Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cửu Phẩm »»
(s: kalaviṅka, p: karavika, 迦陵頻伽): còn gọi là Ca La Tần Già (歌羅頻伽), Ca Lan Già (加蘭伽), Ca Lan Tần Già (迦蘭頻伽), Yết La Tần Già (羯羅頻迦), Ca Lăng Tần Già (迦楞頻伽), Ca Lăng Tỳ Già (迦陵毘伽), Ca Lăng Già (迦陵伽), Yết Lăng Già (羯陵伽), Yết Tỳ Già La (羯毘伽羅), Yết Lăng Già La (羯陵伽羅), Ca Tỳ Già La (迦毘伽羅), Hạt Thất Già La (鶡鵯伽羅), Ca Vĩ La (迦尾羅), v.v.; ý dịch là hảo thanh điểu (好聲鳥, chim có tiếng hót hay), mỹ dung điểu (美容鳥, chim có hình dáng đẹp), diệu thanh điểu (妙聲鳥, chim có âm thanh tuyệt diệu). Đây là tên của một loài chim, thường thấy chủ yếu ở Ấn Độ, xuất xứ từ trên Tuyết Sơn (s, p: Himālaya, 雪山); nó sắc màu đen mượt giống như chim sẻ, bộ lông rất đẹp, ở phần cổ có màu đỏ. Khi còn trong trứng, chim đã có thể cất tiếng hót, âm thanh trong trẻo, hòa nhã, vi diệu, so với tiếng của Trời, người, Khẩn Na La (s: kiṃnara, 緊那羅) cũng như tất cả những loài chim khác đều thua xa. Như trong A Di Đà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao (阿彌陀經要解便蒙鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 430) quyển Trung có giải thích rằng: “Sơn cốc khoáng dã, kỳ trung đa hữu Ca Lăng Tần Già, xuất diệu âm thanh, nhược thiên nhược nhân, Khẩn Na La đẳng, vô năng cập giả (山谷曠野、其中多有迦陵頻伽、出妙音聲、若天若人、緊那羅等、無能及者, nơi hang núi đồng rộng, trong đó có nhiều chim Ca Lăng Tần Già, phát ra tiếng hót vi diệu, dẫu Trời dẫu người, Khẩn Na La vân vân, không thể sánh bằng).” Trong kinh điển Phật Giáo, thường lấy âm thanh của loài chim này để ví cho tiếng vi diệu của chư Phật, Bồ Tát; hoặc xem Ca Lăng Tần Già như là loài chim của thế giới Cực Lạc. Trong đồ hình Mạn Trà La Tịnh Độ, Ca Lăng Tần Già được vẽ dưới hình dạng đầu người thân chim. Trong Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận (大乘集菩薩學論, Taishō Vol. 32, No. 1636) quyển 23 có câu: “Mâu Ni Tam Nghiệp siêu Tam Hữu, thí nhược phù cừ bất trước thủy, Ca Lăng Tần Già tịnh diệu thanh, thị cố ngã kim khể cụ lễ (牟尼三業超三有、譬若芙蕖不著水、迦陵頻伽淨妙聲、是故我今稽具禮, Mâu Ni Ba Nghiệp vượt Ba Cõi, giống như hoa sen chẳng thấm nước, Ca Lăng Tần Già tiếng vi diệu, vì vậy con nay cúi đầu lạy).” Hay trong Phật Thuyết Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Đại Thừa Kinh (佛說護國尊者所問大乘經, Taishō Vol. 12, No. 321) quyển 3 có đoạn: “Phước Quang Thái Tử viên uyển chi nội, hữu chủng chủng phi điểu, Anh Vũ, Cù Dục, Uyên Ương, Nga Áp, Khổng Tước Xá Lợi, Câu Chỉ La Điểu, Câu Nỗ La Điểu, Ca Lăng Tần Già, Mạng Mạng Điểu đẳng (福光太子園苑之內、有種種飛鳥、鸚鵡、鴝鵒、鴛鴦、鵝鴨、孔雀舍利、俱枳羅鳥、俱拏羅鳥、迦陵頻伽、命命鳥等, trong vườn của Thái Tử Phước Quang có nhiều loại chim bay, như chim vẹt, sáo, uyên ương, vịt trời, chim sẻ Xá Lợi, chim Câu Chỉ La, chim Câu Nỗ La, chim Ca Lăng Tần Già, chim Mạng Mạng, vân vân).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Nghi Quỹ (三時繫念儀範, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1465) lại có đoạn: “Lục thời hành đạo bảo lâm gian, Cửu Phẩm tiêu danh kim chiểu nội, thủy điểu thọ lâm năng thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già cọng đàm Thiền, bảo lan bảo can ảnh linh lung, bảo tọa bảo tràng quang xán lạn (六時行道寶林間、九品標名金沼內、水鳥樹林能說法、迦陵頻伽共談禪、寶欄寶網影玲瓏、寶座寶幢光燦爛, sáu thời hành đạo nơi rừng báu, Chín Phẩm đề danh trong hồ vàng, chim nước rừng cây còn thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già thảy bàn Thiền, lan can quý báu ảnh lung linh, tòa báu tràng phan sáng rực rỡ).”
(九蓮): từ gọi tắt của Cửu Phẩm Liên Đài (九品蓮臺), là đài sen có 9 phẩm của hành giả ngồi lên khi được vãng sanh. Lúc hành giả lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng cầm đài sen đến tiếp rước, hành giả ngồi lên đài sen và hoa tự khắc dẫn đến cõi Tịnh Độ. Khi đến nơi, hoa nở ra, thân tướng đầy đủ. Phẩm vị của hành giả được phân làm 9 loại, được gọi là Cửu Phẩm Vãng Sanh (九品徃生), gồm Thượng Phẩm Thượng Sanh (上品上生), Thượng Phẩm Trung Sanh (上品中生), Thượng Phẩm Hạ Sanh (上品下生), Trung Phẩm Thượng Sanh (中品上生), Trung Phẩm Trung Sanh (中品中生), Trung Phẩm Hạ Sanh (中品下生), Hạ Phẩm Thượng Sanh (下品上生), Hạ Phẩm Trung Sanh (下品中生) và Hạ Phẩm Hạ Sanh (下品下生). Từ đó, đài sen cũng có 9 phẩm khác nhau. Các phẩm này được thuật rõ trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經). Trong đó, trừ Trung Phẩm Hạ Sanh không có tên gọi, còn lại các phẩm khác theo thứ tự có tên như sau: Kim Cang Đài (金剛臺), Tử Kim Đài (紫金臺), Kim Liên Hoa (金蓮華), Liên Hoa Đài (蓮華臺), Thất Bảo Lien Hoa (七寳蓮華), Bảo Liên Hoa (寳蓮華), Liên Hoa (蓮華) và Kim Liên Hoa (金蓮華). Như trong Huệ Lâm Tông Bổn Thiền Sư Biệt Lục (慧林宗本禪師別錄, CBETA No. 1450) có câu: “Thử phương thân dĩ tạ, Tịnh Quốc Cửu Liên khai (此方身已謝、淨國九蓮開, chốn này thân đã hết, Tịnh Độ Chín Sen khai).” Hay trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, CBETA No. 1215) cũng có câu: “Ức niệm Di Đà thanh triệt để, phản văn Phật hiệu tự ưu du, Lục Căn bất động thường điềm tĩnh, vạn pháp quy nguyên tận bãi hưu, phao khước nhân gian danh lợi sự, nhất tâm đốn nhập Cửu Liên chu (憶念彌陀清徹底、返聞佛號自優游、六根不動常恬靜、萬法歸源盡罷休、拋卻人閒名利事、一心頓入九蓮舟, nhớ niệm Di Đà trong triệt để, phản nghe Phật hiệu tự thong dong, Sáu Căn chẳng động thường điềm tĩnh, muôn pháp về nguồn dứt nghĩ luôn, vứt bỏ nhân gian danh lợi chuyện, nhất tâm vào thẳng Chín Sen thuyền).”
(良源, Ryōgen, 912-985): vị tăng của Thiên ThaiTông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, thụy hiệu Từ Huệ Đại Sư (慈慧大師), người đời thường gọi ông là Nguyên Tam Đại Sư (元三大師), Ngự Miếu Đại Sư (御廟大師), Giác Đại Sư (角大師), Đậu Đại Sư (豆大師), họ là Mộc Tân (木津), xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Năm lên 12 tuổi, ông theo học pháp với Lý Tiên (理仙), và sau khi thầy qua đời, ông đến thọ giới với Thiên Thai Tọa Chủ Tôn Ý (尊意, Soni), rồi theo học với Hỷ Khánh (喜慶, Kikei), Giác Huệ (覺惠, Kakue) và Vân Tình (雲晴, Unsei). Vào năm 937, tại Duy Ma Hội của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), ông đã đối luận với Nghĩa Chiêu (義昭, Gishō) của Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji) và hàng phục được vị này. Đến năm 963, tại Pháp Hoa Hội ở Thanh Lương Điện, ông lại luận phá được Pháp Tàng (法藏, Hōzō) của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), nên thanh danh của ông vang khắp thiên hạ. Năm 964, ông được liệt vào hàng Nội Cúng Phụng (內供奉, hàng ngũ của 10 vị Thiền Sư), rồi năm sau thì làm Quyền Luật Sư, năm kế đến thì trở thành Thiên Thai Tọa Chủ. Trong thời gian làm Tọa Chủ được khoảng 20 năm, ông đã nỗ lực phục hưng Giảng Đường và giáo dưỡng đồ chúng. Chính ông đã định ra Nhị Thập Lục Điều Thức (二十六條式) để chỉnh đốn quy luật trongSơn Môn. Ông được sùng ngưỡng như là vị Tổ Sư thời Trung Hưng, và ngoài thế gian thì sùng bái như là hóa thân của Quan Âm, hay của Bất Động Minh Vương Bồ Tát. Môn hạ của ông có một số nhân vật kiệt xuất như Nguyên Tín (源信, Genshin), Giác Vận (覺運, Kakuun), Tầm Thiền (尋禪, Jinzen), Giác Siêu (覺超, Kakuchō) và hơn 3000 người. Trước tác của ông để lại có Bách Ngũ Thập Tôn Khẩu Quyết (百五十尊口訣), Cửu Phẩm Vãng Sanh Nghĩa (九品徃生義), Danh Biệt Nghĩa Thông Tư Ký (名別義通私記), Thai Kim Niệm Tụng Hành Ký (胎金念誦行記).
(三毒): còn gọi là Tam Hỏa (三火), Tam Cấu (三垢), Tam Bất Thiện Căn (三不善根); ba độc, ba loại phiền não, gồm Tham Dục (貪欲), Sân Nhuế (瞋恚) và Ngu Si (愚癡); hay Tham, Sân, Si; Dâm (淫), Nộ (怒), Si (癡); Dục (欲), Sân (瞋), Vô Minh (無明). Hết thảy phiền não đều được gọi là độc; ba loại phiền não này thông nhiếp cả Ba Cõi, làm độc hại thiện tâm của chúng sanh; có thể khiến cho chúng hữu tình vĩnh kiếp chịu khổ, không thể nào lìa ra khỏi được. Ba Độc này là căn nguyên các việc làm ác của thân, miệng và ý. Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 34 phân ba độc thành Chánh Tam Độc (正三毒, tức Tham Dục, Sân Nhuế, Ngu Si) và Tà Tam Độc (邪三毒, tức Tà Tham Dục, Tà Sân Nhuế, Tà Kiến Ngu Si). Đối với Tà Tam Độc thì khó độ, Chánh Tam Độc thì dễ độ; cho nên cõi Tịnh Độ của chư Phật chỉ có Chánh Tam Độc mà thôi. Theo Đại Tạng Pháp Số (大藏法數) quyển 15, hàng Nhị Thừa, Bồ Tát đều có Ba Độc. Hàng Nhị Thừa vui mừng cầu Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) là tham dục, chán ghét xa lìa sanh tử là sân nhuế, mê ở trong Trung Đạo (s: madhyamā-pratipad, p: majjhima-paṭipadā, 中道) là ngu si. Hàng Bồ Tát muốn rộng cầu Phật pháp là tham dục, trách la hàng Nhị Thừa là sân nhuế, và chưa liễu đạt Phật tánh là ngu si. Như trong Đại Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) có đoạn giải thích về Ba Độc rằng: “Vô Minh chi tâm, tuy hữu bát vạn tứ thiên phiền não tình dục, cập hằng hà sa chúng ác, giai nhân Tam Độc, dĩ vi căn bổn; kỳ Tam Độc giả, Tham Sân Si thị dã; thử Tam Độc tâm, tự năng cụ túc nhất thiết chư ác, do như đại thọ, căn tuy thị nhất, sở sanh chi diệp kỳ số vô biên (無明之心、雖有八萬四千煩惱情欲、及恆河沙眾惡、皆因三毒、以爲根本、其三毒者、貪嗔癡是也、此三毒心、自能具足一切諸惡、猶如大樹、根雖是一、所生枝葉其數無邊, tâm Vô Minh, tuy có tám vạn bốn ngàn phiền não tình dục, và hằng hà sa số các điều ác, đều do Ba Độc, lấy làm căn bản; Ba Độc này chính là Tham Sân Si; tâm Ba Độc này, tự có thể đầy đủ hết thảy các điều ác, giống như cây lớn, gốc tuy là một, các cành lá của nó số lượng vô biên).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, CBETA No. 1277) quyển 12 có câu: “Thập Ác Ngũ Nghịch tất băng tiêu, Tam Độc Thất Tình câu tuyết hóa, Ngũ Lậu hóa vi vô lậu, Lục Căn biến tác thiện căn, trượng Nhất Thừa tiến điệu chi công, chỉ Cửu Phẩm vãng sanh chi lộ (十惡五逆悉冰消、三毒七情俱雪懺、五漏化爲無漏、六根變作善根、仗一乘薦悼之功、指九品徃生之路, Mười Ác Năm Nghịch thảy băng tiêu, Ba Độc Bảy Tình đều hóa giải, Năm Lậu hóa thành vô lậu, Sáu Căn biến nên thiện căn, nương Một Thừa dâng cúng công phu, chỉ Chín Phẩm vãng sanh về nẻo).”
(三品):
(1) Vàng, bạc và đồng.
(2) Ba loại tiền đồng có hình thái đặc thù được dùng dưới thời nhà Hán: tiền rồng (龍幣), tiền ngựa (馬幣) và tiền rùa (龜幣).
(3) Ba giai cấp thượng trung hạ của tánh con người.
(4) Chức vị Tam Phẩm thứ 3 tính từ Nhất Phẩm đến Cửu Phẩm (nghĩa trong bài).
(5) Ba giai cấp vãng sanh Cực Lạc: thượng phẩm, trung phẩm và trung phẩm.
(長西, Chōsai, 1184-1266): vị Tăng của Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng đầu và giữa thời Liêm Thương, húy là Trường Tây (長西), hiệu Giác Minh Phòng (覺明房); xuất thân vùng Tây Tam Cốc (西三谷), Tán Kì (讚岐, Sanuki, thuộc Kagawa-ken [香川縣]); con trai của vị Trưởng Quan Kami vùng Y Do (伊予, Iyo) là Đằng Nguyên Quốc Minh (藤原國明). Hồi nhỏ ông đã từng học các thư tịch của Nho Giáo, đến năm 1202, ông ký tên vào bản Bảy Điều Răn Dạy để đối phó với sự đàn áp của đồ chúng Thiên Thai Tông, rồi năm 1207 ông đi theo hầu Nguyên Không khi bị dày tội đến vùng Tứ Quốc (四國, Shikoku). Sau khi thầy qua đời, ông theo học Ma Ha Chỉ Quán với Tuấn Nhưng (俊芿, Shunjō), rồi Thiền với Đạo Nguyên (道元, Dōgen), cũng như giáo nghĩa của Phái Tây Sơn với Chứng Không (証空, Shoku). Ông có cùng lý tưởng về giáo lý của Giác Du (覺瑜) thuộc Thiên Thai Tông và chủ trương nghĩa của Chư Hạnh Bổn Nguyện. Ông chuyển đến sống ở Cửu Phẩm Tự (九品寺) tại vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro), chuyên tâm giảng thuyết và hoằng truyền giáo nghĩa của mình. Dòng pháp của ông gọi là Dòng Cửu Phẩm Tự (九品寺流). Trước tác của ông để lại có Tịnh Độ Y Bằng Kinh Luận Chương Sớ Mục Lục (淨土依憑經論章疏目錄, tức Trường Tây Lục [長西錄]) 1 quyển, Tuyển Trạch Tập Danh Thể Quyết (選擇集名体決) 1 quyển, Niệm Phật Bổn Nguyện Nghĩa (念佛本願義) 1 quyển, Quán Kinh Sớ Quang Minh Sao (觀經疏光明抄) 18 quyển, v.v.
(慈航): thuyền từ; chư Phật, Bồ Tát lấy tâm từ bi cứu độ chúng sanh, giống như thuyền bè đưa người thoát ly biển khổ sanh tử. Trong bài thơ Khai Thiện Tự Pháp Hội (開善寺法會) của Tiêu Thống (蕭統, 501-531) nhà Lương thời Nam Triều có câu: “Pháp luân minh ám thất, tuệ hải độ từ hàng (法輪明暗室、慧海度慈航, xe pháp sáng nhà tối, biển tuệ độ thuyền từ).” Hay trong bài Vị Thôn Thối Cư Ký Lễ Bộ Thôi Thị Lang Hàn Lâm Tiền Xá Nhân Thi Nhất Bách Vận (渭村退居寄禮部崔侍郎翰林錢舍人詩一百韻) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường cũng có câu: “Đoạn si cầu tuệ kiếm, tế khổ đắc từ hàng (斷癡求慧劍、濟苦得慈航, đoạn ngu cầu kiếm tuệ, cứu khổ được thuyền từ).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự (三時繫念佛事, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1464) có bài tán thán đức Phật Di Đà rằng: “A Di Đà Phật, vô thượng y vương, nguy nguy kim tướng phóng hào quang, khổ hải tác từ hàng, Cửu Phẩm Liên Bang, đồng nguyện vãng Tây phương (阿彌陀佛、無上醫王、巍巍金相放毫光、苦海作慈航、九品蓮邦、同願往西方, A Di Đà Phật, cao tột y vương, lồng lộng tướng báu phóng hào quang, biển khổ làm từ thuyền, Chín Phẩm Cõi Sen, cùng nguyện qua Tây phương).”
(慈航): thuyền từ; chư Phật, Bồ Tát lấy tâm từ bi cứu độ chúng sanh, giống như thuyền bè đưa người thoát ly biển khổ sanh tử. Trong bài thơ Khai Thiện Tự Pháp Hội (開善寺法會) của Tiêu Thống (蕭統, 501-531) nhà Lương thời Nam Triều có câu: “Pháp luân minh ám thất, tuệ hải độ từ hàng (法輪明暗室、慧海度慈航, xe pháp sáng nhà tối, biển tuệ độ thuyền từ).” Hay trong bài Vị Thôn Thối Cư Ký Lễ Bộ Thôi Thị Lang Hàn Lâm Tiền Xá Nhân Thi Nhất Bách Vận (渭村退居寄禮部崔侍郎翰林錢舍人詩一百韻) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường cũng có câu: “Đoạn si cầu tuệ kiếm, tế khổ đắc từ hàng (斷癡求慧劍、濟苦得慈航, đoạn ngu cầu kiếm tuệ, cứu khổ được thuyền từ).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Phật Sự (三時繫念佛事, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1464) có bài tán thán đức Phật Di Đà rằng: “A Di Đà Phật, vô thượng y vương, nguy nguy kim tướng phóng hào quang, khổ hải tác từ hàng, Cửu Phẩm Liên Bang, đồng nguyện vãng Tây phương (阿彌陀佛、無上醫王、巍巍金相放毫光、苦海作慈航、九品蓮邦、同願往西方, A Di Đà Phật, cao tột y vương, lồng lộng tướng báu phóng hào quang, biển khổ làm từ thuyền, Chín Phẩm Cõi Sen, cùng nguyện qua Tây phương).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập