Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đại Vân Tự »»
(菩提達摩南宗定是非論, Bodaidarumananshūteizehiron): còn gọi là Nam Tông Định Thị Phi Luận (南宗定是非論) hay Đốn Ngộ Tối Thượng Thừa Luận (頓悟最上乘論), 1 quyển, do Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會) soạn. Với ý đồ chủ trương hệ thống Đạt Ma của Nam Tông là chánh truyền, đây là ký lục của Thần Hội ghi lại cuộc tông luận bài kích của Bắc Tông do Pháp Sư Sùng Viễn (崇遠) tiến hành tại Đại Hội Vô Già ở Đại Vân Tự (大雲寺), Hoạt Đài (滑臺) vào năm thứ 20 (732) niên hiệu Khai Nguyên (開元). Môn nhân của Thần Hội là Độc Cô Phái (獨孤沛) thâu tập lại và thêm vào lời tựa. Hồ Thích (湖適), người trước đây đã từng phát hiện ra hai bản Đôn Hoàng của tác phẩm này P3047 và P3488, sau này lại tìm thấy một bản khác, P2045, và cho đến nay người ta đã phục nguyên lại toàn bộ nội dung trước tác này. Ngoài ra còn có tàng bản của Nhiệm Tử Nghi (任子宜) nữa.
(大珠慧海, Daiju Ekai, ?-?): vị tăng dưới thời nhà Đường, xuất thân Kiến Châu (建州, Phúc Kiến), người đời thường gọi là Đại Châu Hòa Thượng (大珠和尚). Ông theo xuất gia với Đạo Trí Pháp Sư (大智法師) ở Đại Vân Tự (大雲寺) vùng Việt Châu (越州, Thiệu Hưng, Triết Giang), ban đầu chuyên học kinh luận, có chỗ sở ngộ; sau đi tham vấn các nơi, đến yết kiến Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) và ngộ được bản tánh của mình, nên theo hầu vị này 6 năm. Ông soạn cuốn Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận (頓悟入道要門論) 1 quyển, đem trình cho Mã Tổ xem, nhân đó Mã Tổ bảo rằng: “Việt Châu hữu đại châu, viên minh quang thấu, tự tại vô già chướng (越州有大珠、圓明光透、自在無遮障, Chốn Việt Châu có viên ngọc lớn, ánh sáng tròn đầy thấu suốt, tự tại không có gì chướng ngại).” Từ đó, ông có tên Đại Châu (大珠). Sau khi ngộ đạo, ông trở về Việt Châu xiển dương giáo pháp.
(余慶, Yokei, 919-991): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Thiên Thai Tọa Chủ đời thứ 20, trú trì đời thứ 15 của Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji), húy Dư Khánh (余慶), thụy hiệu là Trí Biện (智辨), xuất thân vùng Tảo Lương (早良), Trúc Tiền (筑前, Chikuzen, thuộc Fukuoka-ken [福岡縣]), họ Vũ Tá (宇佐). Năm 967, ông thọ phép Bí Mật Quán Đảnh của Hành Dự (行譽) ở Thiên Quang Viện (千光院); và đến năm 979 thì làm Trưởng Lại (長吏, Chōri) của Viên Thành Tự vùng Cận Giang (近江, Ōmi). Vào năm 981, ông đảm nhiệm chức Tọa Chủ của Pháp Tánh Tự (法性寺, Hōshō-ji) vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro). Năm 989, ông được bổ nhiệm làm Thiên Thai Tọa Chủ, nhưng gặp phải sự chống đối của môn đồ Từ Giác (慈覺, Phái Sơn Môn) và mối bất hòa với môn đồ Trí Chứng (智証, Phái Tự Môn) càng lên cao. Do đó, Dư Khánh thống suất môn nhân của ông xuống núi, chuyển đến sống tại Quan Âm Viện (觀音院, Kannon-in, tức Đại Vân Tự [大雲寺, Daiun-ji]) ở vùng Nham Thương (岩倉, Iwakura) thuộc Sơn Thành. Từ đó, ông cống hiến toàn lực để phát triển môn phái.
(荷澤神會, Kataku Jinne, 684-760): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, vị tổ khai sáng Hà Trạch Tông (荷澤宗) Trung Quốc, người vùng Tương Dương (襄陽, Hồ Bắc), họ Cao (高). Lúc nhỏ ông học Ngũ Kinh, Lão Trang, các sử thư, sau theo xuất gia với Cảnh Nguyên ở Quốc Xương Tự (國昌寺), đọc tụng thuộc các kinh điển rất dễ dàng. Năm lên 13 tuổi, ông đến tham yết Huệ Năng (慧能). Sau khi Huệ Năng qua đời ông đi tham học khắp các nơi. Vào năm thứ 8 (720) niên hiệu Khai Nguyên (開元), ông vâng chiếu đến trú trì Long Hưng Tự (龍興寺) ở Nam Dương (南陽) và cử xướng Thiền pháp rộng rãi tại đây, cho nên người đời thường gọi ông là Nam Dương Hòa Thượng (南陽和尚). Sau khi Lục Tổ qua đời trong vòng 20 năm, giáo pháp của ông bị suy tàn dần dần, cả hai kinh đều tôn sùng Thần Tú (神秀) mà thôi. Lần đầu tiên khi đến Lạc Dương (洛陽), ông đã có ý muốn chấn hưng Thiền phong của Lục Tổ, cho nên vào năm thứ 20 (732) niên hiệu Khai Nguyên, ông thiết lập đại hội ở Đại Vân Tự (大雲寺) thuộc Hoạt Đài (滑臺), Hà Nam (河南), cùng luận tranh với Sùng Viễn (崇遠) ở Sơn Đông (山東). Kế đến vào năm thứ 4 (745) niên hiệu Thiên Bảo (天寳), ông viết cuốn Hiển Tông Ký (顯宗記), quy định ra 2 tông phái đốn và tiệm của Nam Bắc, lấy Huệ Năng ở phương Nam làm Đốn Tông và Thần Tú ở phía Bắc làm Tiệm Tông; cho nên từ “Nam Đốn Bắc Tiệm (南頓北漸)” vốn phát xuất từ đây. Ông tận lực công kích pháp môn của Thần Tú, vì vậy Nam Tông Thiền càng ngày trở nên hưng thạnh, trong khi đó thì Bắc Tông Thiền dần dần suy tàn. Đến năm thứ 12 niên hiệu Thiên Bảo, nhân vụ trình tâu vu khống của vị quan Ngự Sử Lô Dịch (盧奕), ông rời khỏi Hà Trạch Tự (荷澤寺) vùng Lạc Dương, chuyển đến sống tại các địa phương như Dặc Dương (弋陽, Giang Tây), Võ Đương (武當, Hồ Bắc), v.v. Đến năm sau, ông lại chuyển đến Tương Dương, rồi Bát Nhã Viện (般若院) của Khai Nguyên Tự (開元寺) vùng Kinh Châu (荆州). Khi vụ loạn An Sử (安史) dấy khởi, cả 2 kinh đô đều rơi vào cảnh lầm than, khắp nơi có thiết lập giới đàn độ chúng tăng, tập trung tiền của để sung vào quân nhu, cho nên người ta thỉnh ông làm chủ đàn. Sau vụ loạn, vua Túc Tông mời ông vào cung nội cúng dường và cho xây dựng Thiền đường trong khuôn viên Hà Trạch Tự, thỉnh ông đến làm trú trì chùa này, cho nên người đời thường gọi ông là Hà Trạch Đại Sư (荷澤大師). Vào năm đầu (760) niên hiệu Thượng Nguyên (上元), ông thị tịch, hưởng thọ 93 tuổi. Có thuyết cho là ông mất vào năm đầu (758) niên hiệu Càn Nguyên (乾元). Ông được ban cho thụy hiệu là Chơn Tông Đại Sư (眞宗大師). Vào năm thứ 12 (796) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), Hoàng Thái Tử cho triệu tập các vị Thiền sư, quy định tông chỉ của Thiền môn, suy cử ông là vị tổ thứ 7 của Thiền Tông, sắc phong bia đặt tại Thần Long Tự (神龍寺). Tông môn của ông được gọi là Hà Trạch Tông (荷澤宗). Môn hạ ông có rất nhiều đấng anh tài như Vô Danh (無名), Pháp Như (法如), v.v.
(慶祚, Keiso, 955-1019): học tăng của Thiên Thai Tự Tông Môn Nhật Bản, sống vào khoảng giữa thời Bình An, húy Khánh Tộ (慶祚), thông xưng là Long Vân Phường Tiên Đức (龍雲坊先德), hiệu là Long Vân Phường (龍雲坊), xuất thân kinh đô Kyōto, con của Đại Ngoại Ký Trung Nguyên Sư Nguyên (大外記中原師元). Ông theo Dư Khánh (余慶, Yokei) ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi) học giáo nghĩa của các tông Hiển Mật; đến năm 991 thì được thọ pháp Quán Đảnh. Vào năm 993, khi hai chúng môn đồ của Viên Nhân (圓仁, Ennin) và Viên Trân (圓珍, Enchin) đối lập nhau, ông chuyển đến Đại Vân Tự (大雲寺, Daiun-ji) ở vùng Nham Thương (岩岡), Sơn Thành (山城, Yamashiro) và sau đó trở về Viên Thành Tự. Từ đó, học chúng vân tập đến rất đông, vì vậy giáo học của Phái Tự Môn (寺門派) trở nên hưng thạnh. Đến năm 997, khi 5 bộ sách mới được gởi từ bên nhà Bắc Tống Trung Quốc sang, vâng mệnh triều đình, ông bình luận về nghĩa Long Nữ Thành Phật (龍女成佛). Vào năm 1017, mở hội Pháp Hoa Thập Giảng (法華十講) nhân ngày húy kỵ của Viên Trân. Trước tác của ông có Tây Phương Yếu Quán (西方要觀) 1 quyển, Pháp Hoa Long Nữ Thành Phật Quyền Thật Nghi Nạn (法華龍女成佛權實疑難) 1 quyển.
(成尋, Shōjin, 1011-1081): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sang nhà Tống cầu pháp, cha là con của Đằng Nguyên Thật Phương (藤原實方), mẹ là con của Nguyên Tuấn Hiền (源俊賢); tuy nhiên cũng có nhiều thuyết khác nhau. Năm lên 7 tuổi, ông nhập môn xuất gia với Văn Khánh (文慶, Bunkei, sau này là Trưởng Lại của Viên Thành Tự [園城寺, Onjō-ji]) ở Đại Vân Tự (大雲寺, Daiun-ji) vùng Nham Thương (岩倉, Iwakura), kinh đô Kyōto và học giáo lý Hiển Mật. Sau đó, ông thọ pháp Thai Mật của Hành Viên (行圓, Gyōen) và Minh Tôn (明尊, Myōson); đến năm 1041 (niên hiệu Trường Cửu [長久] thứ 2) thì làm Biệt Đuơng (別當, Bettō) của Đại Vân Tự. Cùng lúc đó, ông còn làm vị tăng hộ trì cho vị Quan Bạch Đằng Nguyên Lại Thông (藤原賴通, Fujiwara-no-Yorimichi). Đến năm 62 tuổi (1072), ông mang bộ Vãng Sanh Yếu Tập (徃生要集) cũng như Tuần Lễ Ký (巡禮記) của Viên Nhân (圓仁, Ennin) và Điều Nhiên (奝然, Chōnen) sang nhà Tống, đi tham bái khắp các nơi, rồi tham gia dịch kinh ở Biện Kinh (汴京, Khai Phong [開封]) và được ban cho hiệu là Thiện Huệ Đại Sư (善慧大師) nhờ ông cầu mưa có linh nghiệm. Vì không được phép trở về nước, ông ủy thác cho đệ tử 527 quyển kinh mang về và cuối cùng qua đời tại Khai Bảo Tự (開寳寺), Phủ Khai Phong. Ngoài tác phẩm Tham Thiên Thai Ngũ Đài Sơn Ký (參天台五台山記), ông còn để lại một số trước tác khác như Quán Tâm Luận Chú (觀心論註), Pháp Hoa Kinh Chú (法華經註), v.v.
(天桂傳尊, Tenkei Denson, 1648-1735): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, tự là Thiên Quế (天桂), thường gọi là Đồng Nhãn Lâu (瞳眼樓), Diệt Tông (滅宗), Lão Loa Cáp (老螺蛤), Lão Mễ Trùng (老米虫), họ là Đại Nguyên (大原), xuất thân vùng Kỷ Y (紀伊, Kii, thuộc Wakayama-ken [和歌山縣] ngày nay). Năm lên 8 tuổi, ông theo xuất gia với Truyền Cung (傳弓) ở Song Dự Tự (窻譽寺) vùng Kỷ Y; đến năm 18 tuổi thì lên đường hành cước tu tập, đã từng đến tham vấn chư vị tôn túc như Tổ Hải (祖海) ở Vạn Tùng Tự (萬松寺), Xung Thiên (衝天) ở Khả Thùy Trai (可睡濟), Long Bàn (龍蟠) ở Hưng Thánh Tự (興聖寺). Đến năm thứ 5 (1677) niên hiệu Diên Bảo (延寳), ông đến tham yết Ngũ Phong Hải Âm (五峰海音) ở Tĩnh Cư Tự (静居寺) và kế thừa dòng pháp của vị này. Sau ông sống ở chùa này, rồi đến năm thứ 2 (1689) niên hiệu Nguyên Lộc (元祿), ông được Phùng Tu Hạ Hầu (蜂修賀候) quy y theo, và chuyển đến sống tại Đại Vân Tự (大雲寺) ở vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Thêm vào đó, ông còn di chuyển đến Tàng Lộ Am (藏鷺庵) ở vùng Lãng Hoa (浪華, thuộc Ōsaka ngày nay), Trượng Lục Tự (丈六寺) vùng A Ba (阿波, Awa, thuộc Tokushima-ken [德島縣] ngày nay); và cuối cùng vào năm thứ 6 (1721) niên hiệu Hưởng Bảo (享保), ông lui về sống tại Thối Tàng Phong (退藏峰, tức Dương Tùng Am) ở vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Ōsaka ngày nay). Vào ngày mồng 10 tháng 12 năm thứ 20 niên hiệu Hưởng Bảo, ông thị tịch, hưởng thọ 88 tuổi.
(傳法): về nghĩa rộng, chỉ cho việc truyền thọ Phật pháp; về nghĩa hẹp, đặc biệt chỉ sự truyền thừa pháp mạch, hoặc nghi thức truyền trao chánh pháp. Đối với Mật Giáo, phép Quán Đảnh truyền thọ bí pháp được gọi là Truyền Pháp Quán Đảnh (傳法灌頂). Người chỉ dạy cho bí pháp được gọi là Truyền Pháp A Xà Lê (傳法阿闍棃). Thiền Tông đặc biệt rất xem trọng việc truyền pháp, thông thường lấy việc truyền trao y Ca Sa (s: kaṣāya; p: kāsāya, 袈裟) làm tượng trưng cho việc truyền trao chánh pháp. Xưa nay, việc truyền y nghĩa là lấy y Kim Lan (金襴) làm Pháp Y (法衣), chủ yếu thể hiện tín vật truyền pháp. Đến sau này, các bậc tông tượng Thiền Tông chỉ lấy y Ca Sa bình thường để truyền cho đệ tử nối dòng pháp; cho nên từ Truyền Y (傳衣) được chuyển thành Truyền Pháp (傳法), Từ Pháp (嗣法). Tịnh Độ Giáo Nhật Bản lấy pháp Ngũ Trùng Tương Truyền (五重相傳) làm chứng minh cho việc truyền trao pháp mạch. Trong bài thơ Bà Dương Đại Vân Tự Nhất Công Phòng (鄱陽大雲寺一公房) của Cố Huống (顧況, khoảng 725-814) nhà Đường có câu: “Sắc giới liêu truyền pháp, Không môn bất dụng tình (色界聊傳法、空門不用情, cõi trần tạm truyền pháp, cửa Không chẳng nể tình).” Trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (古尊宿語錄, 卍 tục tạng kinh Vol. 68, No. 1315) quyển 29 có dẫn lời nói nổi tiếng của Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma rằng: “Ngô bổn lai tư độ, truyền pháp cứu mê tình, nhất hoa khai ngũ diệp, kết quả tự nhiên thành (吾本來茲土、傳法救迷情、一花開五葉、結果自然成, ta vốn đến cõi này, truyền pháp cứu mê tình, một hoa nở năm cánh, kết quả tự nhiên thành).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập