Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đàn Na »»
(寶鼎): có ba nghĩa chính. (1) Cái đỉnh thời cổ đại. Nguyên nó là đồ dùng để nấu, về sau được dùng tượng trưng cho quyền uy chính trị, nên gọi là bảo đỉnh. Như trong bài thơ Nhâm Tý Thu Quá Cố Cung (壬子秋過故宮) của Tống Nột (宋訥, 1311-1390) nhà Minh có câu: “Bảo đỉnh bách niên quy Hán thất, cẩm phàm chung cổ tợ Tùy gia (寶鼎百年歸漢室、錦帆終古似隋家, đỉnh báu trăm năm về Hán thất, buồm gấm muôn thuở giống Tùy gia).” Hoặc trong Vô Minh Huệ Kinh Thiền Sư Ngữ Lục (無明慧經禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1432) quyển 2 lại có câu: “Thiên quân bảo đỉnh phù thương hải, nhất trượng quy mao phược thái hư (千鈞寶鼎浮滄海、一丈龜毛縛太虛, ngàn cân đỉnh báu trôi xanh biển, một gậy lông rùa cột hư không).” (2) Chỉ lò hương, vì chế theo hình cái đỉnh, nên có tên như vậy. Như trong Nhị Bộ Tăng Thọ Giới Nghi Thức (二部僧授戒儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1134) quyển Hạ có đoạn: “Bảo đỉnh nhiệt danh hương, phổ biến thập phương, kiền thành phụng hiến pháp trung vương, đoan vi Hoàng vương chúc Thánh thọ, địa cửu thiên trường, đoan vi Hoàng vương chúc Thánh thọ, địa cửu thiên trường (寶鼎熱名香、普遍十方、虔誠奉獻法中王、端爲皇王祝聖壽、地久天長、端爲皇王祝聖壽、地久天長, lò báu ngút hương thơm, cúng khắp mười phương, lòng thành dâng cúng đấng pháp vương, thảy vì Hoàng đế chúc trường thọ, trời đất dài lâu, thảy vì Hoàng đế chúc trường thọ, trời đất dài lâu).” (3) Chỉ cái lò do các Đạo sĩ dùng để luyện đan nấu thuốc. như trong bài thơ Xuân Nhật Tạp Cảm (春日雜感) của Trình Thiện Chi (程善之, 1880-1942) có câu: “Bảo đỉnh luyện thần dược, bất như thủ trung chi (寶鼎煉神藥、不如手中卮, lò báu luyện thần dược, chẳng bằng chén trong tay).”
(寶座): tòa báu, là loại tọa cụ (đồ dùng để ngồi) chuyên dùng cho đế vương, còn gọi là bảo ỷ (寶椅, ghế báu). Đây là một dạng ghế ngồi cỡ lớn, có trang sức văn hoa rực rỡ, trang nghiêm để hiển thị sự tôn quý đối với đấng thống trị. Nó còn được dùng để chỉ cho chỗ ngồi của các đấng linh thiêng như Thần, Phật, Bồ Tát, v.v. Về sau, từ này được dùng chỉ chung cho chỗ ngồi của những nhân vật có địa vị tôn quý, quan trọng. Như trong Hoa Nghiêm Cương Yếu (華嚴綱要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 240) quyển 79 có đoạn: “Huyền A Tăng Kỳ bảo kính, nhiên A Tăng Kỳ bảo đăng, bố A Tăng Kỳ bảo y, liệt A Tăng Kỳ bảo trướng, thiết A Tăng Kỳ bảo tòa (懸阿僧祇寶鏡、然阿僧祇寶燈、布阿僧祇寶衣、列阿僧祇寶帳、設阿僧祇寶座, treo A Tăng Kỳ kính báu, đốt A Tăng Kỳ đèn báu, trãi A Tăng Kỳ y báu, bày A Tăng Kỳ màn báu, thiết A Tăng Kỳ tòa báu).” Hay trong Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1594) quyển 8, phần Lục Tổ Di Giá Ca Truyền Pháp Bà Tu Mật (六祖彌遮迦傳法婆須蜜) có câu: “Ngã tư vãng kiếp, thường tác Đàn Na, hiến nhất Như Lai bảo tòa (我思往劫、嘗作檀那、獻一如來寶座, ta nhớ kiếp xưa kia, thường làm thí chủ, dâng cúng tòa báu cho một đấng Như Lai).” Trong Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (天聖廣燈錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1553) quyển 3, phần Đệ Thập Tổ Hiếp Tôn Giả (第十祖脅尊者), lại có đoạn rằng: “Trung Ấn Độ nhân dã, bổn danh Nan Sanh, sơ Tôn giả tương đản, phụ mộng nhất bạch tượng, bối hữu bảo tòa, tòa thượng an nhất minh châu, tùng môn nhi nhập, quang chiếu tứ chúng (中印土人也、本名難生、初尊者將誕、父夢一白象、背有寶座、座上安一明珠、從門而入、光照四眾, Tôn giả xuất thân người miền Trung Ấn Độ, tên thật là Nan Sanh; ban đầu khi Tôn giả vừa mới ra đời, phụ thân mơ thấy một con voi trắng, trên lưng có tòa báu, trên tòa ấy có viên ngọc sáng, từ cửa lớn đi vào, ánh sáng chiếu khắp bốn chúng).”
(菩提寺, Bodai-ji): còn gọi là Đàn Na Tự (檀那寺), Đán Na Tự (旦那寺), Bồ Đề Sở (菩提所), Hương Hoa Viện (香花院). Đối với Phật Giáo Nhật Bản, Bồ Đề Tự chỉ cho ngôi tự viện cầu nguyện siêu độ, hoặc chỉ cho ngôi chùa có các ngôi mộ của tổ tiên qua các đời, là ngôi chùa chuyên lo việc tống táng, cúng dường làm phước thiện cho một gia tộc đã quy y từ đời này sang đời khác.
(檀家制度, Danka-seido, Đàn Gia Chế Độ): chế độ thắt chặt mối quan hệ giữa chùa chiền với tín đồ Phật tử theo điều kiện do các tự viện tiến hành một cách độc chiếm việc tang tế cúng dường của nhà Đàn Việt (Phật tử tại gia) kể từ thời Giang Hộ trở đi. Nguyên do thành lập nên chế độ này vốn phát xuất từ chính sách đàn áp Thiên Chúa Giáo của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ; và tự viện là trợ lực trong việc thi hành chính sách này. Chế độ này sớm được thành lập vào năm 1634 (Khoan Vĩnh [寛永] 11), và 4 năm sau thì được tiến hành rộng rãi trên toàn quốc. Đối với người không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo thì bắt buộc phải có Bản Chứng Minh Chùa Công Nhận vốn do vị trú trì chùa ấy bảo chứng về thân phận người đó. Với khế cơ đó, các tự viện đã thành công trong việc cố định được những người sống gần chùa trở thành tín đồ của chùa. Việc này gọi là Chế Độ Xin Chùa Công Nhận (寺請制度, Terauke-seido). Sau đó, khi chính sách đàn áp Thiên Chúa Giáo của chính quyền Mạc Phủ càng được tăng cường ráo riết, thì quyền hạn của các tự viện cũng từ từ lớn mạnh thêm lên. Trong hai năm 1659 (Vạn Trị [萬治] 2) và 1662 (Khoan Văn [寛文] 2), theo như pháp chế của chính quyền Mạc Phủ thì Bồ Đề Tự (菩提寺, Bodai-ji) có trách nhiệm trong việc làm cho cải đổi tông môn của tín đồ Thiên Chúa Giáo; vì thế quyền hạn của của chùa lại càng vững mạnh hơn thêm. Đến năm 1687 (Trinh Hưởng [貞享] 4), pháp chế của chính quyền nêu rõ rằng nhà tín đồ phải có nghĩa vụ đến tham bái ngôi chùa mình quy y theo, tổ chức lễ kỵ giỗ cho song thân tại chùa, v.v. Nếu ai không chấp nhận quy chế như vậy thì sẽ bị loại trừ ra khỏi danh sách nhà Đàn Việt, bị dán cho nhãn hiệu là tín đồ Thiên Chúa Giáo và bị xử phạt. Hơn nữa, khoảng vào năm 1730 (Hưởng Bảo [享保] 15), phía các tự viện lại chế ra Luật Tông Môn Đàn Na Thỉnh Hợp, để nói rõ về những nghĩa vụ của người tín đồ đối với ngôi chùa của mình thế nào. Đó là những quy định như hằng ngày đến tham bái, tham dự các buổi lễ kỵ giỗ hằng năm, kỵ Tổ sư, ngày Phật Đản, ngày đức Thích Ca Nhập Niết Bàn, Vu Lan, v.v. Ngoài ra, người tín đồ buộc phải đảm đương về mặt kinh tế với nhiều danh mục như tiền xây dựng cũng như tân trang cùa chiền, tiền cống nạp cho ngôi chùa trung tâm bản sơn, v.v. Đương nhiên, việc tách ly khỏi chùa hay chuyển sang chùa khác thì bị nghiêm khắc cấm chỉ, còn người tín đồ thì không có quyền hạn lựa chọn ngôi chùa mình muốn theo. Nói tóm lại, Chế Độ Nhà Đàn Việt của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ ban ra là chế độ do các tự viện quản lý một cách hoàn toàn các tín đồ tại gia, là tổ chức do tín đồ góp công nuôi sống các tự viện. Từ cuối thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1911) trở đi, chế độ này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay dưới hình thức môi giới nghi lễ tống táng. Tuy nhiên, do vì hàng tín đồ di chuyển chỗ ở của họ, rồi những công viên mộ tập thể ra đời, nên cũng có nhiều trường hợp thoát ly khỏi ngôi chùa họ quy y theo. Còn ở vùng nông thôn, trong số những ngôi chùa xưa nay nương nhờ vào sự bảo trợ của Chế Độ Nhà Đàn Việt này để tồn tại, thì cũng có không ít chùa đã trở thành hoang phế. Hơn nữa, ngày nay việc lo tống táng phần nhiều đều do các Công Ty Mai Táng đảm trách; nên nếu nói về mặt tín ngưỡng thì người tín đồ có quyền chọn lựa. Thêm vào đó, các nghi lễ tống táng theo kiểu Thần Đạo, Thiên Chúa Giáo, tân tôn giáo hay vô tôn giáo cũng rất thịnh hành; vì thế Chế Độ Nhà Đàn Việt do vị Trú Trì nắm quyền chủ đạo như dưới thời Giang Hộ, thì nay không còn nữa.
(s, p: candana, 栴檀 hay 旃檀): âm dịch là Chiên Đàn Na (栴檀那), Chơn Đàn (眞檀), là tên của một loại cây có hương thơm ở các vùng nhiệt đới như Ấn Độ, v.v. Nó là loại thực vật, cây rất to lớn, cao đến mấy trượng, gỗ của nó có mùi thơm ngào ngạt, thuộc khoa Sơn Trà (山茶). Người ta thường dùng nó để tạc tượng Phật và Bồ Tát, còn rễ của nó thì nghiền thành bột làm hương. Có các loại như Hoàng Đàn (黃檀), Bạch Đàn (白檀), Xích Đàn (赤檀), Tử Đàn (紫檀), v.v., phần lớn được dùng làm thuốc. Như cây Bạch Đàn thì trị bệnh sốt, còn Xích Đàn thì trị phù thủng. Nếu nói về hương thì loại Bạch Đàn là thơm nhất. Trong Ngũ Khổ Chương Cú Kinh (五苦章句經, hay Tịnh Trừ Tội Cái Ngu Lạc Phật Pháp Kinh [淨除罪盍娛樂佛法經], do Trúc Đàm Vô Lan [竺曇無蘭] nhà Đông Tấn dịch) có giải thích về loại thực vật quý hiếm này rằng: “Mạc quá Chiên Đàn, kỳ hương vô lượng, hương giá quý ư Diêm Phù Đề kim; hựu liệu nhân bệnh, nhân hữu trú độc, đầu thống thể nhiệt, ma chiên đàn tiết, dĩ đồ kỳ thượng; nhược dĩ phục chi, bệnh tức trừ dũ, nhất thiết chúng sanh, mạc bất nguyện đắc; hữu nhân đại đắc Chiên Đàn Hương thọ, thúc tân mại chi, vô mãi chi giả; Phật tại thế thời, sở thuyết kinh pháp, linh nhân đắc đạo, vô bất độ giả; bát Nê Hoàn hậu, thập nhị bộ kinh, lưu tại thế gian, động hữu quyển số, vô nhân thị giả, diệc như Chiên Đàn, thúc tân mại chi, vô hữu mãi chi giả dã (莫過栴檀、其香无量。其香無量、香价贵于阎浮提金。香價貴於閻浮提金、又疗人病。又療人病、人有中毒。人有中毒、头痛体热。頭痛體熱、磨栴檀屑。磨栴檀屑、以涂其上。以塗其上、若以服之。若以服之、病即除愈。病卽除愈、一切众生。一切眾生、莫不愿得。莫不願得、有人大得栴檀香树。有人大得栴檀香樹、束薪卖之。束薪賣之、无买之者。無買之者、佛在世时。佛在世時、所说经法。所說經法、令人得道。令人得道、无不度者。無不度者、般泥洹后。般泥洹後、十二部经。十二部經、留在世间。留在世間、动有卷数。動有捲數、无人视者。無人視者、亦如栴檀。亦如栴檀、束薪卖之。束薪賣之、无有买之者也。無有買之者也, chớ có xem thường Chiên Đàn, hương thơm của nó vô lượng, hương giá quý như vàng của cõi Diêm Phù Đề; lại có thể trị được bệnh con người, có người trúng độc, đầu đau thân thể phát nóng, mài bột Chiên Đàn, đem thoa lên chỗ đau nhức; nếu uống nó vào, bệnh tức giảm ngay; hết thảy chúng sanh, nên cầu nguyện để có được; có người may được một cây Chiên Đàn Hương, bó thành củi đem bán, chẳng ai mua nó cả; khi đức Phật còn tại thế, các kinh pháp do ngài thuyết, giúp người đắc đạo, chẳng ai không được độ; sau khi ngài nhập Niết Bàn, mười hai bộ kinh, lưu lại thế gian, có rất nhiều quyển, chẳng ai dòm ngó đến; cũng như Chiên Đàn, bó thành củi đem bán, chẳng ai thèm mua cả vậy).”
(九幽): chín tầng địa ngục tối tăm. Theo Thượng Thanh Linh Bảo Tế Độ Đại Thành Kim Thư (上清靈寶濟度大成金書) có giải thích rằng: “Cửu U giả, nãi Bắc Đẩu chi sở hóa dã; đông viết U Minh, nam viết U Âm, tây viết U Dạ, bắc viết U Phong, đông bắc viết U Đô, đông nam viết U Trị, tây nam viết U Quan, tây bắc viết U Phủ, trung ương viết U Ngục (九幽者、乃北斗之所化也、東曰幽冥、南曰幽陰、西曰幽夜、北曰幽酆、東北曰幽都、東南曰幽治、西南曰幽關、西北曰幽府、中央曰幽獄, Cửu U là do Bắc Đẩu hóa thành; phương đông có U Minh, phương nam có U Âm, phương tây có U Dạ, phương bắc là U Phong, phương đông là U Đô, phương đông bắc là U Đô, phương đông nam là U Trị, phương tây nam là U Quan, phương tây bắc là U Phủ, ở trung ương là U Ngục).” Cho nên, trong nghi thức phá địa ngục của Đạo Giáo có “Cửu U Đăng Nghi (九幽燈儀).” Như trong bài kệ nguyện chuông buổi sáng được dùng trong các tự viện Phật Giáo có câu: “Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao ngâm, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ, thượng chúc chư Phật Bồ Tát quang chiếu càn khôn, hạ tư pháp giới chúng sanh đồng nhập Nhất Thừa, Tam Giới Tứ Sanh chi nội, các miễn luân hồi, Cửu U Thập Loại chi trung, tất ly khổ hải, ngũ phong thập vũ, miễn tao cơ cẩn chi niên, nam mạch đông giao, câu chiêm Nghiêu Thuấn chi nhật, can qua vĩnh tức, giáp mã hưu chinh, trận bại thương vong, câu sanh Tịnh Độ, phi cầm tẩu thú, la võng bất phùng, lãng tử cô thương, tảo hoàn hương tỉnh, vô biên thế giới, địa cửu thiên trường, viễn cận đàn na, tăng diên phước thọ (洪鐘初叩、寶偈高吟、上徹天堂、下通地府、上祝諸佛菩薩光照乾坤、下資法界眾生同入一乘、三界四生之內、各免輪回、九幽十類之中、悉離苦海、五風十雨、免遭飢饉之年、南陌東郊、俱瞻堯舜之日、干戈永息、甲馬休征、陣敗傷亡、俱生淨土、飛禽走獸、羅網不逢、浪子孤商、早還鄉井、無邊世界、地久天長、遠近檀那、增延福壽, chuông vừa mới đánh, kệ báu ngâm cao, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ, trên chúc chư Phật Bồ Tát chiếu sáng càn khôn, dưới ban pháp giới chúng sanh cùng vào Nhất Thừa, trong chốn Ba Cõi Bốn Loài, đều miễn luân hồi; Mười Loại Cửu U Địa Ngục, tất rời biển khổ, năm gió mười mưa, miễn gặp nghèo đói hằng năm, bờ nam cõi đông, đều hưởng trọn ngày Nghiêu Thuấn, can qua mãi dứt, ngựa chiến dừng chân, bại trận chết thương, thảy sanh Tịnh Độ, chim bay thú chạy, lưới bẫy thôi sa, lãng tử buôn xa, sớm về quê cũ, vô biên thế giới, trời đất lâu dài, đàn na xa gần, tăng trưởng phước thọ).”
(檀度): Đàn là từ viết tắt của Đàn Na (s, p: dāna, 檀那), nghĩa là bố thí; Độ là ý dịch của từ Ba La Mật (s, p: pāramitā, 波羅蜜), nghĩa là Đáo Bỉ Ngạn (到彼岸, đạt đến bờ bên kia của Niết Bàn). Cho nên, Đàn Độ là Bố Thí Ba La Mật, một trong 6 hạnh tu của vị Bồ Tát. Nếu thực hành trọn vẹn hạnh bố thí, các hạnh kia đều được thâu nhiếp. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh Tập Giải (大般涅槃經集解, Taishō No. 1763) quyển 4 có câu: “Nhược Đàn Độ tất thành, thị tắc trưởng dưỡng tương lai Pháp Thân dã (若檀度必成、是則長養將來法身也, nếu Bố Thí thành tựu, ắt sẽ nuôi lớn Pháp Thân của tương lai vậy).” Hay trong Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ Kinh (妙法聖念處經, Taishō No. 722) quyển 4 cũng có dạy rằng: “Nhược phục hữu nhân, tu tập Đàn Độ, ư đương lai thế, tài vật cụ túc, ly chư tổn hoại (若復有人、修習檀度、於當來世、財物具足、離諸損壞, nếu lại có người, tu tập bố thí, trong đời tương lai, lìa các tổn thất).”
(覺運, Kakuun, 953-1007): học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa thời Bình An, vị tổ của Dòng Đàn Na (檀那流), húy Giác Vận (覺運), thông xưng là Đàn Na Tăng Chánh (檀那僧正), xuất thân kinh đô Kyōto, con của Đằng Nguyên Trinh Nhã (藤原貞雅). Sau khi xuất gia, ông lên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), làm việc cho hội Quảng Học Thụ Nghĩa (廣學竪義, Kōgakuryūgi) với tư cách là người có học thức cao và để lại khá nhiều trước tác. Vì ông trú tại Đàn Na Viện (檀那院) ở Tây Tháp, nên pháp phái của ông được gọi là Dòng Đàn Na; và cùng sánh ngang hàng với Dòng Huệ Tâm (惠心流) của Nguyên Tín (源信, Genshin), cả hai được gọi là Nhị Đại Học Lưu (二大學流, hai dòng phái học thức lớn). Ông đã từng làm Giảng Sư tại các pháp hội như giảng nghĩa về Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀) cho Tướng Quân Đằng Nguyên Đạo Trưởng (藤原道長) nghe và gần gủi với tầng lớp quý tộc trong cung nội. Trước tác của ông có Chỉ Quán Khám Văn (止觀勘文) 1 quyển, Niệm Phật Bảo Hiệu (念佛寳號) 1 quyển, Thảo Mộc Phát Tâm Tu Hành Thành Phật Ký (草木發心修行) 1 quyển, Thập Nhị Nhân Duyên Nghĩa Tư Ký (十二因緣義私記) 1 quyển, Nhất Tâm Tam Quán Ký (一心三觀記) 1 quyển, v.v.
(s: ṣaḍ-pāramitā, ṣaṭ-pāramitā, 六度): tức Lục Ba La Mật (六波羅蜜), Lục Ba La Mật Đa (六波羅蜜多), Lục Độ Ba La Mật (六度波羅蜜), còn gọi là Lục Độ Vô Cực (六度無極), Lục Đáo Bỉ Ngạn (六到彼岸). Ba La Mật (s, p: pāramitā, 波羅蜜) dịch là Độ (度), nghĩa là đáo bỉ ngạn (到彼岸, đến bờ bên kia), tức là đạt thành, hoàn thành lý tưởng. Đây là 6 pháp tu hành thật tiễn để thành Phật đạo của vị Bồ Tát, được giải thích rất rõ trong Phật Thuyết Bồ Tát Nội Tập Lục Ba La Mật Kinh (佛說菩薩內習六波羅蜜經, Taishō No. 778), gồm:
(1) Bố Thí Ba La Mật (s, p: dāna-pāramitā, 布施波羅蜜), còn gọi là Thí Ba La Mật (施波羅蜜), Đàn Ba La Mật (檀波羅蜜), Đàn Na Ba La Mật (檀那波羅蜜), Bố Thí Độ Vô Cực (布施度無極); có 3 loại bố thí là Tài Thí (財施, bố thí về tiền tài, vật chất), Pháp Thí (法施, bố thí lời dạy, giáo lý để tu tập và đạt được chân lý) và Vô Úy Thí (無畏施, bố thí sự không sợ hãi, giúp cho mọi người an tâm), để đối trị với sự tham lam, keo kiệt và tiêu trừ sự bần cùng.
(2) Trì Giới Ba La Mật (s: śīla-pāramitā, p: sīla-pāramitā, 持戒波羅蜜), còn gọi là Giới Ba La Mật (戒波羅蜜), Thi La Ba La Mật (尸羅波羅蜜), Giới Độ Vô Cực (戒度無極); giữ gìn giới luật đã lãnh thọ, thường tự tỉnh thức, có thể đối trị ác nghiệp, khiến cho thân tâm thanh tịnh.
(3) Nhẫn Nhục Ba La Mật (s: kṣānti-pāramitā, p: khantī-pāramitā, 忍辱波羅蜜), hay Nhẫn Ba La Mật (忍波羅蜜), Sàn Đề Ba La Mật (孱提波羅蜜), Nhẫn Nhục Độ Vô Cực (忍辱度無極); nghĩa là nhẫn nại, chịu đựng các sự bức hại, đối trị sân hận, nóng nảy, giúp cho tâm an trú.
(4) Tinh Tấn Ba La Mật (s: vīrya-pāramitā, p: virya-pāramitā, 精進波羅蜜), hay Tấn Ba La Mật (進波羅蜜), Tỳ Lê Da Ba La Mật (毘梨耶波羅蜜), Tinh Tấn Độ Vô Cực (精進度無極), nỗ lực tinh tấn tiến lên, bất khuất, không thối chí; giúp đối trị sự lười biếng, sinh trưởng các pháp lành.
(5) Thiền Định Ba La Mật (s: dhyāna-pāramitā, p: jhāna-pāramitā, 禪定波羅蜜), hay Thiền Ba La Mật (禪波羅蜜), Thiền Na Ba La Mật (禪那波羅蜜), Thiền Độ Vô Cực (禪度無極); nghĩa là tu tập Thiền định, có thể đối trị sự loạn tâm, giúp cho tâm được an định.
(6) Trí Tuệ Ba La Mật (s: prajñā-pāramitā, p: paññā-pāramitā, 智慧波羅蜜), hay Tuệ Ba La Mật (慧波羅蜜), Bát Nhã Ba La Mật (般若波羅蜜), Minh Độ Vô Cực (明度無極).
Sáu pháp này được thuyết đầu tiên trong kinh Bát Nhã và một số kinh điển Đại Thừa khác và được xem như là hạnh lý tưởng của Phật Giáo Đại Thừa. Đặc biệt, căn bản của các hạnh này có trong Bát Nhã Ba La Mật, và hạnh từ bi vốn căn cứ trên cở sở của Bát Nhã là nội dung của Lục Độ. Trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論) có đoạn: “Lục Ba La Mật giả, tức tịnh Lục Căn dã; Hồ danh Ba La Mật, Hán danh Đạt Bỉ Ngạn, dĩ Lục Căn thanh tịnh, bất nhiễm Lục Trần, tức thị độ phiền não hà, chí Bồ Đề ngạn, cố danh Lục Ba La Mật (六波羅蜜者、卽淨六根也、胡名波羅蜜、漢名達彼岸、以六根清淨、不染六塵、卽是度煩惱河、至菩提岸、故名六波羅蜜, Sáu Ba La Mật tức là làm trong sạch Sáu Căn; người Hồ [Ấn Độ] gọi là Ba La Mật, người Hán [Trung Quốc] gọi là đạt đến bờ bên kia; vì Sáu Căn trong sạch, không nhiễm Sáu Trần, tức là qua được sông phiền não, đến bờ Bồ Đề; cho nên có tên là Sáu Ba La Mật).” Hay như trong Duy Tâm Tập (唯心集, CBETA No. 1208) có đoạn: “Nhất cú A Di Đà, vạn thiện đồng đăng; nhất cú A Di Đà, Lục Độ tề hành; nhất cú A Di Đà, tịnh uế trừng thanh; nhất cú A Di Đà, Đông Tây hợp tinh; nhất cú A Di Đà, bao quát cổ kim; nhất cú A Di Đà, hàm cái càn khôn; nhất cú A Di Đà, chứng nhập vô sanh (一句阿彌陀、萬善同登、一句阿彌陀、六度齊行、一句阿彌陀、淨穢澄清、一句阿彌陀、東西合并、一句阿彌陀、包括古今、一句阿彌陀、函蓋乾坤、一句阿彌陀、證入無生, một câu A Di Đà, vạn thiện cùng lên; một câu A Di Đà, Lục Độ cùng hành; một câu A Di Đà, sạch nhớp lắng trong; một câu A Di Đà, Đông Tây hợp lại; một câu A Di Đà, bao quát cổ kim; một câu A Di Đà, trùm khắp càn khôn; một câu A Di Đà, chứng vào vô sanh).”
(玉燭): có 3 nghĩa chính. (1) Chỉ cho bốn mùa khí tiết điều hòa, thông suốt; hình dung cuộc sống thái bình, thịnh vượng. Như trong Nhĩ Nhã (爾雅), chương Thích Thiên (釋天) có câu: “Tứ khí hòa, chánh quang chiếu, thử chi vị ngọc chúc (四氣和、正光照、此之謂玉燭, bốn mùa điều hòa, ánh sáng chiếu tỏ, đây gọi là ngọc chúc).” Học giả trứ danh Quách Phác (郭璞, 276-324) nhà Tây Tấn chú thích là: “Đạo quang chiếu (道光照, bảo là ánh sáng chiếu tỏ).” Hình Bỉnh (邢昺, 932-1010) nhà Bắc Tống lại giải thích rõ thêm rằng: “Đạo quang chiếu giả, đạo, ngôn dã; ngôn tứ thời hòa khí, ôn nhuận minh chiếu, cố viết ngọc chúc (道光照者、道、言也、言四時和氣、溫潤明照、故曰玉燭, đạo quang chiếu, đạo có nghĩa là nói, nói rõ bốn mùa khí tiết điều hòa, ấm áp, ẩm ướt, chiếu sáng, nên gọi là ngọc chúc).” Trong bài Thượng Chấp Chính Tứ Thập Vận (上執政四十韻) của Nhã Hổ (雅琥, ?-?) nhà Nguyên có câu: “Ngọc chúc điều nguyên khí, kim xu vận đại quân (玉燭調元氣、金樞運大鈞, nến ngọc điều khí tiết, đức vua vận muôn dân).” (2) Từ mỹ xưng của cây nến. Như trong bài thơ Kim Tỏa (金鎖) của cung nhân thời vua Hy Tông (僖宗, tại thế 862-888) nhà Đường có câu: “Ngọc chúc chế bào dạ, kim đao ha thủ tài (玉燭製袍夜、金刀呵手裁, đèn ngọc suốt đêm chế áo bào, đao vàng tay cắt than buốt đau).” (3) Tỷ dụ cho ánh sáng con mắt. Như trong bài thơ Bệnh Mã (病馬) của Tào Đường (曹唐, ?-?) nhà Đường có câu: “Tứ đề bất tạc kim châm liệt, song nhãn dong khai ngọc chúc tà (四蹄不鑿金砧裂、雙眼慵開玉燭斜, bốn móng chẳng đục chày vàng nẻ, hai mắt lững lờ ánh sáng mờ).” Trong Liễu Đường Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (了堂惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1417) quyển 1 có đoạn: “Cung nguyện, kim luân thống ngự, thọ đẳng càn khôn, ngọc chúc quân điều, minh du nhật nguyệt (恭願、金輪統御、壽等乾坤、玉燭均調、明踰日月, kính mong đức vua ngự mãi, thọ bằng càn khôn, đèn ngọc thường soi, sáng hơn nhật nguyệt).” Hay trong Lễ Phật Nghi Thức (禮佛儀式, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1492) cũng có đoạn: “Duy nguyện hoàng đồ củng cố, đế đạo hà xương, văn võ lộc tăng, hưng long Tam Bảo, ngọc chúc thường điều, sĩ dân lạc nghiệp, đàn na diễn khánh, bất phùng Tam Tai Bát Nạn, chí thành vô thượng bồ đề (惟願皇圖鞏固、帝道遐昌、文武祿增、興隆三寶、玉燭常調、士民樂業、檀那衍慶、不逢三災八難、至成無上菩提, cúi mong cơ đồ củng cố, đạo vua sáng ngời, văn võ lộc thêm, hưng thịnh Tam Bảo, đèn ngọc thường soi, muôn dân lạc nghiệp, thí chủ vui mừng, chẳng gặp Ba Tai Tám Nạn, chứng quả vô thượng bồ đề).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập