Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Trong cuộc sống, điều quan trọng không phải bạn đang ở hoàn cảnh nào mà là bạn đang hướng đến mục đích gì. (The great thing in this world is not so much where you stand as in what direction you are moving. )Oliver Wendell Holmes
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Cuộc sống là một sự liên kết nhiệm mầu mà chúng ta không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự khi chưa nhận ra mối liên kết ấy.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cù lao »»
(甘旨): có nhiều nghĩa khác nhau:
(1) ngon ngọt; như trong Luận Quý Túc Sớ (論貴粟疏) của Triều Thác (晁錯, 200-154 trước CN) nhà Hán có câu: “Phù hàn chi ư y, bất đãi khinh noãn, cơ chi ư thực, bất đãi cam chỉ (夫寒之於衣、不待輕煖、飢之於食、不待甘旨, hễ lạnh thì nhờ vào áo mặc, chẳng kể thứ nhẹ ấm; hễ đói thì nhờ vào thức ăn, chẳng đợi đồ ngon ngọt).”
(2) Loại thực vật ngon ngọt. Như trong Kim Lâu Tử (金樓子), Lập Ngôn (立言) của Lương Nguyên Đế (梁元帝, tại vị 552-554) thời Nam Triều có câu: “Cam chỉ bách phẩm, nguyệt tế nhật tự (甘旨百品、月祭日祀, trăm thứ ngon ngọt, tháng cúng ngày thờ).” Hay như trong Liêu Trai Chí Dị (聊齋誌異), chương Cửu Sơn Vương (九山王) của Bồ Tùng Linh (蒲松齡, 1640-1715) nhà Thanh cũng có đoạn rằng: “Nga nhi hành tửu tiến soạn, bị cực cam chỉ (俄而行酒薦饌、僃極甘旨, trong chốt lát thì tiến hành dâng cúng rượu, mâm cỗ, chuẩn bị loại ngon ngọt nhất).”
(3) Chỉ loại thức ăn dùng để nuôi dưỡng song thân. Trong tờ Tấu Trần Tình Trạng (奏陳情狀) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường có đoạn: “Thần mẫu đa bệnh, thần gia tố bần, cam chỉ hoặc khuy, vô dĩ vi dưỡng, dược bính hoặc khuyết, không trí kỳ ưu (臣母多病、臣家素貧、甘旨或虧、無以爲養、藥餌或闕、空致其憂, mẹ thần nhiều bệnh, nhà thần nghèo cùng, thức ăn ngon ngọt có khi thiếu thốn, chẳng lấy gì nuôi dưỡng song thân, thuốc men khuyết hụt, không có gì làm cho người yên lòng).”
Từ đó, có cụm từ “cúng cam chỉ (供甘旨)” nghĩa là cung phụng cha mẹ hết mực để báo hiếu. Như Trong Nhị Thập Tứ Hiếu (二十四孝), câu chuyện Phụ Mễ Dưỡng Thân (負米養親, vác gạo nuôi song thân) của Tử Lộ (子路) có đoạn thơ rằng: “Phụ mễ cúng cam chỉ, ninh từ bách lí diêu, thân vinh thân dĩ một, do niệm cựu Cù lao (負米供甘旨、寧辭百里遙、身榮親已沒、猶念舊劬勞, vác gạo nuôi cha mẹ, chẳng từ trăm dặm xa, giàu sang người đã mất, còn nhớ công ơn xưa).” Hay trong Đại Huệ Phổ Giác Thiền Sư Pháp Ngữ (大慧普覺禪師法語) quyển 20 có đoạn: “Phụ mẫu bất cúng cam chỉ, Lục Thân cố dĩ khí ly, thân cư thanh tịnh già lam, mục đỗ cam dung thánh tướng (父母不供甘旨、六親固以棄離、身居清淨伽藍、目睹紺容聖相, cha mẹ chẳng tròn hiếu đạo, Lục Thân lại phải xa rời, thân sống già lam thanh tịnh, mắt trông thánh tướng dung hiền).” Hoặc trong Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách (潙山大圓禪師警策) của Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐) cũng có câu tương tự như vậy: “Phụ mẫu bất cung cam chỉ, Lục Thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự (父母不供甘旨、六親固以棄離、不能安國治邦、家業頓捐繼嗣, cha mẹ chẳng tròn hiếu đạo, Lục Thân lại phải xa rời, chẳng thể an nhà trị nước, gia nghiệp dứt bỏ kế thừa).”
(蓮房): có hai nghĩa chính:
(1) Đài sen. Vì bên trong đài sen có hạt sen, mỗi hạt đều cách nhau bởi một lỗ hổng, nên gọi là “liên phòng (蓮房, phòng của đài sen).” Trong bài thơ Thu Hứng (秋興) của thi hào Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường có câu: “Lộ lãnh liên phòng trụy phấn hồng (露冷蓮房墜粉紅, hơi sương lạnh đài sen rơi phấn hồng).” Trong bài Thái Liên Phú (採蓮賦) của Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường lại có câu: “Thính lăng ca hề kỉ khúc, thị liên phòng hề kỉ chu (聽菱歌兮幾曲、視蓮房兮幾株, nghe bài ca hái ấu chừ mấy khúc, nhìn đóa sen chừ được mấy gốc).” Trong Tây Phương Phát Nguyện Văn Chú (西方發願文註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 61, No. 1161) có giải thích rõ rằng: “Kim Cang Đài, tức Liên Hoa Tòa, kỳ tòa Kim Cang sở thành, cố danh Kim Cang Đài; hựu hoa nội liên phòng, diệc danh vi đài, Thượng Phẩm Thượng Sanh, nãi hữu thử đài (金剛臺、卽蓮華座、其座金剛所成、故名金剛臺、又華內蓮房、亦名爲臺、上品上生、乃有此臺, Đài Kim Cang tức là Tòa Hoa Sen, tòa này do Kim Cang mà thành, nên có tên là Đài Kim Cang; lại trong hoa có liên phòng, cũng gọi là đài; hàng Thượng Phẩm Thượng Sanh sẽ có đài này).” Sau này, người ta thường dùng một số câu để chúc mừng sanh con nói chung, hay sanh con trai nói riêng như tử chủng liên phòng (子種蓮房, hạt gieo trong đài sen), liên phòng đắc tử đa (蓮房得子多, đài sen được nhiều hạt), v.v.
(2) Chỉ cho phòng ở của chư tăng. Vì Phật Giáo lấy tượng trưng cho sự trong sạch, không nhiễm của hoa sen để ví dụ cho phòng ở của chư tăng. Như trong Tây Quy Trực Chỉ (西歸直指, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1173) quyển 2 có đoạn: “Bỉ tắc chất thác liên phòng, an tọa diệu hương cung điện, ký bất thọ bào thai chi ô uế, phục bất lụy mẫu thị chi Cù lao (彼則質托蓮房、安坐妙香宮殿、旣不受胞胎之汙穢、復不累母氏之劬勞, vị ấy sẽ sinh ra nơi phòng sen, an tọa trên cung điệu hương thơm, đã không bị sự ô uế của bào thai, lại chẳng phải chịu sự nuôi nấng cực khổ của người mẹ).”
(蓼莪廢讀): bỏ không đọc phần Lục Nga (蓼莪) của Thi Kinh (詩經). Điển cố này phát xuất từ câu chuyện chí hiếu của Vương Bầu (王裒) nhà Ngụy thời Tam Quốc, như trong Bát Đức Cố Sự (八德故事), Hiếu Thiên (孝篇) có ghi lại như sau: “Vương Bầu khấp mộ, vị mẫu úy lôi, Lục Nga phế độc, khái niệm ai ai. Ngụy Vương Bầu, phụ Nghi, vi Tấn Văn Đế sở sát, Bầu chung thân vị hướng Tây tọa, thị bất thần Tấn. Mẫu úy lôi, mỗi văn lôi, tức bôn mộ tiền bái khấp cáo viết: 'Bầu tại thử, mẫu vật cụ'. Thường phàn mộ tiền bá thọ hiệu khấp, lệ trước thọ, thọ vị chi khô. Độc thi chí 'ai ai phụ mẫu, sanh ngã Cù lao', tất tam phục lưu thế, môn nhân tận phế 'Lục Nga' thiên (王裒泣墓、爲母畏雷、蓼莪廢讀、慨念哀哀。魏王裒、父儀、爲晉文帝所殺、裒終身未向西坐、示不臣晉。母畏雷、每聞雷、卽奔墓前拜泣告曰、裒在此、母勿懼。嘗攀墓前柏樹號泣、淚著樹、樹爲之枯。讀《詩》至「哀哀父母、生我劬勞」、必三復流涕、門人盡廢《蓼莪》篇, Vương Bầu khóc mộ, vì mẹ sợ sấm, Lục Nga bỏ đọc, xót nhớ bùi ngùi. Vương Bầu nhà Ngụy, cha là Nghi, bị Tấn Văn Đế giết, Bầu suốt đời chưa từng ngồi hướng về phía Tây, chứng tỏ không thần phục nhà Tấn. Mẹ ông sợ sấm sét, mỗi lần nghe sấm sét, ông liền chạy ra trước mộ mẹ, lạy khóc và thưa rằng: 'Bầu con ở đây, mẹ đừng sợ'. Ông thường vin vào cây bách trước mộ mà khóc thảm thiết, nước mắt dính cây, cây liền khô héo. Ông đọc Thi Kinh đến đoạn 'thương thay cha mẹ, sanh ta khổ nhọc', cả ba lần đều rơi lệ; môn nhân thấy vậy, phế bỏ đi thiên 'Lục Nga' ấy).” Sự cố này cũng được ghi lại trong Nhị Thập Tứ Hiếu (二十四孝), câu chuyện Văn Lôi Khấp Mộ (聞雷泣墓, nghe sấm khóc mộ). Từ đó, Lục Nga Phế Độc còn có nghĩa là cha mẹ đã qua đời.
(s: śramaṇa, p: samaṇa, 沙門): âm dịch là Thất La Mạt Noa (室羅末拏), Xá Ra Ma Noa (舍囉摩拏), Thất Ma Na Noa (㗌摩那拏), Sa Ca Muộn Nang (沙迦懣囊); Sa Môn Na (沙門那), Sa Văn Na (沙聞那), Ta Môn (娑門), Tang Môn (桑門), Táng Môn (喪門); là từ chuyển âm của phương ngôn Tây Vức, như từ samāne của tiếng Quy Tư (s: Kucīna, 龜茲), hay samanā của tiếng Vu Điền (s: Kustana, 于闐, nay là Khotan); ý dịch là cần lao (勤勞), công lao (功勞), Cù lao (劬勞), cần khẩn (勤懇), tĩnh chí (靜志), tịnh chí (淨志), tức chỉ (息止), tức tâm (息心), tức ác (息惡), cần tức (勤息), tu đạo (修道), bần đạo (貧道), phạp đạo (乏道). Đây là từ tổng xưng cho người xuất gia, thông cả nội và ngoại đạo; cũng dùng để chỉ việc cắt bỏ râu tóc, dừng lại và chấm dứt các điều ác, khéo điều phục thân tâm, siêng năng thực hành các điều thiện, và khát vọng đạt được mục đích xuất gia tu đạo, chứng quả Niết Bàn. Theo Du Hành Kinh (遊行經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Vol. 1, No. 1) quyển 3, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 66, Sa Môn được phân làm 4 loại như sau: (1) Thắng Đạo Sa Môn (勝道沙門), còn gọi là hành đạo thù thắng, như Phật hay Độc Giác, vì có thể tự giác được. (2) Thị Đạo Sa Môn (示道沙門), còn gọi là Thuyết Đạo Sa Môn (說道沙門), nghĩa là khéo thuyết giảng nghĩa đạo; chỉ cho người thuyết giảng về đạo không sai lầm, như Trưởng Lão Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), v.v., có thể thường theo đức Phật chuyển bánh xe pháp. (3) Mạng Đạo Sa Môn (命道沙門), còn gọi là Hoạt Đạo Sa Môn (活道沙門), nghĩa là nương theo đạo mà sinh hoạt; tức chỉ cho người nương theo đạo mà sống, như tôn giả A Nan (s, p: Ānanda, 阿難), v.v., tuy có học vị mà giống như vô học, đa văn, khéo vâng giữ, đầy đủ giới cấm thanh tịnh, truyền pháp thân huệ mạng cho cuộc đời. (4) Ô Đạo Sa Môn (污道沙門), còn gọi là Hoại Đạo Sa Môn (壞道沙門), chỉ cho những người ngụy thiện, làm nhơ nhớp Thánh đạo, như Tỳ Kheo Mạc Khát Lạc Ca (莫喝落迦), thường trộm cắp tài vật của người khác. Du Già Sư Địa Luận (瑜伽師地論, Taishō Vol. 30, No. 1579) quyển 29 giải thích rằng Thắng Đạo Sa Môn là bậc Thiện Thệ (s: sugata, 善逝, đấng thật sự qua bờ bên kia mà không còn trở lui biển sanh tử nữa), Thuyết Đạo Sa Môn là người tuyên thuyết các chánh pháp, Hoạt Đạo Sa Môn là người tu các thiện pháp, và Hoại Đạo Sa Môn là thực hành các việc làm sai trái. Ngoài ra, Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō Vol. 11, No. 310) quyển 112 có nêu 4 loại Sa Môn khác là (1) Hình Phục Sa Môn (形服沙門, Sa Môn bên ngoài mặc sắc phục tu sĩ), (2) Uy Nghi Khi Cuống Sa Môn (威儀欺誑沙門, Sa Môn khinh thường oai nghi tế hạnh), (3) Tham Cầu Danh Văn Sa Môn (貪求名聞沙門, Sa Môn tham cầu tiếng tăm) và (4) Thật Hành Sa Môn (實行沙門, Sa Môn tinh tấn thực hành chánh pháp). Trong Hương Tổ Bút Ký (香祖筆記) quyển 8 của Vương Sĩ Chân (王士禛, 1634-1711) nhà Thanh có câu: “Sa Môn dĩ Hòa Thượng vi tôn quý chi xưng (沙門以和尚爲尊貴之稱, Sa Môn lấy Hòa Thượng làm từ xưng hô tôn quý).” Hay trong Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) quyển 22 có câu: “Tây Kinh Tây Minh Tự Sa Môn Viên Chiếu soạn (西京西明寺沙門圓照撰, Sa Môn Viên Chiếu ở Tây Minh Tự, Tây Kinh soạn).”
(三年乳哺): ba năm trường mẹ cho con bú và mớm cơm cho con ăn. Trong Địa Mẫu Kinh (地母經) của Đạo Giáo có câu: “Thùy phi phụ mẫu sanh, thập nguyệt hoài thai khổ, tam niên nhũ bộ tân (誰非父母生、十月懷胎苦、三年乳哺辛, ai là người không phải do cha mẹ sanh ra, mười tháng mang thai cực khổ, ba năm cho con bú mớm nhọc nhằn).” Hơn nữa, trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 78 cũng có đoạn: “Thiên vô nhị nhật, nhân vô nhị lý, dưỡng dục hài đồng, phụ tinh mẫu huyết, hoài thai thập nguyệt, đãi thời nhi sanh, sanh hạ nhũ bộ tam niên, tiệm thành thể tướng, khởi hữu bất tri chi lý (天無二日、人無二理、养育孩童,父精母血,怀胎十月,待时而生,生下乳哺三年,渐成体相,岂有不知之理!養育孩童、父精母血、懷胎十月、待時而生、生下乳哺三年、漸成體相、豈有不知之理, trời không có hai mặt trời, người không có hai lý, nuôi dưỡng con nhỏ, tinh cha huyết mẹ, mang thai mười tháng, đợi đến lúc sanh con, sanh xong cho bú mớm ba năm, dần dần thành hình tướng, liệu làm sao chẳng biết lý ấy).” Hay như trong Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn (勸發菩提心文) của Tỉnh Am Đại Sư (省庵大師, 1686-1734) có câu: “Vân hà niệm phụ mẫu ân ? Ai ai phụ mẫu, sanh ngã Cù lao, thập nguyệt tam niên, hoài thai nhũ bộ (云何念父母恩、哀哀父母、生我劬勞、十月三年、懷胎乳哺, Thế nào là nhớ đến công ơn cha mẹ ? Thương thay cha mẹ, sanh ta khó nhọc, mười tháng ba năm, mang thai bú mớm).”
(子路, 543-480 ttl.): đệ tử trứ danh của Trọng Ni (仲尼, tức Khổng Tử), một trong Thập Triết (十哲); tên là Trọng Do (仲由), tự Tử Lộ (子路), còn gọi là Quý Lộ (季路), người nước Lỗ (魯). người có dũng khí, rất tôn trọng tín nghĩa. Ông là người có đức hiếu cao cả, như trong Nhị Thập Tứ Hiếu (二十四孝), câu chuyện Phụ Mễ Dưỡng Thân (負米養親, vác gạo nuôi song thân) của Tử Lộ (子路) có đoạn thơ rằng: “Phụ mễ cúng cam chỉ, ninh từ bách lí diêu, thân vinh thân dĩ một, do niệm cựu Cù lao (負米供甘旨、寧辭百里遙、身榮親已沒、猶念舊劬勞, vác gạo nuôi cha mẹ, chẳng từ trăm dặm xa, giàu sang người đã mất, còn nhớ công ơn xưa).” Về sau ông phục vụ cho nước Vệ, nhưng do vì biến động, ông bị chết ở nước này.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập