Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bỉnh Phất »»
(五山十刹, Gozanjussatsu): là tên gọi mà chính phủ sắp theo thứ tự những ngôi tự viện Thiền tiêu biểu, còn vị trú trì sẽ được chọn các vị cao tăng trên toàn quốc đến đảm nhiệm những ngôi chùa này. Các tự viện được liệt vào loại này sẽ được chính phủ công nhận quyền uy của mình, có nghĩa vụ phụng sự cho quốc gia thông qua các lễ như Chúc Thánh, v.v., với tư cách là chùa quan, và thậm chí có khi tình hình tu tập hằng ngày trong chùa còn được giám sát. Tuy nhiên, cũng do vì có liên quan đến việc cầu đảo cho quốc gia, cũng có trường hợp những ngôi chùa quan này được miễn thuế, nhưng mối quan hệ giữa quốc gia và các chùa quan này thì không rõ ràng cho lắm. Ngũ Sơn gồm có 5 chùa lớn là:
(1) Kính Sơn Hưng Thánh Vạn Thọ Tự (徑山興聖萬壽寺, thuộc Phủ Lâm An, Hàng Châu, Tỉnh Triết Giang),
(2) Bắc Sơn Cảnh Đức Linh Ẩn Tự (北山景德靈隱寺, như trên),
(3) Nam Sơn Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu Tự (南山淨慈報恩光孝寺, như trên),
(4) Thái Bạch Sơn Thiên Đồng Cảnh Đức Tự (太白山天童景德寺, thuộc Phủ Khánh Nguyên, Minh Châu, Tỉnh Triết Giang), và
(5) A Dục Vương Sơn Mậu Phong Quảng Lợi Tự (阿育王山鄮峰廣利寺, như trên).
Thập Sát gồm 10 ngôi chùa là:
(1) Trung Sơn Thiên Ninh Vạn Thọ Vĩnh Tộ Tự (中山天寧萬壽永祚寺, thuộc Phủ Lâm An, Hàng Châu),
(2) Đạo Tràng Sơn Hộ Thánh Vạn Thọ Tự (道塲山護聖萬壽寺, thuộc Huyện Ô Trình, Hồ Châu, Tỉnh Triết Giang),
(3) Tương Sơn Thái Bình Hưng Quốc Tự (蔣山太平興國寺, thuộc Phủ Thượng Nguyên, Kiến Khang, Tỉnh Giang Tô),
(4) Vạn Thọ Sơn Báo Ân Quang Hiếu Tự (萬壽山報恩光孝寺, thuộc Phủ Bình Giang, Tô Châu, Tỉnh Giang Tô),
(5) Tuyết Đậu Sơn Tư Thánh Tự (雪竇山資聖寺, thuộc Phủ Khánh Nguyên, Minh Châu),
(6) Giang Tâm Sơn Long Tường Tự (江心山龍翔寺, thuộc Huyện Vĩnh Gia, Ôn Châu, Tỉnh Triết Giang),
(7) Tuyết Phong Sơn Sùng Thánh Tự (雪峰山崇聖寺, thuộc Huyện Hầu Quan, Phúc Châu, Tỉnh Phúc Kiến),
(8) Vân Hoàng Sơn Bảo Lâm Tự (雲黃山寳林寺, thuộc Huyện Kim Hoa, Vụ Châu, Tỉnh Triết Giang),
(9) Hổ Kheo Sơn Vân Nham Tự (虎丘山雲巖寺, thuộc Phủ Bình Giang, Tô Châu), và
(10) Thiên Thai Sơn Quốc Thanh Kính Trung Tự (天台山國清敬忠寺, thuộc Huyện Thiên Thai, Đài Châu, Tỉnh Triết Giang).
Chế độ này cũng được kế thừa cho đến thời nhà Nguyên, nhưng vào năm 1330 vua Tok Temru (tức Văn Tông, tại vị 1329-1332) đã bỏ ly cung của mình ở ngoại ô Kim Lăng (金陵) mà biến nơi đây thành Đại Long Tường Tập Khánh Tự (大龍翔集慶寺), thỉnh Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢) đến làm tổ khai sơn chùa này và xếp nó lên trên cả Ngũ Sơn. Đến thời nhà Minh, chỉ có ngôi chùa này được đổi tên thành Thiên Giới Thiện Thế Thiền Tự (天界善世禪寺), và thể chế này vẫn được tiếp tục duy trì. Dưới chế độ Ngũ Sơn Thập Sát này còn có các ngôi chùa gọi là Giáp Sát (甲刹, tương đương với những ngôi chùa tổ trung tâm ở Nhật). Sau này ở Nhật người ta cũng mô phỏng theo hình thức này và Ngũ Sơn ở hai vùng kinh đô Kyoto cũng như Liêm Thương đã được liệt vào. Cùng với sự chỉnh bị về chế độ các ngôi chùa quan, nghi thức Bỉnh Phất (秉拂) để trắc nghiệm tư cách trở thành trú trì cũng được quy định rõ rệt, và việc tiến cử trú trì cũng theo thứ tự từ các ngôi chùa Giáp Sát cho đến Thập Sát và Ngũ Sơn.
(s: vyajana, vāla-vyajana, p: vijanī, 拂子): một loại vật dụng xưa kia người ta lấy lông thú, v.v., cột thành bó, buộc vào cây dài, dùng để xua đuổi muỗi mòng, quét bụi bặm; còn gọi là Phất (拂), Phất Trần (拂塵), Trần Vĩ (塵尾). Như trong Tùy Đường Diễn Nghĩa (隋唐演義) hồi thứ 3 có đoạn: “Tả hữu nữ tỳ sổ nhân, dã hữu chấp cân trất đích, dã hữu kình Hương Lô đích, dã hữu bổng Như Ý đích, dã hữu trì Phất Tử đích, lưỡng biên thị lập (左右女婢數人、也有執巾櫛的、也有擎香爐的、也有捧如意的、也有持拂子的、兩邊侍立, hai bên phải trái nữ hầu vài người, cũng có người cầm khăn lượt, cũng có người mang lò hương, cũng có người vác cây Như Ý, cũng có kẻ cầm cây Phất Trần, đứng hầu hai bên).” Loại này rất thông dụng tại Ấn Độ. Trong giới luật của Phật Giáo, cho phép vị Tỳ Kheo cầm cây Phất Trần này để xua đuổi muỗi mòng xâm hại; nhưng cấm tuyệt đối không được dùng loại Phất Trần làm bằng các loại vật dụng trân quý, như trường hợp Bạch Phất (白拂, Phất Trần Trắng). Căn cứ vào Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (有部毘奈耶雜事) quyển 6, đức Phật từng cho phép Tỳ Kheo dùng loại Phất Trần được chế bằng 5 loại chất liệu như sau: (1) Lông dê, (2) Cây gai, (3) Vải lông mịn nhỏ, (4) Vật cũ đã dùng rồi, (5) Cành cây, vỏ cây. Bạch Phất là loại Phất Trần được làm bằng lông con bò hay ngựa trắng, là vật rất quý trọng. Trong kinh thường thấy vị Bồ Tát hay Trưởng Giả tay cầm Bạch Phất; như trong Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經) quyển 6 có ghi rằng đức Quan Âm cầm Bạch Phất tay trái và Phổ Hiền cầm tay phải. Hay khi đức Phật lên cung Trời Đao Lợi (s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利) thuyết pháp cho mẹ rồi trở về lại hạ giới, Phạm Thiên thường cầm cây Bạch Phất hầu bên phải đức Phật. Về phía Mật Giáo, Bạch Phất được dùng để tượng trưng cho khử bỏ phiền não, trừ chướng nạn. Như Thiên Thủ Quan Âm Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh (千手觀音大悲心陀羅尼經) có đề cập đến trong 40 tay của thiên thủ quan âm có 1 tay cầm cây Bạch Phất. Hay trong Tôn Thắng Phật Đảnh Tu Du Già Pháp Quỹ Nghi (尊勝佛頂修瑜伽法軌儀) quyển Thượng có ghi rằng mỗi khi hành giả xuất hành, thường cầm theo cây Bạch Phất, tụng Chơn Ngôn gia trì 108 biến; nếu khi đang đi gặp súc sanh, có thể khiến cho những loài đó lìa khổ, giải thoát. Trong Thiền Tông, chư vị Thiền sư dùng Phất Trần như là vật dụng trang nghiêm; từ đó, vị Trú Trì hay người đại diện cầm cây Phất Trần thượng đường vì đại chúng thuyết pháp, được gọi là Bỉnh Phất (秉拂). Khi ấy, Phất Trần tượng trưng cho sự thuyết pháp. Dần dần chức vụ chấp hành Bỉnh Phất có 5 loại, gọi là Bỉnh Phất Ngũ Đầu Thủ (秉拂五頭首), gồm: Tiền Đường Thủ Tòa (前堂首座), Hậu Đường Thủ Tòa (後堂首座), Đông Tạng Chủ (東藏主), Tây Tạng Chủ (西藏主), Thư Ký (書記). Tại Nhật Bản, Phất Trần được sử dụng từ thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333). Về sau, trừ Chơn Tông ra, các tông phái khác đều dùng Phất Trần trong trường hợp các pháp hội, lễ Quán Đảnh, tang lễ, v.v. Tại Việt Nam, Phất Trần được dùng phần lớn trong tang lễ mà thôi.
(三玄): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Từ gọi chung của các nhà huyền học thời Ngụy Tấn (魏晉南北朝, 220-589) đối với 3 thư tịch Lão Tử (老子), Trang Tử (莊子) và Chu Dịch (周易). Đạo Giáo cũng dùng đến thuật ngữ này. Như trong Nhan Thị Gia Huấn (顏氏家訓), chương Miễn Học (勉學), giải thích rằng: “Kịp ư Lương thế, tư phong phục xiển, Trang, Lão, Chu Dịch, tổng vị Tam Huyền (洎於梁世、茲風復闡、莊、老、周易、總謂三玄, đến thời nhà Lương, phong thái này lại được mở ra, Trang Tử, Lão Tử và Chu Dịch, gọi chung là Tam Huyền).” (2) Chỉ cho mặt trời, mặt trăng và sao. Như trong Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籤) có đoạn: “Thiên hữu Tam Huyền, vị nhật, nguyệt, tinh dã (天有三玄,謂日、月、星也, trời có Tam Huyền, tức là mặt trời, mặt trăng và sao).” (3) Thuật ngữ Thiền, chỉ cho 3 loại áo nghĩa, giáo chỉ do Thiền sư Tế Nghĩa Huyền (臨濟義玄, ?-866) của Lâm Tế Tông tuyên xướng; gồm: (1) Thể Trung Huyền (體中玄), (2) Cú Trung Huyền (句中玄), (3) Huyền Trung Huyền (玄中玄). Trong một câu có Ba Huyền, trong một Huyền có Ba Yếu, tổng cọng có 9 pháp. Như trong Tục Truyền Đăng Lục (續傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2077) quyển 9, phần Đông Kinh Hoa Nghiêm Phổ Tư Thiền Sư (東京華嚴普孜禪師), có đoạn: “Sư vi nhân thanh tú kiệt xuất, xướng Lâm Tế hạ Tam Huyền Cửu Đái, tạo Tào Động Ngũ Vị Thập Huyền, giai diệu đắc kỳ gia phong yếu chỉ (師爲人清秀傑出、唱臨濟下三玄九帶、造曹洞五位十玄、皆妙得其家風要旨, Thiền Sư là người thanh tú kiệt xuất, cổ xướng Ba Huyền Chín Pháp của Lâm Tế, tạo ra Năm Vị Mười Huyền của Tào Động, đều đạt được gia phong yếu chỉ của người một cách diệu xảo).” Hay trong bài thơ Tiên Hòa Thượng Tọa Thoát (仙和尚坐脫) của Triệu Phong (趙渢, ?-?) nhà Kim cũng có đoạn: “Dũng để thoát thời vô nhất vật, cơ luân chuyển xứ hữu Tam Huyền (桶底脫時無一物、機輪轉處有三玄, đáy thùng vỡ rồi chẳng một vật, cơ phong chuyển hóa có Ba Huyền).” Hoặc trong Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) quyển 38, phần Đầu Thủ Tứ Tiết Bỉnh Phất (頭首四節秉拂), lại có câu: “Hoát khai Tam Yếu Tam Huyền lộ, tọa đoạn Tu Di đệ nhất phong (豁開三要三玄路、坐斷須彌第一峰, mở toang Ba Yếu Ba Huyền nẻo, nghiễm nhiên ngồi chót đỉnh Tu Di).”
(坐化): tín đồ Phật Giáo ngồi ngay ngắn, an nhiên mà chết, gọi là tọa hóa. Thuật ngữ này thường xuất hiện trong các thư tịch Phật Giáo. Như trong Tây Quy Trực Chỉ (西歸直指, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1173) quyển 4, phần Cửu Pháp Hoa (久法華), có đoạn: “Cư Minh Châu, thường tụng Pháp Hoa, nguyện sanh Tịnh Độ, thời hiệu Cửu Pháp Hoa; Thiên Hựu bát niên, niên bát thập nhất, tọa hóa, tam nhật hậu phục tô (居明州、常誦法華、願生淨土、時號久法華、天祐八年、年八十一、坐化、三日後復蘇, ông sống ở Minh Châu, thường tụng kinh Pháp Hoa, nguyện sanh về Tịnh Độ, đương thời gọi ông là Cửu Pháp Hoa; vào năm thứ 8 [911] niên hiệu Thiên Hựu, lúc 81 tuổi, ông ngồi an nhiên ra đi, ba ngày sau thì sống lại).” Hay trong Chỉ Nguyệt Lục (指月錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 83, No. 1578) quyển 6, phần Ngưu Đầu Sơn Trí Uy Thiền Sư (牛頭山智威禪師), lại có đoạn: “Đại Lịch tứ niên lục nguyệt thập ngũ nhật, tập tăng Bố Tát ngật, mạng thị giả tịnh phát dục thân, chí dạ hữu thụy vân phú kỳ Tinh Xá, thiên nhạc tứ văn, cật đán di nhiên tọa hóa (大曆四年六月十五日、集僧布薩訖、命侍者淨髮浴身、至夜有瑞雲覆其精舍、天樂四聞、詰旦怡然坐化, vào ngày rằm tháng 6 năm thứ 4 [769] niên hiệu Đại Lịch, Thiền Sư tập trung tăng chúng Bố Tát xong, bảo thị giả cạo tóc tắm rửa thân thể sạch sẽ, đến đêm có đám mây lành che phủ Tinh Xá của ngài, nhạc trời nghe khắp bốn phía, sáng sớm hôm sau thì Thiền Sư ngồi an nhiên ra đi).” Hoặc trong Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Bỉnh Phất Ngữ Lục (爲霖道霈禪師秉拂語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1438) quyển Hạ, phần Tháp Chí (塔誌), lại có đoạn: “Ư Thanh Thuận Trị Đinh Dậu cửu nguyệt sơ nhất nhật thị vi dạng, thập nguyệt sơ thất nhật Tý thời thuyết kệ từ chúng, nguy nhiên tọa hóa, xuân thu bát thập, Lạp tứ thập hữu nhất (於清順治丁酉年九月初一日示微恙、十月初七日子時說偈辭眾、危然坐化、春秋八十、臘四十有一, vào ngày mồng một tháng 9 năm Đinh Dậu [1657] niên hiệu Thuận Trị nhà Thanh, Thiền Sư nhuốm bệnh nhẹ; đến giờ Tý ngày mồng 7 tháng 10, sư nói kệ từ giã đại chúng, ngồi ngay ngắn an nhiên ra đi, hưởng thọ 80 tuổi đời, 41 Hạ Lạp).”
(爲霖道霈, Irin Dōhai, 1615-1702): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Vi Lâm (爲霖), hiệu Lữ Bạc (旅泊), Phi Gia Tẩu (非家叟), xuất thân Kiến An (建安), Tỉnh Phúc Kiến (福建省). Năm 14 tuổi, ông xuất gia ở Bạch Vân Tự (白雲寺) và năm sau học kinh luận. Năm 18 tuổi, ông đến viếng thăm Quảng Ấn (廣印) ở Bảo Thiện Tự (寳善寺), Phần Thường (汾常), rồi theo sự hướng dẫn của vị này ông đến thăm Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢), hầu hạ nhân vật này mấy năm, nhưng sau ông lại đến tham vấn Mật Vân Viên Ngộ (密雲圓悟) ở Thiên Đồng Sơn (天童山), được đại ngộ song Mật Vân không hứa khả cho. Ông lại đem sở chứng này trình cho Nguyên Hiền, nhưng cũng không được công nhận. Vì vậy, ông giã từ thầy đi du phương tham học, kết am ở Bách Trượng Sơn (百丈山), chuyên tu tịnh nghiệp với mẫu thân trong vòng 5 năm và đến năm thứ 7 (1650) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông lại theo tham học với Nguyên Hiền ở Cổ Sơn (鼓山), cuối cùng được thầy ấn khả cho. Năm sau, ông lui về ẩn cư tại Quảng Phước Am (廣福菴) ở Kiến Ninh (建寧). Đến năm thứ 14 cùng niên hiệu trên, ông làm Thủ Tòa của Cổ Sơn, và đến năm sau khi Nguyên Hiền qua đời, ông kế thừa sự nghiệp thầy và bắt đầu thăng tòa thuyết pháp. Sống được nơi đây 14 năm, ông lại hạ sơn và sống cuộc đời phiêu bạc, nhưng vì Cổ Sơn không có ai lãnh đạo nên ông lại phải trở về. Vào năm thứ 41 niên hiệu Khang Hy (康熙), ông thị tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Ông có để lại một số trước tác như Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Bỉnh Phất Ngữ Lục (爲霖道霈禪師秉拂語錄) 2 quyển, Xan Hương Lục (餐香錄) 2 quyển, Hoàn Sơn Lục (還山錄) 4 quyển, Pháp Hội Lục (法會錄) 1 quyển, Lữ Bạc Am Cảo (旅泊菴稿) 4 quyển. Bên cạnh đó, ông còn biên tập bản Thiền Hải Thập Trân (禪海十珍) 1 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập