Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Công Án »»
(博山參禪警語, Hakuzansanzenkeigo): 1 quyển, do Vô Dị Nguyên Lai (無異元來) nhà Minh trước tác, Thành Chánh (成正) biên, san hành vào năm thứ 39 (1611) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), nguyên văn là Bác Sơn Hòa Thượng Tham Thiền Cảnh Ngữ (博山和尚參禪警語, Hakuzanoshōsanzenkeigo), gọi tắt là Bác Sơn Cảnh Ngữ (博山警語, Hakuzankeigo). Đây là tác phẩm thâu lục 5 chương văn cảnh tỉnh những Thiền bệnh trong khi công phu tham Thiền và 10 bài kệ tham Thiền. Năm chương gồm 131 hạng mục như lời cảnh ngữ dạy người mới sơ tâm tu tập công phu, lời cảnh ngữ bình xướng những lời thùy thị của chư vị cổ đức, lời cảnh ngữ để làm phát khởi nghi tình, lời cảnh ngữ dạy người hành Thiền tham cứu công án, v.v.
(碧巖錄, Hekiganroku): 10 quyển, trước tác do Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤) biên tập lại bản Tụng Cổ Bách Tắc (頌古百則) mà Tuyết Đậu Trùng Hiển (雪竇重顯) đã từng thuyết giảng khắp nơi, được san hành vào năm thứ 4 (1300) niên hiệu Đại Đức (大德), gọi đủ là Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư Bích Nham Lục (佛果圜悟禪師碧巖錄, Bukkaengozenjihekiganroku) hay còn gọi là Bích Nham Tập (碧巖集, Hekiganshū). Tên bộ này phát xuất từ bức ngạch nơi Giáp Sơn Linh Tuyền Thiền Viện (夾山靈泉禪院) mà Khắc Cần đã từng trú trì. Mỗi tắc công án được hình thành bởi các phần như Thùy Thị (垂示, lời tựa), Bổn Tắc (本則, công án); Bình Xướng (評唱) đối với Bổn Tắc, Tụng Cổ (頌古) và Bình Xướng đối với Tụng Cổ. Bổn Tắc và Tụng Cổ thì thuộc về phần của Tuyết Đậu Trùng Hiển, vốn là người được xem như là vị tổ thứ 3 của Vân Môn Tông, các Tụng Cổ của ông rất phong phú về tính chất văn học có truyền thống, cho nên được rất nhiều người ưa chuộng. Việc Khắc Cần tiến hành giảng nghĩa bộ này cũng là nhằm đáp ứng trào lưu đương thời. Bản Tụng Cổ Bách Tắc của Tuyết Đậu Trùng Hiển vừa hàm chứa sự châm biếm, mà cũng thể hiện tràn đầy niềm yêu thương đối với các bậc Thiền sư ngày xưa. Viên Ngộ đã thêm vào đó những lời giáo giới cho hàng đệ tử mình cũng như những giai thoại trong lịch sử Thiền Tông mà người tu hành cần phải khắc cốt ghi tâm bằng các câu Thùy Thị và Bình Xướng. Đối ứng với Bổn Tắc và Tụng Cổ, Viên Ngộ đã thêm vào lời phê bình cay chua dưới hình thức gọi là Trước Ngữ, cho nên ba nhân vật là Thiền giả xuất hiện trong công án, cùng Tuyết Đậu và Viên Ngộ, vốn có các tánh khác nhau, đã được nối kết lại với nhau, và đây là tác phẩm rất hy hữu mang âm hưởng về mối quan hệ căng thẳng chồng chất lên nhau. Chính vì lẽ đó, khi tác phẩm này xuất hiện, đã được người đời tuyên truyền ngay lập tức, nhưng tương truyền đệ tử của Viên Ngộ là Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) lại cho rằng nó có hại cho người tu hành nên ông cho tập trung tất cả ấn bản rồi đem đốt hết. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tác phẩm này quá to lớn, một số tập công án khác có hình thức tương tợ như vậy lại thay nhau ra đời như Tùng Dung Lục (從容錄, năm 1224, Tụng Cổ của Hoằng Trí Chánh Giác [宏智正覺], bình xướng của Vạn Tùng Hành Tú [萬松行秀]), Không Cốc Tập (空谷集, năm 1285, Tụng Cổ của Đầu Tử Nghĩa Thanh [投子義清], trước ngữ của Đơn Hà Tử Thuần [丹霞子淳], và bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân [林泉從倫]), Hư Đường Tập (虛堂集, Tụng Cổ của Đơn Hà Tử Thuần, bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân), v.v. Thiền của Nhật Bản là sự di nhập của Thiền nhà Tống, cho nên Bích Nham Lục cũng được xem như là "thư tịch số một của tông môn", được đem ra nghiên cứu, giảng nghĩa, và từ thời Nam Bắc Triều trở đi thỉnh thoảng có khai bản ấn hành. Ngoài ra, Viên Ngộ Khắc Cần còn có trước tác Phật Quả Viên Ngộ Kích Tiết Lục (佛果圜悟擊節錄, Niêm Cổ của Tuyết Đậu Trùng Hiển, trước ngữ và bình xướng của Viên Ngộ Khắc Cần) và nó cũng được lưu hành rộng rãi. Còn Thỉnh Ích Lục (請益錄, năm 1230, Niêm Cổ của Hoàng Trí Chánh Giác, trước ngữ và bình xướng của Vạn Tùng Hành Tú) là bản mô phỏng theo tác phẩm Phật Quả Viên Ngộ Kích Tiết Lục này. Bản Bích Nham Lục hiện tồn là bản do Trương Minh Viễn (張明遠) nhà Thục san hành vào năm thứ 4 niên hiệu Đại Đức (大德), có khác với Tụng Cổ Bách Tắc về thứ tự của các tắc công án. Tại Nhật Bản, Bản Ngũ Sơn cũng là bản khắc lại nguyên hình bản của Trương Minh Viễn. Tuy nhiên, trong bản này có lời hậu tựa của Quan Vô Đảng (關無黨) ghi năm thứ 7 (1125) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), và lời tựa của Phổ Chiếu (普照) ghi năm thứ 2 (1128) niên hiệu Kiến Viêm (建炎), chúng ta biết được rằng trước đó đã có san hành rồi. Như trong lời hậu tựa của Hư Cốc Hy Lăng (虛谷希陵) có đoạn: “Ngu trung Trương Minh Viễn, ngẫu hoạch tả bản hậu sách, hựu hoạch Tuyết Đường san bản cập Thục bản, hiệu đính ngoa suyễn, san thành thử thư (嵎中張明遠、偶獲寫本後册、又獲雪堂刊本及蜀本、校訂訛舛、刊成此書, Trương Minh Viễn tình cờ có được quyển sau của tả bản trong hẽm núi, lại có thêm san bản của Tuyết Đường và bản nhà Thục, bèn hiệu đính những chỗ sai lầm, in thành sách này)” và san bản của Tuyết Đường Đạo Hạnh (雪堂道行) cũng nói lên vấn đề trên.
(景德傳燈錄, Keitokudentōroku): bộ Đăng Sử tiêu biểu nhất do Vĩnh An Đạo Nguyên (永安道原) nhà Tống, tương đương đời thứ 3 của môn hạ Pháp Nhãn, biên tập thành thông qua kết hợp các bản Bảo Lâm Truyện (寳林傳), Tục Bảo Lâm Truyện (續寳林傳), Huyền Môn Thánh Trụ Tập (玄門聖冑集), Tổ Đường Tập (祖堂集), v.v., toàn bộ gồm 30 quyển. Có thuyết cho là do Củng Thần (拱辰) ở Thiết Quan Âm Viện (鐵觀音院), Hồ Châu (湖州) soạn. Nó được hoàn thành vào năm đầu (1004) niên hiệu Cảnh Đức (景德), sau khi được nhóm Dương Ức (楊億) hiệu đính thì được thâu lục vào Đại Tạng và san hành vào năm thứ 3 (1080) niên hiệu Nguyên Phong (元豐). Phần mạo đầu có lời tựa của Dương Ức và bản Tây Lai Niên Biểu (西來年表), từ quyển 1 cho đến 29 thâu lục các truyền ký cũng như cơ duyên của 52 đời, từ 7 vị Phật trong quá khứ, trải qua 28 vị tổ của Tây Thiên, 6 vị tổ của Đông Độ cho đến hàng đệ tử của Pháp Nhãn Văn Ích (法眼文益), gồm tất cả 1701 người (người đời thường căn cứ vào đây mà gọi là 1700 Công Án, nhưng trong đó thật ra có rất nhiều người chỉ có tên thôi, còn truyền ký và cơ duyên thì không có). Riêng quyển thứ 30 thì thâu lục các kệ tụng liên quan đến Thiền Tông, và phần cuối có kèm theo lời bạt. Ảnh hưởng của bộ này rất to lớn, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xác lập giáo điều độc đáo của Thiền Tông. Bản được thâu lục vào trong Đại Chánh Đại Tạng Kinh (大正大藏經, Taishō) 51 là bản trùng san của niên hiệu Nguyên Hựu (元祐, 1314-1320) nhà Nguyên; trong đó có thêm lời tựa của Dương Ức, văn trạng trùng san, bảng Niên Biểu Tây Lai, lá thư của Dương Ức, lời bạt của Trịnh Ngang (鄭昂), lời tựa sau sách của Hoằng Trí Chánh Giác (宏智正覺) và Lưu Phỉ (劉棐). Tại Nhật bản, nó cũng được xem như là thư tịch căn bản nhất thể hiện lập trường của Thiền Tông. Từ cuối thời Thất Đinh (室町, Muromachi) trở đi, thỉnh thoảng nó được khai bản ấn hành, và dưới thời đại Giang Hộ (江戸, Edo) có xuất hiện bộ Diên Bảo Truyền Đăng Lục (延寳傳燈錄) của Vạn Nguyên Sư Man (卍元師蠻) cũng do ảnh hưởng hình thái ấy. Tống bản hiện tồn có bản của Phúc Châu Đông Thiền Tự (福州東禪寺) được thâu lục vào Đại Tạng Kinh (hiện tàng trữ tại Đề Hồ Tự [醍醐寺, Daigo-ji], Đông Tự [東寺, Tō-ji] của Nhật), bản sở tàng của Kim Trạch Văn Khố (金澤文庫, Kanazawa-bunko, có khuyết bản), v.v. Thêm vào đó, một số bản san hành đang được lưu hành tại Nhật là bản năm thứ 4 (1348) niên hiệu Trinh Hòa (貞和), Bản Ngũ Sơn năm thứ 3 (1358) niên hiệu Diên Văn (延文), bản năm thứ 17 (1640) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), v.v.
(洞山守初, Dōzan Shusho, 910-990): vị tăng của Vân Môn Tông Trung Quốc, xuất thân vùng Lương Nguyên (良源), Phủ Phụng Tường (鳳翔府), họ là Phó (傅). Năm lên 16 tuổi, ông theo tu với Chí Thẩm (志諗) ở Không Động Sơn (崆峒山), Vị Châu (渭州, Tỉnh Thiểm Tây), rồi thọ Cụ Túc giới với Luật Sư Tịnh Viên (淨圓) ở Kinh Châu (涇州, Tỉnh Thiểm Tây). Ban đầu ông học về Luật, sau đến tham cứu với Vân Môn Văn Yển (雲門文偃), cuối cùng cơ duyên khế hợp và được kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm đầu (948) niên hiệu Càn Hựu (乾祐) nhà Nam Hán, thể theo lời cung thỉnh của đại chúng, ông đến trú ở Động Sơn (洞山). Vào năm thứ 6 (981) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國) nhà Tống, ông nhận hiệu Tông (Sùng) Huệ Đại Sư (宗[崇]慧大師). Đến tháng 7 năm đầu (990) niên hiệu Thuần Hóa (淳化), ông thị tịch, hưởng thọ 81 tuổi. Công án “ma tam cân (麻三斤, mè ba cân)” của ông rất nổi tiếng.
(黃龍慧南, Ōryū Enan, 1002-1069): vị tổ sư khai sáng ra Phái Hoàng Long của Lâm Tế Tông Trung Quốc, người Huyện Ngọc Sơn (玉山), Tín Châu (信州, Tỉnh Giang Tây), họ là Chương (章). Năm lên 11 tuổi, ông theo xuất gia với Trí Loan (智鑾) ở Hoài Ngọc Định Thủy Viện (懷玉定水院), rồi năm 19 tuổi thì thọ giới Cụ Túc. Ban đầu ông đến tham vấn Tự Ngọc (自玉) ở Quy Tông Tự (歸宗寺) trên Lô Sơn (廬山), rồi Trừng Thị (澄諟) ở Thê Hiền Tự (棲賢寺), và Hoài Trừng (懷澄) ở Tam Giác Sơn (三角山, Tỉnh Hồ Bắc). Sau đó, ông theo học với Vân Phong Văn Duyệt (雲峰文悅), đã từng vào tham vấn trong thất của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓), cuối cùng nhân nghe câu chuyện lão bà của Triệu Châu (趙州) mà đại ngộ. Lúc ấy ông 35 tuổi, từ đó trở đi ông đi tham học khắp chốn Thiền lâm. Sau khi trở về lại Quy Tông Tự, gặp phải lúc chùa bị hỏa tai, ông bị hạch tội và bị tống giam vào ngục thất. Sau khi được tha tội, ông lui về ẩn cư ở Hoàng Bá. Sau đó, ông chuyển đến Hoàng Long Sơn (黃龍山) ở Phủ Long Hưng (隆興府), và nỗ lực cử xướng tông phong của mình. Chính trong khoảng thời gian này, công án được sử dụng rất rộng rãi trong Thiền lâm như là phương tiện để tiếp độ môn đồ. Tông phong của ông mở rộng đến tận trung tâm Hồ Nam (湖南), Hồ Bắc (湖北), và Giang Tây (江西). Về sau phái này được gọi là Phái Hoàng Long. Vào ngày 17 tháng 3 năm thứ 2 (1069) niên hiệu Hy Ninh (熙寧), ông thị tịch, hưởng thọ 68 tuổi, và được ban cho thụy hiệu là Phổ Giác Thiền Sư (普覺禪師). Có một số tác phẩm của ông như Hoàng Long Nam Thiền Sư Ngữ Lục (黃龍南禪師語錄) 1 quyển, Hoàng Long Nam Thiền Sư Ngữ Yếu (黃龍南禪師語要) 1 quyển, Hoàng Long Nam Thiền Sư Thư Xích Tập (黃龍南禪師書尺集) 1 quyển. Đệ tử của ông có Hối Đường Tổ Tâm (晦堂祖心), Bảo Phong Khắc Văn (寳峰克文).
(晦翁悟明, Kaiō Gomyō, ?-?): vị tăng của Phái Đại Huệ (大慧派) thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Hối Ông (晦翁), tự xưng là Chơn Lãn Tử (眞懶子), xuất thân Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), pháp từ của Mộc Am An Vĩnh (木庵安永) ở Cổ Sơn (鼓山). Ông đã từng trú trì các nơi như Sùng Phước Tự (崇福寺) ở Tuyền Châu (泉州, Tỉnh Phúc Kiến), Tịnh Từ Tự (淨慈寺) ở Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), v.v. Chính ông biên tập bộ Tông Môn Liên Đăng Hội Yếu (宗門聯燈會要, 30 quyển), và năm thứ 10 (1183) niên hiệu Hưởng Hy (淳熙), ông ghi thêm lời tựa cho bộ này tại Tiềm Quang Đường (潛光堂). Các cổ tắc công án của Phái Đại Huệ đều do ông biên tập nên, và sau này được dùng rất rộng rãi trong Thiền lâm. Cuốn Hối Ông Minh Thiền Sư Ngữ Yếu (晦翁明禪師語要, 1 quyển) được thâu lục vào trong Tục Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (續古尊宿語要).
(慧嚴宗永, Egon Sōei, ?-?): người biên tập bộ Tông Môn Thống Yếu (宗門統要, Shūmontōyō, hay Tông Môn Thống Yếu Tập [宗門統要集], 10 quyển). Ông đã từng hoạt động bố giáo tại Kiến Cốc (建谿, Tỉnh Phúc Kiến). Vào năm thứ 3 (1133) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), Thống Yếu Tập được san hành, rồi hai năm sau được san hành tiếp. Vào năm thứ 6 (1179) niên hiệu Thuần Hy (淳熙) có san hành bản nhà Tống và nó là tác phẩm lớn nhất có ảnh hưởng của tập công án, nên sau này đã tạo ảnh hưởng không ít cho Liên Đăng Hội Yếu (聯燈會要). Đến thời nhà Nguyên, Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂) có biên tập bộ Tông Môn Thống Yếu Tục Tập (宗門統要續集).
(慧日): mặt trời trí tuệ. Trí tuệ của Phật có thể chiếu sáng những nơi tối tăm, u ám của thế gian, cho nên được ví như là mặt trời. Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) có câu: “Huệ nhật chiếu thế gian, tiêu trừ sanh tử vân (慧日照世間、消除生死雲, trời tuệ chiếu thế gian, tiêu trừ mây sanh tử).” Hay trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 7, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm (觀世音菩薩普門品) thứ 25, lại có câu: “Huệ nhật phá chư ám, năng phục tai phong hỏa (慧日破諸闇、能伏災風火, trời tuệ phá tối tăm, hàng phục tai gió lửa).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Trùng Khắc Ngũ Đăng Hội Nguyên Tự (重刻五燈會元序), cũng có đoạn: “Toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu (遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉, bèn khiến tông phong lan khắp, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đuốc soi, tối tăm sáng tỏ).” Như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên Mục Lục (五燈會元目錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1564) lại có đoạn rằng: “Thích Ca bất xuất thế, Đạt Ma bất Tây lai, Phật pháp biến đại địa, đàm huyền khẩu bất khai; đương thử thời dã, ngữ ngôn văn tự tung tích bất lai, bổng hát cơ duyên phong mang bất lộ, đãi phù niêm hoa thị chúng, khiên khởi trần lận cát đằng, lập tuyết an tâm, đột xuất Hiện Tiền Công Án, toại sử tông phong quảng diễn, huệ nhật cao huyền, nhiên trường dạ chi đăng, quần hôn đốn hiểu, niêm nhất hành chi thảo, pháp giới tề quan; giá xa tu thị đả ngưu, ma chuyên khởi năng tác kính, như linh đơn nhất lạp điểm thiết thành kim, chí lý nhất ngôn chuyển phàm thành Thánh (釋迦不出世、達磨不西來、佛法遍大地、譚玄口不開、當此時也、語言文字蹤跡不來、棒喝機緣鋒芒不露、逮夫拈花示眾、牽起陳爛葛藤、立雪安心、突出現前公案、遂使宗風廣衍、慧日高懸、燃長夜之燈、群昏頓曉、拈一莖之草、法界齊觀、駕車須是打牛、磨磚豈能作鏡、如靈丹一粒點鐵成金、至理一言轉凡成聖, Thích Ca không xuất thế, Đạt Ma chẳng Tây đến, Phật pháp khắp đại địa, đàm đạo miệng chẳng bày; ngay chính lúc này, ngôn ngữ văn tự dấu tích chẳng có, đánh hét cơ duyên mũi đâm không hé, đến khi đưa hoa dạy chúng, liền khởi bày đốt dây leo, đứng tuyết an tâm, chợt xuất Hiện Tiền Công Án, bèn khiến tông phong rộng mở, trời tuệ lên cao, đốt đêm dài đèn soi, chúng mê hiểu ngộ; đưa một nhành cỏ dại, pháp giới cùng xem; cỡi xe nên tập đánh trâu, mài ngói làm sao thành kính; như linh đơn một viên điểm thép thành vàng, chí lý một lời chuyển phàm thành Thánh).” Trong Lễ Sám Văn (禮懺文, Taishō Vol. 85, No. 2854) có câu: “Nhược dục sám hối giả, đoan tọa quán thật tướng, chúng tội như sương lộ, huệ nhật năng tiêu trừ; thị cố ưng chí tâm, cần sám Lục Căn tội (若欲懺悔者、端坐觀實相、眾罪如霜露、慧日能消徐、是故應至心、懃懺六根罪, nếu muốn hành sám hối, ngồi ngay quán thật tướng, các tội như sương móc, trời tuệ thể tiêu trừ; cho nên phải chí tâm, siêng sám tội Sáu Căn).”
(空谷集, Kūkokushū): 6 quyển, san hành vào năm thứ 22 (1285) niên hiệu Chí Nguyên (至元), nguyên văn là Lâm Tuyền Lão Nhân Bình Xướng Đầu Tử Thanh Hòa Thượng Tụng Cổ Không Cốc Tập (林泉老人評唱投子清和尚頌古空谷集, Rinsenrōjinhyōshōtōsuseioshōjukokūkokushū). Đầu Tử Nghĩa Thanh (投子義清) thâu lục 100 tắc cơ duyên của cổ nhân, thêm vào lời tụng cổ cho mỗi tắc, sau đó Đơn Hà Tử Thuần (丹霞子淳) còn thêm vào lời dạy chúng và trước ngữ, kế đến Lâm Tuyền Tùng Luân (林泉從倫) ghi lời bình xướng; cho nên đây là tác phẩm có sự kết hợp của 3 Thiền tượng nổi tiếng, cũng tương tợ như Bích Nham Lục (碧巖錄) và Tùng Dung Lục (從容錄). San bản của Nhật có bản do Nhất Trinh (一貞) ở Hạo Đài Tự (皓臺寺), Trường Khi (長崎, Nagasaki) san hành vào năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應) và bản do Liên Sơn Giao Dịch (連山交易) ghi lời chú và san hành trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Hòa (天和, 1681-1684). Như Bích Nham Lục (碧巖錄) và Tùng Dung Lục (從容錄), nó là tập công án không được lưu hành ngoài đời, mà chỉ phổ biến trong phạm vi Thiền môn thôi. Ngoài ra, Tổ Đình Cảnh Long (祖庭景隆) có cho rằng có bộ Không Cốc Tập 30 quyển, nhưng độ tin cậy không có.
(建中靖國續燈錄, Kenchūseikokuzokutōroku): 3 quyển, còn gọi là Tục Đăng Lục (續燈錄, Zokutōroku), do Phật Quốc Duy Bạch (佛國惟白) nhà Tống biên tập, san hành vào năm đầu (1101) niên hiệu Kiến Trung Tĩnh Quốc (建中靖國), là bộ Truyền Đăng Lục kế tiếp Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) và Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (天聖廣燈錄). Sau khi biên tập hoàn thành, Duy Bạch đem bộ này dâng lên cho Hoàng Đế Huy Tông (徽宗) đương thời, cho nên nó được lấy tên niên hiệu lúc bấy giờ là Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục. Tác phẩm này phân biệt rõ 5 môn: Chánh Tông, Đối Cơ, Niêm Cổ, Tụng Cổ, Kệ Tụng; thâu tập các tiểu sử, ngữ cú đối cơ, Cổ Tắc Công Án, kệ tụng, v.v., của chư vị tôn sư để làm gương sáng cho hậu nhân noi theo. Đặc trưng nổi bật của bộ này là có thêm vào những lời dạy của chư vị Thiền sư thuộc Vân Môn Tông.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập