, dĩ Tán Kì thượng, tán ngôn: 'Thiện tai ! Thiện tai ! Thiện nam tử, nhữ ư Diêm Phù Đề quảng tu phước nghiệp lai sanh thử xứ, thử xứ danh Đâu Suất Đà Thiên; kim thử chủ danh viết Di Lặc, nhữ đương quy y' (百千天子作天伎樂、持天曼陀羅花、摩訶曼陀羅華、以散其上、讚言、善哉善哉善男子、汝於閻浮提廣修福業來生此處、此處名兜率陀天、今此天主名曰彌勒、汝當歸依, trăm ngàn thiên tử tấu các kỷ nhạc trời, mang hoa trời Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La để rãi lên vị ấy, rồi tán thán rằng: 'Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử, ngươi đã rộng tu phước nghiệp nơi Diêm Phù Đề mà sanh về cõi này; cõi này tên là Đâu Suất Đà Thiên; chủ nhân hiện tại tên là Di Lặc, ngươi nên quy y người').”
(南洲): tức Diêm Phù Đề (s: Jampudīpa, 閻浮提, hay Nam Thiệm Bộ Châu [南贍部洲]), chỉ nơi chúng ta đang cư trú; là châu lớn nằm ở trong biển mặn thuộc phía Nam Tu Di Sơn (s, p: Sumeru, 須彌山). Như trong Pháp Hoa Kinh Huyền Tán Yếu Tập (法華經玄贊要集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 34, No. 638) quyển 26 có đoạn: “Thử Nam Châu hữu tình hữu tam bất định, nhất vô lượng tuế, nhị vạn tuế, tam thập tuế (此南洲有情有三不定、一無量歲、二萬歲、三十歲, chúng hữu tình của Nam Thiệm Bộ Châu này có ba điều bất định; một là tuổi vô lượng, hai là 10.000 tuổi, ba là 10 tuổi).” Hay trong Tỳ Ni Quan Yếu (毗尼關要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 720) quyển 11 lại có đoạn: “Nhược Đông Châu nhật xuất, Bắc Châu nhật trung, Nam Châu bán dạ, Tây Châu nhật một (若東洲日出、北洲日中、南洲半夜、西洲日沒, nếu Đông Châu mặt trời ló dạng, thì Bắc Châu giữa ngày, Nam Châu nữa đêm, Tây Châu mặt trời lặn).”
(s: preta, p: peta, 餓鬼): quỷ đói, ma đói; âm dịch là Bế Lệ Đa (薜荔多、閉戾多), Tỉ Lễ Đa (俾禮多), Ti Lợi Đa (卑利多), Di Lệ Đa (彌荔多), Bế Đa (閉多); là một loại trong Tam Đồ (三途, Ba Đường), Ngũ Thú (五趣, Năm Cõi) hay Lục Thú (五趣, Sáu Cõi). Người nào đời trước tạo ác nghiệp, nhiều ham muốn, sau khi chết sẽ đọa làm thân quỷ đói, thường bị khổ sở vì đói khát. Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh (正法念處經, Taishō Vol. 17, No. 721) quyển 16, Phẩm Ngạ Quỷ (餓鬼品), cho biết rằng trú xứ của Ngạ Quỷ có hai nơi: một là trong cõi người, hai là tại thế giới Ngạ Quỷ cách 500 Do Tuần dưới lòng đất cõi Diêm Phù Đề (s: Jampudīpa, 閻浮提). Kinh điển này và Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 6, phần Liệt Số Bộ (列數部) thứ 4 cũng có nêu ra tên 36 loại Ngạ Quỷ. (1) Ca Bà Ly (迦婆離), Hoạch Thân Ngạ Quỷ (鑊身餓鬼, Ngạ Quỷ thân cái vạc nước sôi); (2) Tô Chi Mục Khư (甦支目佉), Châm Khẩu Ngạ Quỷ (針口餓鬼, Ngạ Quỷ miệng nhỏ như cây kim); (3) Bàn Đa Bà Xoa (槃多婆叉), Thực Thổ Ngạ Quỷ (食吐餓鬼, Ngạ Quỷ ăn vào nôn mữa ra); (4) Tỳ Sư Tha (毘師咃), Thực Phẩn Ngạ Quỷ (食糞餓鬼, Ngạ Quỷ ăn phân); (5) A Bà Xoa (阿婆叉), Vô Thực Ngạ Quỷ (無食餓鬼, Ngạ Quỷ không ăn được gì cả); (6) Kiền Đà (揵陀), Thực Khí Ngạ Quỷ (食氣餓鬼, Ngạ Quỷ ăn hơi); (7) Đạt Ma Bà Xoa (達摩婆叉), Thực Pháp Ngạ Quỷ (食法餓鬼, Ngạ Quỷ ăn pháp); (8) Bà Lợi Lam (婆利藍), Thực Thủy Ngạ Quỷ (食水餓鬼, Ngạ Quỷ ăn nước); (9) A Xa Ca (阿賒迦), Hy Vọng Ngạ Quỷ (悕望餓鬼, Ngạ Quỷ hy vọng); (10) Xí Tra (企吒), Thực Thùy Ngạ Quỷ (食唾餓鬼, Ngạ Quỷ ăn đồ khạc nhổ); (11) Ma La Bà Xoa (摩羅婆叉), Thực Man Ngạ Quỷ (食鬘餓鬼, Ngạ Quỷ ăn tràng hoa); (12) Ra Ngật Tra (囉訖吒), Thực Huyết Ngạ Quỷ (食血餓鬼, Ngạ Quỷ ăn máu); (13) Mông Ta Bà Xoa (瞢娑婆叉), Thực Nhục Ngạ Quỷ (食肉餓鬼, Ngạ Quỷ ăn thịt); (14) Tô Kiện Đà (蘇揵陀), Thực Hương Yên Ngạ Quỷ (食香煙餓鬼, Ngạ Quỷ ăn khói nhang); (15) A Tỳ Già La (阿毘遮羅), Tật Hành Ngạ Quỷ (疾行餓鬼, Ngạ Quỷ chạy nhanh); (16) Xi Đà La (蚩陀邏), Tứ Tiện Ngạ Quỷ (伺便餓鬼, Ngạ Quỷ dòm rình đại tiểu tiện); (17) Ba Đa La (波多羅), Địa Hạ Ngạ Quỷ (地下餓鬼, Ngạ Quỷ sống dưới lòng đất); (18) Hĩ Lợi Đề (矣利提), Thần Thông Ngạ Quỷ (神通餓鬼, Ngạ Quỷ có thần thông); (19) Xà Bà Lệ (闍婆隸), Xí Nhiên Ngạ Quỷ (熾燃餓鬼, Ngạ Quỷ bốc cháy); (20) Si Đà La (蚩陀羅), Tứ Anh Nhi Tiện Ngạ Quỷ (伺嬰兒便餓鬼, Ngạ Quỷ dòm rình con nít đại tiểu tiện); (21) Ca Ma (迦摩), Dục Sắc Ngạ Quỷ (欲色餓鬼, Ngạ Quỷ ham sắc dục); (22) Mâu Đà La Đề Ba (牟陀羅提波), Hải Chử Ngạ Quỷ (海渚餓鬼, Ngạ Quỷ sống ở cồn biển); (23) Diêm La Vương Sứ (閻羅王使), Chấp Trượng Ngạ Quỷ (執杖餓鬼, Ngạ Quỷ cầm gậy); (24) Bà La Bà Xoa (婆羅婆叉), Thực Tiểu Nhi Ngạ Quỷ (食小兒餓鬼, Ngạ Quỷ ăn thịt con nít); (25) Ô Thù Bà Xoa (烏殊婆叉), Thực Nhân Tinh Khí Ngạ Quỷ (食人精氣餓鬼, Ngạ Quỷ ăn tinh khí người); (26) Bà La Môn La Sát Ngạ Quỷ (婆羅門羅剎餓鬼, Ngạ Quỷ La Sát Bà La Môn), (27) Quân Trà Hỏa Lô (君茶火爐), Thiêu Thực Ngạ Quỷ (燒食餓鬼, Ngạ Quỷ ăn lửa cháy); (28) A Du Bà Ra Tha (阿輸婆囉他), Bất Tịnh Hạng Mạch Ngạ Quỷ (不淨巷陌餓鬼, Ngạ Quỷ ăn đồ bất tịnh nơi đường hẽm, bờ ruộng); (29) Bà Di Bà Xoa (婆移婆叉), Thực Phong Ngạ Quỷ (食風餓鬼, Ngạ Quỷ ăn gió); (30) Ương Già Ra Bà Xoa (鴦伽囉婆叉), Thực Hỏa Thán Ngạ Quỷ (食火炭餓鬼, Ngạ Quỷ ăn than); (31) Tỳ Sa Bà Xoa (毘沙婆叉), Thực Độc Ngạ Quỷ (食毒餓鬼, Ngạ Quỷ ăn chất độc); (32) A Tra Tỳ (阿吒毘), Khoáng Dã Ngạ Quỷ (曠野餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi đồng trống); (33) Xa Ma Xá La (賒摩舍羅), Trũng Gian Trú Thực Nhiệt Hôi Thổ Ngạ Quỷ (塚間住食熱灰土餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi gò mã ăn tro đất nóng); (34) Tỳ Lợi Sai Thọ Trung Trú Ngạ Quỷ (毘利差樹中住餓鬼, Ngạ Quỷ sống trong cây Tỳ Lợi Sai); (35) Già Đa Bà Tha (遮多波他), Tứ Giao Đạo Ngạ Quỷ (四交道餓鬼, Ngạ Quỷ sống nơi đường giao thông); và (36) Ma La Ca Da (魔羅迦耶), Sát Thân Ngạ Quỷ (殺身餓鬼, Ngạ Quỷ giết thân). Trong tác phẩm Pháp Tánh Tức Phật Tánh Luận (法性卽佛性論) của Củng Tự Trân (龔自珍, 1792-1841) nhà Thanh có đoạn: “Tự Phật tri kiến, nãi chí Địa Ngục tri kiến, giai biến nhất thiết xứ, nhữ khai Ngạ Quỷ tri kiến, quỷ pháp giới biến nhất thiết xứ (自佛知見、乃至地獄知見、皆遍一切處、汝開餓鬼知見、鬼法界遍一切處, từ tri kiến của Phật, cho đến tri kiến Địa Ngục, đều biến khắp tất cả nơi chốn, ngươi khai mở tri kiến Ngạ Quỷ, pháp giới quỷ biến khắp tất cả mọi nơi).” Trong Thiền môn có bài tán liên quan đến Ngạ Quỷ rằng: “Diện Nhiên Đại Sĩ, Quan Âm hóa hiện, cứu độ Ngạ Quỷ thị họa tiên, A Nan bạch Kim Tiên, diễn thuyết chơn thuyên, thanh lương trừ hỏa diệm (面然大士、觀音化現、救度餓鬼示禍先、阿難白金仙、演說眞詮、清涼除火燄, Diện Nhiên Đại Sĩ, Quan Âm hóa hiện, cứu độ Ngạ Quỷ hiện tai ương, A Nan thưa Kim Tiên, diễn thuyết chân lý, mát tươi trừ lửa nóng).”
(二十五有): tức 25 cảnh giới trong đó chúng sanh tồn tại, gồm Tứ Thú (四趣) là Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄), Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼), Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生), A Tu La (s: asura, 阿修羅); Tứ Châu (s: catvāro dvīpāḥ, p: cattāro dīpā, 四洲) là Đông Thắng Thân Châu (s: Pūrva-videha, 東勝身洲, tức Đông Phất Bà Đề [東弗婆提]), Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲, tức Nam Diêm Phù Đề [南閻浮提]), Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲, tức Tây Cù Da Ni [西瞿耶尼]), Bắc Cu Lô Châu (s: Uttara-kuru, 北倶盧洲, tức Bắc Uất Đơn Việt [北鬱單越]); Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天), Tam Thập Tam Thiên (s: Trayastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 三十三天), Diệm Ma Thiên (s: Yāma, 焰摩天), Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Paranirmita-vaśa-vartin, 他化自在天), Sơ Thiền Thiên (初禪天), Đại Phạm Thiên (s: Mahābrahmā, 大梵天), Nhị Thiền Thiên (二禪天), Tam Thiền Thiên (三禪天), Tứ Thiền Thiên (四禪天), Vô Tưởng Thiên (s: Avṛha, 無想天), A Na Hàm Thiên (阿那含天), và 4 cõi Không Xứ Thiên (空處天).
(二十五三昧): 25 cảnh giới Tam Muội (, Định) dùng để phá tan 25 hình thức tồn tại (Nhị Thập Ngũ Hữu [二十五有]) được thuyết trong các kinh điển như Nam Bản Niết Bàn Kinh (南本涅槃經) quyển 13, Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa (法華經玄義) quyển 4, Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Thiêm (法華玄義釋籤) quyển 4, v.v., và cũng được Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397) nhấn mạnh trong Thiên Thai Tông. Nhị Thập Ngũ Tam Muội gồm:
(1) Vô Cấu Tam Muội (無垢三昧) để phá tan sự tồn tại của Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄);
(2) Bất Thối Tam Muội (不退三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生);
(3) Tâm Lạc Tam Muội (心樂三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼);
(4) Hoan Hỷ Tam Muội (歡喜三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi A Tu La (s: asura, 阿修羅);
(5) Nhật Quang Tam Muội (日光三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đông Phất Bà Đề (東弗婆提, tức Đông Thắng Thân Châu [s: Pūrva-videha, 東勝身洲]);
(6) Nguyệt Quang Tam Muội (月光三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tây Cù Da Ni (西瞿耶尼, tức Tây Ngưu Hóa Châu [s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲]);
(7) Nhiệt Diệm Tam Muội (熱燄三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Bắc Uất Đơn Việt (北鬱單越, tức Bắc Cu Lô Châu[s: Uttara-kuru, 北倶盧洲]);
(8) Như Huyễn Tam Muội (如幻三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Nam Diêm Phù Đề (南閻浮提, tức Nam Thiệm Bộ Châu [s: Jampudīpa, 南贍部洲]);
(9) Bất Động Tam Muội (不動三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天);
(10) Nan Phục Tam Muội (難伏三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tam Thập Tam Thiên (三十三天, cõi trời thứ 33, tức cõi trời Đao Lợi [s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利]);
(11) Duyệt Ý Tam Muội (悅意三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Diệm Ma Thiên (s: Yāma, 焰摩天);
(12) Thanh Sắc Tam Muội (青色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đâu Suất Thiên (s: Tuṣita, p: Tusita, 兜率天);
(13) Huỳnh Sắc Tam Muội (黃色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Hóa Lạc Thiên (s: Nirmāṇa-rati,化樂天);
(14) Xích Sắc Tam Muội (赤色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Paranirmita-vaśa-vartin, 他化自在天);
(15) Bạch Sắc Tam Muội (白色三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Sơ Thiền (初禪);
(16) Chủng Chủng Tam Muội (種種三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Đại Phạm Thiên (s: Mahābrahmā, 大梵天);
(17) Song Tam Muội (雙三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Nhị Thiền (二禪);
(18) Lôi Âm Tam Muội (雷音三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tam Thiền (三禪);
(19) Chú Vũ Tam Muội (注雨三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tứ Thiền (四禪);
(20) Như Hư Không Tam Muội (如虛空三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Vô Tưởng Thiên (s: Avṛha, 無想天);
(21) Chiếu Kính Tam Muội (照鏡三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Tịnh Cư A Na Hàm Thiên (淨居阿那含天);
(22) Vô Ngại Tam Muội (無礙三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Không Vô Biên Xứ (s: Akāśānantyāyatana, 空無邊處);
(23) Thường Tam Muội (常三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Thức Vô Biên Xứ (s: Vijñānānantyāyatana, 識無邊處);
(24) Lạc Tam Muội (樂三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Vô Sở Hữu Xứ (s: Ākiñcanyāyatana, 無所有處); và
(25) Ngã Tam Muội (我三昧) để phá tan sự tồn tại của cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (s: Naivasaṁjñānāsaṁjñāyatana, 非想非非想處).
(沃焦[礁]): tên gọi một tảng đá rất to lớn hút nước mà trong Cựu Hoa Nghiêm Kinh (舊華嚴經) quyển 59 có đề cập đến, do vì nó to lớn như núi nên được gọi là Ốc Tiêu Sơn (沃焦山). Dưới núi này có hỏa khí của A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄) bốc lên ngùn ngụt cho nên nó thường nóng bức. Như trong Kim Cang Tam Muội Bản Tánh Thanh Tịnh Bất Hoại Bất Diệt Kinh (金剛三昧本性清淨不壞不滅經) có đoạn rằng: “Như A Nậu đại trì xuất tứ đại hà, thử tứ đại hà phân vi bát hà, cập Diêm Phù Đề nhất thiết chúng lưu giai quy đại hải; dĩ Ốc Tiêu Sơn cố, đại hải bất tăng, dĩ Kim Cang Luân cố, đại hải bất giảm (如阿耨大池出四大河、此四大河分爲八河、及閻浮提一切眾流皆歸大海、以沃焦山故、大海不增、以金剛輪故、大海不減, như hồ lớn A Nậu phân thành bốn con sông lớn, bốn sông lớn này lại chia thành tám sông, chúng cùng với tất cả các sông cõi Diêm Phù Đề đều đỗ về biển lớn; vì núi Ốc Tiêu này mà biển lớn không tăng; và nhờ có vòng Kim Cang mà biển lớn không giảm)”. Ngoài ra, còn có biển Ốc Tiêu, là nơi chúng sanh thọ khổ. Bên cạnh đó, trong kinh điển Phật Giáo thường dùng từ Ốc Tiêu để ví cho dục tình vô cùng vô tận của kẻ phàm phu ngu muội, cũng như sự nóng bức của viên đá này, khổ đau không có ngôn từ nào diễn đạt được. Đạo Giáo giải thích rõ về truyền thuyết, xuất xứ của núi Ốc Tiêu có phần hơi khác. Trong Cẩm Tú Vạn Hoa Cốc (錦繡萬花谷) có đoạn rằng: “Ốc Tiêu tại bích hải chi đông, hữu thạch khoát tứ vạn lí, hậu tứ vạn lý, cư bách xuyên chi hạ, cố hựu danh Vĩ Lư; Sơn Hải Kinh Nghiêu thời, thập nhật tinh xuất, Nghiêu sử Nghệ xạ cửu nhật, lạc vi Ốc Tiêu (沃焦在碧海之東、有石闊四萬里、厚四萬里、居百川之下、故又名尾閭、《山海經》堯時、十日並出、堯使羿射九日、落為沃焦, Núi Ốc Tiêu ở phía Đông biển xanh, có khối đá rộng bốn vạn dặm, dày bốn vạn dặm, nằm dưới trăm con sông, nên có tên là Vĩ Lư; Sơn Hải Kinh cho rằng dưới thời nhà Nghiêu, có mười mặt trời cùng xuất hiện, vua Nghiêu sai Hậu Nghệ bắn chín mặt trời, rơi xuống thành núi Ốc Tiêu).” Bên cạnh đó, Hoài Nam Tử (淮南子) còn cho biết thêm rằng: “Nghiêu nãi mạng Nghệ xạ thập nhật, trung kỳ cửu nhật, nhật trúng ô tận tử (堯乃令羿射十日、中其九日、日中烏盡死, Vua Nghiêu bèn ra lệnh cho Hậu Nghệ bắn mười mặt trời, trong chín mặt trời đều bị trúng tên chết hết)”. Sau này mười mặt trời bị Hậu Nghệ (后羿) bắn được giải thích là Thang Quốc (湯國, xứ sở nước nóng); tương truyền 9 mặt trời bị bắn rơi trôi nỗi về phía Nhật Bản, cho nên tại Quận A Tô (阿蘇郡, Aso-gun), Huyện Hùng Bổn (熊本縣, Kumamoto-ken), Cửu Châu (九州, Kyūshū), Nhật Bản có thành lập “Thang Cốc Thiên Quốc (湯谷天國, Thiên Quốc Hang Nước Nóng)”. Người Trung Quốc thường gọi Nhật Bản là “Ốc Tiêu” hay “Vĩ Lư (尾閭)”. Tại ngôi điện phía nam của Cực Lạc Tự (極樂寺), vùng Cáp Nhĩ Tân (哈爾濱), Hắc Long Giang (黑龍江), Trung Quốc có thờ hai vị U Minh Giáo Chủ (幽明敎主) và Địa Tạng Vương Bồ Tát (地藏王菩薩); kinh văn có ghi rằng: “Tống Đế Vương cai quản đáy biển lớn, dưới núi Ốc Tiêu phía đông nam, Hắc Thằng Đại Địa Ngục; người sống trên dương thế, nếu người nào không biết ơn quốc gia, thê thiếp phụ tình ân ái của chồng, thọ nhận ân huệ cũng như tài sản của người khác, bản thân phạm tội mà không gắng sức cải tạo; sau khi chết rồi xuống cõi âm, đều do Tống Đế Vương quản lý.”
(s: Virūpākṣa, p: Virūpakkha, 廣目天): âm dịch là Tỷ Lựu Ba A Xoa (鼻溜波阿叉), Bễ Lộ Ba Ha Ngật Xoa (髀路波呵迄叉), Tỳ Lâu Bà Xoa (毘樓婆叉), Tỳ Rô Bác Xoa (毘嚕博叉); còn gọi là Ác Nhãn Thiên (惡眼天), Xú Mục Thiên (醜目天), Tạp Ngữ Chủ Thiên (雜語主天), Phi Hảo Báo Thiên (非好報天); là một trong 4 vị Thiên Vương, một trong 12 vị trời, một trong 16 vị thiện thần. Vị này trú tại lưng chừng phía Tây Tu Di Sơn; thường lấy con mắt trời thanh tịnh để quán sát chúng sanh cõi Diêm Phù Đề, là vị thiện thần hộ pháp ở phương Tây; nên có tên là Tây Phương Thiên (西方天); chuyên xét xử trừng phạt người ác, khiến cho họ sanh khởi đạo tâm. Vị trời này cũng là chủ của các loài rồng. Trong Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh (佛母大孔雀明王經, Taishō Vol. 19, No. 982) quyển Thượng cho biết rằng: “Thử Tây phương hữu đại Thiên Vương, danh viết Quảng Mục, thị đại long chủ; dĩ vô lượng bách thiên chư long nhi vi quyến thuộc, thủ hộ Tây phương (此西方有大天王、名曰廣目、是大龍主、以無量百千諸龍而爲眷屬、守護西方, phương Tây này có vị Thiên Vương lớn, tên là Quảng Mục, là chủ của con rồng lớn; lấy vô lượng trăm ngàn các loài rồng làm quyến thuôc, giữ gìn phương Tây).” Về hình tượng của vị trời này, các thuyết không giống nhau. Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 11 giải thích rằng thân của Tỳ Rô Bác Xoa dài một khuỷu tay, mang các loại y khác nhau, trang sức vô cùng tinh xảo, kỳ diệu, tương xứng với thân; tay trái duỗi ra cầm cây giáo, tay phải cầm dây thừng màu đỏ. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō Tripitaka Vol. 19, No. 926) cho biết thêm rằng: “Tây phương Quảng Mục Đại Thiên Vương, kỳ thân hồng sắc chấp quyến sách, thủ hộ bát Phật Tây phương môn (西方廣目大天王、其身紅色執罥索、守護八佛西方門, Quảng Mục Đại Thiên Vương ở phương Tây, thân màu hồng cầm cây roi, giữ gìn tám Phật cửa phía Tây).” Trong đồ hình Mạn Trà La của Thai Tạng Giới Mật Giáo, vị này ngự ở Tây môn của Kim Cang Bộ Viện. Tại Trung Quốc, có nhiều loại tạo hình về Quảng Mục Thiên; như tượng khắc trên tường phía Tây Nam Cư Dung Quan (居庸關) ở Hà Bắc thì tay phải cầm con rắn, tay trái đặt trước ngực; chân trái đạp lên lưng con ác quỷ, có vị đứng hầu bên trái lõa thể, cầm cây Chày Kim Cang. Bên cạnh đó, bức tượng phát hiện tại Thiên Phật Động ở Đôn Hoàng (敦煌) mặc áo lụa màu, hình tượng mang áo giáp da theo thể thức chế tạo của Trung Quốc; lấy áo trời, đồ vàng để trang sức thân thể, tay phải và trái cầm kiếm, hai chân đạp lên con quỷ Dạ Xoa (s: yakṣa, p: yakkha, 夜叉). Đại Hội Kinh (大會經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Tripitaka Vol. 1, No. 1) quyển 12 còn cho biết rằng: “Tây phương Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương, lãnh chư Cưu Bàn Trà quỷ, hữu đại uy đức, hữu cửu thập nhất tử, diệc tự Nhân Đà La, hữu đại thần lực (西方毗樓博叉天王、領諸鳩槃茶鬼、有大威德、有九十一子、亦字因陀羅、有大神力, Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương ở phương Tây, thống lãnh quỷ Cưu Bàn Trà, có uy đức lớn, có chín mươi mốt người con, cũng tên Nhân Đà La, có thần lực lớn).”
(s, p: Piṇḍola-bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮): gọi đủ là Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ (賓頭盧頗羅墮誓), gọi tắt là Phả La Đọa (s: Bharadvāja, 頗羅墮), Tân Đầu Lô (賓頭盧) hay Tân Đầu (賓頭); là người đứng đầu trong 16 vị La Hán. Tôn giả Tân Đầu Lô trụ thế lâu dài, hiện tướng tóc bạc mày dài, nên có tên gọi là Trường Mi Tăng (長眉僧) hay Trường Mi Sa Môn (長眉沙門). Tên Tân Đầu Lô ý dịch là Bất Động (不動), họ Phả La Đọa nghĩa là Lợi Căn (利根). Ông vâng lời đức Phật sống lâu trên cõi đời mạt pháp để thọ nhận cúng dường của chúng sanh, giúp cho họ tạo phước điền; nên ông có tên là Phước Điền Đệ Nhất (福田第一). Nguyên lai ông là vị đại thần của vua Ưu Điền (s, p: Udayana, 優填). Đức vua thấy ông siêng năng tinh tấn, nên khuyên ông xuất gia với Phật. Sau khi chứng quả A La Hán, ông trở về nước, thuyết pháp cho nhà vua nghe. Do đó, vua rất kính trọng ông, sớm tối đều đến hỏi han học đạo. đương thời có một vị Đại Thần Bà La Môn ngoại đạo không tin Phật pháp, khi thấy vua Ưu Điền đến tham vấn, Tân Đầu Lô chỉ ngồi một bên mà không đứng dậy chào nghinh đón vua, nhân đó người này dùng kế ly gián xúi giục nhà vua. Vua bèn bảo rằng: “Ngày mai khi ta đến tham vấn, nếu ông ấy không đứng dậy nghinh tiếp, ta sẽ giết ngay.” Hôm sau, khi Tân Đầu Lô thấy đức vua từ xa đến, bèn đứng dậy đón tiếp và mở lời chào hỏi trước. Thấy vậy, nhà vua ngạc nhiên hỏi duyên cớ vì sao. Tôn Giả đáp: “Tôi làm vậy vì nhà vua đó !” Vua hỏi: “Sao lại vì ta ?” Đáp: “Trước đây đức vua đến với thiện tâm, hôm nay Ngài đến với ác tâm; nếu tôi không đứng dậy đón tiếp thì Ngài sẽ giết tôi. Ai giết vị La Hán thì sẽ đọa vào Địa Ngục. Vậy nếu tôi đứng dậy đón Ngài thì Ngài sẽ mất vương vị; nhưng thà rằng để Ngài mất vương vị còn hơn là đọa vào Địa Ngục. Đó là lý do vì sao hôm nay tôi đứng dậy đón Ngài.” Nghe vậy, đức vua hỏi: “Khi nào ta mất vương vị ?” Đáp: “Trong 7 ngày sau.” Quả nhiên 7 ngày sau nhà vua bị nước bên cạnh bắt đi làm tù nhân. Lúc bấy giờ có một vị Trưởng Giả Thọ Đề (樹提), dùng loại gỗ Chiên Đàn (旃檀), làm thành một bình bát, đem đặt trên đầu cây sào cao và lớn tiếng bảo rằng: “Bất luận người nào, nếu có thể lấy được bát này mà chẳng dùng gậy thang, bát này thuộc về người ấy.” Khi ấy Tân Đầu Lô hiện thần thông lấy bình bát đi. Biết được chuyện này, đức Thế Tôn liền quở trách ông rằng: “Tỳ Kheo có thể lạm dụng thần thông để lấy bình bát ngoại đạo được sao ?” Và hạ lệnh cho ông suốt đời không được trú tại cõi Diêm Phù Đề (s: Jambudvīpa, p: Jambudīpa, 閻浮提), cho nên ông đến trú tại Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲). Về sau, chúng đệ tử thương nhớ Tôn Giả, khẩn cầu đức Phật cho phép ông trở lại cõi Diêm Phù Đề. Nhưng đức Phật lại không cho phép ông nhập Niết Bàn, mà phải thường trụ trên thế gian, hộ trì chánh pháp, thọ nhận sự cúng dường của chúng sanh thời mạt pháp. Vì vậy, tại Trai Đường của các tự viện, thường có một chỗ ngồi ở hàng đầu phía Tây, tức là chỗ của Hòa Thượng Thủ Tòa (首座, trong Thiền Tông, là tên gọi của vị đứng đầu trong chúng), nhưng lại không có ai ngồi. Tuy nhiên tại chỗ đó vẫn thường xuyên có thiết dọn thức ăn, vật uống, chén đũa, v.v., để cúng dường Tôn Giả. Khi cúng dường Trai Tăng, Tôn Giả sẽ hiện thân Tỳ Kheo đến thọ nhận cúng dường. Cho nên khi chú nguyện cúng dường thường có câu: “Nam Mô Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà Tôn Giả tác đại chứng minh.” Tương truyền có một phú ông nọ phát tâm cúng dường Trai Tăng cho 1000 vị tăng với mục đích cầu phước và mong được La Hán đến thọ nhận. Ông thiết lễ trai đàn trong 3 ngày, đến tối thứ 3 ông nằm mộng thấy một lão Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, trên trán nỗi 3 cục u ghê sợ hiện đến bảo phú ông rằng: “Tôi là Tân Đầu Lô đây !” “Ồ, ngài là Tân Đầu Lô sao ? Ngài có đến dự cúng dường không ?” Tôn Giả đáp: “Có chứ ! Ngày thứ nhất, tôi đến thì người giữ cửa không cho vào. Tôi bảo là tôi đến để ban phước cho chủ nhà này. Người canh cổng không tin, bảo rằng áo quần tôi lam lũ thế này, lấy gì có phước mà ban cho người khác. Nói xong người ấy dùng gậy đánh tôi, làm cho trán tôi u lên một cục. Đến ngày thứ hai, tôi lại bị đánh u thêm một cục nữa. Qua ngày thứ ba, tôi tưởng là ngày cuối cùng có thể vào được, nhưng cũng bị đánh thêm lần nữa.” Phú ông tỉnh dậy, biết được sự thật, vô cùng tiếc nuối không có phước duyên để đón tiếp Thánh tăng. Lại có một ông quan huyện, nghe đồn cúng dường Trai Tăng nhất định sẽ có Thánh tăng Tân Đầu Lô quang lâm thọ cúng dường. Ông bèn thiết trai cúng dường tại Thiên Đồng Tự (天童寺) ở Ninh Ba (寧波). Đến thời thọ trai buổi trưa, ông chợt thấy một vị Tỳ Kheo mặc áo quần lam lũ, già khụm, nước miệng nước mũi chảy nhễ nhại, chẳng chút oai nghi nào, bước đi ngã nghiêng, tiến về phía chỗ ngồi của vị Thủ Tòa. Thông thường vị trí này luôn dành để cúng dường cho Thánh tăng. Ông quan huyện đến gần xem, nhìn kỹ thấy toàn thân từ trên xuống dưới của vị Tỳ Kheo ấy nhơ nhớp không thể chịu được. Ông bèn dùng tay xách lỗ tai vị kia kéo xuống ngồi hàng ghế cuối cùng. Sau khi thọ trai xong, quan huyện hỏi Thiên Đồng Thiền Sư xem thử hôm nay Thánh tăng có đến tham dự không ? Thiền Sư trả lời có. Nghe vậy, quan huyện mừng rỡ hỏi xem đó là ai ? Đáp: “Đó chính là vị Tỳ Kheo mà ông xách lỗ tai.” Lão quan huyện kinh ngạc, run bắn người thốt lên rằng: “Quả là có mắt mà không tròng. Ta đã làm nhục Thánh tăng rồi ! Tội lỗi tày trời !” Theo Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) quyển 3, phần Phương Đẳng Giới Đàn (方等戒壇) cho biết rằng khi Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) ở Chung Nam Sơn (終南山) kiến lập Linh Cảm Giới Đàn tại Tinh Xá Thanh Quan Thôn (清官村), có vị tăng lông mày dài đến trước Giới Đàn tán thán. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 3 có đoạn: “Hàng phục ngoại đạo, lý hành chánh pháp, sở vị Tân Đầu Lô Tỳ Kheo thị (降伏外道、履行正法、所謂賓頭盧比丘是, hàng phục ngoại đạo, thực hành chánh pháp, đó gọi là Tỳ Kheo Tâm Đầu Lô).” Cũng lại trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 44, đức Phật thọ ký cho 4 vị Thanh Văn, trong đó có Tân Đầu Lô rằng: “Ngô kim niên dĩ suy hao, niên hướng bát thập dư, nhiên kim Như Lai hữu tứ đại Thanh Văn, kham nhiệm du hóa, trí tuệ vô tận, chúng đức cụ túc. Hà đẳng vi tứ ? Sở vị Đại Ca Diếp Tỳ Kheo, Quân Đồ Bát Tỳ Kheo, Tân Đầu Lô Tỳ Kheo, La Vân Tỳ Kheo. Nhữ đẳng tứ đại Thanh Văn yếu bất bát Niết Bàn, tu ngô pháp một tận, nhiên hậu nãi đương bát Niết Bàn (吾今年已衰耗、年向八十餘、然今如來有四大聲聞、堪任遊化、智慧無盡、眾德具足、云何爲四、所謂大迦葉比丘、君屠缽漢比丘、賓頭盧比丘、羅云比丘、汝等四大聲聞要不般涅槃、須吾法沒盡、然後乃當般涅槃, năm nay ta đã suy yếu, tuổi đã hơn tám mươi, tuy nhiên nay Như Lai có bốn vị đại Thanh Văn, có thể đảm nhiệm việc du hóa, trí tuệ vô tận, các đức đầy đủ. Thế nào là bốn ? Đó là Tỳ Kheo Đại Ca Diếp, Tỳ Kheo Quân Đồ Bát, Tỳ Kheo Tân Đầu Lô, Tỳ Kheo La Vân. Các người, bốn đại Thanh Văn này chủ yếu không nhập Niết Bàn, đến khi pháp của ta diệt hết, sau đó mới nhập Niết Bàn).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập