Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đại Thừa Tự »»
(興圓, Kōen, 1263-1317): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Liêm Thương, húy là Hưng Viên (興圓), hiệu Nghiêu Quang Phòng (堯光房), Truyền Tín Hòa Thượng (傳信和尚), xuất thân vùng Việt Hậu (越後, Echigo), họ Bình (平). Năm 1278, ông xuất gia, sau đó theo học các pháp môn của Hiển, Mật và Giới với Huệ Khải (惠顗) ở Kim Quang Viện (金光院), vùng Đông Sơn (東山, Higashiyama), Sơn Thành (山城, Yamashiro). Đến năm 1305, ông có chí muốn tái hưng Viên Đốn Giới của Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) và năm 1316 thì ẩn tu trong núi trong vòng 12 năm. Trong khoảng thời gian này, vào năm 1310, nhóm đệ tử của ông gồm Quang Tông (光宗), Viên Quán (圓觀), v.v., bắt đầu tiến hành An Cư Kiết Hạ ở Thần Tạng Tự (神藏寺) trong khuôn viên Tỷ Duệ Sơn. Ông phục hưng Viên Đốn Giới để làm luật nghi cho tăng chúng ở Nhất Hướng Đại Thừa Tự (一向大乘寺), và hình thành hệ thống pháp môn Giới Quán Đảnh từ thời Huệ Tầm (惠尋) trở đi. Mặt khác, ông còn tận lực tái tạo các ngôi nhà trên Tỷ Duệ Sơn. Trước tác của ông có Nhất Hướng Đại Thừa Tự Hưng Long Thiên Mục Tập (一向大乘寺興隆篇目集) 3 quyển, Viên Đốn Bồ Tát Giới Thập Trọng Tứ Thập Bát Hành Nghi Sao (圓頓菩薩戒十重四十八行儀鈔) 1 quyển, Giới Quán Đảnh Thập Lục Thiếp Khẩu Quyết (戒灌頂十六帖口決) 16 quyển, v.v.
(祇陀大智, Gida Daichi, 1290-1366): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, xuất thân Trường Khi (長崎, Nagasaki), Vũ Thổ Quận (宇土郡, Udo-gun), Phì Hậu (肥後, Higo), biệt danh là Tổ Kế (祖繼, tuy nhiên cũng có thuyết cho rằng đây là nhân vật khác), sinh vào năm thứ 3 (1290) niên hiệu Chánh Ứng (正應). Năm lên 7 tuổi, ông xuống tóc xuất gia với Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹) ở Đại Từ Tự (大慈寺, Daiji-ji), và được thầy đặt cho tên là Tiểu Trí (小智), nhưng ông lại tự đổi thành Đại Trí (大智). Sau khi Hàn Nham qua đời, ông đến tham học với Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), Thích Vận (釋運), v.v. ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), rồi lại chuyển đến làm môn hạ của Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾) ở Đại Thừa Tự (大乘寺, Daishō-ji) vùng Gia Hạ (加賀, Kaga, thuộc Ishikawa-ken [石川縣]). Nỗ lực tu tập trong vòng 7 năm, ông lãnh hội được yếu chỉ của thầy. Đến năm thứ 4 (1311) niên hiệu Diên Khánh (延慶), ông lại đến tham yết Đông Minh Huệ Nhật (東明慧日) khi vị này ở tại Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) vùng Tương Mô (相模, Sagami). Sau đó, ông sang Trung Quốc, tham học với một số vị tôn túc khác như Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Vân Ngoại Vân Tụ (雲外雲岫), Trung Phong Minh Bổn (中峰明本), Vô Kiến Tiên Đỗ (無見先覩), v.v. Khi hồi hương, theo chiếu chỉ của vua Anh Tông, ông được đưa về nước bằng thuyền Trung Quốc. Nhân đó, ông làm bài kệ “vạn lý Bắc triều tuyên ngọc chiếu, Tam Sơn Đông Hải tống quy thuyền, hoàng ân chí hậu tương hà báo, nhất chú tâm hương chúc vạn niên (萬里北傳宣玉詔、三山東海送歸船、皇恩至厚將何報、一炷心香祝萬年, ngàn dặm Bắc triều tuyên chiếu ngọc, Tam Sơn Đông Hải tiễn thuyền về, ơn vua quá nặng làm sao đáp, một nén hương lòng chúc vạn năm)” để bái tạ thâm ân của nhà vua. Khi về nước, ông liền đến tham yết Oánh Sơn ngay, và cuối cùng trở thành pháp từ của Trung Phong Tố Triết (中峰素哲). Về sau, ông làm ngôi thảo am ở Làng Cát Dã (吉野郷), vùng Gia Hạ, không bao lâu thì trở thành ngôi phạm vũ với tên gọi là Sư Tử Sơn Kỳ Đà Tự (獅子山祇陀寺). Đến cuối đời, ông trở về vùng Phì Hậu (肥後, Higo, thuộc Kumamoto-ken [熊本縣]), sống tại Phụng Nghi Sơn Thánh Hộ Tự (鳳儀山聖護寺). Đến ngày mồng 10 tháng 12 năm thứ 21 (1366) niên hiệu Chánh Bình (正平, tức năm thứ 5 niên hiệu Trinh Trị [貞治]), ông thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi. Ông có để lại tác phẩm Đại Trí Thiền Sư Kệ Tụng (大智禪師偈頌) 1 quyển.
(明峯素哲, Meihō Sotetsu, 1277-1350): vị Tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, người vùng Gia Hạ (加賀, Kaga, có thuyết cho rằng ông người vùng Năng Đăng [能登, Noto], thuộc Ishikawa-ken [石川縣]), họ là Phú Kiên (富樫), hiệu là Minh Phong (明峯). Ban đầu ông xuất gia trên Tỷ Duệ Sơn, rồi thọ cụ túc giới và học giáo học Thiên Thai, sau ông đổi y đến Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) tham vấn Thiền yếu. Tiếp theo ông đến làm thị giả cho Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾) ở Đại Thừa Tự (大乘寺, Daijō-ji). Theo thầy học đạo được 8 năm trường, sau đó ông được khai ngộ. Từ ấy về sau, ông đi du phương hành hóa khắp nơi. Rồi lần thứ hai ông lại quay trở về với Oánh Sơn tại Vĩnh Quang Tự (永光寺), và đến tháng 6 năm 1323 thì nhập thất tu hành. Trong khoảng thời gian đầu niên hiệu Nguyên Hoằng (元弘, 1321-1323), khi thiên hạ xảy ra đại loạn, triều đình sắc phong cho Vĩnh Quang Tự thành ngôi chùa sắc nguyện. Vào đầu niên hiệu Lịch Ứng (曆應, 1338-1341), ông chuyển đến sống ở Đại Thừa Tự, rồi đến cuối đời thì sáng lập ra Quang Thiền Tự (光禪寺) ở vùng Việt Trung (越中, Ecchū, thuộc Toyama-ken [富山縣]), và đến sống ở đó. Vào ngày 28 tháng 3 năm đầu (1350) niên hiệu Quán Ứng (觀應), ông thị tịch, hưởng thọ 74 tuổi đời và 58 hạ lạp.
(峨山紹[韶]碩, Gasan Jōseki, 1276-1366): vị Tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, hiệu là Nga Sơn (峨山), người Quận Vũ Trách (羽咋郡), Năng Đăng (能登, Noto, thuộc Ishikawa-ken [石川縣]), họ là Nguyên (源). Năm lên 11 tuổi, ông đến tu tại ngôi chùa trong làng, rồi năm lên 16 tuổi thì lên Tỷ Duệ Sơn xuất gia và học tông yếu của Thiên Thai. Đến năm 1297, khi Oánh Sơn (瑩山) đi hành hóa ở kinh đô Kyoto, ông đến tham vấn Thiền chỉ nơi vị này. Vào mùa xuân năm 1299, ông chính thức tham vấn Oánh Sơn cũng như Triệt Thông (徹通) ở Đại Thừa Tự (大乘寺, Daijō-ji). Đến năm 1306, lúc 32 tuổi, ông đại ngộ. Sau đó, ông đi tham bái khắp chốn tòng lâm, rồi đến năm 1321 thì trở về lại cố hương Năng Đăng của mình. Vào năm 1324, ông đến trú ở Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji), rồi đến năm 1340 thì chuyển đến sống ở Vĩnh Quang Tự (永光寺). Đến cuối đời, ông nhường chức trú trì lại cho Thái Nguyên Tông Chơn (太源宗眞), khai sáng ra Dưỡng Thọ Viện (養壽院) và lui về ẩn cư. Vào ngày 20 tháng 10 năm thứ 5 (1366) niên hiệu Trinh Trị (貞治), ông thị tịch, hưởng thọ 91 tuổi. Ông được ban cho thụy hiệu là Đại Hiện Tông Dụ Quốc Sư (大現宗猷國師). Đệ tử của ông có Thái Nguyên Tông Chơn, Thông Huyễn Tịch Linh (通幻寂靈), Vô Đoan Tổ Hoàn (無端祖環), Đại Triệt Tông Lịnh (大徹宗令), Thật Phong Lương Tú (實峰良秀), được gọi là Nga Sơn Ngũ Triết (峨山五哲).
(二諦): chỉ cho Chơn Đế và Tục Đế. Đế (諦) là lý chân thật bất hư. Chơn Đế (s: paramārtha-satya, p: paramattha-sacca, 眞諦), còn gọi là Thắng Nghĩa Đế (勝義諦), là chân lý của xuất thế gian. Tục Đế (s: saṃvṛti-satya, p: sammuti-sacca, 俗諦), còn gọi là Thế Tục Đế (世俗諦), Thế Đế (世諦); tức là chân lý thế gian. Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳, Taishō Vol. 54, No. 2125) quyển 4 cho rằng việc thế tục che trùm chân lý thế gian, nên Tục Đế được dịch là Phú Tục Đế (覆俗諦). Ý nghĩa của Nhị Đế được thuyết trong các kinh điển không thống nhất với nhau. Tùy theo kinh điển mà tên gọi của Nhị Đế cũng khác nhau. Như Niết Bàn Kinh (涅槃經), Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), Đại Trí Độ Luận (大智度論), Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章), v.v., thì gọi là Thế Đế và Đệ Nhất Nghĩa Đế (第一義諦). Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Phá Thủ Trước Bất Hoại Giả Danh Luận (金剛般若波羅蜜經破取著不壞假名論), Thành Thật Luận (成實論) thì gọi là Chơn Đế và Tục Đế. Trong khi đó, Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (大般若波羅蜜多經), Du Già Luận (瑜伽論), Duy Thức Luận (唯識論) thì gọi là Tục Đế và Thắng Nghĩa Đế. Trong đó, từ Chơn Đế và Tục Đế là thịnh hành nhất. Pháp của Nhị Đế cũng được diễn đạt khác nhau tùy theo các tông phái. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (妙法蓮華經玄義, Taishō Vol. 33, No. 1716) quyển 2 cho rằng: “Phù Nhị Đế giả, danh xuất chúng kinh, nhi kỳ lý nan hiểu, thế gian phân vân, do lai thạc tranh (夫二諦者、名出眾經、而其理難曉、世間紛紜、由來碩諍, phàm Nhị Đế, tên có khắp trong các kinh, nhưng lý của nó khó hiểu, thế gian phân vân, tranh luận sôi nỗi xuất xứ của nó).” Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 24 của phái Nam Sơn lại liệt Nhị Đế thuộc vào dị thuyết của xưa nay. Trong khi đó, qua Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) 1, Pháp Sư Tịnh Ảnh Huệ Viễn (淨影慧遠, 523-592) thì giải thích rằng: “Đệ tứ tông trung, phân vi Nhị Đế, thể vi Chơn Đế, dụng vi Tục Đế (第四宗中、分爲二諦、體爲眞諦、用爲世諦, trong tông thứ tư, chia thành Hai Đế, thể là Chơn Đế, dụng là Tục Đế).” Đại Thừa Tứ Luận Huyền Nghĩa (大乘四論玄義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 46, No. 784) quyển 5 định nghĩa Nhị Đế là: “Cái thị Pháp Tánh chi chỉ quy, nhất chơn Bất Nhị chi cực lý dã (蓋是法性之旨歸、一眞不二之極理也, vốn là yếu chỉ quy nguyên của Pháp Tánh, là lý tột cùng của nguồn chơn Không Hai).” Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 82 cho rằng: “Đắc nhập Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế, tâm tâm tịch diệt, tự nhiên lưu nhập Tát Bà Nhã hải, danh Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế quán (得入中道、雙照二諦、心心寂滅、自然流入薩婆若海、名中道第一義諦觀, vào được Trung Đạo, song chiếu Nhị Đế, tâm tâm vắng lặng, tự nhiên trôi nhập vào biển hết thảy chủng trí, ấy gọi là quán Nghĩa Đế Thứ Nhất của Trung Đạo).” Hay trong Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, Taishō Vol. 51, No. 2092) quyển 1 lại ghi rằng: “Chí ư Nhất Thừa Nhị Đế chi nguyên, Tam Minh Lục Thông chi chỉ, Tây Vức bị tường, Đông Độ mĩ ký (至於一乘二諦之原、三明六通之旨、西域僃詳、東土靡記, cho đến nguồn gốc của Một Thừa, Hai Đế; ý chỉ của Ba Trí, Sáu Thần Thông, Tây Vức [Ấn Độ] thì giải thích đầy đủ, còn Đông Độ [Trung Hoa] thì không ghi gì cả).” Trong Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Nghi (瑜伽集要焰口施食儀, Taishō Vol. 21, No. 1320) hay Lễ Xá Lợi Tháp Nghi Thức (禮舍利塔儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1491) có đoạn: “Nguyện tương dĩ thử thắng công đức, hồi hướng vô thượng chơn Pháp Giới, tánh tướng Phật pháp cập Tăng Già, Nhị Đế dung thông Tam Muội Ấn, như thị vô lượng công đức hải, ngã kim giai tất tận hồi hướng (願將以此勝功德、迴向無上眞法界、性相佛法及僧伽、二諦融通三昧印、如是無量功德海、我今皆悉盡迴向, nguyện lấy công đức thù thắng này, hối hướng vô thượng chơn Pháp Giới, tánh tướng Phật pháp và Tăng Già, Hai Đế dung thông Tam Muội Ấn, như vậy vô lượng công đức biển, con nay đều xin hồi hướng thảy).”
(瑩山紹瑾, Keizan Shōkin, 1268-1325): vị Thái Tổ của Tào Động Tông Nhật Bản, cháu đời thứ 4 của Cao Tổ Đạo Nguyên (道元), hiệu là Oánh Sơn (瑩山). Ông sinh ra vào ngày mồng 8 tháng 10 năm 1268 nơi Quan Âm Đường ở vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), tên lúc nhỏ là Hạnh Sanh (行生). Mẹ ông được cảm hóa nhờ đức tin vào Quan Âm Bồ Tát. Năm lên 8 tuổi, ông lên Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji) ở Việt Tiền, tham vấn Triệt Thông Nghĩa Giới (徹通義介). Đến năm 13 tuổi, ông đắc độ thọ giới với Cô Vân Hoài Trang (孤雲懷奘), vị Tổ đời thứ 2 của chùa này. Vào ngày 24 tháng 8 năm 1280, khi Hoài Trang qua đời thì ông theo hầu Nghĩa Giới và chuyên tâm tu hành tọa Thiền. Đến năm lên 18 tuổi, ông phát nguyện đi hành cước khắp các tiểu quốc, và đến tham vấn Tịch Viên (寂圓) ở Bảo Khánh Tự (寶慶寺). Tiếp theo, ông lên kinh đô Kyoto, học về Thiền phong mang tính Mật Giáo của Phái Thánh Nhất (聖一派) thuộc Lâm Tế Tông với Đông Sơn Trạm Chiếu (東山湛照), Bạch Vân Huệ Kiểu (白雲慧皎); thêm vào đó ông còn tiếp xúc với giáo học Thiên Thai trên Tỷ Duệ Sơn. Kế đến ông đến tham học với Vô Bổn Giác Tâm (無本覺心) ở Hưng Quốc Tự (興國寺) thuộc vùng Kỷ Y (紀伊, Kii, thuộc Wakayama-ken [和歌山縣] ngày nay), và sau đó ông lại đến tham yết Tịch Viên ở Bảo Khánh Tự lần nữa. Năm lên 22 tuổi, ông phản tỉnh khi đọc được câu kệ trong Phẩm Pháp Sư Công Đức (法師功德) của Kinh Pháp Hoa rằng “phụ mẫu sở sanh nhãn tất kiến tam thiên giới (父母所生眼悉見三千界, con mắt do cha mẹ mình sanh ra tất thấy được ba ngàn thế giới)”, rồi đến năm 25 tuổi thì ông phát thệ nguyện rộng lớn. Năm lên 28 tuổi, ông được cung thỉnh đến làm Tổ khai sơn ngôi Thành Mãn Tự (城滿寺) của dòng họ Phú Kiên (富樫) ở vùng A Ba (阿波, Awa, thuộc Tokushima-ken [德島縣]). Năm sau, lúc 29 tuổi, ông lên Vĩnh Bình Tự, sao chép tập Phật Tổ Chánh Truyền Bồ Tát Giới Tác Pháp (佛祖正傳菩薩戒作法), rồi được vị trú trì chùa này là Nghĩa Diễn (義演) trao truyền Bồ Tát Giới cho. Cũng vào mùa đông năm này, lần đầu tiên ông khai đường thuyết pháp ở Thành Mãn Tự, và truyền trao giới pháp cho nhóm 5 người Nhãn Khả Thiết Kính (眼可鐵鏡). Sau đó, ông đến tham yết Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹) ở Đại Từ Tự (大慈寺, Daiji-ji) thuộc vùng Phì Hậu (肥後, Higo, thuộc Kumamoto-ken [熊本縣]), rồi đến kết thảo am ở gần nơi Đông Cung Ngự Sở tại Kyoto, và tương truyền tại đây ông hội ngộ với Nga Sơn Thiệu Thạc (峨山紹碩). Cho đến năm 31 tuổi, ông khai mở giới pháp ở Thành Mãn Tự, độ cho hơn 70 người, và tận lực trong việc giáo hóa dân chúng. Đến năm 32 tuổi, ông kế thừa dòng pháp của Nghĩa Giới, được trao truyền pháp y, làm vị Thủ Tọa đầu tiên của Đại Thừa Tự, và đến năm 35 tuổi thì làm vị Tổ đời thứ 2 của chùa này. Từ ngày 11 tháng giêng năm 1300, ông bắt đầu khai thị bộ Phật Quang Lục (佛光錄). Rồi vào tháng 8 cũng như tháng 11 năm 1306, trải qua hai lần ông được Nghĩa Giới trao truyền cho bí pháp. Cho đến năm 1311, ông chuyên tâm vào việc bổ sung quy cũ ở Đại Thừa Tự, tiếp độ đồ chúng, và trước tác Tọa Thiền Dụng Tâm Ký (坐禪用心記), Tam Căn Tọa Thiền Thuyết (三根坐禪說), Tín Tâm Minh Niêm Đề (信心銘拈提), v.v. Hơn nữa, ông còn khai sáng Tịnh Trú Tự (淨住寺) ở vùng Gia Hạ (加賀, Kaga). Rồi vào năm 1317, ông còn sáng lập ra Vĩnh Quang Tự (永光寺) ở Động Cốc Sơn (洞谷山). Sau đó thể theo lời thỉnh cầu của vị quan Địa Đầu vùng Vũ Trách (羽咋, Hakui) ở Năng Đăng (能登, Noto), ông đến khai sơn Quang Hiếu Tự (光孝寺). Kế đến ông lại khai sáng thêm Phóng Sanh Tự (放生寺) ở vùng Năng Đăng này. Chính trong khoảng thời gian này, thanh danh của Oánh Sơn rất nổi bật, nên được Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇) ban sắc phong cho. Năm sau, nhờ sự cúng dường của đàn na thí chủ, ông xây dựng Điện Phật, rồi Khai Sơn Đường, Pháp Đường, và chỉnh trang toàn bộ ngôi già lam Vĩnh Quang Tự. Từ đó, vào năm đầu niên hiệu Nguyên Hanh (元亨), ông cảm ứng điềm báo mộng khai đường Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji), rồi thể theo lời thỉnh cầu của vị Viện Chủ Chư Nhạc Tự (諸嶽寺) thuộc Chơn Ngôn Luật Tông (có thuyết cho là Thiên Thai Tông) ở Quận Phụng Khí Chí (鳳氣至郡), Năng Đăng, ông đến vùng đất này, và vào ngày mồng 8 tháng 6 cùng năm, ông khai sáng ra Tổng Trì Tự tại đây. Đến ngày 22 tháng 7 thì được cúng dường đất đai của chùa, rồi đến ngày 14 tháng 9 thì nhận được sắc phong chùa, và vào ngày 28 tháng 8 năm sau thì được công nhận là ngôi chùa của Tào Động Tông. Đây là ngôi chùa trung tâm thứ hai của phái Tào Động Nhật Bản. Sau đó, chùa được dòng họ Trường Cốc Bộ (長谷部) chuyên tâm ủng hộ. Vào ngày mòng 8 tháng 8 năm 1325, ông cử Minh Phong Tố Triết (明峯素哲) làm chức Tăng Lục 8 ngôi chùa gồm Vĩnh Quang Tự (永光寺), Viên Thông Viện (圓通院), Quang Hiếu Tự (光孝寺), Tổng Trì Tự (總持寺), Bảo Ứng Tự (寶應寺), Phóng Sanh Tự (放生寺), Đại Thừa Tự (大乘寺); rồi nhường ngôi Tọa Chủ cho vị này và lui về ẩn cư. Đến nữa đêm ngày 15 tháng 8, ông thuyết pháp lần cuối cùng, để lại di kệ và thị tịch, hưởng thọ 58 tuổi đời (có thuyết cho là 62 tuổi). Xá lợi của ông được phân phối ra tôn trí tại 4 ngôi chùa Đại Thừa Tự, Vĩnh Quang Tự, Tịnh Trú Tự và Tổng Trì Tự. Môn nhân đắc độ của ông ngoài Minh Phong Tố Triết (明峰素哲), Vô Nhai Trí Hồng (無涯智洪), Nga Sơn Thiệu Thạc (峨山紹碩), Hồ Am Chí Giản (壺庵至簡), còn có Cô Phong Giác Minh (孤峰覺明), Trân Sơn Nguyên Chiếu (珍山源照) là những nhân vật xuất chúng. Đệ tử Ni của ông có Mặc Phổ Tổ Nhẫn (默譜祖忍), Nhẫn Giới (忍戒), Kim Đăng Huệ Cầu (金燈惠球), Minh Chiếu (明照), v.v. Hậu Thôn Thượng Thiên Hoàng (後村上天皇) ban tặng cho ông thụy hiệu là Phật Từ Thiền Sư (佛慈禪師); Hậu Đào Viên Thiên Hoàng (後桃園天皇) thì ban thụy hiệu là Hoằng Đức Viên Minh Quốc Sư (弘德圓明國師), và Minh Trị Thiên Hoàng (明治天皇) là Thường Tế Đại Sư (常濟大師). Trước tác của ông để lại có Truyền Quang Lục (傳光錄) 2 quyển, Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Quy (瑩山和尚清規) 2 quyển, Tọa Thiền Dụng Tâm Ký (坐禪用心記) 1 quyển, Tam Căn Tọa Thiền Thuyết (三根坐禪説) 1 quyển, v.v.
(曹洞宗, Sōtō-shū): một trong Ngũ Gia Thất Tông (五家七宗) của Trung Quốc, một trong ba tông phái lớn của Thiền Tông Nhật Bản. Về nguồn gốc của tên gọi tông phái có hai thuyết. Thuyết thứ nhất là lấy chữ Động (洞) của Động Sơn Lương Giới (洞山良价) và chữ Tào (曹) của Tào Sơn Bổn Tịch (曹山本寂), rồi đảo ngược vị trí để gọi là Tào Động Tông (曹洞宗). Thuyết thứ hai là kết hợp chữ Tào (曹) của Tào Khê Huệ Năng (曹溪慧能) với chữ Động (洞) của Động Sơn Lương Giới (洞山良价) để hình thành nên tên gọi như vậy. Thuyết đầu phát xuất từ Trung Quốc và thuyết sau được hình thành ở Nhật Bản. Tào Động Tông Trung Quốc kế thừa Nam Tông Thiền của Lục Tổ Huệ Năng (六祖慧能), từ thời vị này trở đi có xuất hiện Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思), Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼), Vân Nham Đàm Thịnh (雲巖曇晟), lấy Động Sơn Lương Giới (洞山良价)—đệ tử của Vân Nham—và Tào Sơn Bổn Tịch (曹山本寂)—đệ tử của Động Sơn—làm vị tổ của tông phái. Như được đánh giá là “Tào Động tế mật (曹洞細密)”, tông phong của họ có đặc sắc là tông phong chặt chẽ, lấy tư tưởng Ngũ Vị (五位) do Động Sơn và Tào Sơn đề xướng làm trung tâm để triển khai. Tuy nhiên, pháp hệ của Tào Sơn không được lưu truyền lâu dài; sau đó hệ thống của Vân Cư Đạo Ưng (雲居道膺)—pháp từ của Động Sơn—trở thành đại biểu cho Tào Động Tông. Đến thời nhà Tống, môn hạ thuộc dòng phái của Vân Cư xuất hiện Đơn Hà Tử Thuần (丹霞子淳); kế đến pháp từ của ông có Chơn Hiết Thanh Liễu (眞歇清了) và Hoằng Trí Chánh Giác (宏智正覺), từ đó Tào Động Tông phân chia thành Phái Chơn Hiết (眞歇派) và Phái Hoằng Trí (宏智派). Đối lập với Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) của Lâm Tế Tông (臨濟宗) vốn cổ xúy Khán Thoại Thiền (看話禪), Chơn Hiết cũng như Hoằng Trí rất nổi tiếng là những người tuyên xướng Thiền phong của Mặc Chiếu Thiền (默照禪). Cả hai Phái Chơn Hiết và Phái Hoằng Trí này đều được truyền vào Nhật Bản. Thiên Đồng Như Tịnh (天童如淨) là pháp tôn đời thứ 4 của Chơn Hiết. Chính Đạo Nguyên (道元) là người kế thừa dòng pháp của vị này. Nhờ Đông Minh Huệ Nhật (東明慧日) sang Nhật vào năm thứ 2 (1309) niên hiệu Diên Khánh (延慶) và Đông Lăng Vĩnh Dư (東陵永璵) đến Nhật vào năm thứ 2 (1351) niên hiệu Quán Ứng (觀應), Tào Động Tông thuộc Phái Hoằng Trí được truyền vào nước này. Sau khi sang Nhật, Đông Minh đến trú tại Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) ở Liêm Thương (鎌倉, Kamakura); Đông Lăng thì trú một số chùa tại Thiên Long Tự (天龍寺, Tenryū-ji), Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji), Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji), v.v. Cả hai đều nương gá vào các tự viện của Lâm Tế Tông để cử xướng Thiền phong Phái Hoằng Trí thuộc Tào Động Tông; thế nhưng pháp hệ của họ không được truyền thừa lâu dài. Tuy nhiên, khi thời đại thay đổi, là một dòng phái của Tào Động Tông, Phái Thọ Xương (壽昌派) vốn tôn thờ Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經) nhà Minh làm vị khai tổ được Tâm Việt Hưng Trù (心越興儔) đời thứ 5 truyền vào Nhật Bản vào năm thứ 5 (1677) niên hiệu Diên Bảo (延寶); song không bao lâu sau phái này cũng tuyệt dứt. Chính vì lẽ đó, Phái Đạo Nguyên trở thành đại biểu cho Tào Động Tông Nhật Bản. Tại Trung Quốc, pháp hệ của Như Tịnh về sau cũng lụi tàn, đến thời nhà Minh và Nguyên thì Tào Động Tông của phái Phù Dung Đạo Giai (芙蓉道楷) cố gắng phô trương tàn lực cuối cùng, cho đến khi Lâm Tế Tông hưng thịnh thì tông phái này không còn nữa. Đạo Nguyên kế thừa dòng pháp của Thiên Đồng Như Tịnh, sau khi trở về nước ông tạm thời lưu trú tại Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), đến năm đầu (1233) niên hiệu Thiên Phước (天福) thì khai sáng Hưng Thánh Tự (興聖寺, Kōshō-ji) ở vùng Thâm Thảo (深草, Fukakusa), có sự tham gia của một số người xuất thân Đạt Ma Tông như Cô Vân Hoài Trang (孤雲懷奘) và hình thành nên giáo đoàn Hưng Thánh Tự. Tuy nhiên, 10 năm sau, vào tháng 7 năm đầu (1243) niên hiệu Khoan Nguyên (寬元), Đạo Nguyên chuyển lên sống ở địa phương Việt Tiền (越前, Echizen), sáng lập Đại Phật Tự (大佛寺, Daibutsu-ji), sau đổi tên thành Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji) và hình thành giáo đoàn Vĩnh Bình Tự. Song vì Đạo Nguyên rất kiêng kỵ trong việc gọi tông chỉ của mình là Tào Động Tông hay Thiền Tông; cho nên giáo đoàn này được gọi là Chánh Pháp Tông (正法宗) hay Đạo Nguyên Tông (道元宗). Trải qua vị tổ đời thứ 2 của Vĩnh Bình Tự là Cô Vân Hoài Trang (孤雲懷奘), thứ 3 Triệt Thông Nghĩa Giới (徹通義介), cho đến pháp từ của Nghĩa Giới là Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾), để tiếp nối mạng mạch của Tào Động Tông Trung Quốc, Đạo Nguyên đã được tôn xưng với vị trí là tổ khai sáng Tào Động Tông Nhật Bản. Cùng lúc đó, chủ nghĩa xuất gia của Đạo Nguyên được Oánh Sơn đề cao với kỳ vọng đưa vào cuộc đời. Lúc còn trẻ, Oánh Sơn đã theo xuất gia với Nghĩa Giới (義介) trên Vĩnh Bình Tự, rồi kế thừa trú trì Đại Thừa Tự (大乘寺, Daijō-ji) vùng Gia Hạ (加賀, Kaga), tiếp theo ông khai sáng Vĩnh Quang Tự (永光寺, Eikō-ji), Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji), v.v., ở Năng Đăng (能登, Noto) và nỗ lực cử xướng tông phong của mình. Dưới trướng của Oánh Sơn xuất hiện hai nhân vật xuất chúng là Minh Phong Tố Triết (明峯素哲) và Nga Sơn Thiều Thạc (峨山韶碩). Minh Phong thì kế thừa Vĩnh Quang Tự, còn Nga Sơn thì kế thế Tổng Trì Tự. Bên cạnh đó, môn hạ của Nga Sơn còn có 25 nhân vật tuấn tú, làm cho uy thế của Tào Động Tông được lan rộng khắp toàn quốc. Mặt khác, sau vị tổ đời thứ 3 là Nghĩa Giới, Vĩnh Bình Tự có Nghĩa Diễn (義演)—đệ tử của Hoài Trang lên kế thừa và sau đó thì bị hoang phế; nhưng nhờ có Nghĩa Vân (義雲)—vị tăng nhà Tống sang Nhật vì mến mộ đạo phong của Đạo Nguyên và là đệ tử của Tịch Viên (寂圓), tổ khai sơn Bảo Khánh Tự (寶慶寺, Hōkei-ji)—xuất hiện, tiến hành phục hưng ngôi già lam và làm cho tông phong thịnh vượng. Vì thế, Nghĩa Vân được gọi là vị tổ trung hưng của Vĩnh Bình Tự. Từ đó về sau, ngôi tổ đình này được hộ trì bởi Phái Tịch Viên (寂圓派) cho đến vị tổ đời thứ 37 là Thạch Ngưu Thiên Lương (石牛天梁). Tào Động Tông thời Trung Đại phát triển với trung tâm của giáo đoàn Tổng Trì Tự. Ngoài ra, Vĩnh Bình Tự, Đại Từ Tự (大慈寺, Daiji-ji) ở vùng Phì Hậu (肥後, Higo) do Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹) khai sơn, Đại Thừa Tự (大乘寺, Daijō-ji) vùng Gia Hạ (加賀, Kaga) do Nghĩa Giới (義介) khai sáng, Vĩnh Quang Tự (永光寺, Eikō-ji) ở Năng Đăng (能登, Noto) do Oánh Sơn sáng lập, Chánh Pháp Tự (正法寺, Shōbō-ji) ở Lục Áo (陸奥, Mutsu) do Vô Để Lương Thiều (無底良韶)—đệ tử của Nga Sơn—khai sơn, v.v., đã trở thành những ngôi chùa Bản Sơn (chùa tổ) của mỗi dòng phái, mở rộng giáo tuyến của họ khắp toàn quốc. Theo điều tra trong khoảng niên hiệu Diên Hưởng (延享, 1744-1748), cho biết rằng tổng số tự viện Tào Động Tông trên toàn quốc là 17.549 ngôi. Tào Động Tông thời Cận Đại phối hợp các tự viện trên toàn quốc trực thuộc vào Vĩnh Bình Tự và Tổng Trì Tự dưới chế độ quản lý tự viện của chính quyền Mạc Phủ để xác lập mối quan hệ chùa tổ chùa con mang tính phục tùng. Các tự viện của Tào Động Tông trên toàn quốc được chia đều theo từng tiểu quốc, mỗi nơi đều có cơ sở quản lý chung như ba ngôi danh sát Tổng Ninh Tự (總寧寺, Sōnei-ji) ở vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa), Long Ổn Tự (龍穩寺, Ryūon-ji) ở Võ Tàng (武藏, Musashi), Đại Trung Tự (大中寺, Daichū-ji) ở Hạ Dã (下野, Shimotsuke). Tào Động Tông đã trải qua một lịch sử đấu tranh cam go làm thế nào để thoát xác khỏi thể chế phong kiến dưới thời đại Giang Hộ (江戸, Edo) và làm sao để đưa ra một thể chế giáo cho phù hợp với thời đại mới. Việc biên soạn bộ Tu Chứng Nghĩa (修証義) được công bố vào năm thứ 23 (1890) niên hiệu Minh Trị (明治, Meiji) như là tiêu chuẩn để làm an tâm cho tăng lẫn tục, đã nói lên cuộc tranh đấu này. Tào Động Tông ngày nay kính ngưỡng hai vị tổ: Đạo Nguyên là Cao Tổ và Oánh Sơn là Thái Tổ, tôn sùng cả Vĩnh Bình Tự lẫn Tổng Trì Tự như là hai ngôi Đại Bản Sơn (大本山, Daihonzan, ngôi chùa tổ lớn) và hình thành nên tông phái lớn nhất của Phật Giáo Nhật Bản với số lượng tự viện trên 14.000 ngôi. Theo thống kê của Bộ Văn Hóa (1998), hiện tại Tào Động Tông có 14.699 ngôi chùa và 1.579.301 tín đồ. Một số dòng phái khác (theo thứ tự tên dòng phái, ngôi chùa trung tâm) của Tông này là: (1) Phái Oánh Sơn (瑩山派, Keizan-ha), Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji) và Vĩnh Quang Tự (永光寺, Yōkō-ji); (2) Phái Minh Phong (明峯派, Meihō-ha), Vĩnh Quang Tự (永光寺, Yōkō-ji); (3) Phái Nga Sơn (峨山派, Gasan-ha), Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji); (4) Phái Thái Nguyên (太源派, Taigen-ha), Phật Đà Tự (佛陀寺, Budda-ji); (5) Phái Thông Huyễn (通幻派, Tsūgen-ha), Vĩnh Trạch Tự (永澤寺, Yōtaku-ji); (6) Phái Hàn Nham (寒巖派, Kangan-ha), Đại Từ Tự (大慈寺, Daiji-ji); và (7) Phái Tâm Việt (心越派, Shinetsu-ha), Kỳ Viên Tự (祇園寺, Gion-ji). Ngoài Vĩnh Bình Tự và Tổng Trì Tự là hai ngôi chùa bản sơn trung tâm của tông phái cũng như các ngôi chùa đã nêu trên, còn có nhiều ngôi tự viện nổi tiếng khác được xem như Chuyên Môn Tăng Đường như: Chánh Pháp Tự (正法寺, Shōhō-ji, Iwate-ken [岩手縣]); Trường Cốc Tự (長谷寺, Chōkoku-ji, Tōkyō-to [東京都]); Tối Thừa Tự (最乘寺, Saijō-ji, Kanagawa-ken [神奈川縣]), Trường Quốc Tự (長國寺, Chōkoku-ji, Nagano-ken [長野縣]), Diệu Nham Tự (妙巖寺, Myōgon-ji, Aichi-ken [愛知縣]), Đại Thừa Tự (大乘寺, Daijō-ji, Ishikawa-ken [石川縣]), Ngự Đản Sanh Tự (御誕生寺, Gotanjō-ji, Fukui-ken [福井縣]), Hưng Thánh Tự (興聖寺, Kōshō-ji, Kyōto-fu [京都府]), Động Tùng Tự (洞松寺, Tōshō-ji, Okayama-ken [岡山縣]), Tuyền Nhạc Tự (泉岳寺, Sengaku-ji, Tōkyō-to), Cao Nham Tự (高岩寺, Kōgan-ji, Tōkyō-to), Thanh Tùng Tự (青松寺, Seishō-ji, Tōkyō-to), Tu Thiền Tự (修禪寺, Shuzen-ji, [靜岡縣]), Đại Thuyền Quán Âm Tự (大船觀音寺, Ōfunakannon-ji, Kanagawa-ken), v.v.
(徹通義介, Tettō Gikai, 1219-1309): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời kỳ Liêm Thương, vị Tổ đời thứ 3 của Vĩnh Bình Tự, húy là Nghĩa Giới (義介, 義价), Nghĩa Giám (義鑒), đạo hiệu Triệt Thông (徹通); xuất thân vùng Túc Vũ (足羽), Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara). Năm lên 13 tuổi, ông theo xuất gia với Hoài Giám (懷鑒) ở Ba Trước Tự (波著寺), Việt Tiền; rồi thọ giới trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan). Đến năm 1241, ông đến nhập môn làm đệ tử của Đạo Nguyên (道元, Dōgen) ở Hưng Thánh Bảo Lâm Tự (興聖寶林寺) vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro); rồi sau đó theo thầy về Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji). Sau khi Đạo Nguyên qua đời, ông kế thừa dòng pháp của Hoài Trang (懷弉, Ejō). Vào năm 1259, ông sang nhà Tống, thị sát Thiền lâm Trung Quốc và thỉnh về bản Ngũ Sơn Thập Sát Đồ (五山十刹圖). Sau khi trở về nước, ông tựu nhiệm làm Trú Trì đời thứ 3 của Vĩnh Bình Tự. Đến năm 1293, thể theo lời thỉnh cầu của Trừng Hải (澄海) ở Đại Thừa Tự (大乘寺, Daijō-ji) vùng Gia Hạ (加賀, Kaga), ông đến cải trang Chơn Ngôn Viện thành Thiền Viện và lưu trú tại đây. Pháp từ của ông có Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾, Keizan Jōkin).
(傳光錄, Denkōroku): tác phẩm ghi lại sự truyền thừa ánh sáng Phật pháp, do Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾, Keizan Jōkin) soạn, gồm 2 quyển; bản chép tay có loại 1 quyển, 2 quyển, 3 quyển, 4 quyển, và loại 5 quyển. Đây là thư tịch do các đệ tử của Thiệu Cẩn thâu tập và ghi lại những lần thuyết pháp khai thị của ông tại Đại Thừa Tự (大乘寺, Daijō-ji) thuộc tiểu quốc Gia Hạ (加賀, Kaga), từ ngày 11 tháng giêng năm 1300 trở đi. Vào năm 1857, Phật Châu Tiên Anh (佛洲仙英) ở Thanh Lương Tự (清涼寺) thuộc vùng Sản Căn (産根) mới đem các bản ra đối chiếu và hiệu đính, rồi chỉnh lý và cho san hành bản đầu tiên. Nội dung của thư tịch này có nhiều chương ghi lại hệ thống truyền đăng của Tào Động Tông từ lúc khởi nguyên cho đến thời Thiệu Cẩn, tức là sự tương thừa của Trung Hoa, cho đến Đạo Nguyên (道元), Hoài Trang (懷奘) của Nhật Bản; tóm lại gồm 1 vị Phật và 52 Tổ sư. Mỗi chương đều nêu rõ nhân duyên chứng ngộ của chư vị Tổ sư, kèm theo lời giải thích của Thiệu Cẩn và kết hợp với kệ tụng.
(永平寺, Eihei-ji): ngôi chùa trung tâm của Tào Động Tông Nhật Bản, tọa lạc tại Eiheiji-chō (永平寺町), Yoshida-gun (吉田郡), Fukui-ken (福井 縣), tên núi là Cát Tường Sơn (吉祥山). Người khai cơ chùa là Ba Đa Dã Nghĩa Trọng (波多野義重). Sau thể theo lời thỉnh cầu của Nghĩa Trọng, vào năm 1243 (niên hiệu Khoan Nguyên [寬元] nguyên niên), từ Hưng Thánh Tự (興聖寺, Kōshō-ji) ở vùng Thiển Thảo (淺草, Asakusa), Đạo Nguyên (道元, Dōgen) chuyển lên địa phương Việt Tiền (越前, Echizen), năm sau khai sáng Đại Phật Tự (大佛寺, Daibutsu-ji), và đến năm 1246 (năm thứ 4 niên hiệu Khoan Nguyên) thì đổi tên chùa thành Vĩnh Bình Tự. Trừ ra thời kỳ hành hóa ở vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), Đạo Nguyên đã trải qua giai đoạn cuối đời, chuyên tâm giáo hóa đồ chúng và soạn thuật bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng (正法眼藏, Shōbōgenzō) tại chùa này. Xuất xứ tên gọi Vĩnh Bình (永平) được giải thích trong Vĩnh Bình Quảng Lục (永平廣錄) 2 với câu “thiên thượng thiên hạ đương xứ vĩnh bình (天上天下當處永平, trên trời dưới đất ngay nơi đây mãi bình an)”, là tên niên hiệu Vĩnh Bình (永平, 58-75 sau công nguyên) của nhà Hậu Hán, lúc Phật Giáo được công truyền vào Trung Quốc. Vào năm 1253 (năm thứ 5 niên hiệu Kiến Trường [建長]), sau khi Đạo Nguyên qua đời, Hoài Trang (懷弉, Ejō) trở thành vị tổ thứ 2 của chùa; nhưng vì bị bệnh nặng nên vào năm 1267 (năm thứ 4 niên hiệu Văn Vĩnh [文永]), ông nhường lại cho Triệt Thông Nghĩa Giới (徹通義介, Tettō Gikai) và vị này làm tổ thứ 3. Về sau, phái của Nghĩa Giới tập trung phát triển giáo đoàn đã tạo sự tranh chấp với phái của Nghĩa Diễn (義演, Gien) vốn chủ trương cố thủ truyền thống Chỉ Quản Đả Tọa (只管打坐, Shikantaza) của Đạo Nguyên. Trãi qua 3 lần luận tranh của hai phái tân cựu này, cuối cùng phái của Nghĩa Giới phải rời khỏi sơn môn Vĩnh Bình Tự, chuyển đến Đại Thừa Tự (大乘寺, Daijō-ji) vùng Gia Hạ (加賀, Kaga); môn nhân của Nghĩa Giới là Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾, Keizan Jōkin) sáng lập ra Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji) ở vùng Năng Đăng (能登, Noto). Tại Vĩnh Bình Tự, Nghĩa Diễn, Tịch Viên (寂圓, Jakuen), Nghĩa Vân (義雲, Giun) liên tiếp nhau thay thế làm trú trì. Pháp hệ của Tịch Viên kéo dài lãnh đạo chùa cho đến vị trú trì đời thứ 20 là Môn Hạc (門鶴, Mongaku). Sau đó, các đời trú trì không phải thuộc môn hạ của Tịch Viên. Đến thời kỳ Giang Hộ (江戸, Edo) thì chùa trở thành ngôi Đại Bản Sơn trung tâm của tông phái. Bảo vật của chùa có bản Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi (普勸坐禪儀), thủ bút của Đạo Nguyên.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập