Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đạo Chấn »»
(s: śūnya, p: suñña, 空): cái không có thực thể cố định, thiếu tánh thực thể. Trong lịch sử số học, người Ấn Độ phát hiện đầu tiên con số zero (0, không). Từ con số không này, khái niệm số phụ (số âm) được xác lập. Nó được truyền vào Châu Âu thông qua Ả Rập, số học cận đại ra đời và khao học cũng như kỹ thuật tự nhiên cũng theo đó phát triển. Từ śūnya vốn dựa trên cơ sở của śūna, được hình thành từ tiếp đầu ngữ śū (=śvā, śvi, mở rộng, bành trướng), có nghĩa là không hư, rỗng không, khiếm khuyết, nội bộ trống rỗng, v.v. Ý nghĩa này có xuất hiện trong các điển tịch Phật Giáo thời kỳ đầu như: “Hãy phá đi kiến giải chấp trước về tự ngã, và quán sát thế gian là không (Kinh Tập [p: Suttanipāta, 經集] 1119)”; hay “Vào căn nhà trống vắng để trấn tĩnh tâm (Pháp Cú Kinh [p: Dhammapada, 法句經] 373)”, v.v. Đặc biệt, trong Tiểu Không Kinh (小空經) của Trung Bộ (p: Majjhimanikāya, 中部) 121, Trung A Hàm Kinh (中阿含經) quyển 49, có dạy rằng: “Giảng đường này không có bò, nếu nói về bò là không (thiếu khuyết). Tuy nhiên, có Tỳ Kheo; nếu nói về Tỳ Kheo thì chẳng phải là không (có cái còn lại).” Như vậy, cái khiếm khuyết và cái còn lại được xem như là không có. Từ đó, thực tiễn quán pháp gọi là “không” được hướng dẫn vào; Không Tam Muội (空三昧) đồng hành với Vô Tướng Tam Muội (無相三昧) và Vô Nguyện Tam Muội (無願三昧); ba loại Tam Muội này được gọi là Tam Giải Thoát Môn (三解脫門, Ba Cửa Giải Thoát). Đặc biệt, cách dùng này được phục hoạt trong Đại Thừa Phật Giáo thời Trung Kỳ trở đi và lấy chủ trương này để làm căn cứ. Lại nữa, Đại Không Kinh (大空經) của Trung Bộ 122, Trung A Hàm Kinh quyển 49, thể hiện rõ các tướng của Không như Nội Không, Ngoại Không và Nội Ngoại Không. Thêm vào đó, cũng có tư liệu nêu rõ mối quan hệ giữa Không và Duyên Khởi (緣起) như Tương Ưng Bộ (p: Saṁyuttanikāya, 相應部) 20.7, Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經, kinh 1258). Cách dùng về Không trong Bộ Phái Phật Giáo cũng gần tương tự với Phật Giáo thời kỳ đầu, và trong giai đoạn như trình bày ở trên thì Không vẫn chưa đạt đến tư tưởng trung tâm của Phật Giáo. Khi Bát Nhã Kinh (般若經) xuất hiện, Không được phục hồi và chủ trương mạnh. Trong kinh này, Không thể hiện sự phủ định nghiêm khắc, bài trừ đến tận cùng hết thảy mọi cố định. Tác phẩm hình thành hệ thống lý luận Không này là Trung Luận (s: Mādhyamakakārikā, 中論) của Long Thọ (s: Nāgārjuna, 龍樹, khoảng 150-250), v.v. Long Thọ cho rằng hết thảy mọi tồn tại, vận động, cơ năng, yếu tố và các thứ khác, cũng như ngôn ngữ biểu hiện chúng, đều thành lập trên tính quan hệ phức tạp đa dạng hay Duyên Khởi; hơn nữa, tính quan hệ ấy lại mâu thuẩn lẫn nhau, phủ định liên tục để cùng nhau tồn tại. Việc này xảy ra ngay trong đời thường của chúng ta. Nơi đây, tự tánh (thực thể độc lập tồn tại với tự thân nó) theo cái nhìn thực thể về các yếu tố, v.v., hoàn toàn tiêu diệt mất, căn cứ cũng như thật thái của nó là Không, và mối quan hệ Duyên Khởi-Vô Tự Tánh-Không được xác lập; ngôn ngữ với tư cách là Giả thuộc loại quá độ cũng được công nhận. Phật Giáo từ thời Long Thọ trở về sau đã kế thừa tư tưởng Không Quán (空觀) này; không phải chỉ có Ấn Độ mà Đại Thừa Phật Giáo của Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, v.v., tất cả đều triển khai các thuyết theo ảnh hưởng này. Đặc biệt, ở Trung Quốc, xuất hiện tư tưởng “Đạo là không” (Lão Tử [老子] 40), “người thông với Đạo là vô tâm” (Trang Tử [莊子], chương Thiên Địa [天地]), “Đạo chẳng phải có, cũng chẳng phải không” (Trang Tử, chương Tắc Dương [則陽]), v.v. Cho đến Triệu Luận (肇論) giải thích về 3 loại Không là Bổn Vô (本無), Tâm Vô (心無) và Tức Sắc (卽色). Như vậy, Không ở đây có nghĩa là chẳng phải có cũng chẳng phải không có; hơn nữa, nó cũng vừa là có mà cũng vừa là không có. Nhìn thoáng qua, chúng ta thấy như có mâu thuẩn; nhưng đó là phản ánh rõ ràng trưng thực tính giới hạn cũng như tự kỷ mâu thuẩn của hết thảy tồn tại, ngôn ngữ, hiện thực, con người, thế giới, v.v. Đồng thời, Không cũng triệt để tương đối hóa đến bất cứ nơi đâu và thai nghén chí hướng nhắm đến tuyệt đối.
(富永仲基, Tominaga Nakamoto, 1715-1746): học giả và là tư tưởng gia sống vào khoảng giữa thời Giang Hộ; tên là Tử Trọng (子仲); thông xưng là Tam Lang Binh Vệ (三郎兵衛); hiệu Khiêm Trai (謙齋); xuất thân vùng Đại Phản (大阪, Ōsaka). Ông sinh ra trong một gia đình chuyên kinh doanh tương dấm. Phụ thân ông, Cát Tả Binh Vệ (吉左兵衛), là một trong những người sáng lập Hoài Đức Đường (懷德堂). Ban đầu, ông theo học với Tam Trạch Thạch Am (三宅石庵) của Hoài Đức Đường và cuối cùng học về Cổ Văn Từ Học cũng như Phật Giáo. Sau ông mở trường dạy ở nhà và viết các tác phẩm Xuất Định Hậu Ngữ (出定後語), Ông Văn (翁文) để phê phán những việc làm của người đời sau trong ba tôn giáo Nho, Phật, Thần. Ông chủ trương đạo chân thành, phổ biến, không câu nệ vào tôn giáo nào cả; và đã tảo ảnh hưởng to lớn đới với nhóm Bổn Cư Tuyên Trường (本居宣長), Bình Điền Đốc Dận (平田篤胤).
(性海): chỉ cho biển của bản tánh (thật tánh), và lấy đây để tỷ dụ cho lý tánh của chân như sâu rộng như biển cả. Đây cũng là cảnh của Pháp Thân Như Lai. Như trong bài tựa của Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 1 có đoạn: “Văn bất văn ư sanh diệt chi tế, quách quần nghi ư tánh hải, khải diệu giác ư mê tân (聞不聞於生滅之際、廓群疑於性海、啟妙覺於迷津, nghe không nghe nơi sanh diệt ngằn mé, mở nghi ngờ nơi biển tánh, bày giác ngộ nơi bến mê).” Hay trong Đôn Hoàng Biến Văn Tập (敦煌變文集), phần Duy Ma Cật Kinh Giảng Kinh Văn (維摩詰經講經文), cũng có đoạn: “Vấn ngã tâm, quy tánh hải, tánh hải trực ưng phi nội ngoại (問我心、歸性海、性海直應非內外, hỏi tâm ta, về biển tánh, biển tánh trực tiếp chẳng trong ngoài).” Trong bài Quảng Châu Đông Hoàn Huyện Tư Phước Tự Xá Lợi Tháp Minh (廣州東莞縣資福寺舍利塔銘) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống có câu: “Thử thân tánh hải nhất phù âu, ủy thuế như di bất tự thâu (此身性海一浮漚、委蛻如遺不自收, thân này biển tánh bọt nước trôi, lột xác đi rồi lấy được đâu).” Hoặc trong Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) có ghi lại bài kệ của Thiền Sư Nam Nhạc Huệ Tư (南嶽慧思, 515-577) khi thị tịch rằng: “Đạo nguyên bất viễn, tánh hải phi dao, đản hướng kỷ cầu, mạc tùng tha mích, mích tức bất đắc, đắc diệc bất chân, khấu băng cổ Phật (道源不遠、性海非遙、但向己求、莫從他覓、覓卽不得、得亦不眞、扣冰古佛, nguồn đạo chẳng xa, biển tánh rất gần, chỉ hướng mình tìm, chớ theo người khác, tìm thì không được, được cũng chẳng thật, Phật cổ gõ băng).”
(四土): còn gọi là Tứ Phật Độ (四佛土), Tứ Chủng Phật Độ (四種佛土), Tứ Chủng Tịnh Độ (四種淨土), Tứ Chủng Quốc Độ (四種國土); nghĩa là 4 loại quốc độ Phật. Có nhiều thuyết khác nhau về quan niệm này. Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397), Tổ sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, lập ra 4 loại Phật Độ là Phàm Thánh Đồng Cư Độ (凡聖同居土), Phương Tiện Hữu Dư Độ (方便有餘土), Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ (實報莊嚴土), Thường Tịch Quang Độ (常寂光土).
(1) Phàm Thánh Đồng Cư Độ, còn gọi là Nhiễm Tịnh Đồng Cư Độ (染淨同居土), Nhiễm Tịnh Quốc (染淨國); chỉ quốc độ cùng tồn tại chung của hạng phàm phu thuộc hai cõi Trời người và chư vị Thánh như Thanh Văn (s: śrāvaka, 聲聞), Duyên Giác (s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺). Trong đó, cõi này được chia thành 2 loại là tịnh và uế, như thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆) là Đồng Cư Uế Độ (同居穢土), Tây Phương Cực Lạc (西方極樂) là Đồng Cư Tịnh Độ (同居淨土).
(2) Phương Tiện Hữu Dư Độ, còn gọi là Phương Tiện Độ (方便土), Hữu Dư Độ (有餘土); chỉ cho quốc độ của những bậc Thánh tu đạo phương tiện, đã đoạn tận Kiến, Tư, Hoặc như Bích Chi Phật (辟支佛), A La Hán (s: arhat, p: arahant, 阿羅漢), v.v.; nên được gọi là phương tiện (s, p: upāya, 方便), nhưng chưa đoạn tận sự mê mờ về vô minh trần sa, mới có tên là hữu dư (有餘, vẫn còn dư, còn sót). Cõi này còn được gọi là Biến Dịch Độ (變易土).
(3) Thật Báo Vô Chướng Ngại Độ, còn gọi là Thật Báo Độ (實報土), Quả Báo Độ (果報土), là quốc độ của chư vị Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩) đã đoạn trừ một phần của Vô Minh (s: avidyā, p: avijjā, 無明), không có hàng phàm phu của Hai Thừa. Đây là quốc độ tự tại vô ngại của đạo chân thật, nên có tên gọi như vậy.
(4) Thường Tịch Quang Độ, còn gọi là Lý Tánh Độ (理性土); là trú xứ của chư Phật đã đoạn tận căn bản Vô Minh, tức là quốc độ của chư Phật chứng quả Diệu Giác Cứu Cánh. Thường nghĩa là thường có Pháp Thân (s: dharma-kāya, 法身), vốn có thể thường trú; Tịch ở đây là giải thoát, tức hết thảy các tướng vĩnh viễn vắng lặng; Quang là Bát Nhã (s: prajñā, p: paññā, 般若), tức là trí tuệ chiếu soi các tướng; nên cõi này cũng là quốc độ của ba đức Thường Trú (Pháp Thân), Tịch Diệt (Giải Thoát) và Quang Minh (Bát Nhã). Ba đức này có tên là Bí Mật Tạng (秘密藏), là nơi nương tựa của chư Phật Như Lai; vì vậy mới được gọi là Thường Tịch Quang Độ.
Bên cạnh đó, Pháp Thường (法常, 567-645), Trí Nghiễm (智儼, 602-668), Đạo Tuyên (道宣, 596-667) và Huyền Uẩn (玄惲, ?-?, tức Đạo Thế [道世], người soạn bộ Pháp Uyển Châu Lâm [法苑珠林]) có lập ra Tứ Độ khác do chư Phật cư trú, gồm:
(1) Hóa Tịnh Độ (化淨土), do chư Phật biến hiện ra 7 loại báu, 5 Trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc); nhờ thần lực của Phật mà mặt đất mềm mại, không có gò trũng, cát đá, v.v., giống như cõi Tịnh Độ Tây Phương Cực Lạc, tùy theo tâm chúng sanh muốn thấy mà hóa hiện ra; và đây cũng là quốc độ của Hóa Thân (s: nirmāṇa-kāya, 化身).
(2) Sự Tịnh Độ (事淨土), lấy 7 loại báu, 5 Trần làm hình tướng của quốc độ. Trong cõi này, có đầy đủ các loại trân bảo trang nghiêm vi diệu; giả như thế giới bị bốc lửa cháy rực, đức Như Lai trú trong đó vẫn đi kinh hành, vẫn an nhiên đi đứng nằm ngồi, cõi ấy tự nhiên từ trong đất hiện ra nước có Tám Công Đức, làm cho mát mẻ. Đây là quốc độ của Tha Thọ Dụng Thân (他受用身, tức Ứng Thân [s: nirmāṇa-kāya, 應身]).
(3) Thật Báo Tịnh Độ (實報淨土), quốc độ lấy Hai Không là cửa, Ba Tuệ làm con đường ra vào; Xa Ma Tha (s: samatha, 奢摩他, Thiền Định), Tỳ Bát Xá Na (p: vipassanā, 毘鉢舍那, Quán) làm cỗ xe; Căn Bản Vô Phân Biệt Trí (根本無分別智) làm dụng. Đây là quốc độ của Tự Thọ Dụng Thân (自受用身, tức Báo Thân [s: sambhoga-kāya, 報身]).
(4) Pháp Tánh Tịnh Độ (法性淨土), quốc độ lấy chân như làm thể, là cõi của Pháp Thân.
Ngoài ra, Duy Thức Tông lại lập ra 4 loại quốc độ khác là:
(1) Pháp Tánh Độ (法性土), còn gọi là Tự Tánh Thân Y Pháp Tánh Độ (自性法身依法性土). Tự Tánh Thân tức là Pháp Thân, lấy tự tánh chân như làm thân, thể không sai biệt, không bị sắc tướng thâu nhiếp, giống như hư không, biến khắp tất cả nơi.
(2) Tự Thọ Dụng Độ (自受用土), còn gọi là Tự Thọ Dụng Thân Y Tự Thọ Dụng Độ (自受用身依自受用土), tức là Thật Báo Độ (實報土), là do đức Phật lấy Tương Ứng Tịnh Thức (相應淨識) tu mà thành tựu nên; từ khi mới thành Phật cho đến tận cùng tương lai, liên tục biến thành quốc độ Phật thuần tịnh, chu vi không giới hạn, các loại báu trang nghiêm. Tự Thọ Dụng Thân nương vào cõi này mà trú.
(3) Tha Thọ Dụng Độ (他受用土), còn gọi là Tha Thọ Dụng Thân Y Tha Thọ Dụng Độ (他受用身依他受用土), cũng là Thật Báo Độ. Đức Phật lấy năng lực đại từ bi, tùy theo sự thích nghi của các Bồ Tát trong Thập Địa (s: daśa-bhūmi, 十地) mà biến thành cõi Tịnh Độ. Tha Thọ Dụng Thân nương vào cõi này mà trú.
(4) Biến Hóa Độ (變化土), còn gọi là Biến Hóa Thân Y Biến Hóa Độ (變化身依變化土). Đức Phật lấy năng lực đại từ bi, tùy theo sự thích nghi của chúng sanh có duyên mà biến hóa thành.
Trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) quyển 3 có đoạn: “Tứ Độ Liên Hoa Tứ Độ hương, độ trung các các kiến Từ Vương, Quan Âm thường hoán si nhân tỉnh, Đại Thế tần thôi liên ngạc phương, tự tại nhàn vân Tam Muội đắc, thanh u Cam Lộ nhất tâm lương (四土蓮花四土香、土中各各見慈王、觀音常喚癡人醒、大勢頻催蓮萼芳、自在閒雲三昧得、清幽甘露一心涼, Bốn Cõi Hoa Sen Bốn Cõi thơm, cõi ấy mỗi mỗi thấy Từ Vương, Quan Âm thường gọi người mê tỉnh, Thế Chí luôn bày sen ngát hương, tự tại mây nhàn Tam Muội chứng, an lành Cam Lộ tâm mát trong).” Hay trong Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tuyển Định Tịnh Độ Thập Yếu (靈峰蕅益大師選定淨土十要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 61, No. 1164) quyển 9 có câu: “Nhất chân pháp giới tánh, bất biến năng tùy duyên, Tam Thân cập Tứ Độ, tất do tâm biến khởi (一眞法界性、不變能隨緣、三身及四土、悉由心變起, tánh pháp giới nhất chân, chẳng biến thường tùy duyên, Ba Thân và Bốn Cõi, tất do tâm biến hóa).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.125 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập