Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Dạ Xoa »»
(八部): tức Tám Bộ Chúng trời rồng bảo vệ Phật pháp, còn gọi là Thiên Long Bát Bộ (天龍八部), gồm Trời (s: deva, 天), Rồng (s: nāga, 龍), Dạ Xoa (s: yakṣa, 夜叉), Càn Thác Bà (s: gandharva, 乾闥婆, Hương Thần [香神] hay Nhạc Thần [樂神]), A Tu La (s: asura, 阿修羅), Ca Lâu La (s: garuḍa, 迦樓羅, Kim Xí Điểu [金翅鳥]), Khẩn Na La (s: kiṃnara, 緊那羅, phi nhân, ca nhân), Ma Hầu La Già (s: mahoraga, 摩睺羅伽, Đại Mãng Thần [大蟒神]). Vì trong Tám Bộ Chúng này, Trời và Rồng đứng đầu, nên có tên là Thiên Long Bát Bộ. Tuy khác nhau về chủng loại, nhưng họ đều quy phục uy đức của Phật và trở thành quyến thuộc của Ngài để hộ trì Phật pháp. Từ xa xưa, tại Trung Quốc cũng như Nhật Bản đã có tạo lập tranh tượng của Tám Bộ Chúng này rồi. Trong bài thơ Tống Thâm Pháp Sư Du Nam Nhạc (送深法師游南岳) của Lưu Vũ Tích (劉禹錫, 772-842) nhà Đường có câu: “Thập phương truyền cú kệ, Bát Bộ hội đàn tràng (十方傳句偈、八部會壇塲, mười phương truyền câu kệ, Tám Bộ gặp đàn tràng).” Hay trong Bất Không Quyên Sách Thần Biến Chơn Ngôn Kinh (不空罥索神變眞言經, Taishō Vol. 20, No. 1092) quyển 7, Phẩm Hộ Ma Tăng Ích (護摩增益品) thứ 7, lại có đoạn: “Nhược hữu hữu tình như pháp tu học, thường sử Tứ Thiên Vương, nhất thiết Thiên Long Bát Bộ quỷ thần, giai đương hộ hựu (若有有情如法修學、常使四天王天、一切天龍八部鬼神、皆當護祐, nếu có hữu tình như pháp tu học, thường khiến cho Tứ Thiên Vương, hết thảy Tám Bộ Trời Rồng quỷ thần, đều sẽ giúp đỡ).”
(藥叉): tức Dạ Xoa (s: yakṣa, p: yakkha, 夜叉), còn gọi là Duyệt Xoa (悅叉、閱叉), Dã Xoa (野叉); ý dịch là Khinh Tiệp (輕捷), Dũng Kiện (勇健), Năng Đạm (能噉), Quý Nhân (貴人), Uy Đức (威德), Từ Tế Quỷ (祠祭鬼), Tiệp Tật Quỷ (捷疾鬼); là một trong tám bộ chúng, thường được gọi chung với quỷ La Sát (s: rākṣasa, 羅刹). Chúng Dạ Xoa thường trú trên đất liền hay trên hư không, dùng uy thế để làm cho con người sợ hãi. Đây cũng là loại quỷ ủng hộ chánh pháp. Theo Đại Hội Kinh (大會經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經) quyển 12, Đại Tỳ Bà Sa Luận (大毘婆沙論) quyển 133, Thuận Chánh Lý Luận (順正理論) quyển 31, v.v., cho biết rằng chúng Dạ Xoa chịu sự thống lãnh của Tỳ Sa Môn Thiên Vương (毘沙門天王), thủ hộ cung Trời Đao Lợi (s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利), thọ nhận đủ loại hoan lạc, đầy đủ thế lực. Về chủng loại, Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 12 có nêu ra 3 loại Dạ Xoa: (1) Dạ Xoa đi trên mặt đất, thường có đủ các loại hoan hỷ, âm nhạc, đồ ăn uống, v.v. (2) Dạ Xoa trên hư không, có đủ sức mạnh, chạy nhanh như gió. (3) Dạ Xoa bay chạy trong cung điện, có đầy đủ các thứ âm nhạc cũng như vật tùy thân. Quyến thuộc của đức Phật Dược Sư có 12 vị Dược Xoa, được gọi là Thập Nhị Thần Vương (十二神王), Thập Nhị Thần Tướng (十二神將), Thập Nhị Dược Xoa Đại Tướng (十二藥叉大將). Các vị này bảo vệ người trì tụng Dược Sư Kinh (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhāsapūryapraṇidhāna, 藥師經); hoặc họ là phân thân của đức Phật Dược Sư để ứng với 12 đại nguyện của Ngài. Mỗi vị Thần Tướng đều có 7.000 Dược Xoa quyến thuộc; tổng cọng là 84.000 vị thần hộ pháp.
(s: Guhyapāda-vajra, 金剛密跡): còn gọi là Mật Tích Kim Cang (密跡金剛), Mật Tích Lực Sĩ (密跡力士), Kim Cang Thủ Dược Xoa (金剛手藥叉), Kim Cang Lực Sĩ (金剛力士), Kim Cang Mật Tích Đại Quỷ Thần Vương (金剛密跡大鬼神王); là loại quỷ thần có thần lực, thuộc thần thủ hộ của Phật Giáo, là một trong 20 vị trời, do Tỳ Sa Môn Thiên (s: Vaiśravaṇa, p: Vessavaṇa, 毘沙門天) thống quản. Nguyên lai vị này là thị giả của Tỳ Nữu Thiên (s: Viṣṇu, 毘紐天). Vị trí của Mật Tích Kim Cang thấp hơn Đế Thích Thiên và Tỳ Sa Môn Thiên, hiện hình tướng giận dữ, tay cầm Chày Kim Cang (s: vajra, 金剛杵, Kim Cang Chử); thống lãnh 500 Kim Cang Lực Sĩ (s: Vajradhāra, 金剛力士, thần Dạ Xoa), chủ yếu phòng thủ cửa ra vào cõi trời. Vị này cư trú tại Khoáng Dã Thành (曠野城, tức A La Tỳ Quốc [s: Alāvī, p: Ālavī, 阿羅毗國]); sau khi đức Thích Tôn thành đạo, thường theo hầu bên Ngài, chịu trách nhiệm bảo vệ Phật, hàng phục ngoại đạo cũng như quỷ thần. Phật Giáo Đại Thừa tôn thờ Mật Tích Kim Cang như là Bồ Tát hóa thân. Tương truyền, trong thời quá khứ, vị này có tên là Thái Tử Pháp Ý (法意), từng thệ nguyện bảo vệ cho ngàn vị huynh trưởng, cho đến khi nào những người này thành Phật mới thôi. Một trong những huynh trưởng đó là Thái Tử Pháp Niệm (法念), tức là Phạm Thiên. Nhân vì bảo hộ cho đức Phật lâu dài, Phật Giáo thời kỳ đầu cũng tín phụng, Mật Tích Kim Cang đã lãnh thọ nhiều giáo pháp từ Ngài. Mật Tông kính ngưỡng Mật Tích Kim Cang là hóa thân của Bồ Tát Kim Cang Thủ (s: Vajra-pāṇi, Vajra-dhara, 金剛手). Hình tượng vị này thường đứng thủ hộ hai bên phải trái ngay cổng tự viện Phật Giáo, vị mở miệng (dạng A [阿]) và vị ngậm miệng (dạng Hồng [吽]), ở trần với gân cốt rắn chắc nỗi cộm, hung dữ. Trong Thiên Thủ Quan Âm Tạo Thứ Đệ Pháp Nghi Quỹ (千手觀音造次第法儀軌, Taishō Vol. 20, No. 1068) có đoạn rằng: “Mật Tích Kim Cang Sĩ, xích hồng sắc cụ tam nhãn, hữu trì Kim Cang Chử, tả thủ quyền an yêu (密跡金剛士、赤紅色具三眼、右持金剛杵、左手拳安腰, Mật Tích Kim Cang Sĩ, màu đỏ hồng đủ ba mắt, tay phải cầm Chày Kim Cang, tay trái nắm chặt để ngang lưng).” Hay trong Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ Ai Luyến Kinh (佛入涅槃密跡金剛力士哀戀經, Taishō Vol. 12, No. 394) lại có đoạn rằng: “Mâu Ni Thế Tôn tại Câu Thi Na Thành Ta La lâm gian, Bắc thủ nhi ngọa, sơ nhập Niết Bàn thời, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, kiến Phật diệt độ bi ai áo não (牟尼世尊在拘尸那城娑羅林間、北首而臥、初入涅槃時、密跡金剛力士、見佛滅度悲哀懊惱, đức Mâu Ni Thế Tôn tại Thành Câu Thi Na, trong rừng Ta La, nằm xoay mặt về hướng Bắc, khi mới nhập Niết Bàn, Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ, thấy Phật diệt độ thì buồn rầu áo não).”
(s: Virūpākṣa, p: Virūpakkha, 廣目天): âm dịch là Tỷ Lựu Ba A Xoa (鼻溜波阿叉), Bễ Lộ Ba Ha Ngật Xoa (髀路波呵迄叉), Tỳ Lâu Bà Xoa (毘樓婆叉), Tỳ Rô Bác Xoa (毘嚕博叉); còn gọi là Ác Nhãn Thiên (惡眼天), Xú Mục Thiên (醜目天), Tạp Ngữ Chủ Thiên (雜語主天), Phi Hảo Báo Thiên (非好報天); là một trong 4 vị Thiên Vương, một trong 12 vị trời, một trong 16 vị thiện thần. Vị này trú tại lưng chừng phía Tây Tu Di Sơn; thường lấy con mắt trời thanh tịnh để quán sát chúng sanh cõi Diêm Phù Đề, là vị thiện thần hộ pháp ở phương Tây; nên có tên là Tây Phương Thiên (西方天); chuyên xét xử trừng phạt người ác, khiến cho họ sanh khởi đạo tâm. Vị trời này cũng là chủ của các loài rồng. Trong Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh (佛母大孔雀明王經, Taishō Vol. 19, No. 982) quyển Thượng cho biết rằng: “Thử Tây phương hữu đại Thiên Vương, danh viết Quảng Mục, thị đại long chủ; dĩ vô lượng bách thiên chư long nhi vi quyến thuộc, thủ hộ Tây phương (此西方有大天王、名曰廣目、是大龍主、以無量百千諸龍而爲眷屬、守護西方, phương Tây này có vị Thiên Vương lớn, tên là Quảng Mục, là chủ của con rồng lớn; lấy vô lượng trăm ngàn các loài rồng làm quyến thuôc, giữ gìn phương Tây).” Về hình tượng của vị trời này, các thuyết không giống nhau. Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 11 giải thích rằng thân của Tỳ Rô Bác Xoa dài một khuỷu tay, mang các loại y khác nhau, trang sức vô cùng tinh xảo, kỳ diệu, tương xứng với thân; tay trái duỗi ra cầm cây giáo, tay phải cầm dây thừng màu đỏ. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō Tripitaka Vol. 19, No. 926) cho biết thêm rằng: “Tây phương Quảng Mục Đại Thiên Vương, kỳ thân hồng sắc chấp quyến sách, thủ hộ bát Phật Tây phương môn (西方廣目大天王、其身紅色執罥索、守護八佛西方門, Quảng Mục Đại Thiên Vương ở phương Tây, thân màu hồng cầm cây roi, giữ gìn tám Phật cửa phía Tây).” Trong đồ hình Mạn Trà La của Thai Tạng Giới Mật Giáo, vị này ngự ở Tây môn của Kim Cang Bộ Viện. Tại Trung Quốc, có nhiều loại tạo hình về Quảng Mục Thiên; như tượng khắc trên tường phía Tây Nam Cư Dung Quan (居庸關) ở Hà Bắc thì tay phải cầm con rắn, tay trái đặt trước ngực; chân trái đạp lên lưng con ác quỷ, có vị đứng hầu bên trái lõa thể, cầm cây Chày Kim Cang. Bên cạnh đó, bức tượng phát hiện tại Thiên Phật Động ở Đôn Hoàng (敦煌) mặc áo lụa màu, hình tượng mang áo giáp da theo thể thức chế tạo của Trung Quốc; lấy áo trời, đồ vàng để trang sức thân thể, tay phải và trái cầm kiếm, hai chân đạp lên con quỷ Dạ Xoa (s: yakṣa, p: yakkha, 夜叉). Đại Hội Kinh (大會經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Tripitaka Vol. 1, No. 1) quyển 12 còn cho biết rằng: “Tây phương Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương, lãnh chư Cưu Bàn Trà quỷ, hữu đại uy đức, hữu cửu thập nhất tử, diệc tự Nhân Đà La, hữu đại thần lực (西方毗樓博叉天王、領諸鳩槃茶鬼、有大威德、有九十一子、亦字因陀羅、有大神力, Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương ở phương Tây, thống lãnh quỷ Cưu Bàn Trà, có uy đức lớn, có chín mươi mốt người con, cũng tên Nhân Đà La, có thần lực lớn).”
(鬼神): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho quái vật có đủ uy lực khủng khiếp, có thể biến hóa tự tại; được chia thành hai loại thiện và ác. Trường hợp bảo vệ thế gian hoặc hộ trì Phật pháp như Đại Phạm Thiên Vương (大梵天王), Tam Thập Tam Thiên Vương (三十三天王), Tứ Thiên Vương (四天王), Viêm Ma Vương (炎魔王), Nan Đà Long Vương (難陀龍王), Bạt Nan Đà Long Vương (跋難陀龍王), v.v., đều là quỷ thần thiện. Trường hợp như La Sát (s: rākṣasa, 羅剎), v.v., thuộc về quỷ thần ác. Còn Dạ Xoa (s: yakṣa,p: yakkha, 夜叉) thì thuộc về cả hai thiện và ác. Tuy nhiên, quỷ thần được đề cập trong Phật Giáo là chỉ cho 6 bộ quỷ thần, gồm Càn Thác Bà (s: gandharva, p: gandhabba, 乾闥婆), Dạ Xoa, A Tu La (s, p: asura, 阿修羅), Ca Lâu La (s: garuḍa, 迦樓羅), Khẩn Na La (s: kiṃnara, p: kinnara, 緊那羅), Ma Hầu La Già (s: mahoraga, 摩睺羅伽). Vào thời cổ đại Ấn Độ, từ thời đại Veda trở về sau, trong dân gian rất thịnh hành tín ngưỡng quỷ thần; về sau một bộ phận tín ngưỡng này thâm nhập vào Phật Giáo, nổi bậc nhất là Mật Giáo; tỷ dụ như các Minh Vương có hình giận dữ vốn hiển hiện pháp thân của Phật Tỳ Lô Giá Na, cũng thuộc loại quỷ thần. Ngoài ra, trong Kim Quang Minh Kinh (金光明經, Taishō Vol. 16, No. 663) thuật lại rất rõ chư thiên quỷ thần, và quý vị này được Thiên Thai Tông tôn sùng cao độ. Trong bộ Trùng Biên Chư Thiên Truyện (重編諸天傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1658), 2 quyển, do Thích Hành Đình (釋行霆) ở Ô Thú (烏戍) nhà Tống biên soạn, thâu lục đầy đủ các quỷ thần được đề cập trong kinh điển. Trong bài Nguyên Quỷ (原鬼) của Hàn Dũ (韓愈, 768-824) có giải thích rằng: “Vô thanh dữ hình giả, quỷ thần thị dã (無聲與形者、鬼神是也, cái không có tiếng và hình chính là quỷ thần vậy).” Trong Đoạn Trường Tân Thanh có câu rằng: “Mai sau dầu đến thế nào, kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần.” (2) Chỉ chung cho các thần linh, tinh khí. Như trong Sử Ký (史記), phần Ngũ Đế Bổn Kỷ (五帝本紀), có câu: “Lịch nhật nguyệt nhi nghênh tống chi, minh quỷ thần nhi kính sự chi (曆日月而迎送之、明鬼神而敬事之, trãi tháng năm mà đón đưa ấy, rõ quỷ thần mà kính thờ ấy).” (3) Chỉ cho hình thể và linh hồn. Như trong Lễ Ký (禮記), phần Lễ Vận (禮運), có đoạn: “Cố nhân giả, kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, Ngũ Hành chi tú khí dã (故人者、其天地之德、陰陽之交、鬼神之會、五行之秀氣也, cho nên con người là đức của trời đất, giao tiếp của âm dương, tụ hội của quỷ thần, khí tốt của Ngũ Hành vậy).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) giải thích rõ rằng: “Quỷ vị hình thể, thần vị tinh linh (鬼謂形體、神謂精靈, quỷ là hình thể, thần là linh hồn).”
(s: Śakra Devānāmindra, 釋提桓因): Thích Đề Hoàn Nhân (釋提桓因), còn gọi là Đế Thích Thiên (s: Indra, p: Inda, 帝釋天, Trời Đế Thích), Năng Thiên Chủ (能天主), Thiên Chủ Đế Thích (天主帝釋), Thiên Đế Thích (天帝釋), Thiên Đế (天帝), Đao Lợi Thiên Vương (忉利天王); âm dịch là Thích Ca Đề Hoàn Nhân Đà La (釋迦提桓因陀羅); còn có các tên gọi khác như Nhân Đà La (因陀羅), Kiều Thi Ca (憍尸迦), Ta Bà Bà (娑婆婆), Thiên Nhãn (千眼), v.v. Nguyên lai, Ngài là vị thần của Ấn Độ Giáo, thời cổ đại Ấn Độ gọi là Nhân Đà La. Vì được thần cách hóa như là ánh sáng chớp của sấm sét, dưới thời đại Veda, vị này được xem như là có sức mạnh nhất trong các vị thần, thường hay đánh nhau với ác thần A Tu La. Người Trung Quốc thường gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝). Theo các kinh luận cho biết, xưa kia vị này là người dòng dõi Bà La Môn ở nước Ma Già Đà (摩伽陀), nhờ có phước đức tu tập hạnh Bố Thí, được sanh lên cung trời Đao Lợi (s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利), làm Thiên chủ của 33 cõi trời. Trời Đế Thích trú tại Thành Thiện Kiến (善見城), cung điện tối cao của cõi Trời Ba Mươi Ba, nơi có ngọn Tu Di Sơn (須彌山) cao nhất trên mặt đất, và cai trị địa giới. Cùng với Phạm Thiên, vị trời này được xem như là vị thần bảo vệ của Phật Giáo. Hai bên Trời Đế Thích có 10 vị Thiên tử hầu hạ thường xuyên. Về cõi Trời Ba Mươi Ba, do vì trước kia vị trời này đã cùng với 32 người khác tu tập thiện nghiệp tại nước Ma Kiệt Đà. Tương truyền xưa kia, sau khi đức Phật Ca Diếp qua đời, có một người nữ phát tâm tu sửa tháp của Ngài, rồi lại có thêm 32 người khác trợ lực. Tất cả sau khi qua xả bỏ báo thân này thì cùng được sanh cõi Trời Đao Lợi. Do đó, chung quanh cõi Trời này có 32 cung điện của 32 người kia; còn ở giữa là Đế Thích, tổng cọng là 33. Ngài có 3 vị phu nhân tên Viên Sanh (園生), Thiện Pháp (善法), Xá Chi (赦支). Tại phía Đông Bắc của cung điện Trời Đế Thích có cây Viên Sanh; phía Tây Nam có Thiện Pháp Đường (善法堂). Trời Đế Thích thường tập trung chư Thiên thuyết pháp tại đây. Nếu Trời Đế Thích đi nữa, chư Thiên vẫn cung kính chỗ ngồi của Ngài, xem như Ngài có mặt. Tuổi thọ của Ngài rất dài, một ngày một đêm trên cõi Trời ấy bằng 100 năm dưới cõi người, tính 36.000 năm của con người làm 1 tuổi của Ngài. Mỗi nữa tháng vào các ngày trai giới, Trời Đế Thích thường hạ lịnh Tứ Thiên Vương, Thái Tử, Thị Giả, v.v., thám sát thiên hạ vạn dân, xem thử thiện ác, tà chánh thế nào. Nếu nghe chúng sanh nhiều việc ác, không hiếu thuận cha mẹ, không kính trọng thầy tổ, không bố thí cho người nghèo khốn, tức làm cho chư Thiên buồn phiền, giảm tổn đi, và làm cho chúng A Tu La tăng trưởng. Và ngược lại, nếu nghe chúng sanh làm các việc thiện nhiều, hiếu thuận cha mẹ, tôn kính thầy tổ, siêng năng tu tập trai giới, bố thí cho người nghè khốn, nhờ vậy chư thiên vô cùng hoan hỷ, số lượng tăng thêm; và chúng A Tu La giảm xuống. Sau khi đức Phật thành đạo, Trời Đế Thích trở thành thần thủ hộ cho Ngài. Khi đức Phật lên cung Trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân, Trời Đế Thích tạo thành bậc cấp bằng 7 thứ báu, đích thân Ngài cầm lọng báu che đức Phật đi từ trên xuống. Sau đó, Trời Đế Thích cung thỉnh Phật thuyết pháp trong cung điện. Ngài từng hóa hiện ra nhiều thân hình để hóa độ, khuyên răn mọi người làm lành tránh dữ, bố thí, cúng dường. Ngài tuy là vua của tất cả chư Thiên, thống lãnh muôn loài, như từ tâm vô lượng. Tương truyền có một con quỷ Dạ Xoa thân hình rất nhỏ, nhan sắc đen thùi, xấu xí, hung ác, ngồi trên ngai của Trời Đế Thích. Thấy vậy chư Thiên tức giận, muốn đánh đuổi con quỷ ấy đi. Trời Đế Thích bảo rằng: “Vị này tên là Trợ Sân Quỷ (助瞋鬼, quỷ giúp cho sân hận).” Bèn trịch áo, bày vai bên phải, tay cầm lò hương thưa với quỷ Dạ Xoa rằng: “Thưa đại tiên, tôi là Trời Đế Thích đây.” Thưa như vậy ba lần. Nghe xong, thân hình quỷ Dạ Xoa biến nhỏ dần và tiêu mất. Cho nên, dù làm vua cõi Trời đi nữa, nhưng Trời Đế Thích cũng không bao giờ làm tổn thương muôn vật, lấy đức từ để hóa độ chúng sanh. Về hình tượng, vị này thường thể hiện hình trời người, cỡi voi trắng, tay phải cầm cây chày báu Tam Cô, hay cây Chày Kim Cang; tay trái đặt trên bắp vế.
(四天王): giữa lưng chừng núi Tu Di (s: Sumeru, 須彌山) có một ngọn núi tên là Do Kiền Đà La (由犍陀羅); núi ấy có 4 đỉnh, bốn vua trời đều ngự mỗi nơi, đều hộ trì một cõi thiên hạ, nên có tên là Hộ Thế Tứ Thiên Vương (護世四天王). Nơi các vị cư trú gọi là Tứ Vương Thiên (四王天), Tứ Thiên Vương Thiên (s: Caturmahārājakāyikās, 四天王天), là một trong Lục Dục Thiên (六欲天, 6 tầng trời Cõi Dục), là tầng đầu tiên của cõi trời; gồm có Trì Quốc Thiên (s: Dhṛitarāṣṭra, 持國天) ở phương Đông, Tăng Trưởng Thiên (s: Virūḍhaka, 增長天) ở phương Nam, Quảng Mục Thiên (s: Virūpākṣa, 廣目天) ở phương Tây và Đa Văn Thiên (s: Dhanada, Vaiśramaṇa, 多聞天) ở phương Bắc. Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 2, phần Hội Danh Bộ (會名部) thứ 2, dẫn lời của Kinh Trường A Hàm rằng: “Đông phương Thiên Vương danh Đa La Tra, lãnh Càn Thát Bà cập Tỳ Xá Xà thần tướng, hộ Phất Bà Đề nhân; Nam phương Thiên Vương danh Tỳ Lưu Ly, lãnh Cưu Bàn Trà cập Bế Lệ thần, hộ Diêm Phù Đề nhân; Tây phương Thiên Vương danh Tỳ Lưu Bác Xoa, lãnh nhất thiết chư long cập Phú Đơn Na, hộ Cù Da Ni nhân; Bắc phương Thiên Vương danh Tỳ Sa Môn, lãnh Dạ Xoa La Sát tướng, hộ Uất Đơn Việt nhân (東方天王名多羅吒、領乾闥婆及毘舍闍神將、護弗婆提人、南方天王名毘琉璃、領鳩槃荼及薜荔神、護閻浮提人、西方天王名毘留博叉、領一切諸龍及富單那、護瞿耶尼人、北方天王名毘沙門、領夜叉羅剎將、護鬱單越人, Thiên Vương ở phương Đông tên là Đa La Tra, thống lãnh thần tướng Càn Thát Bà và Tỳ Xá Xà, hộ trì người cõi Phất Bà Đề; Thiên Vương ở phương Nam tên là Tỳ Lưu Ly, thống lãnh thần Cưu Bàn Trà và Bế Lệ, hộ trì người cõi Diêm Phù Đề; Thiên Vương ở phương Tây tên là Tỳ Lưu Bác Xoa, thống lãnh hết thảy loài rồng và Phú Đơn Na, hộ trì người cõi Cù Da Ni; Thiên Vương ở phương Bắc tên là Tỳ Sa Môn, thống lãnh tướng Dạ Xoa, La Sát, hộ trì người cõi Uất Đơn Việt).” Tỳ Ni Chỉ Trì Hội Tập (毗尼止持會集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 39, No. 709) quyển 14 cho biết rằng: “Đông phương Trì Quốc Thiên Vương, vị năng hộ trì quốc độ, cố cư Tu Di Sơn hoàng kim đóa; Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương, vị năng linh tha thiện căn tăng trưởng, cố cư Tu Di Sơn Lưu Ly đóa; Tây phương Quảng Mục Thiên Vương, vị dĩ tịnh Thiên Nhãn thường quán ủng hộ thử Diêm Phù Đề, cố cư Tu Di Sơn Bạch Ngân đóa; Bắc phương Đa Văn Thiên Vương, vị phước đức chi danh văn tứ phương, cố cư Tu Di Sơn Thủy Tinh đóa (東方持國天王、謂能護持國土、故居須彌山黃金埵、南方增長天王、謂能令他善根增長、故居須彌山琉璃埵、西方廣目天王、謂以淨天眼常觀擁護此閻浮提、故居須彌山白銀埵、北方多聞天王、謂福德之名聞四方、故居須彌山水晶埵, Trì Quốc Thiên Vương ở phương Đông, được xem như hộ trì quốc độ, nên sống trên đống vàng ròng của núi Tu Di; Tăng Trưởng Thiên Vương ở phương Nam, được xem như có thể khiến cho căn lành của người khác tăng trưởng, nên sống trên đống ngọc Lưu Ly của núi Tu Di; Quảng Mục Thiên Vương ở phương Tây, được xem như lấy Thiên Nhãn thường quán sát ủng hộ cõi Diêm Phù Đề này, nên sống trên đống Bạch Ngân của núi Tu Di; Đa Văn Thiên Vương ở phương Bắc, được xem như tiếng tăm phước đức cùng khắp bốn phương, nên sống trên đống Thủy Tinh của núi Tu Di).” Trong Thiền môn có bài tán Tứ Thiên Vương rằng: “Tứ Thiên Vương Tướng, bát Kim Cang Thần, thọ Phật chúc phó trấn sơn môn, Hộ pháp an tăng luân, phong vũ điều thuận, can qua vĩnh thái bình (四天王將、八金剛神、受佛囑咐鎭山門、護法安僧倫、風雨調順、干戈永太平, bốn Thiên Vương Tướng, tám Kim Cang Thần, vâng Phật dặn bảo giữ sơn môn, Hộ pháp yên tăng thân, mưa hòa gió thuận, binh lửa mãi thái bình).”
(s: Vaiśravaṇa, p: Vessavaṇa, 毘沙門天): âm dịch là Phệ Thất La Ma Noa (吠室羅摩拏), Tỳ Xá La Môn (毘舍羅門), Tì Sa Môn (鞞沙門), Tỳ Sa Môn (毘沙門); còn gọi là Phổ Văn Thiên (普聞天), Chủng Chủng Văn Thiên (種種聞天); là một trong Tứ Thiên Vương, một trong 12 vị trời, vị thần thủ hộ ở phương Bắc của Diêm Phù Đề. Vị này trú tại phía Bắc của tầng thứ tư Tu Di Sơn, thống lãnh chúng quỷ Dạ Xoa và La Sát, kiêm thủ hộ ba châu khác. Do thường thủ hộ đạo tràng, lắng nghe Phật pháp, nên vị này có tên là Đa Văn (普聞, nghe nhiều). Vị trời này được tôn thờ ở địa phương Tây Bắc Ấn Độ, cũng có khi được xem như là thần chiến thắng, nên được tôn sùng cao độ. Hình tượng phổ cập của Tỳ Sa Môn Thiên thể hiện hình thần vương, chân đạp lên hai con quỷ; tay trái cầm bảo tháp, tay phải cầm cây gậy báu. Ngoài ra, hình tượng của vị này còn có hai thân, 4 tay, 10 tay, v.v. Trong số tượng 12 vị trời, chỉ riêng tượng vị này được tôn sùng mà thôi. Bên cạnh đó, vị này còn ban cho phước đức, nên được kính ngưỡng là một trong 7 vị Phước Thần. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō Tripitaka Vol. 19, No. 926) cho biết rằng: “Bắc phương Đa Văn Đại Thiên Vương, kỳ thân lục sắc chấp bảo xoa, thủ hộ bát Phật Bắc phương môn (北方多聞大天王、其身綠色執寶叉、守護八佛北方門, Đa Văn Đại Thiên Vương ở phương Bắc, thân màu xanh cầm chĩa báu, giữ gìn tám Phật cửa phía Bắc).” Hay Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh (佛母大孔雀明王經, Taishō Vol. 19, No. 982) quyển Thượng cho biết thêm rằng: “Bắc phương hữu đại Thiên Vương, danh viết Đa Văn, thị Dược Xoa chủ; dĩ vô lượng bách thiên Dược Xoa nhi vi quyến thuộc, thủ hộ Bắc phương (北方有大天王、名曰多聞、是藥叉主、以無量百千藥叉而爲眷屬、守護北方, phương Tây có vị Thiên Vương lớn, tên là Đa Văn, là chủ của Dược Xoa; lấy vô lượng trăm ngàn các loài Dược Xoa làm quyến thuôc, giữ gìn phương Bắc).” Căn cứ vào Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 12 cho biết rằng nước Vu Điền (s: Ku-stana, 于闐) vô cùng tín ngưỡng vị trời này. Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2061) quyển 1 còn cho biết rằng trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Bảo (天寶, 742-756) của vua Huyền Tông (玄宗, tại vị 712-756) nhà Đường, tại Trung Quốc cũng có tín ngưỡng này. Bức tượng Tỳ Sa Môn Thiên tại Thiên Phật Động ở Đôn Hoàng (敦煌) mặc áo lụa màu, vừa mới được khai quật. Về phía Nhật Bản, tại An Mã Tự (鞍馬寺, Kurama-dera) ở Kyoto có tượng Đâu Bạt Tỳ Sa Môn (兜跋毘沙門); sau khi Mật Giáo được truyền vào, tượng này được xem như vị thần đơn độc, nên được tôn sùng tối đa. Tượng Đa Văn Thiên (niên đại nhà Đường) hiện tồn tại Giáo Vương Hộ Quốc Tự (敎王護國寺, Kyōōgokoku-ji, tức Đông Tự [東寺, Tō-ji]) ở kinh đô Kyoto, tương truyền là tượng thủ hộ vương thành, nên được đặt trên lầu cổng La Thành.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập