Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đàm Hoa »»
(金爐): lò vàng dùng để đốt giấy tiền vàng bạc khi dân chúng đến tham bái. Tạo hình bên ngoài Kim Lô ở Miếu Thành Hoàng (城隍廟) lấy màu hồng làm chính. Trên đỉnh lò có tòa nhà lục giác ba tầng: tầng thứ nhất lên đến đỉnh lò, mỗi góc đều có hình con rồng bay; tầng thứ hai lên đến đỉnh lò, mỗi góc có hình con chim phụng bay; tầng thứ ba, mỗi góc đều có hình hoa. Kim Lô và Hương Lô (香爐, lò hương) hoàn toàn khác nhau về chức năng. Lò Hương chủ yếu để cắm hương. Lò Hương cỡ lớn thì có điêu khắc hình con rồng trên đó và được đúc bằng đồng. Trong khi đó, Kim Lô chủ yếu dùng để đốt các loại giấy tiền vàng mã và hầu hết mỗi đền miếu đều có. Loại Kim Lô ở các đền miếu được chế tạo bằng gốm sứ. Như trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn: “Giới Định chơn hương, phần khí xung thiên thượng, thí chủ kiền thành, nhiệt tại kim lô phóng, khoảnh khắc nhân uân, tức biến mãn thập phương, tích nhật Da Du, miễn nạn trừ tai chướng (戒定眞香、焚氣衝天上、施主虔誠、爇在金爐放、頃刻氛氤、卽遍滿十方、昔日耶輸、免難除災障, Giới Định chơn hương, khí đốt xông trời đất, thí chủ lòng thành, hơi nóng trong lò tỏa, khoảnh khắc hòa hài, tức cùng khắp mười phương, xưa kia Da Du, hết nạn trừ tai chướng).” Hay trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248) lại có đoạn: “Thần minh chi sum vệ, tuyên Phật Đảnh chi bí thuyên, tường yên tiêu cổ triện ư kim lô, bảo diệm thổ Đàm Hoa ư ngọc chúc (神明之森衛、宣佛頂之秘詮、祥煙銷古篆於金爐、寶燄吐曇花於玉燭, thần minh ấy hộ vệ, tuyên Phật Đảnh bao bí ngữ, mây lành nung triện cổ nơi lò vàng, lửa báu tuôn hoa Đàm nơi nến ngọc).” Trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ, phần Tống Thích Ngộ Ân (宋釋晤恩) có đoạn rằng: “Ung Hy tam niên bát nguyệt, mộng ủng nạp Sa Môn, chấp kim lô phần hương, tam nhiễu kỳ thất, tự ngôn Tổ sư quán đảnh, lai thử tương nghênh, mộng giác do văn dị hương, diện Tây hiệp chưởng nhi hóa (雍熙三年八月、夢擁衲沙門、執金爐焚香、三遶其室、自言祖師灌頂、來此相迎、夢覺猶聞異香、面西合掌而化, vào tháng 8 niên hiệu Ung Hy thứ 3 [986], Ngộ Ân mơ thấy vị Sa Môn ôm y bá nạp, tay cầm lò vàng xông hương, ba lần nhiễu quanh thất của ông, tự bảo là Tổ sư quán đảnh, đến đây nghinh đón, khi tỉnh mộng mà vẫn nghe có mùi hương lạ, ông mặt hướng về phương Tây chấp tay mà đi).”
(密庵咸傑, Mittan Kanketsu, 1118-1186): vị tăng của Phái Hổ Kheo và Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Mật Am (密庵), người vùng Phước Thanh (福清), Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Trịnh (鄭). Ông đã từng đến tham học với Tri Thức (知識), rồi được ấn khả của Ứng Am Đàm Hoa (應庵曇華) ở Minh Quả Am (明果庵), Cù Châu (衢州, Tỉnh Triết Giang). Sau đó, ông đến trú tại Ô Cự Sơn (烏巨山) ở Đồng Châu (同山), rồi chuyển đến các nơi như Thiền Phù (禪符), Tương Sơn (蔣山), Hoa Tạng (華藏). Bên cạnh đó, ông còn sống qua mấy ngôi chùa lớn như Kính Sơn (徑山), Linh Ẩn (靈隱), Thiên Đồng (天童), và vào ngày 12 tháng 6 năm thứ 13 niên hiệu Thuần Hy (淳熙), ông thị tịch, hưởng thọ 69 tuổi đời và 52 hạ lạp. Ông có để lại Mật Am Hòa Thượng Ngữ Lục (密庵和尚語錄) 1 quyển.
(五體): có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Gồm: gân, mạch, thịt, xương, da.
(2) Là 5 bộ phận của con người, gồm: đầu, hai tay và hai chân; hoặc đầu, cổ, ngực, tay, chân.
(3) Chỉ cho toàn thân.
(4) Là hai đầu gối, hai khuỷu tay và đầu, còn gọi là Ngũ Luân (五輪).
Trong Phật Giáo có thuật ngữ thường được dùng là Ngũ Thể đầu địa (五體投地, năm vóc gieo xuống đất), hay Ngũ Luân đầu địa (五輪投地). Theo tác phẩm Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記) quyển 2, phần Tam Quốc (三國) của Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (三藏法師玄奘, 602-664) cho biết rằng: “Trí kính chi thức, kỳ nghi cửu đẳng: nhất phát ngôn úy vấn, nhị phủ thủ thị kính, tam cử thủ cao ấp, tứ hiệp chưởng bình củng, ngũ khuất tất, lục trường cứ, thất thủ tất cứ địa, bát Ngũ Luân cụ khuất, cửu Ngũ Thể đầu địa; phàm tư cửu đẳng, cực duy nhất bái, quỳ nhi tán đức, vị chi tận kính (致敬之式、其儀九等、一發言慰問、二俯首示敬、三舉手高揖、四合掌平拱、五屈膝、六長踞、七手膝踞地、八五輪俱屈、九五體投地、凡斯九等、極唯一拜、跪而讚德、謂之盡敬, hình thức kính thành tột cùng, nghi thức của có chín: một là mở lời thăm hỏi; hai là cúi đầu thể hiện cung kính; ba là đưa tay lên cao vái xuống; bốn là chấp tay ngang ngực; năm là quỳ mọp xuống; sáu là ngồi xoải chân dài ra; bảy là tay, đầu gối và chân chấm đất; tám là năm điểm đều cong gập lại; chín là năm vóc gieo xuống đất; phàm chín nghi thức này, đến tận cùng chỉ có một lạy, quỳ mà tán thán đức độ, gọi đó là cung kính đến tận cùng).” Đây là hình thức lễ bái, được thể hiện từ đơn giản đến phức tạp, gọi là Thiên Trúc Cửu Nghi (天竺九儀), vốn là phương pháp lễ bái cung kính tột cùng của Ấn Độ cổ đại; sau này Phật Giáo dùng nghi thức này để kính lễ Tam Bảo. Ngũ Thể Đầu Địa còn được dùng để thể hiện sự kính trọng, khâm phục đối phương tột độ. Trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂首楞嚴經) quyển 1 có đoạn: “A Nan văn dĩ, trùng phục bi lệ, ngũ thể đầu địa, trường quỳ hiệp chưởng (阿難聞已、重復悲淚、五體投地、長跪合掌, A Nan nghe xong, lại càng buồn khóc, Năm Vóc gieo xuống, quỳ lạy chấp tay).” Hay như trong lương thư (梁書) quyển 54, Phần Chư Di Liệt Truyện (諸夷列傳), Hải Nam Chư Quốc (海南諸國) lại có đoạn rằng: “Kim dĩ thử quốc quần thần dân thứ, sơn xuyên trân trọng, nhất thiết quy thuộc, ngũ thể đầu địa, quy thành Đại Vương (今以此國群臣民庶、山川珍重、一切歸屬、五體投地、歸誠大王, nay lấy quần thần, nhân dân nước này, trân trọng núi sông, hết thảy đều quy phục, Năm Vóc gieo xuống đất, kính thành Đại Vương).” Hoặc như trong Đàm Hoa Ký (曇花記) quyển 52 của nhà viết kịch Hí Khúc Đồ Long (屠隆, 1543-1605) nhà Minh có câu: “Đệ tử sắc thân cấu uế, căn khí hạ phàm, hà hạnh mông Đại Sĩ giáng lâm, Ngũ Thể đầu địa, bất thắng bi ngưỡng (弟子色身垢穢、根器下凡、何幸蒙大士降臨、五體投地、不勝悲仰, đệ tử sắc thân nhơ nhớp, căn khí phàm phu, sao may mong được Đại Sĩ giáng lâm, xin Năm Vóc gieo xuống đất, kính ngưỡng vô cùng).”
(三山燈來, Sanzan Tōrai, 1614-1685): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, tự là Vi Độ (葦度), hiệu Tam Sơn (三山), xuất thân Điếm Giang (墊江), Trùng Khánh (重慶, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Tằng (曾). Đi thi cử không đỗ, ông chuyên tâm nghiên cứu Thiền học, đọc say sưa bộ Cổ Âm Lục (古音錄) cũng như Bình Sơn Lục (平山錄) của Tụ Tuyết Xuy Phương Quảng Chơn (聚雪吹風廣眞) và muốn trở thành con cháu của Tụ Tuyết. Vào năm thứ 6 (1643) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), lúc 30 tuổi, ông theo xuất gia với Nam Triết Nhị (南浙二) ở Phí Nham Sơn (弔嵓山). Năm sau, ông đến trú tại Đông Minh Tự (東明寺) ở Trung Châu (忠州, Tỉnh Tứ Xuyên), rồi chuyển đến Thạch Phong (石峰), tham bái Khánh Trung Thiết Bích Huệ Cơ (慶忠鐵壁慧機), nhưng chẳng khế ngộ, nên ông quay về đất Thục. Đến năm thứ 5 (1648) niên hiệu Thuận Trị (順治), lúc 35 tuổi, ông trở về tham yết Huệ Cơ lần thứ hai. Vào năm thứ 11 (1654) cùng niên hiệu trên, ông viếng thăm Huệ Cơ ở Trung Nam Ngọc Ấn Sơn (忠南玉印山), kế thừa dòng pháp của vị này và đến trú tại Sùng Thánh Viện (崇聖院), Trung Châu. Sau đó, ông đã từng sống qua một số nơi khác như Hưng Long Viện (興龍院), Ngũ Vân Viện (五雲院) và Ngũ Vân Bổn Viện (五雲本院) ở Huyện Lương Sơn (梁山縣), Phủ Quỳ Châu (夔州府, Tỉnh Tứ Xuyên), Bàn Thạch Sơn Đàm Hoa Viện (磐石山曇華院) ở Huyện Vân Dương (雲陽縣), Phủ Quỳ Châu, Thiên Ninh Viện (天寧院) ở Phủ Gia Hưng (嘉興府, Tỉnh Triết Giang). Vào ngày 18 tháng 7 năm thứ 24 (1685) niên hiệu Khang Hy (康熙), ông thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi đời và 43 hạ lạp. Tác phẩm của ông để lại có Tam Sơn Lai Thiền Sư Ngữ Lục (三山來禪師語錄) 16 quyển, Ngũ Gia Tông Chỉ Toản Yếu (五家宗旨纂要) 3 quyển, Cao Phong Tam Sơn Thiền Sư Sớ Ngữ (高峰三山禪師疏語) 3 quyển. Bên cạnh đó, ông có bản tự thuật về hành trạng và Tánh Thống (性統) soạn bản Niên Phổ.
(瑞彩): sắc thái ánh sáng cầu vồng tốt lành. Như trong bài Phụng Hòa Nguyệt Dạ Quán Tinh Ứng Lịnh (奉和月夜觀星應令) của Ngu Thế Nam (虞世南, 558-638) nhà Đường có câu: “Hưu quang chước tiền diệu, thụy thái tiếp trùng luân (休光灼前曜、瑞彩接重輪, hào quang rực trời tỏ, sắc lành tiếp trời trăng).” Hay trong hồi thứ 82 của Phong Thần Diễn Nghĩa (封神演義) cũng có câu: “Nhị lục liên đài sanh thụy thái, Ba La hoa phóng mãn viên hương (二六蓮臺生瑞彩、波羅花放滿園香, mười hai đài sen sanh sắc đẹp, Ưu Đàm Hoa tỏa ngát vườn hương).” Trong Biện Chánh Luận (辯正論, Taishō Vol. 52, No. 2110) quyển 6, phần Nội Kiến Tạo Tượng Tháp Chỉ (內建造像塔指), lại có câu: “Thần quang đạo ư Tương Thủy, thụy thái phát ư Đàn Khê (神光導於湘水、瑞彩發於檀溪, hào quang tỏa tràn Tương Thủy [sông Tương], sắc lành phát khắp Đàn Khê).”
(端陽節): tên gọi khác của Tiết Đoan Ngọ (端午節), còn gọi là Tiết Ngọ Nhật (午日節), Ngũ Nguyệt Tiết (五月節), Ngũ Nhật Tiết (五日節), Ngải Tiết (艾節), Đoan Ngũ (端五), Trùng Ngọ (重午), Ngọ Nhật (午日), Hạ Tiết (夏節), Bồ Tiết (蒲節); là lễ hội nhằm ngày mồng 5 tháng 5 Âm Lịch hằng năm. Nguyên gốc, đây là ngày xua đuổi ôn dịch của mùa Hè; sau đó, nhân sự việc thi nhân Khuất Nguyên (屈原, 340-278 ttl.) nước Sở nhảy xuống sông Mịch La (汨羅) tự tử để hy sinh cho quốc gia, nên ngày này biến thành ngày kỷ niệm Khuất Nguyên. Tuy nhiên, cũng có thuyết cho rằng ngày này là ngày kỷ niệm vị trung thần Ngũ Tử Tư (伍子胥, ?-484 ttl.) nhà Ngô. Cùng với lễ Tết, Trung Thu, Tiết Đoan Ngọ được xem như là ngày lễ truyền thống quan trọng của các nước thuộc văn hóa Đông Á như Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam, v.v. Vào dịp này, người ta có tập tục treo cây Cỏ Ngải; hay một số địa phương dùng cây Xương Bồ (菖蒲), lá Cỏ Ngải, hoa Lựu, củ Tỏi, Hoa Long Thuyền (龍船花) bện thành hình người, gọi là Người Ngải để xua đuổi tà ma, khí độc. Trong bài thơ Đoan Ngọ Nhật (端午日) của Ân Nghiêu Phiên (殷堯藩, ?-?) có đoạn: “Thiếu niên giai tiết bội đa tình, lão khứ thùy tri cảm khái sinh, bất hiệu Ngải Phù xu tập tục, đản kỳ Bồ Tửu thoại thăng bình (少年佳節倍多情、老去誰知感慨生、不效艾符趨習俗、但祈蒲酒話昇平, tuổi trẻ tiết đẹp thật đa tình, già đến ai hay cảm khái sinh, chẳng theo Bùa Ngải xua tập tục, chỉ mong rượu quý chuyện an bình).” Trong Ứng Am Đàm Hoa Thiền Sư Ngữ Lục (應菴曇華禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1359) quyển 3 cũng có đoạn: “Ngũ nguyệt ngũ nhật Đoan Ngọ Tiết, hảo sự đương dương nan yểm tắc, Quy Tông đột xuất trụ trượng đầu, nhàn thần dã quỷ câu tiêu tức (五月五日端午節、好事當陽難掩塞、歸宗突出拄杖頭、閑神野鬼俱消滅, ngày năm tháng năm Đoan Ngọ Tết, chuyện tốt rõ ràng khó che bít, Quy Tông đột xuất chống trượng đầu, thần tiên quỷ mị thảy tiêu dứt).” Hay trong Suất Am Phạn Tông Thiền Sư Ngữ Lục (率菴梵琮禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1364) có đoạn như: “Kim triêu chánh đương Đoan Ngọ Tiết, nạp tăng đảo dụng chơn diệu quyết, chuyển Thánh tác phàm, điểm kim thành thiết (今朝正當端午節、衲僧倒用眞妙訣、轉聖作凡、點金成鐵, sáng nay đúng dịp Tết Đoan Ngọ, nạp tăng dùng bí quyết thần diệu ngược lại, chuyển Thánh làm phàm, biến vàng thành thép).”
(小參, shōsan): còn gọi là Gia Huấn (家訓) hay Gia Giáo (家敎), nghĩa là tại Phương Trượng, người đệ tử thọ pháp từ vị Trú Trì. Tiểu Tham đối với Đại Tham (大參, daisan), vốn thọ pháp nơi Pháp Đường. Chính vì nói về những lời dạy trong nhà, nên pháp này được tiến hành rất tinh tế, nhỏ nhặt, từ pháp thoại, Tông yếu cho đến những sinh hoạt hằng ngày. Khi cả đại chúng cùng đến tham vấn thì được gọi là Quảng Tham (廣參); còn đứng nghe thuyết pháp là Lập Tham (立參). Như trong Thiền Môn Quy Thức (禪門規式) có dạy rằng: “Kỳ hạp viện đại chúng, triêu tham tịch tụ (其闔院大眾、朝參夕聚, toàn thể đại chúng trong chùa, cùng nhau sáng chiều tập trung tham vấn)”; dưới thời nhà Đường (唐, 618-907) thì tùy thời mà tiến hành nghi thức này; nhưng đến thời nhà Tống (宋, 960-1279) thì được gọi là Vãn Tham (晩參), và theo Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規) thì nó được tiến hành mang tính định kỳ vào tối ngày mồng 3 và 8 mỗi tháng. Theo Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規), tùy theo chúng ít hay nhiều mà pháp Tiểu Tham được tiến hành tại Pháp Đường. Trường hợp đến tham vấn vào sáng sớm thì được gọi là Tảo Tham (早參), Triêu Tham (朝參). Hiện tại trong Tào Động Tông, mỗi tháng vào ngày mồng 1 và 15, người ta tiến hành pháp này ở Pháp Đường. Như trong Ứng Am Đàm Hoa Thiền Sư Ngữ Lục (應菴曇華禪師語錄, CBETA No. 1359) quyển 4 có đoạn: “Tăng vấn: 'bất điểm đăng, Đức Sơn Tiểu Tham bất đáp thoại, vị thẩm ý chỉ như hà' (僧問、藥山小參不點燈、德山小參不答話、未審意旨如何, có vị tăng hỏi rằng: 'Dược Sơn Tiểu Tham không thắp đèn, Đức Sơn Tiểu Tham chẳng đáp lời, chưa rõ ý chỉ như thế nào ?').” Hay như trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, CBETA No. 1571), quyển 101, phần Tùy Châu Phổ Chiếu Chúc Phong Thiện Thiền Sư (隨州普照祝峰善禪師) cũng có đoạn: “Trừ Tịch Tiểu Tham, kim triêu Phật pháp bất tương đồng, niên nguyệt tuế thiên vật vật cùng, duy hữu nạp tăng phân thượng sự, minh thần y cựu chúc Nghiêu phong (除夕小參、今朝佛法不相同、年月歲遷物物窮、惟有衲僧分上事、明晨依舊祝堯風, vào đêm Trừ Tịch, Thiền Sư hành pháp Tiểu Tham, bảo rằng sáng nay Phật pháp chẳng tương đồng, năm tháng đất trời vạn vật cùng, chỉ có lão tăng biết rõ thảy, mai này như cũ chúc bình yên).”
(s: catvāri mahābhūtāni, p: cattāri mahābhūtāni, 四大): bốn yếu tố lớn hình thành nên vật chất, gồm:
(1) Địa Đại (地大, đất), bản chất của nó cứng rắn, có tác dụng bảo trì.
(2) Thủy Đại (水大, nước), bản chất ẩm ướt, có tác dụng thâu nhiếp, tập trung.
(3) Hỏa Đại (火大, lửa), bản chất ấm nóng, có tác dụng thành thục.
(4) Phong Đại (風大, gió), bản chất động, có tác dụng sinh trưởng.
Khi 4 yếu tố này hợp lại thì có thể hình thành nên vạn vật, và khi chúng tan biến thì vạn vật cũng theo đó mà tiêu diệt; cho nên, không có người sáng tạo ra vạn vật, mà cũng chẳng có vạn vật nào được sáng tạo cả; vì vậy, trong Phật Giáo vẫn thường dùng từ “Tứ Đại giai không (四大皆空, bốn đại đều không thật có).” Trong bài thơ Tâm Chi Sanh Hề (心之生兮) của Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士, 1230-1291) có câu: “Sanh tự vọng sanh tử vọng tử, Tứ Đại bổn không tùng hà khởi (生自妄生死妄死、四大本空從何起, sanh tự lầm sanh chết lầm chết, Bốn Đại vốn không từ đâu khởi ?).” Hay trong bài Phóng Cuồng Ngâm (放狂吟) của cùng tác giả trên, lại có câu: “Phóng Tứ Đại hề mạc bả tróc, liễu nhất sanh hề hưu bôn mang (放四大兮莫把捉、了一生兮休奔忙, buông Bốn Đại chừ chớ nắm bắt, tỉnh một đời chừ thôi bôn ba).” Trong bài Cái Văn cung tiến giác linh cũng có câu: “Cái văn: vô thường thị thường, Thế Tôn thượng Song Lâm diệt độ, tịch diệt phi diệt, Đạt Ma tằng chích lý Tây quy, sanh tự hà lai, tử tùng hà khứ. Cung duy mỗ Hòa Thượng Giác Linh, nhất tánh trạm nhiên, vạn duyên không tịch, thác Ngũ Ấm chi phi hữu, liễu Tứ Đại chi bổn không, thuận thế vô thường, yếm quy chơn giới, thâu Đàm Hoa ư thử độ, thục thiện quả ư Kỳ Viên, nguyện bằng nhất lũ chi hương vân, dụng trợ Tam Thừa chi giác lộ (蓋聞、無常是常、世尊尚雙林滅度、寂滅非滅、達磨曾隻履西歸、生自何來、死從何去、恭惟某和尚覺靈、一性湛然、萬緣空寂、托五陰之非有、了四大之本空、順世無常、奄歸眞界、收曇花於此土、熟善果於祇園、願憑一縷之眞香、用助三乘之覺路, Thường nghe: vô thường là thường, Thế Tôn còn Song Lâm diệt độ, tịch diệt chẳng diệt, Đạt Ma từng quảy dép về Tây, sanh đến từ đâu, chết đi về đâu. Cúi thưa: Giác Linh Hòa Thượng …, một tánh lắng trong, vạn duyên không vắng, gởi Năm Ấm vào chẳng có, ngộ Bốn Đại chính là không, thuận lẽ vô thường, quay về chơn giới, thu Đàm Hoa ở chốn này, chín quả thiện tại Kỳ Viên, nguyện nương một nén mây hương thơm, dùng giúp Ba Thừa lên đường giác).”
(松源崇岳[嶽], Shōgen Sūgaku, 1132-1202): vị tăng của Phái Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Tùng Nguyên, người vùng Long Tuyền (龍泉), Xử Châu (處州, Tỉnh Triết Giang), họ là Ngô (呉). Lúc nhỏ ông đã có chí xuất gia, đến năm 23 tuổi thọ Ngũ Giới tại Đại Minh Tự (大明寺) và làm Sa Di. Ban đầu ông đến tham học với Linh Thạch Diệu (靈石妙), rồi tiếp đến là Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) ở Kính Sơn (徑山) và Ứng Am Đàm Hoa (應庵曇華). Vào năm thứ 2 (1163) niên hiệu Long Hưng (隆興), ông thọ Cụ Túc giới tại Bạch Liên Tinh Xá (白蓮精舍) ở Tây Hồ (西湖), Lâm An (臨安, Tỉnh Triết Giang) và bắt đầu đi tham học khắp nơi. Ông có đến tham yết Mộc Am An Vĩnh (木庵安永) ở Càn Nguyên Tự (乾元寺). Sau cùng ông đến tham vấn Mật Am Hàm Kiệt (密庵咸傑) ở Tây Sơn (西山), Cù Châu (衢州, Tỉnh Triết Giang) và kế thừa dòng pháp của vị này. Từ đó ông bắt đầu khai đường giáo hóa ở Trừng Chiếu Thiền Viện (澂照禪院) vùng Dương Sơn (陽山), Phủ Bình Giang (平江府, Tỉnh Giang Tô). Về sau, ông đã từng sống qua một số nơi như Báo Ân Quang Hiếu Tự (報恩光孝寺) ở Quân Sơn (君山) thuộc vùng Giang Âm Quân (江陰軍, Tỉnh Giang Tô), Thật Tế Thiền Viện (實際禪院) ở Trị Phụ Sơn (治父山) vùng Vô Vi Quân (無爲軍, Tỉnh An Huy), Tiến Phước Thiền Viện (薦福禪院) ở Nhiêu Châu (饒州, Tỉnh Giang Tây), Trí Độ Thiền Viện (智度禪院) ở Hương Sơn (香山) vùng Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang) và Linh Nham Thiền Viện (靈巖禪院) ở Hổ Kheo Sơn (虎丘山) thuộc Phủ Bình Giang. Đến năm thứ 3 (1197) niên hiệu Khánh Nguyên (慶元), ông đến ở tại Linh Ẩn Tự (靈隱寺), rồi khai sáng Hiển Thân Báo Từ Tự (顯親報慈寺). Vào ngày mồng 4 tháng 8 năm thứ 2 niên hiệu Gia Thái (嘉泰), ông thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi đời và 40 hạ lạp. Môn nhân của ông như Thiện Khai (善開), Quang Mục (光睦), v.v., đã biên soạn bộ Tùng Nguyên Hòa Thượng Ngữ Lục (松源和尚語錄), 2 quyển, Lục Du (陸游) thì soạn bài minh của tháp.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập