Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Hầu hết mọi người đều cho rằng sự thông minh tạo nên một nhà khoa học lớn. Nhưng họ đã lầm, chính nhân cách mới làm nên điều đó. (Most people say that it is the intellect which makes a great scientist. They are wrong: it is character.)Albert Einstein
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đại Nạp Ngôn »»
(近衛政家, Konoe Masaie, 1444-1505): nhà công khanh, Quan Bạch và Thái Chính Đại Thần từ giữa thời đại Thất Đinh cho đến đầu thời đại Chiến Quốc; tên là Hà (霞); hiệu Hậu Pháp Hưng Viện (後法興院); là con trai thứ của Cận Vệ Phòng Tự (近衛房嗣, Konoe Fusatsugu). Anh là Cận Vệ Giáo Cơ (近衛敎基, Konoe Norimoto); các em trai đều là Tăng sĩ như Đạo Hưng (道興), Tăng Vận (增運), Chính Thâm (政深), Chính Biện (政辨). Vào năm 1462 (Khoan Chánh [寛正] 3), nhân khi người anh Giáo Cơ qua đời, ông kế thừa dòng họ Cận Vệ. Từ đó về sau, ông được bổ nhiệm làm các chức quan như Tùng Tam Vị (從三位), Hữu Cận Vệ Trung Tướng (右近衛中將). Đến năm 1467 (Ứng Nhân [應仁] nguyên niên), ông làm chức Quyền Đại Nạp Ngôn (權大納言); năm 1472 (Văn Minh [文明] 4) thì làm Chánh Nhị Vị Nội Đại Thần (正一位內大臣). Vào năm 1479 (Văn Minh 11), sau khi vụ Loạn Ứng Nhân chấm dứt, ông được bổ nhiệm làm Quan Bạch Tả Đại Thần (關白左大臣). Bốn năm sau, ông từ chức Quan Bạch và được thăng chức Thái Chính Đại Thần (太政大臣). Sau đó, ông lại từ quan và qua đời ở độ tuổi 62. Ông có để lại bộ nhật ký Hậu Pháp Hưng Viện Ký (後法興院記), rất có giá trị về mặt sử liệu để biết được những thông tin về triều đình vào giữa thời Thất Đinh như thế nào.
(定兼, Jōken, 1106-1184): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Bình An, Kiểm Hiệu đời thứ 28 của Cao Dã Sơn, húy là Định Kiêm (定兼), thông xưng là Đại Nạp Ngôn Luật Sư (大納言律師), tự là Hồi Tâm (廻心), xuất thân vùng Vũ Trí (宇智), Đại Hòa (大和, thuộc Nara-ken [奈良縣]). Ông thọ phép Quán Đảnh với Hành Nghiêm (行嚴) của Lý Tánh Viện (理性院) ở Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji). Sau đó, ông lên Cao Dã Sơn, nhập môn thọ pháp với Kiêm Hiền (兼賢) ở Bắc Thất Viện (北室院); được Giáo Giác (敎覺) ở Chánh Trí Viện (正智院) nhận ra được tư chất của ông nên vị này nhường lại Chánh Trí Viện cho ông trú trì; từ đó ông giáo dưỡng rất nhiều học đồ. Năm 1179, ông làm Kiểm Hiệu của Cao Dã Sơn, và tại vị trong vòng 5 năm thì từ chức.
(德川齊昭, Tokugawa Nariaki, 1800-1860): nhà Đại Danh sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ, Phiên chủ đời thứ 9 của Phiên Thủy Hộ (水戸藩, Mito-han), thân phụ của Đức Xuyên Khánh Hỷ (德川慶喜, Tokugawa Yoshinobu), Tướng Quân đời thứ 15 (cuối cùng) của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ. Thân sinh ông là Đức Xuyên Trị Kỷ (德川治紀, Tokugawa Harutoshi), thân mẫu là Anh Tưởng Viện (英想院); tên lúc nhỏ là Hổ Tam Lang (虎三郎), Kính Tam Lang (敬三郎); thụy hiệu là Liệt Công (烈公); tự Tử Tín (子信); hiệu là Cảnh Sơn (景山), Tiềm Long Các (潛龍閣); thần hiệu là Áp Kiến Nam Quốc Chi Ngự Thuẫn Mạng (押健男國之御楯命), Nại Lí An Kỷ Lương Chi Mạng (奈里安紀良之命). Năm 1829 (Văn Chính [文政] 12), ông làm Phiên chủ, trọng dụng nhóm Đằng Điền Đông Hồ (藤田東湖, Fujita Tōko) và tiến hành cải cách chính trị của Phiên. Nhờ có khuyến khích nhân dân dự trữ thóc lúa, nên dân chính an định; rồi ông cho thiết lập Hoằng Đạo Quán (弘道館), xúc tiến cải cách quân sự theo kiểu phương Tây và tăng cường phòng thủ bờ biển. Tuy nhiên, do vì cưỡng chế nộp Hồng Chung để đúc đại pháo, cọng thêm chính sách bài Phật quá khích cực đoan của ông dựa trên tư tưởng gọi là Thần Nho Nhất Trí (神儒一致), vào năm 1844 (Hoằng Hóa [弘化] nguyên niên), ông bị chính quyền Mạc Phủ hạ mệnh bắt phải lui về ẩn cư. Chính trong khoảng thời gian này, thỉnh thoảng ông cũng có dâng thư đề đạt ý kiến trình lên chính quyền như Mậu Tuất Phong Sự (戊戌封事, 1838), nói về tính tất yếu cần phải cải cách nền chính trị của chính quyền Mạc Phủ; hay như trạng thư nói về việc tăng cường đề phòng hải vức cũng như vấn đề thuyền của ngoại quốc xem thường luật lịnh của chính quyền, v.v. Sau khi thuyền của Peri đến Nhật, vào tháng 7 năm 1853 (Gia Vĩnh [嘉永] 6), ông được tham dự bàn việc quân chính với quan Lão Trung A Bộ Chánh Hoằng (阿部正弘); nhưng đến tháng 7 năm 1857 (An Chính [安政] 4), ông từ chức. Đến cuối đời, ông bị xử lý buộc phải cấm túc, không được ra ngoài và qua đời tại Thủy Hộ. Ông từng làm các chức quan như Tùng Tam Vị (從三位), Tả Cận Vệ Quyền Trung Tướng (左近衛權中將) kiêm Tả Vệ Môn Thúc Tham Nghị (左衛門督參議), Quyền Trung Nạp Ngôn (權中納言); và sau được truy tặng chức Tùng Nhị Vị (從二位), Quyền Đại Nạp Ngôn (權大納言), Tùng Nhất Vị (從一位), Chánh Nhất Vị (正一位).
(源賴朝, Minamoto-no-Yoritomo, 1147-1199, tại nhiệm 1192-1194): vị Tướng Quân đầu tiên của chính quyền Mạc Phủ Liêm Thương, người khai sáng ra chế độ chính trị Võ Gia, con trai thứ 3 của Nguyên Nghĩa Minh (義明, Minamoto-no-Yoshitomo); thông xưng là Tam Lang (三郎), Tá Điện (佐殿), Võ Vệ (武衛), Liêm Thương Điện (鎌倉殿), Nguyên Nhị Vị (源二位), Hữu Đại Tướng Quân (右大將軍), Hữu Mạc Hạ (右幕下); tên lúc nhỏ là Quỷ Võ Giả (鬼武者), Quỷ Võ Hoàn (鬼武丸); thần hiệu là Bạch Kỳ Đại Minh Thần (白旗大明神); giới danh là Võ Hoàng Khiếu Hậu Đại Thiền Môn (武皇嘯厚大禪門). Thân phụ ông là Nguyên Nghĩa Triều (源義朝, Minamoto-no-Yoshitomo); thân mẫu là Do Lương Ngư Tiền (由良御前, Yura Gozen), con gái của (藤原季範, Fujiwara-no-Suenori). Trong vụ loạn Bình Trị (平治), ông bị lưu đày đến vùng Y Đậu (伊豆, Izu), sau đến năm 1180, ông phụng mạng sắc chỉ của Dĩ Nhân Vương (以仁王, Mochihitoō), cử binh truy thảo dòng họ Bình (平, Taira), rồi bị bại trận ở Thạch Kiều Sơn (石橋山, Ishibashiyama); nhưng sau đó thì đại thắng trong trận chiến ở Phú Sĩ Xuyên (富士川). Ông chiếm cứ vùng Đông Quốc (東國, Tōgoku) ở Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) và mở ra chính quyền Mạc Phủ. Ông nhận Phạm Lại (範賴, Noriyori), Nghĩa Kinh (義經, Yoshitsune) làm em, diệt vong Nguyên Nghĩa Trọng (源義仲, Minamoto-no-Yoshinaka) và dòng họ Bình. Sau đó, ông định ra quy chế thủ hộ địa đầu; và từng làm các chức quan như Chánh Nhị Vị (正二位), Quyền Đại Nạp Ngôn (權大納言), Hữu Cận Vệ Đại Tướng (右近衛大將), Chinh Di Đại Tướng Quân (征夷大將軍).
(日禛, Nisshin, 1561-1617): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, húy là Nhật Chân (日禛), tự Tôn Giác (尊覺), hiệu Cứu Cánh Viện (究竟院); con của quan Quyền Đại Nạp Ngôn Quảng Kiều Quốc Quang (權大納言廣橋國康). Năm 1574, ông xuất gia với Nhật Thê (日栖) ở Bổn Quốc Tự (本圀寺) thuộc kinh đô Kyoto; và đến năm 1578 thì kế thừa trú trì chùa này. Vào năm 1583, ông mở ra Học Viện Cầu Pháp tại chùa để chấn hưng học thuật; hơn nữa, chị của Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) là Ni Nhật Tú (日秀) phát tâm quy y theo ông; nhờ vậy ông mới có thể xây dựng thêm một số kiến trúc khác tại chùa này. Thêm vào đó, cũng nhờ sự hỗ trợ đắc lực của Gia Đằng Thanh Chánh (加藤清正, Katō Kiyomasa), ông đã mở rộng thế lực của mình ở địa phương Cửu Châu (九州). Trong lễ hội cúng dường 1.000 vị tăng ở Phương Quảng Tự (方廣寺), ông cùng với Nhật Áo (日奥) chủ trương chính sách Không Nhận Không Cho; nhưng đến năm 1599 thì ông phải nhượng bộ với Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), và giáo đoàn dần dần bị thuộc dưới quyền cai quản của chính quyền Mạc Phủ.
(僧正, Sōjō): tên gọi của một chức Tăng quan, có nghĩa là tự sửa mình cho đúng, giúp người khác làm cho đúng, chấp chưởng việc chỉnh đốn những việc làm sai trái của Tăng lữ, thống lãnh giáo đoàn Phật Giáo. Chức này tương đương với chức Sa Môn Thống (沙門統) dưới thời Bắc Triều. Phần Lập Tăng Chánh (立僧正) trong quyển Trung của Đại Tống Tăng Sử Lược (大宋僧史略) do Tán Ninh (贊寧) nhà Tống soạn, có ghi rằng chữ “chánh (正)” của Tăng Chánh đồng nghĩa với chữ “chính (政, làm cho đúng)”. Người nhận chức Tăng Chánh đầu tiên là Tăng Bích (僧碧) nhà Tiền Tần (前秦, 334~394). Trong khoảng thời gian niên hiệu Thăng Minh (昇明), vua Thuận Đế (順帝, tại vị 477~479) nhà Tống suy cử Pháp Trì (法持) làm chức quan này; rồi trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Minh (大明), Đạo Ôn (道溫) được bổ nhiệm làm Tăng Chánh của Đô Ấp (都邑, tức Kiến Khang [建康]). Tiếp theo, vua Võ Đế (武帝, tại vị 502~549) nhà Lương bổ nhiệm Pháp Siêu (法超) làm Tăng Chánh của Đô Ấp; rồi đến năm thứ 6 (525) niên hiệu Phổ Thông (普通) thì cử Pháp Vân (法雲) làm Đại Tăng Chánh (大僧正), và Huệ Lịnh (慧令) làm Tăng Chánh. Vào đầu thời Bắc Tống (北宋, 960~1127), triều đình cho đặt chức Tăng Chánh ở mỗi châu, tuyển chọn những người tài ba, đức hạnh để đảm đương trọng trách này. Tại Nhật Bản, chức tăng quan này được chế ra vào năm 624 đời Suy Cổ Thiên Hoàng (推古天皇, Suiko Tennō, tại vị 592-628), có 3 loại là Tăng Chánh (僧正), Tăng Đô (僧都) và Luật Sư (律師). Riêng Tăng Chánh và Tăng Đô lại chia thành Đại Tăng Chánh (大僧正), Đại Tăng Đô (大僧都), Thiếu Tăng Chánh (少僧正) và Thiếu Tăng Đô (少僧都). Về sau chức Tăng Chánh này lại được phân làm ba cấp là Đại, Chánh, Quyền; Đại Tăng Chánh là tương đương với Đại Nạp Ngôn (大納言), Chánh Tăng Chánh là Trung Nạp Ngôn (中納言) và Quyền Tăng Chánh là Tham Giảng (參講).
(太政官, Daijōkan, Ōimatsurigoto-no-Tsukasa): (1) Cơ quan hành chính tối cao trong Luật Lịnh Quan Chế (律令官制), quản chưởng 8 Bộ trở xuống, chuyên trách toàn thể chính vụ. Hàng ngũ quan công khanh được hình thành bởi Thái Chính Đại Thần (太政大臣), Tả Hữu Đại Thần (左右大臣), Đại Nạp Ngôn (大納言, sau này còn có Trung Nạp Ngôn [中納言], Tham Nghị [參議]). Cục Thiếu Nạp Ngôn (少納言局), Cục Tả Hữu Biện Quan (左右辨官局) xử lý về mặt sự vụ kết quả phiên nghị quốc chính của các quan công khanh ấy. Cục Thiếu Nạp Ngôn thì quản lý Cục Ngoại Ký (外記局), chuyên trách về việc tuyên hạ những sắc chiếu, đóng nội ấn, ngoại ấn. Trong khi đó, Cục Tả Hữu Biện Quan thì thống lãnh cả 8 Bộ và chấp hành sự vụ hành chính. Từ cuối thời Bình An trở đi, cơ quan này hữu danh mà vô thật và vẫn tồn tại cho đến cuối thời kỳ Mạc Phủ. (2) Thái Chính Quan (太政官, Dajōkan), cơ quan tối cao của chính phủ vào đầu thời Minh Trị. Nhân phong trào Vương Chính Phục Cổ (王政復古) vào tháng 12 năm 1867 (Khánh Ứng [慶應] 3), việc phục hưng Thái Chính Quan được tiến hành; cho nên vào tháng 1 năm sau, cơ quan đại diện Thái Chính Quan được thiết lập; rồi đến tháng 4 nhuận, trong Chính Thể Thư (政体書), chức chế của Thái Chính Quan được quy định rõ ràng. Về mặt hình thức thì có 3 chức quan gồm: Nghị Chính Quan (議政官, lập pháp), Hành Chính Quan (行政官, hành chính) và Hình Pháp Quan (刑法官, tư pháp); rồi bên dưới Thái Chính Quan còn có 4 chức quan khác như Thần Kỳ (神祇), v.v. Vào năm 1869 (Minh Trị [明治] 2), dưới Thái Chính Quan và Thần Kỳ Quan lại có thêm 6 Bộ. Trong Thái Chính Quan có Chính Viện (政院), Tả Viện (左院), Hữu Viện (右院). Về sau, hai viện tả hữu bị phế bỏ; thay vào đó là Nguyên Lão Viện (元老院) và Đại Thẩm Viện (大審院). Cuối cùng, vào năm 1885 (Minh Trị 18), cơ quan này bị phế bỏ hẳn và sát nhập vào chế độ Nội Các.
(善如, Zennyo, 1333-1389): vị Tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng thời đại Nam Bắc Triều, vị Tổ kế thế đời thứ 4 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), húy là Tuấn Huyền (俊玄), tục danh là Bá Kỳ Thủ Tông Khang (伯耆守宗康), tên lúc nhỏ là Quang Dưỡng Hoàn (光養丸), thông xưng là Đại Nạp Ngôn (大納言), hiệu là Thiện Như (善如); xuất thân từ vùng Kyoto, con trai đầu của Tùng Giác (從覺, người con thứ 2 của Giác Như). Năm1346, ông sao bổn lại bức tranh Thân Loan Truyện Hội (親鸞傳繪). Năm 1351 thì kế chức trú trì Bổn NguyệnTự. Đến năm 1360, ông sao chép cuốn Giáo Hành Tín Chứng Diên Thư (敎行信証延書). Cùng năm đó thì Tùng Giác qua đời, ông vẽ hình tượng cha mình, rồi nhờ Tồn Giác (存覺, Zonkaku) ghi bài tán vào. Năm1375, ông nhường chức lại cho Xước Như (綽如, Shakunyo), rồi năm 1381 thì viết sớ quyên tiền tu sửa miếu đường ở vùng Đại Cốc (大谷).
(靜遍, Jōhen, 1166-1224): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng đầu thời Liêm Thương, húy là Tĩnh Biến (靜遍), hay Tịnh Biến (淨遍), thông xưng là Thiền Lâm Tự Pháp Ấn (禪林寺法印), Đại Nạp Ngôn Pháp Ấn (大納言法印), hiệu là Tâm Viên Phòng (心圓房), Chơn Liên Phòng (眞蓮房), Chơn Vấn Phòng (眞問房); con của quan Đại Nạp Ngôn Bình Lại Thạnh (大納言平賴盛). Ông xuất gia tại Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), rồi thọ nhận Dòng Tiểu Dã (小野流) từ Thắng Hiền (勝賢) của Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), Dòng Quảng Trạch (廣澤) từ Nhân Long (仁隆) của Nhân Hòa Tự. Sau đó, ông đến trú trì Thiền Lâm Tự (禪林寺, Zenrin-ji). Ông được bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) của Nguyên Không (源空, Genkū) cảm hóa, bèn đến tham bái mộ của vị này, lễ bái làm đệ tử và quy y theo Tịnh Độ Giáo. Ông truyền trao các pháp của mật giáo cho Dòng Tam Bảo Viện (三寶院), và chuyển đến trú tại Vãng Sanh Viện (徃生院) trên Cao Dã Sơn. Đệ tử phú pháp của ông có Đạo Phạm (道範), Thật Hiền (實賢), v.v.
(巧如, Gyōnyo, 1376 -1440): vị Tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, vị Tổ thứ 6 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), húy là Huyền Khang (玄康), tên hồi nhỏ là Quang Đa Hạ Lữ (光多賀麿), thông xưng là Đại Nạp Ngôn (大納言), hiệu Chứng Định Các (証定閣), Xảo Như (巧如); xuất thân vùng Kyoto, con trai thứ 2 của Xước Như (綽如), vị Tổ đời thứ 5 của Bổn Nguyện Tự. Năm 1394, ông kế thế trú trì Bổn Nguyện Tự. Đến năm 1411, ông lo tổ chức lễ kỵ 150 lần của Thân Loan, rồi năm 1436 thì nhường chức lại cho người con trai đầu của ông là Tồn Như (存如, Zonnyo).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập