Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cửu Viễn Tự »»
(本覺寺, Hongaku-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, hiệu là Thường Tại Sơn (常在山), hiện tọa lạc tại Mishima-shi (三島市), Shizuoka-ken (靜岡縣). Tương truyền rằng ngôi chùa này do Nhất Thừa Phòng Nhật Xuất (一乘房日出) khai sáng vào năm 1424 (Ứng Vĩnh [應永] 31). Ông vốn là vị Tăng của Thiên Thai Tông, sau được Nhật Học (日學) ở Cửu Viễn Tự (久遠寺) tại Thân Diên Sơn (身延山) giáo hóa, nên ông cải hóa theo Nhật Liên Tông, rồi đến bố giáo ở các vùng Giáp Phỉ (甲斐, Kai), Y Đậu (伊豆, Izu).
(本門寺, Honmon-ji): một trong những ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Chánh Tông, hiện tọa lạc tại số 4965 Kitayama (北山), Fujinomiya-shi (富士宮市), Shizuoka-ken (靜岡縣); còn gọi là Bắc Sơn Bổn Môn Tự (北山本門寺), Trọng Tu Bổn Môn Tự (重須本門寺); hiệu núi là Phú Sĩ Sơn (富士山). Đây là ngôi chùa do Nhật Hưng (日興), một trong 6 đệ tử chân truyền của Nhật Liên, sáng lập vào năm 1298. Đầu tiên Nhật Hưng giữ chức Biệt Đương của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở Thân Diên (身延, Minobu); sau theo di mệnh của Nhật Liên, ông đến sáng lập Đại Thạch Tự (大石寺, Taiseki-ji), rồi 2 năm sau thì chuyển đến vùng Trọng Tu (重須, Omosu). Tại đây, Nguyên Năng Trung (源能忠) quy y theo ông, dựng lên một ngôi chùa tại tư dinh của ông; đó là gốc tích của Bổn Môn Tự. Năm 1899, chùa này tách riêng hẳn với Môn Phái Hưng (興門派) và tự xưng là Bổn Môn Tông (本門宗). Bảo vật của chùa có bộ Trinh Quán Chính Yếu (貞觀政要) 2 quyển do tự tay Nhật Liên viết, bản Kinh Pháp Hoa được viết dưới thời Bình An, cả hai đều thuộc loại di sản văn hóa trọng yếu của quốc gia. Ngoài ra, còn khá nhiều bảo vật khác nữa.
(立正安國論, Risshōankokuron): 1 quyển, do Nhật Liên (日蓮, Nichiren) soạn, văn bản trình cho Bắc Điều Thời Lại (北條時頼, Hōjō Tokiyori) vào năm 1260; ngoài ra còn có bản Thiên Thai Sa Môn Nhật Liên Khám Chi (天台沙門日蓮勘之) của Diệu Pháp Hoa Tự (妙法華寺) do đệ tử của Nhật Liên là Nhật Hưng (日興) sao chép lại; và nguyên bản do chính tay Nhật Liên viết hiện còn bảo tồn tại Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) ở Trung Sơn (中山, Nakayama). Trước đây có nguyên bản của Nhật Liên gồm 12 tờ ở Cửu Viễn Tự (久遠寺) vùng Thân Diên (身延, Minobu); và có một số bản khác do các đệ tử chân truyền của ông sao chép. Đây là tuyển tập thuộc một trong 5 bộ thư mục lớn của Nhật Liên, gồm Khai Mục Sao (開目抄), Quán Tâm Bổn Tôn Sao (觀心本尊抄), Soạn Thời Sao (撰時抄) và Báo Ân Sao (報恩抄). Từ năm 1257 trở đi, những thiên tai như dộng đất, mưa gió bão bùng, đói rét, dịch bệnh, v.v., xảy ra liên miên không ngớt; cho nên người chết, người đói, người bệnh xuất hiện rất nhiều. Đương thời, Nhật Liên mục kích được những thảm trạng này, đứng từ lập trường của nhà tôn giáo, ông soạn thuật ra luận thư này để đề xuất lên nhà cầm quyền lúc bấy giờ thông qua một người tín đồ của ông, rồi sau đó ông mới đến yết kiến Thời Lại. Thư tịch này đối xứng với bản Thủ Hộ Quốc Gia Luận (守護國家論) do ông viết vào năm trước. An Quốc Luận ở đây có nghĩa rằng do vì xem thường chánh pháp (giáo lý của Kinh Pháp Hoa) mà quy y theo tà pháp (Tịnh Độ Giáo của Nguyên Không), nên chư vị thiện thần thủ hộ quốc gia mới bỏ đi; thay vào đó, ác thần hoành hành làm cho tai ách xảy ra liên tục, không ngớt. Ông đã dẫn dụ lời văn trong các kinh như Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經), Dược Sư Kinh (藥師經), v.v.; rồi khẳng định rằng nếu như cứ để tình trạng như thế này thì thế nào cũng bị nội loạn bên trong và xâm lược từ bên ngoài vào; cho nên cần phải chấm dứt ngay sự viện trợ về kinh tế cho kẻ báng pháp như Nguyên Không, để mong cầu mọi người quay trở về với chánh pháp; và nếu như chánh pháp được thiết lập thì quốc gia được yên ổn, nhân dân được thái bình. Đó chính là ý nghĩa của an quốc. Tuy nhiên, do vì chủ trương phản bác Tịnh Độ Giáo, ông đã chuốc lấy sự phản kích và tấn công dữ dội của giáo đồ Tịnh Độ. Chính quyền Mạc Phủ thì xử tội lưu đày ông đến vùng Y Đậu (伊豆, Izu). Về vấn đề tiên tri cho rằng sẽ có nội loạn và xâm lược như trong tác phẩm này có đề cập đến; quả nhiên sau đó quân Mông Cổ tiến vào xâm lược Nhật Bản và vụ loạn của Bắc Điều Thời Phụ (北條時輔, Hōjō Tokisuke) xảy ra đã trở thành hiện thực.
(蓮永寺, Renei-ji): ngôi tự viện có liên quan đến Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại Aoi-ku (葵區), Shizuoka-shi (靜岡市), Shizuoka-shi (靜岡市); hiệu là Trinh Tùng Sơn (貞松山). Vào năm 1274 (Văn Vĩnh [文永] 11, có thuyết cho là 1275), khi Nhật Liên vào trong núi Thân Diên (身延), Tùng Dã Lục Lang Tả Vệ Môn (松野六郎左衛門), người đã từng quy y theo Thánh Nhân, mới xây dựng một ngôi chùa nhỏ, lấy hiệu là Tùng Vinh Sơn Phương Thọ Viện (松榮山芳樹院); và người đệ tử trực truyền của Nhật Liên là Nhật Trì (日持) làm Tổ khai sáng chùa. Về sau, do vì binh hỏa, chùa bị đốt cháy toàn bộ; nhưng vào năm 1615 (Nguyên Hòa [元和] nguyên niên), người vợ thứ của Tuớng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) là Dưỡng Châu Viện (養珠院) cho dời chùa về vị trí hiện tại và tái kiến lại toàn bộ như cũ. Sau đó, bà cung thỉnh Nhật Càn Thượng Nhân (日乾上人) ở Cửu Viễn Tự (久遠寺), Thân Diên Sơn đến làm Tổ khai sơn thời Trung Hưng của chùa, và chùa được đổi tên thành Trinh Tùng Sơn Liên Hoa Viện Liên Vĩnh Tự (貞松山蓮華院蓮永寺). Sau đó, vào năm 1774 (An Vĩnh [安永] 3), chùa lại bị cháy lần nữa, rồi cũng được xây dựng lại cho đến ngày nay. Chính đây là ngôi chùa có liên quan đến bà Dưỡng Châu Viện, nên vẫn còn lưu giữ những di phẩm của bà như hộp đựng con ấn đỏ, trạng châu ấn cũng như nghiên mực, v.v. Trong khuôn viên chùa có ngôi tháp cúng dường do bà dựng lên trong lúc sinh tiền để cầu nguyện sau khi qua đời được siêu độ.
(日英, Nichiei, 1346-1423): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, húy là Nhật Anh (日英), hiệu Diệu Thân Viện (妙親院). Ông theo tu học với Nhật Trinh (日貞) ở Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng (下總, Shimōsa); rồi sau khi thầy ông qua đời, ông theo hầu hạ Nhật Tôn (日尊), vị Tổ đời thứ 4 của chùa này. Đến năm 1390, ông được mời đến làm Tổ khai sơn Diệu Tuyên Tự (妙宣寺) vốn do anh ông là Thực Cốc Trùng Kế (埴谷重繼) tạo dựng nên. Trong khi tiến hành lễ khánh thành chùa này, xảy ra vấn đề tranh luận về pháp phục với Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji); nên sinh ra việc kiện tụng lên người quản lãnh vùng Quan Đông (關東, Kantō), và kết quả tại pháp đình thì Cửu Viễn Tự thắng kiện. Từ đó về sau, ông lấy mối quan hệ huyết thống với dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba), tín đồ trung thành của Pháp Hoa Kinh Tự, làm cơ sở để mở ra những trung tâm hoằng pháp ở vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa) cũng như Hạ Tổng (下總, Shimōsa), và phát triển Môn Phái Trung Sơn. Môn hạ của ông có Nhật Thân (日親), Nhật Quốc (日國), v.v. Trước tác của ông có Mạt Tự Giảng Diễn Chức Đẳng Sự (末寺講演職等事) 1 quyển, Nhượng Trạng (讓狀).
(日妙, Nichimyō, ?-1502): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Nhật Diệu (日妙); hiệu Pháp Tịnh Viện (法淨院); xuất thân vùng Yamanashi-ken (山梨縣). Năm lên 18 tuổi, ông theo xuất gia với Nhật Triêu (日朝), vị Tổ đời thứ 11 của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji). Ông vốn có chí muốn truyền bá Kinh Pháp Hoa, nên giữa đường lên kinh đô thì sáng lập ra Pháp Liên Tự (法蓮寺) ở vùng Vĩ Trương (尾張, Owari).
(日向, Nikō, 1253-1314): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương, một trong Lục Lão Tăng (六老僧); Tổ đời thứ 2 của Cửu Viện Tự (久遠寺, Kuon-ji), Tổ của Dòng Phái Thân Diên (身延門流); húy là Nhật Hướng (日向), tục danh là Đằng Tam Lang Thật Trường (藤三郎實長?); thông xưng là Tá Độ Công (佐渡公), Tá Độ A Xà Lê (佐渡阿闍梨), Dân Bộ A Xà Lê (民部阿闍梨); xuất thân vùng Tảo Nguyên (藻原, Mobara), Thượng Tổng (上總, Kazusa); con của Tiểu Lâm Dân Bộ Thật Tín (小林民部實信?). Ông xuất gia với Nhật Liên, thường theo hầu thầy và chuyên tâm tu học. Sau khi Nhật Liên đến sống ẩn cư ở vùng Thân Diên (身延, Minobu), ông thường làm sứ giả đi khắp nơi hoạt động giáo hóa. Sau khi thầy qua đời, ông lấy Diệu Quang Tự (妙光寺) ở vùng Thượng Tổng làm cứ điểm để mở rộng phạm vi giáo hóa. Ông đã từng lên Thân Diên Sơn (身延山) quy y cho lãnh chúa Ba Mộc Tỉnh Thật Trường (波木井實長), rồi sau khi phế bỏ quy chế luân phiên canh giữ ngôi tháp của Nhật Liên, ông trở về làm trú trì đời thứ 2 của Cửu Viện Tự, và xây dưng cơ cở vững chắc cho chùa này. Dòng phái của ông được gọi là Dòng Phái Nhật Hướng. Trước tác của ông có Kim Cang Tập (金剛集) 10 quyển.
(日進, Nisshin, 1271-1346): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tâm (日心), Nhật Chân (日眞), Nhật Tấn (日進); thông xưng là Đại Tấn Công (大進公), Tam Vị Công (三位公), Đại Tấn A Xà Lê (大進阿闍梨); hiệu là Đại Tấn Viện (大進院); xuất thân vùng Cát Sức (葛飾, Katsushika), Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), con thứ 2 của Tằng Cốc Thứ Lang Vệ Binh Úy Giáo Tín (曾谷次郎衛兵尉敎信, tức Nhật Lễ [日禮]). Ông là một trong 18 vị lão tăng. Năm 1313, ông nhận lời phó chúc của Nhật Hướng (日向), trở thành vị tổ thứ 3 của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở Thân Diên Sơn (身延山). Đến năm 1320, ông lên kinh đô chuyên sao chép các thư tịch Thánh giáo. Ông rất thâm giao với Nhật Hựu (日祐) ở Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng; và mở rộng giáo tuyến khắp các vùng Thượng Tổng, Hạ Tổng thông qua những lần đi tuần hóa của ông. Trước tác của ông để lại có Tam Quốc Phật Pháp Thạnh Suy Chi Sự (三國佛法盛衰之事) 1 quyển, Phá Tịnh Độ Nghĩa Luận Pháp Hoa Chánh Nghĩa (破淨土義論法華正義) 1 quyển, Nhật Liên Thánh Nhân Ngự Hoằng Thông Thứ Đệ (日蓮上人御弘通次第), v.v.
(日朝, Nicchō, 1422-1500): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Nhật Triêu (日朝); thông xưng là Gia Hạ A Xà Lê (加賀阿闍梨); tự là Kính Trừng (鏡澄), hiệu Bảo Tụ Viện (寶聚院), Hành Học Viện (行學院); xuất thân vùng Shizuoka-ken (靜岡縣). Năm lên 8 tuổi, ông theo xuất gia với Nhật Xuất (日出) khi vị này đang trên đường giáo hóa ở địa phương Y Đậu (伊豆, Izu). Sau ông đến tu học ở Vô Lượng Thọ Tự (無量壽寺, tức Hỷ Đa Viện [喜多院]) của Thiên Thai Tông. Đến năm 1462, ông kế thừa làm trú trì đời thứ 11 của Cửu Viễn Tự (久遠寺), rồi dời chùa về vị trí hiện tại và chỉnh đốn chùa hoàn bị. Hơn nữa, ông còn thâu tập những di văn của Nhật Liên, rồi chú giải, mở ra những hội thuyết giảng hỏi đáp, và tận lực chấn hưng giáo học Tông môn. Trước tác của ông có rất nhiều như Ngự Thư Kiến Văn (御書見聞) 44 quyển, Nguyên Tổ Hóa Đạo Ký (元祖化道記) 2 quyển, Bổ Thí Tập (補施集) 112 quyển, Hoằng Kinh Dụng Tâm Ký (弘經用心記) 5 quyển, v.v.
(日住, Nichijū, 1406-1486): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, húy là Nhật Trú (日住), hiệu Chơn Như Viện (眞如院), xuất thân vùng Kyoto. Ban đầu ông theo hầu hạ Nhật Diên (日延) ở Diệu Giác Tự (妙覺寺) thuộc kinh đô Kyoto; rồi sau đó cũng đã từng lên tu học trên Tỷ Duệ Sơn, làm trú trì các chùa Bổn Giác Tự (本覺寺) cũng như Diệu Giác Tự. Thỉnh thoảng ông có dâng sớ can gián, rồi mấy lần xuống vùng Quan Đông để giảng hòa cuộc đối lập giữa hai phe Cửu Viễn Tự (久遠寺) ở Thân Diên Sơn (身延山) và Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) ở Trung Sơn (中山); trở thành nhân vật trung tâm của giáo đoàn qua những hoạt động truyền giáo của ông. Ông đã tận lực trong việc nghiên cứu giáo học Tông phái và giáo dục giáo đoàn. Trước tác của ông có Diệu Pháp Trị Thế Tập (妙法治世集) 1 quyển, Diệu Pháp Trị Thế Tập Thỉ Mạt Ký (妙法治世集始末記) 1 quyển, Dữ Trung Sơn Tịnh Quang Viện Thư (與中山淨光院書) 1 quyển, Bổn Tôn Sao Kiến Văn (本尊抄見聞) 1 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập