Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Địa Phủ »»
(九泉): chín suối, nơi mai táng người chết, là tên gọi khác của Huỳnh Tuyền (黃泉), Âm Ty (陰司) hay Địa Ngục (地獄). Từ này vốn xuất xứ từ bài thơ Thất Ai (七哀) của Nguyễn Vũ (阮瑀, ?-212) nhà Hán: “Minh minh Cửu Tuyền thất, man man trường dạ đài (冥冥九泉室,漫漫長夜台, mịt mờ nhà Cửu Tuyền, mênh mang đài đêm trường).” Hay như trong Dương Bình Vương Truyện (陽平王傳) của Ngụy Thư (魏書) có câu: “Nhược vi tử quỷ, vĩnh khoáng thiên nhan, Cửu Tuyền chi hạ, thật thâm trùng hận (若爲死鬼、永曠天顏、九泉之下、實深重恨, nếu làm quỷ chết, mãi xa mặt trời, dưới cõi Chín Suối, thật sâu thẳm hận).” Trong Truyện Kiều cũng có câu: “Trên Tam Đảo dưới Cửu Tuyền, tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.” Về con số 9, theo quan niệm của cổ đại Trung Quốc, nó biểu thị ý nghĩa nhiều, cực lớn; như sách y thuật cổ Tố Vấn (素問) có giải thích rằng: “Thiên địa chi chí số, thỉ ư nhất, chung ư cửu yên (天地之至數、始於一、終於九焉, con số tột cùng của trời đất khởi đầu bằng số 1 và kết thúc bằng số 9).” Quan niệm về Cửu Tuyền vốn phát xuất từ kinh nghiệm đào giếng của người xưa. Khi đào sâu xuống lòng đất, người ta phát hiện dòng nước suối, nước chảy ra từ lớp đất vàng, thường có màu vàng; cho nên, cổ nhân thường gọi tầng sâu thẳm của lòng đất là Huỳnh Tuyền (Suối Vàng). Thế giới của người chết thường được xem như là dưới Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), trong lòng đất sâu thẳm; từ đó, người ta thêm số 9 vào chữ tuyền (泉) để chỉ một nơi sâu thẳm như Âm Tào Địa Phủ và cũng là nơi yên nghĩ của người chết.
(鴻鐘、洪鐘): chuông lớn, chuông to; còn gọi là Phạn Chung (梵鐘), Đại Chung (大鐘), Kim Chung (金鐘), Kình Chung (鯨鐘), Đồng Chung (銅鐘), Phong Chung (豐鐘), Cảnh Chung (景鐘), Hoa Chung (華鐘), Cự Chung (巨鐘), Phù Chung (鳬鐘), Lương Chung (梁鐘), Chàng Chung (撞鐘), Điếu Chung (釣鐘), Bồ Lao (蒲牢), Hoa Kình (華鯨). Từ nguyên gốc của Hồng Chung là Phạn Chung, nghĩa là chuông, loại pháp khí Phật Giáo, được truyền từ Ấn Độ sang các nước Phật Giáo Đại Thừa như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, v.v. Tùy theo quốc gia chuông được tạo ra, chuông có tên gọi khác nhau như Trung Quốc Chung (中國鐘), Triều Tiên Chung (朝鮮鐘, hay Cao Lệ Chung [高麗鐘], Tân La Chung [新羅鐘]), Hòa Chung (和鐘, tức chuông Nhật Bản), v.v. Đối với trường hợp Nhật Bản, vẫn còn ký lục lưu lại trong Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshoki) cho biết rằng vào năm thứ 23 (562) đời Khâm Minh Thiên Hoàng (欽明天皇, Kimmei Tennō, tại vị 539?-571), chuông được Đại Bạn Hiệp Thủ Sảng (大伴狹手彦, Ōtomo-no-Sadehiko) mang từ vương quốc Cao Cú Lệ (高句麗) của Triều Tiên sang Nhật. Chuông được xem như là tối cổ của Nhật Bản, có bản khắc minh ghi trên chuông vào năm 698 (Mậu Tuất), là Phạn Chung của Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji) ở kinh đô Kyoto. Vai trò chính của Phạn Chung là dùng để thông báo tiến hành các Phật sự, nghi lễ, v.v.; và cũng được dùng để báo thức sớm tối. Cho nên trong bài kệ Nguyện Chuông buổi sáng có câu: “Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao ngâm, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ (洪鐘初叩、寶偈高吟、上徹天堂、下通地府, chuông to mới đánh, kệ báu ngâm cao, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ).” Tiếng chuông đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống tâm linh của người dân bình thường cũng như tín đồ Phật Giáo. Theo như nghiên cứu cho thấy rằng trong bộ Toàn Đường Thi (全唐詩) cũng như Toàn Đường Thi Bổ Biên (全唐詩補編), có gần 1100 câu thơ về tiếng chuông, về Phạn Chung có 300 câu, cho ta thấy tầm quan trọng của tiếng chuông chùa như thế nào. Xin giới thiệu một số tác phẩm liên quan đến tiếng chuông như sau. Trong bài Trường Thọ Tự Xán Công Viện Tân Trứu Tỉnh (長壽寺粲公院新甃井) của Lý Kì (李頎, 690-751) có câu: “Tăng phòng lai trú cửu, lộ tỉnh mỗi đồng quan, bạch thạch bảo tân trứu, thương đài y cựu lan, không bình uyển chuyển hạ, trường cảnh lộc lô bàn, cảnh giới nhân tâm tịnh, tuyền nguyên kiến để hàn, chung minh thời quán đảnh, đối thử nhật nhàn an (僧房來徃久,露井每同觀。白石抱新甃,蒼苔依舊欄。空瓶宛轉下,長綆轆轤盤。境界因心淨,泉源見底寒。鐘鳴時灌頂,對此日閒安, tăng phòng đến đây ở, giếng nước ngày mỗi xem, đá trắng che mặt giếng, rêu xanh vẫn lan cùng, gàu nước buông thong thả, dây dài theo trục xoay, cảnh giới theo tâm lắng, suối nguồn tận đáy trong, chuông ngân dài quán đảnh, đối diện ngày an nhàn).” Trương Kế (張繼, ?-779) có làm bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊) rất nổi tiếng: “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, giang phong ngư hỏa đối sầu miên, Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (月落烏啼霜滿天,江楓漁火對愁眠,姑蘇城外寒山寺,夜半鐘聲到客船, trăng tà chiếc quạ kêu sương, lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ, thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông Chùa Hàn San).” Như trong Vãn Đường Chung Thanh (晚唐鐘聲) của Phó Đạo Bân (傅道彬) có nêu một đoạn trong bài thơ Du Long Môn Phụng Tiên Tự (遊龍門奉先寺) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770): “Dĩ tùng Chiêu Đề du, cánh túc Chiêu Đề cảnh, âm hác sanh hư lại, nguyệt lâm tán thanh ảnh, thiên khuyết tượng vĩ bức, vân ngọa y thường lãnh, dục giác văn thần chung, linh nhân phát thâm tỉnh (已從招提遊,更宿招提境。陰壑生虛籟,月林散清影。天闕象緯逼,雲臥衣裳冷,欲覺聞晨鐘,令人發深省, từ độ thăm Chiêu Đề, lại luyến cảnh Chiêu Đề, hang tối vang tiếng vọng, rừng trăng bóng tỏ mờ, cổng trời bóng voi hiện, mây nằm áo lạnh băng, muốn dậy nghe chuông sớm, khiến người tỉnh thức sâu).” Hay trong San Hô Câu Thi Thoại (珊瑚鉤詩話) của Trương Biểu Thần (張表臣) có dẫn bài thơ của Thuyết Đỗ (說杜) là: “Chung khánh thanh tâm, dục sanh Duyên Giác (鐘磬清心,欲生緣覺, chuông khánh sạch lòng, chứng quả Duyên Giác).” Trong bài Kinh Thiếu Lâm Tinh Xá Ký Đô Ấp Thân Hữu (經少林精舍寄都邑親友) của Vi Ứng Vật (韋應物, 737-792) có câu: “Xuất hi thính vạn lại, nhập lâm trạc u tuyền, minh chung sanh đạo tâm, mộ khánh không vân yên (出巘聽萬籟,入林濯幽泉。鳴鐘生道心,暮磬空雲煙, ra hang vạn dây vướng, vào rừng rửa suối thiêng, chuông ngân sanh đạo tâm, khánh chiều mây khói quyện).” Lô Luân (盧綸, 739-799) có làm bài Thù Quý Đoan Công Dã Tự Bệnh Cư Kiến Ký (酬李端公野寺病居見寄): “Dã tự chung hôn sơn chánh âm, loạn đằng cao trúc thủy thanh thâm, điền phu tựu hướng hoàn y thảo, dã trĩ kinh phi bất quá lâm, trai mộc tạm tư đồng tĩnh thất, thanh luy dĩ giác trợ Thiền tâm, tịch mịch nhật trường thùy vấn tật, liệu quân duy thủ cổ phương tầm (野寺鐘昏山正陰,亂藤高竹水聲深。田夫就餉還依草,野雉驚飛不過林。齋沐暫思同靜室,清羸已覺助禪心。寂寞日長誰問疾,料君惟取古方尋, chùa hoang chuông chiều núi tỏa râm, dây leo trúc bám tiếng nước trầm, nông phu cất bước theo lối cỏ, gà đồng kinh hoảng bay qua rừng, chay tịnh ưu tư cùng tịnh thất, gầy xanh mới rõ ấy Thiền tâm, vắng lặng tháng ngày ai hỏi bệnh, khuyên người thôi chớ nhọc công tìm).” Hay trong bài Du Vân Tế Tự (遊雲際寺) của Chương Hiếu Tiêu (章孝標) có câu: “Vân lãnh phù danh khứ, chung chàng đại mộng tỉnh, mang mang sơn hạ sự, mãn nhãn tống lưu bình (雲領浮名去,鐘撞大夢醒。茫茫山下事,滿眼送流萍, mây núi phù danh bỏ, chuông ngân đại mộng tỉnh, mênh mang chuyện đời mặc, trước mắt bèo dạt trôi).” Trong bài Tặng Thiên Khanh Tự Thần Lượng Thượng Nhân (贈天卿寺神亮上人) của Triệu Hỗ (趙嘏, 806-853) có câu: “Ngũ khán xuân tận thử giang phần, hoa tự phiêu linh nhật tự huân, không hữu từ bi tùy vật niệm, dĩ vô tung tích tại nhân quần, nghênh thu nhật sắc diêm tiền kiến, nhập dạ chung thanh trúc ngoại văn, tiếu chỉ bạch liên tâm tự đắc, thế gian phiền não thị phù vân (五看春盡此江濆,花自飄零日自曛。空有慈悲隨物念,已無蹤跡在人群。迎秋日色簷前見,入夜鐘聲竹外聞。笑指白蓮心自得,世間煩惱是浮雲, năm bận đón xuân nơi bến sông, ngày nắng chói chan hoa phiêu bồng, không tâm từ bi theo vật nhớ, đã chẳng dấu tích chốn nhân quần, đón thu ngày mới trước thềm thấy, đêm về chuông vọng trúc ngoài vang, cười chỉ trắng sen lòng tự đắc, thế gian phiền não ấy phù vân).” Hay như trong bài Quá Hương Tích Tự (過香積寺) của Vương Duy (王維, 701-761) cũng có câu: “Bất tri Hương Tích Tự, sổ lí nhập vân phong, cổ mộc vô nhân kính, thâm sơn hà xứ chung, tuyền thanh yến nguy thạch, nhật sắc lãnh thanh tùng, bạc mộ không đàm khúc, an Thiền chế độc long (不知香積寺,數里入雲峰。古木無人逕,深山何處鐘。泉聲咽危石,日色冷青松。薄暮空潭曲,安禪制毒龍, nào hay Hương Tích Tự, mấy dặm trong mây rừng, cây xưa không người bước, núi sâu chuông chốn nào, tiếng suối ngâm lòng đá, ngày lên lạnh tùng xanh, chiều buông trên hồ vắng, tọa Thiền chế độc long).” Tại Tây Hồ, Hàng Châu có 2 ngôi danh lam là Tịnh Từ Tự (淨慈寺) và Linh Ẩn Tự (靈隱寺). Ở Tịnh Từ Tự có một Đại Hồng Chung rất nổi tiếng, nơi nhà bia an trí chuông có bút tích của vua Khang Hy với dòng chữ: “Nam Bình Vãn Chung (南屏晚鐘, Chuông Chiều Nam Bình).” Thi sĩ Trương Đại nhà Đường có làm bài thơ để diễn tả sự xuất thần nhập hóa của tiếng chuông chùa này như sau: “Dạ khí ổng Nam Bình, khinh phong bạc như chỉ, chung thanh xuất thượng phương, dạ độ không giang thủy (夜氣滃南屏、輕風薄如紙、鐘聲出上方、夜渡空江水, màn đêm trùm khắp Nam Bình, gió nhè nhẹ thổi như hình giấy manh, tiếng chuông vút tận trời xanh, buông vào đêm vắng sông thanh nghìn trùng).” Sau này dân gian vẫn có câu: “Ngọc Bình thanh chướng mộ yên phi, cam điện chung thanh lạc thúy vi (玉屏青嶂暮煙飛,紺殿鐘聲落翠微, Ngọc Bình mây khói chiều lặng bay, điện báu chuông chùa rụng sương chầy).” Về phía Việt Nam, cũng có khá nhiều bài thơ nói về tiếng chuông như trong bài của Đoàn Văn Khâm truy điệu Thiền Sư Chân Không: “Hạnh cao triều dã chấn thanh phong, tích trụ như vân mộ tập long, nhân vũ hốt kinh băng huệ đống, đạo lâm trường thán yển trinh tòng, phần oanh bích thảo thiêm tân tháp, thủy trám thanh sơn nhận tạ dung, tịch tịch Thiền quang thùy cánh khấu, kinh qua sầu thính mộ thiên chung (Trong triều ngoài nội kính gia phong, chống gậy đường mây quyện bóng rồng, cửa từ chợt hoảng rường cột đỗ, rừng đạo bùi ngùi cột thông long, cỏ biếc quanh mồ thêm tháp mới, non xanh nước thắm gởi thân trong, vắng vẻ cửa Thiền ai đến gõ, văng vẳng chuông chiều nát cõi lòng).” Hay như bài thơ của thi sĩ Dương Cự Nguyên người Tàu làm tặng tiễn chân Pháp Sư Phụng Đình của Việt Nam về nước như sau: “Cố hương Nam Việt ngoại, vạn lí bạch vân phong, kinh luận từ thiên khứ, hoa hương nhập hải phùng, lộ đào thanh phạm triệt, thận các hóa thành trùng, tâm đáo Trường An mạch, Giao Châu hậu dạ chung (Cố hương nam việt ấy, ngàn dặm mây trắng bay, cửa trời vắng kinh kệ, biển rộng hương hoa đầy, bóng cò in sóng bạc, thành quách lung linh xây, Trường An lòng tưởng nhớ, Giao Châu chuông canh chầy).” Tổ Giác Tiên (覺先, 1880-1936), người sáng lập ra An Nam Phật Học Hội Trung Việt, tổ sư khai sáng Chùa Trúc Lâm Huế có làm bài thơ: “Tuần diêm thanh khánh sao minh nguyệt, nhiễu thọ sơ chung khấu bích thiên (巡簷清磬敲明月,繞樹疏鐘扣碧天, tiếng khánh quanh nhà lay trăng sáng, cùng cây chuông sớm gõ trời xanh).” Cố Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997), nguyên trú trì và khai sơn Hồng Ân Ni Tự (鴻恩尼寺) tại Huế, cũng có lưu lại bài thơ ca ngợi về nét Thiền vị của chùa Trúc Lâm như sau: “Bước đến Trúc Lâm luống chạnh lòng, chuông chùa tiếng dội khắp rừng thông, trông lên bảo tháp mây quang đãng, ngó xuống ao sen cá vẫy vùng, cảnh tịnh soi tâm tâm cũng tịnh, nước trong trăng chiếu bóng thường trong, cảnh này nếu được đem thêu vẽ, tỏa rạng ngàn năm nét Đại Hùng.” Hòa Thượng Thạch Liêm (石濂, 1633-1702) có làm bài Vịnh Hà Trung Tự Thi (詠河中寺詩): “Lục liễu thùy thùy ẩn Phạm cung, chung thanh điều đệ mãn hà phong, trúc li thảo kính phù lam yểm, thạch hác hà lâu đảo ảnh không, hầu thực hồng ngư xuy thủy thượng, đề yên thúy điểu lạc hoa trung, vương gia từ miếu âm sum xứ, huýnh hữu linh quang xạ hải Đông (綠柳垂垂隱梵宮、鐘聲迢遞滿河風、竹籬草徑浮嵐掩、石壑霞樓倒影空、候食紅魚吹水上、啼煙翠鳥落花中、王家祠廟陰森處、逈有靈光射海東, nép bóng chùa xưa liễu xanh non, tiếng chuông xa vẳng theo gió sông, lối cỏ bờ trúc mây khói phủ, hang đá lầu chiều bóng nghiêng lồng, đớp mồi cá nỗi trên dòng nước, chim xanh rộn hót giữa hoa hồng, vương gia miếu phủ nơi rừng thẳm, lóe sáng mù khơi rạng biển Đông).” Hơn nữa, tục ngữ dân gian Việt Nam thường có câu: “Đánh tan tục lụy hồi chuông sớm, gõ nát trần tâm tiếng mõ trưa”, hay “gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Sương, mịt mù khói toả ngàn sương, nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ”, v.v.
(冥府): còn gọi là Âm Phủ (陰府), là cơ sở hành chánh của thế giới bên kia sau khi chết, văn phòng của vua Diêm Ma. Người thống trị Minh Phủ là Minh Vương Áo Tây Lí Tư (冥王奧里斯); vị này là đại thần của toàn quốc, sau A Mông (阿蒙). Vị trí của Áo Tây Lí Tư thậm chí còn cao hơn cả ông cố là Thái Dương Thần (太陽神). Theo nghiên cứu cho biết rằng ban đầu ông là Hồng Thủy Thần (洪水神, Thần Nước Lũ) của Sông Ni La (尼羅河, Nile), và về sau được cách hóa thành Minh Vương. Đồng thời, ông cũng có thần cách như Thái Dương Thần; tuy nhiên vẫn giữ thân Minh Vương. Mặt khác, ông không phải là đại diện cho sự tối tăm, mà là thần của ánh sáng. Về sau, A Nỗ Tỷ Tư (阿努比斯), người giữ gìn các vong linh, được xem như là con của Áo Tây Lí Tư, được phong chức trợ lý cho cha. Sở dĩ Áo Tây Lí Tư được xem như là vị đại thần của toàn quốc, vì nó có liên quan đến quan điểm tử vong của người Ai Cập. Họ cho rằng chết đi không phải là kết thúc sinh mạng, mà đạt đến con đường sống mãi; cho nên người chết được sống lại nơi thế giới do Áo Tây Lí Tư thống trị và vĩnh viễn sinh tồn. Đó là lý do vì sao người Ai Cập cổ xưa đã xây dựng các Kim Tự Tháp cũng như mộ đế vương cho những vị quốc vương họ. Căn cứ vào thuyết của Kim Chi (金枝), Áo Tây Lí Tư cùng với vợ là Y Hy Tư (伊希斯) trở lại làm thần cây. Sự phục hoạt của Áo Tây Lí Tư có ý nghĩa tương đồng với sự phục hoạt thần cây của Tây Á và Hy Lạp. Theo quan điểm tín ngưỡng của Trung Quốc, dưới Minh Phủ có 10 vị Minh Vương cai quản 10 ngôi điện, được gọi là Thập Điện Minh Vương (十殿冥王) hay Thập Điện Từ Vương (十殿慈王). Theo Địa Phủ Thập Vương Bạt Độ Nghi (地府十王拔度儀) thuộc kinh điển của Đạo Giáo, dưới Minh Phủ có 10 cung, mỗi cung có 1 vị Chơn Quân cai quản, gồm:
(1) Cung thứ nhất của Tần Tố Diệu Quảng Chơn Quân (秦素妙廣眞君), còn gọi là Tần Quảng Đại Vương (秦廣大王);
(2) Cung thứ hai của Âm Đức Định Hưu Chơn Quân (陰德定休眞君), còn gọi là Sơ Giang Đại Vương (初江大王);
(3) Cung thứ ba của Động Minh Phổ Tĩnh Chơn Quân (洞明普靜眞君), còn gọi là Tống Đế Đại Vương (宋帝大王);
(4) Cung thứ tư của Huyền Đức Ngũ Linh Chơn Quân (玄德五靈眞君), còn gọi là Ngỗ Quan Đại Vương (仵官大王);
(5) Cung thứ năm của Tối Thánh Diệu Linh Chơn Quân (最聖妙靈眞君), còn gọi là Diêm La Đại Vương (閻羅大王);
(6) Cung thứ sáu của Bảo Túc Chiêu Thành Chơn Quân (寳肅昭成眞君), còn gọi là Biến Thành Đại Vương (變成大王);
(7) Cung thứ bảy của Thái Sơn Huyền Diệu Chơn Quân (泰山玄妙眞君), còn gọi là Thái Sơn Đại Vương (泰山大王);
(8) Cung thứ tám của Vô Thượng Chánh Độ Chơn Quân (無上正度眞君), còn gọi là Bình Đẳng Đại Vương (平等大王);
(9) Cung thứ chín của Phi Ma Diễn Hóa Chơn Quân (飛魔演化眞君), còn gọi là Đô Thị Đại Vương (都市大王);
(10) Cung thứ mười của Ngũ Linh Uy Đức Chơn Quân (五靈威德眞君), còn gọi là Chuyển Luân Đại Vương (轉輪大王).
Qua đó, ta thấy rằng 10 cung này tương đương với 10 điện và tên gọi của các vị chủ quản các cung cũng gần tương tự với 10 vị Minh Vương (xin xem thêm chi tiết ở phần Minh Vương và Diêm Ma Thập Điện). Trong Hiện Quả Tùy Lục (現果隨錄) quyển 2 có câu: “Ngô tinh phi tà, tiền tại Minh Phủ kiến nhất kỳ sự, cấp dục vãng bỉ khám nghiệm nhĩ (吾並非邪、前在冥府見一奇事、急欲徃彼一勘驗耳, tôi chẳng nói bậy đâu, trước kia ở dưới Minh Phủ có thấy một việc kỳ lạ, muốn mau đến ông ấy khám nghiệm thử đúng không).” Hay Trong Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện (禪林僧寶傳) quyển 8, truyện Nam An Nham Nghiêm Tôn Giả (南安巖嚴尊者) lại có đoạn: “Hữu tăng tự Huệ Châu lai, viết: 'Hà Nguyên hữu cự chu trước sa, vạn ngưu hoán bất khả động, nguyện đắc dĩ tải chuyên, kiến tháp vu nam hải, vi chúng sanh phước điền.' Công viết: 'Thử Âm Phủ chi vật' (有僧自惠州來、曰河源有巨舟著沙、萬牛挽不可動、願得以載磚、建塔于南海、爲眾生福田、公曰此陰府之物, có vị tăng từ Huệ Châu đến bảo rằng: 'Tại Hà Nguyên có một chiếc thuyền lớn bị mắc cát, vạn con trâu kéo cũng không nhúc nhích, xin ngài đến chở ngói gạch, xây tháp nơi Nam Hải để làm ruộng phước cho chúng sanh.' Ông [Nham Nghiêm Tôn Giả] nói rằng: 'Đó là đồ của Âm Phủ').”
(二儀): hay còn gọi là Lưỡng Nghi (兩儀), gồm trời và đất, hay âm và dương. Trong bài Thiên Địa Phú (天地賦) của Thành Công Tuy (成公綏) có câu: “Hà âm dương chi nan trắc, vĩ Nhị Nghi chi xa khoát (何陰陽之難測、偉二儀之奢闊, Sao âm dương thật khó xét, lớn đất trời quả bao la).” Trong bài thơ Thu Hồ Hành (秋胡行) của Tào Tháo (曹操, 155-220) cũng có đoạn rằng: “Minh minh nhật nguyệt quang, hà sở bất quang chiêu, minh minh nhật nguyệt quang, hà sở bất quang chiêu, Nhị Nghi hợp thánh hóa, quý giả độc nhân phủ (明明日月光、何所不光昭、明明日月光、何所不光昭、二儀合聖化、貴者獨人不, rực rỡ ánh trời trăng, nơi nào không chiếu sáng, rực rỡ ánh trời trăng, nơi nào không chiếu sáng, đất trời hợp hóa thánh, người quý một mình chăng ?).”
(天堂): hay Thiên Quốc (天國), chỉ cho trú xứ hay quốc độ trên trời, là cung điện của thiên chúng, đối lập với Địa Ngục. Theo đa số các tôn giáo cũng như triết học tâm linh đều công nhận đây là nơi tồn tại hình thức sinh mạng con người sau khi chết. Theo tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, Thiên Đường, Thiên Quốc, Thiên Giới (天界), Thần Giới (神界), v.v., đều cùng ngữ nghĩa với nhau, chỉ cho cảnh giới thần tiên do Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝) thống quản. Nhân gian tin rằng con người sau khi chết sẽ lên Trời, tổ tiên của mỗi cá nhân đều ở trên đó nhìn mình, và linh hồn tổ tiên luôn hộ trì, che chở cho con cháu mình dưới trần thế. Do đó, người Trung Quốc có truyền thống kính Trời và thờ cúng tổ tiên. Thần và người đều giữ đạo riêng của mình. Thần tiên có khả năng hạ phàm xuống cõi người. Theo Đạo Giáo, người nào đắc đạo, đều có thể thành thần tiên. Thái Bình Kinh (太平經), kinh thư trọng yếu của tôn giáo này, giải thích rằng: “Thượng thiện chi nhân, tử hậu Âm Tào Phán Quan trước thiện tịch chi văn, danh chi vi thiện nhân chi tịch, hành ngưỡng thiện, dữ thiên địa Tứ Thời Ngũ Hành hợp tín, chư thần tương ái … cọng tấn ư thiên thần (上善之人、死後陰曹判官著善籍之文、名之爲善人之籍、行仰善、與天地四時五行合信、諸神相愛…共進於天神, người mà lương thiện, sau khi chết Âm Tào Phán Quan viết văn sổ lương thiện, đó gọi là sổ người lương thiện; làm và kính trọng việc thiện, cùng hợp niềm tin với Bốn Thời, Ngũ Hành của trời đất, các thần đều thương … cùng phong làm thiên thần).” Thanh Thành (青城), nơi phát xuất Đạo Giáo Trung Quốc, được xem như là đô thành Thiên Quốc trên cõi thế. Cho nên tác phẩm Quảng Hoàng Đế Bản Hạnh Ký (廣黃帝本行記) có ghi rằng: “Thanh Thành, Thiên Quốc chi đô (青城、天國之都, Thanh Thành là kinh đô của Thiên Quốc).” Theo tín ngưỡng dân gian, Ngọc Hoàng Đại Đế là vua của các Thần; nhưng trong Đạo Giáo thì chức năng của Ngài là thừa mạng của Tam Thanh (三清), tức Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊), Đạo Đức Thiên Tôn (道德天尊, Thái Thượng Lão Quân [太上老君]) và Linh Bảo Thiên Tôn (靈寶天尊, Thượng Thanh Đại Đế [上清大帝]). Căn cứ vào tác phẩm Vân Cấp Thất Tiêm (雲笈七籤), phần Thiên Địa Bộ (天地部) cho biết rằng Trời có 36 tầng. Trong bài kệ thỉnh chuông chiều có câu: “Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao ngâm, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ (洪鐘初扣、寶偈高吟、上徹天堂、下通地府, chuông chùa mới đánh, kệ báu ngâm vang, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ).” Cho nên, Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký (毗尼日用切要香乳記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1116) quyển Thượng có giải thích rằng: “Kim minh chung thời, trượng Tam Bảo uy lực, nhi linh thử thanh, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ, giai đắc văn dã (今鳴鐘時、仗三寶威力、而令此聲、上徹天堂、下通地府、皆得聞也, nay khi đánh chuông, nương nhờ oai lực Tam Bảo, mà có âm thanh này, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ, thảy đều được nghe).” Trong Đạt Ma Đại Sư Huyết Mạch Luận (達磨大師血脈論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1218) có cho biết rằng: “Thiện ác lịch nhiên, nhân quả phân minh, Thiên Đường Địa Ngục chỉ tại nhãn tiền (善惡歷然、因果分明、天堂地獄只在眼前, thiện ác sáng tỏ, nhân quả rõ ràng, Thiên Đường Địa Ngục chỉ tại trước mắt).”
(狀): là bản văn giải bày sự thật trình lên chư vị Thần, Thánh; theo tục lệ của Đạo Giáo Trung hoa, chỉ dùng để đốt đi, không dùng tuyên đọc. Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam, các bức Trạng vẫn được dùng để tuyên đọc rồi mới đem đốt. Bản văn dùng để trần tình những oan khuất của người mất lên Thiên Đình hay Địa Phủ được gọi là Cáo Âm Trạng (告陰狀). Như trong Hà Điển (何典), hồi thứ 2 có câu: “Thôi Mạng Quỷ cản đáo đương phương Thổ Địa na lí, cáo liễu Âm Trạng (催命鬼趕到當方土地那里、告了陰狀, Thôi Mạng Quỷ đuổi theo đến Thổ Địa phương này vài dặm, đọc xong bản Âm Trạng).” Trong Đạo Giáo, tùy theo đẳng cấp của chư vị thần linh cao thấp mà phân thành 3 loại Trạng: Tấu Trạng (奏狀), Thân Trạng (申狀) và Điệp Trạng (牒狀). (1) Tấu Trạng được dùng cho chư Thần như Tam Thanh (三清), Ngọc Hoàng (玉皇), Câu Trần Tinh Quân (勾陳星官), Tử Vi Đại Đế (紫微大帝), Đông Cực Thái Ất (東極太乙), Nam Cực Trường Sanh Đại Đế (南極長生大帝), Hậu Thổ Hoàng Địa Kỳ (后土皇地祇), Cửu U Bạt Tội Thiên Tôn (九幽拔罪天尊), Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn (朱陵度命天尊), Thập Phương Linh Bảo Thiên Tôn (十方靈寶天尊), Động Uyên Tam Muội Tam Động Thiên Tôn (洞淵三昧三洞天尊), Cửu Thiên Thái Phỏng Quân (九天採訪君), Linh Bảo Tự Nhiên Cửu Thiên Sanh Thần Thượng Đế (靈寶自然九天生神上帝), Tam Thập Nhị Thiên Đế Quân (三十二天帝君), Ngũ Linh Ngũ Lão Ngũ Đế Thiên Quân (五靈五老五帝天君), Mộc Công Tôn Thần (木公尊神), Kim Mẫu Nguyên Quân (金母元君), v.v. (2) Thân Trạng được dùng cho chư vị đẳng cấp thấp hơn như Linh Bảo Tam Sư (靈寶三師), Tam Quan (三官), Nhật Cung Thái Dương Đế Quân (日宮太陽帝君), Nguyệt Cung Thái Âm Đế Quân (月宮太陰帝君), Ngũ Tinh Tứ Diệu Ngũ Đẩu (五星四曜五斗), Nam Đẩu Lục Ty Tinh Quân (南斗六司星君), Bắc Đẩu Cửu Thiên Tinh Hoàng Quân (北斗九天星皇君), Hoàng Lục Viện Tri Viện Chơn Quân (黃籙院知院眞君), Chánh Nhất Tam Sư (正一三師), Tứ Tướng (四相), Tứ Thánh (四聖), Linh Bảo Giám Trai Đại Pháp Sư Chơn Quân (靈寶監齋大法師眞君), Cửu Thiên (九天), Thiên Tào Thái Hoàng Vạn Phuớc Chơn Quân (天曹太皇萬福眞君), Tam Động Kinh Lục Phù Mạng Thượng Thánh Cao Chơn Tiên Linh Tướng Lại (三洞經籙符命上聖高眞仙靈將吏), Tam Thanh Thượng Cảnh Chơn Quân Hoàng Nhân (三清上境眞君皇人), Tam Nguyên Chơn Quân (三元眞君), Thập Chơn Nhân (十眞人), Ngũ Phủ Chơn Tể (五府眞宰), Nam Xương Thượng Cung Thọ Luyện Ty Phủ Chơn Tể (南昌上宮受煉司府眞宰), Ngọc Phủ Ngọc Xu Ngũ Lôi Viện Sứ Chơn Quân (玉府玉樞五雷院使眞君), Thập Phương Vô Cực Phi Thiên Chơn Vương (十方無極飛天眞王), Bắc Âm Huyền Thiên Phong Đô Đại Đế (北陰玄天酆都大帝), Thập Cung Đông Hà Phù Tang Đơn Lâm Đại Đế (十宮東霞扶桑丹林大帝), Tam Nguyên Thủy Phủ Chơn Tể (三元水府眞宰), Bồng Lai Đô Thủy Giám Chơn Nhân (蓬萊都水監眞人), Ngũ Nhạc Thượng Chơn Ty Mạng Tá Mạng Trữ Phó Chơn Quân (五嶽上眞司命佐命儲副眞君), Thanh Hư Động Thiên Tiên Quan (清虛洞天仙官), Địa Phủ Cửu Lũy Thổ Hoàng Quân (地府九壘土皇君), Long Hổ Quân Công Tào Kim Đồng Ngọc Nữ Hương Quan Sứ Giả (龍虎君功曹金童玉女香官使者), Thái Tuế Tôn Thần (太歲尊神), v.v. (3) Điệp Trạng được dùng cho chư vị Thần cấp dưới hơn nữa như Châu Thành Hoàng (州城隍), Huyện Thành Hoàng (縣城隍), Cửu Châu Xã Lịnh (九州社令), các ngục chúa, Thập Phương Đạo Đô Đại Chủ Giả (十方道都大主者), Minh Quan U Lộ Chủ Giả (冥關幽路主者), Ngũ Nhạc Hao Lí Tướng Công (五嶽蒿里相公), Thổ Địa Lí Thành Chơn Quan (土地里域眞官), Phong Đô Lục Đạo Đô Án (酆都六道都案), Tam Giới Chơn Phù Thần Hổ Sứ Giả (三界眞符神虎使者), v.v. Một số Trạng được dùng trong Công Văn Đàn Tràng của Phật Giáo Việt Nam là Trạng Cúng Đảo Bệnh, Trạng Cúng Phù Sứ, Trạng Lục Cung Cúng Khẩm Tháng, Trạng Cúng Quan Sát, Trạng Tống Mộc, Trạng Cúng Tạ Thổ, v.v.
(四府): bốn phủ gồm Đại Tướng Quân Phủ (大將軍府), Thái Úy Phủ (太尉府), Tư Đồ Phủ (司徒府) và Tư Không Phủ (司空府). Có thuyết cho rằng Đại Phó Phủ (大傅府) thay cho Đại Tướng Quân Phủ. Bên cạnh đó, nó còn có nghĩa là 4 mùa xuân, hạ, thu và đông. Tuy nhiên, theo tín ngưỡng đạo Mẫu của Việt Nam, Tứ Phủ, còn gọi là Tứ Phủ Công Đồng (四府公同), gồm có: Thiên Phủ (天府, miền trời), có mẫu đệ nhất (Mẫu Thượng Thiên) cai quản bầu trời, làm chủ các quyền năng làm mây mưa, gió bão, sấm chớp, v.v.; Nhạc Phủ (岳府, miền rừng núi), có mẫu đệ nhị (Mẫu Thượng Ngàn) quản lý miền rừng núi, ban phát của cải cho chúng sanh; Thủy Phủ (水府, miền sông nước), có mẫu đệ tam (Mẫu Thoải) thống lãnh các miền sông nước, giúp ích cho nghề trồng lúa nước cũng như ngư nghiệp; và Địa Phủ (地府, miền đất đai), có mẫu đệ tứ (Mẫu Địa Phủ) cai quản tất cả đất đai, là nguồn gốc của mọi sự sống. Tứ Phủ được thờ tại hầu hết các tự viện ở miền Bắc Việt Nam. Tại Điện Hòn Chén, Thành Phố Huế, Thánh Mẫu Thiên Y A Na, nguyên là nữ thần của người Chăm, cũng được nhập vào hệ thống Tứ Phủ và tôn thờ làm Mẫu Thiên.
(幽冥): tối tăm, u ám; do đó từ này dược dùng để chỉ cho cõi Địa Phủ (地府), Địa Ngục (地獄), nơi tối tăm, u ám. Đạo giáo cho rằng người quản chưởng U Minh thế giới là Phong Đô Đại Đế (酆都大帝). Theo Phật Giáo, Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) được xem như là giáo chủ cõi U Minh, là người thệ nguyện vào cõi Địa Ngục để cứu dộ chúng sanh như trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (地藏菩薩本願經, Taishō No. 412) có dạy rằng: “Địa Ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề (地獄未空誓不成佛,眾生度盡方證菩提, Địa Ngục chưa hết thề không thành Phật, chúng sanh độ tận mới chứng Bồ Đề).” Trong Thiền môn, thỉnh chuông buổi khuya, sáng sớm được gọi là “Thỉnh Chuông U Minh”, nghĩa là thỉnh chuông để cho các chúng sanh trong cõi tối tăm của Địa Ngục được nghe tiếng chuông mà xa lìa khổ đau, chứng quả giải thoát, như trong bài kệ nguyện chuông có dạy rằng: “Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết Vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sanh thành chánh giác (願此鐘聲超法界、鐵圍幽闇悉遙聞、聞塵清淨證圓通、一切眾生成正覺, nguyện tiếng chuông này vang pháp giới, Thiết Vi tăm tối thảy đều nghe, phiền não trong sạch chứng viên thông, hết thảy chúng sanh thành chánh giác)”, và “Văn chung thanh, phiền não khinh, trí huệ trưởng, Bồ Đề sanh, ly Địa Ngục, xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật, độ chúng sanh (聞鐘聲、煩惱輕、智慧長、菩提生、離地獄、出火坑、願成佛、度眾生, nghe tiếng chuông, phiền não buông, trí huệ lớn, Bồ Đề sanh, rời Địa Ngục, thoát lửa than, nguyện thành Phật, độ chúng sanh).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập