Quy luật của cuộc sống là luôn thay đổi. Những ai chỉ mãi nhìn về quá khứ hay bám víu vào hiện tại chắc chắn sẽ bỏ lỡ tương lai. (Change is the law of life. And those who look only to the past or present are certain to miss the future.)John F. Kennedy
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bồ Đề »»
(阿彌陀三尊, Amidasanzon): hay còn gọi là Tây Phương Tam Thánh, tức A Di Đà Phật và 2 người hầu hai bên; ở giữa là đức Phật A Di Đà, bên trái là Bồ Tát Quan Thế Âm (s: Avalokiteśvara, 觀世音) và bên phải Bồ Tát Đại Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 大勢至). Dạng thức của Di Đà Tam Tôn này vốn phát xuất từ Ấn Độ, là di phẩm được bảo tồn trên bích họa trong động thứ 9 của thạch động A Chiên Đa (s: Ajantā, p: Ajanta, 阿栴多). Ở Trung Hoa, tượng Di Đà Tam Tôn có sớm nhất được khắc vào năm 538 (Nguyên Tượng [元象] nguyên niên) nhà Đông Ngụy. Tại Nhật Bản, có bức bích họa trong Kim Đường của Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) và bức Niệm Trì Phật của Quật Phu Nhân là nổi tiếng nhất. Nhìn chung, nghi tướng của chư tôn đều y cứ vào quyển 8 của Kinh Vô Lượng Thọ (無量壽經) mà tạo nên. Kinh dạy rằng quán tưởng đức hai bên đức Phật Di Đà có hai tòa sen, Bồ Tát Quan Thế Âm ngồi trên tòa sen bên tay trái, Bồ Tát Đại Thế Chí ngồi trên tòa sen bên tay phải. Hơn nữa, trong quyển 5 của Bất Không Quyên Sách Thần Biến Chơn Ngôn Kinh (不空羂索神變眞言經) có dạy rằng tâm thương xót (bi) của Bồ Tát Quan Âm thể hiện cho ý nghĩa dưới hóa độ chúng sanh, nên vị này được đặt bên trái; trí tuệ (trí) của Bồ Tát Thế Chí có ý nghĩa là trên cầu bồ đề, nên vị này được đặt bên phải. Ngoài ra, Quan Thế Âm Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tâm Minh Vương Kinh (觀世音菩薩三世最勝心明王經) lại cho rằng bên trái của Phật Di Đà là Quán Tự Tại (觀自在), còn bên phải là Kim Cang Thủ (金剛手).
(安然, Annen, 841-915?): học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, húy là An Nhiên (安然), thông xưng là Ngũ Đại Viện A Xà Lê (五大院阿闍梨), Bí Mật Đại Sư (秘密大師); hiệu là Phước Tập Kim Cang (福集金剛), Chơn Như Kim Cang (眞如金剛); thụy hiệu là A Giác Đại Sư (阿覺大師); xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Hồi còn nhỏ, ông theo hầu Viên Nhân (圓仁, Ennin), rồi đến năm 859 thì thọ Bồ Tát giới với vị này. Sau khi Viên Nhân qua đời, ông theo hầu Biến Chiếu (遍照, Henjō) và chuyên tâm nghiên cứu về Mật Giáo cũng như Hiển Giáo. Năm 877, ông nhận được điệp phù cho sang nhà Đường cầu pháp, nhưng việc ông có lên thuyền đi hay không thì có nhiều thuyết khác nhau. Cùng năm đó, ông được trao truyền cho các sở học về Tất Đàm, Kim Cang Giới của Viên Nhân từ Đạo Hải (道海, Dōkai) và Trường Ý (長意, Chōi). Vào năm 984, ông lại được Biến Chiếu trao truyền cho Thai Tạng (胎藏) cũng như Kim Cang Giới Thọ Vị Quán Đảnh (金剛界授位灌頂), và trở thành Tam Bộ Đô Pháp Truyền Pháp Đại A Xà Lê (三部都法傳法大阿闍梨). Ông dựng nên Ngũ Đại Viện (五大院) ở trên Tỷ Duệ Sơn và sống ở đây chuyên tâm nghiên cứu cũng như trước tác, nên ông được gọi là bậc tiên đức của Ngũ Đại Viện. Trước tác của ông có Bắc Lãnh Giáo Thời Vấn Đáp Sao (北嶺敎時問答抄), Bồ Đề Tâm Nghĩa Lược Vấn Đáp Sao (菩提心義略問答抄), Phổ Thông Thọ Bồ Tát Giới Nghi Quảng Thích (普通授菩薩戒儀廣釋), Bát Gia Bí Lục (八家秘錄), Thai Kim Tô Đối Thọ Ký (胎金蘇對受記), Giáo Thời Tránh Luận (敎時諍論), v.v., tổng cọng hơn 100 bộ. Trong khi đó, theo truyền thuyết về An Nhiên thì đương thời cũng có một nhân vật cùng tên với ông, nhưng người đó đến giữa đời bần cùng đói mà chết. An Nhiên kế thừa Viên Nhân và Viên Trân (圓珍, Enchin), tuyên dương giáo chỉ Viên Mật Nhất Trí của Thiên Thai Tông Nhật Bản, lập nên Giáo Tướng Phán Thích (敎相判釋) của Ngũ Thời Ngũ Giáo (五時五敎) và làm cho Mật Giáo hưng long tột đỉnh.
(寶杵): chày báu, tên gọi khác của Kim Cang Chử (s: varja, 金剛杵), Hàng Ma Chử (降魔杵); âm dịch là Phược Nhật Ra (縛日囉), Phạt Chiết Ra (伐折囉), Bạt Chiết Ra (跋折囉), Phạt Xà Ra (伐闍囉). Loại pháp khí này nguyên xưa kia là vũ khí của cổ đại Ấn Độ, do vì nó cứng rắn, có thể đột phá các thứ vật chất khác, nên gọi là Kim Cang Chữ. Trong Mật Giáo, Kim Cang Chử tượng trưng cho Bồ Đề Tâm có thể phá tan phiền não, được dùng như là đạo cụ hay vật dụng đặc biệt để tu pháp. Các đấng chủ tôn trong Hải Hội Mạn Trà La (曼荼羅海會) đều có cầm cây Bảo Chử này. Hành giả của Chơn Ngôn Tông cũng thường mang theo đạo cụ này bên mình. Nó còn tượng trưng cho trí tuệ đại dụng của Như Lai Kim Cang (如來金剛), có thể phá trừ nội ma của ngu si, vọng tưởng cũng như ma chướng của ngoại đạo. Ban đầu, Kim Cang Chữ có mũi nhọn, rất bén; về sau khi nó được dùng làm pháp khí thì hình thức có thay đổi khá nhiều. Có rất nhiều loại Kim Cang Chử với các chất liệu khác nhau như vàng, bạc, đồng, sắt, đá, thủy tinh, gỗ đàn, xương người, v.v. Chiều dài của Kim Cang Chữ cũng khác nhau như loại dài 8 ngón tay, 10 ngón, 12 ngón, 16 ngón, 20 ngón, v.v. Với tư cách là một loại pháp khí của Phật Giáo, Kim Cang Chử có nhiều hình dáng khác nhau: Độc Cổ (獨股, một đầu), Nhị Cổ (二股, hai đầu), Tam Cổ (三股, ba đầu), Tứ Cổ (四股, bốn đầu), Ngũ Cổ (五股, năm đầu), Cửu Cổ (九股, chín đầu), Tháp Chử (塔杵, chày hình tháp), Bảo Chữ (寶杵), v.v. Trong số đó, loại Độc Cổ, Tam Cổ và Ngũ Cổ là thường gặp nhất; tượng trưng cho pháp giới độc nhất, Tam Mật Tam Thân (三密三身) và Ngũ Trí Ngũ Phật (五智五佛). Độc Cổ, Tam Cổ, Ngũ Cổ, Bảo Chử và Tháp Chử được gọi là Ngũ Chủng Chử (五種杵, năm loại chày). Trong đó, Độc Cổ là loại có hình thức tối cổ, mũi nhọn dài, là vật cầm tay của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ (密迹金剛力士). Trong đó, loại Độc Cổ Chử có hình thức cổ nhất, là vật thường cầm trên tay của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ (密跡金剛力士). Ngoài ra, Kim Cang Thủ (金剛手) trong 40 tay của Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音), một trong 108 bàn tay của Kim Cang Vương Bồ Tát (金剛王菩薩) đều cầm loại Độc Cổ này. Trong 5 loại này, Độc Cổ Chử tương ứng với Liên Hoa Bộ (蓮華部), đặt ở phương Tây của đại đàn. Tam Cổ Chử tương ứng với Yết Ma Bộ (羯磨部), đặt ở phương Bắc của đại đàn. Về cách dùng của Kim Cang Chử, khi cầu thành tựu sự vật, tu pháp của Kim Cang Bộ thì dùng loại Ngũ Cổ Chữ; khi gia trì thì dùng Tam Cổ Chử; khi hành đạo niệm tụng, tu pháp của Phật Bộ, Liên Hoa Bộ thì dùng Độc Cổ Chử; khi tu pháp Đại Uy Đức Minh Vương (大威德明王) thì dùng loại Cửu Cổ Chử. Ngũ Cổ Chử còn gọi là Ngũ Trí Kim Cang Chử (五智金剛杵), Ngũ Phong Kim Cang Chử (五峰金剛杵), Ngũ Phong Quang Minh (五峰光明), Ngũ Cổ Kim Cang (五股金剛); 5 thân hay 5 đỉnh nhọn của loại này tượng trưng cho Ngũ Trí Ngũ Phật (五智五佛). Hình tượng của Bồ Tát Vi Đà (s: Skanda, p: Khanda, 韋馱) thường có cầm trên tay cây Kim Cang Chử hay Bảo Chử để hàng phục ma quân, dẹp yên tà ma, bảo vệ chánh pháp. Cho nên, trong Thiền môn vẫn thường tụng bài xưng tán Bồ Tát Vi Đà rằng: “Vi Đà Thiên Tướng, Bồ Tát hóa thân, ủng hộ Phật pháp thệ hoằng thâm, Bảo Chử trấn ma quân, công đức nan luân, kỳ đảo phó quần tâm (韋馱天將、菩薩化身、擁護佛法誓弘深、寶杵鎮魔軍、功德難倫、祈禱副群心, Vi Đà Thiên Tướng, Bồ Tát hóa thân, ủng hộ Phật pháp thệ nguyện thâm, Chày Báu nhiếp ma quân, công đức khó lường, cầu nguyện khắp nhân tâm).” Trong Trùng Biên Chư Tôn Truyện (重編諸天傳, CBETA No. 1658) có câu: “Đế Thích Kim Cang Bảo Chữ, năng diệt A Tu La (帝釋金剛寶杵、能滅阿修羅, Chày Báu Kim Cang của Đế Thích có thể diệt trừ A Tu La).” Hay như trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, CBETA No. 1456) quyển 34 của Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623) có bài tán về Tứ Tý Quan Âm Đại Sĩ (四臂觀音大士) rằng: “Thông thân thủ nhãn, hà chỉ hữu tứ, ư vô tận trung, liêu nhĩ như thị, Bảo Chữ không ma, chơn kinh vô tự, tổng thị thần thông, bất tư nghì sự (通身手眼、何只有四、於無盡中、聊爾如是、寶杵空魔、眞經無字、總是神通、不思議事, khắp mình tay mắt, sao chỉ có bốn, trong vô tận ấy, vẫn cứ như vậy, Chày Báu dẹp ma, chơn kinh không chữ, thảy là thần thông, chuyện chẳng nghĩ bàn).”
(s: Amogha-siddhi, t: Don-yod-grub-pa, 不空成就佛): hay Bất Không Thành Tựu Như Lai (不空成就如來), gọi tắt là Bất Không Phật (不空佛); còn có các danh hiệu khác như Thiên Cổ Lôi Âm Phật (天鼓雷音佛), Thiên Cổ Âm Phật (天鼓音佛), Lôi Âm Vương Phật (雷音王佛); là tên gọi của một trong 5 vị Phật thuộc Kim Cang Giới (金剛界) của Mật Giáo, ngự ngay trung tâm của vòng Nguyệt Luân ở hướng chánh Bắc. Ngài tượng trưng cho Thành Sở Tác Trí (成所作智) của Ngũ Trí, là Bộ chủ của Nghiệp Bộ (業部). Trong Hội Thành Thân, thân của Ngài thể hiện sắc màu vàng; tay trái bắt ấn, để trên gót chân, tay phải đưa ngang ngực, ngồi xếp bằng trên tòa sen. Tuy nhiên, trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) lại giải thích thân Ngài màu đen: “Phụng thỉnh Bắc phương Thành Tựu Phật, kỳ thân hắc sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Diệu Hàng Ma, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請北方成就佛、其身黑色放光明、手印執持妙降魔、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Bắc phương Thành Tựu Phật, thân Ngài sắc đen phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Diệu Hàng Ma, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Mật hiệu của Ngài là Bất Động Kim Cang (不動金剛), chủng tử là aḥ, hình Tam Muội Da là Chày Yết Ma Chữ Thập. Trong Thai Tạng Giới gọi Ngài là Thiên Cổ Lôi Âm Phật. Tác phẩm Phật Danh Thích Điển Truyện Lược (佛名釋典傳略) cho biết rằng Bất Không Thành Tựu Phật đại biểu cho Thành Sở Tác Trí của Tỳ Lô Giá Na Phật (s: Vairocana, 毘盧遮那佛, tức Đại Nhật Như Lai [大日如來]); phần lớn hóa hiện sắc màu xanh lục, vàng kim; thường hiện hình tượng ngự giá trên Đại Bàng Kim Xí Điểu (大鵬金翅鳥) có thể hàng phục ác long, rắn độc. Ngài còn tượng trưng có thể lấy trí tuệ lớn để thành tựu sự nghiệp của tất cả chư Như Lai cũng như của chúng sanh. Hành giả Phật Giáo nếu gặp phải phiền não, lo âu, nên chí thành cầu xin sự gia trì Phật lực của đức Bất Không Thành Tựu, thì có thể được tự lợi và lợi tha, khiến cho hết thảy chúng sanh xa lìa khổ não. Trong Mật Giáo, Uế Tích Kim Cang Vương (穢跡金剛明王), đấng có đức chuyển hóa từ “bất tịnh” thành “thanh tịnh”, chính là hóa thân của Bất Không Thành Tựu Phật. Về ấn quyết của Ngài, trong Phật Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh (佛說瑜伽大敎王經, Taishō Vol. 18, No. 890) có đề cập rằng: “Dĩ hữu thủ tác Vô Úy tướng, thử thị Bất Không Thành Tựu Phật căn bản ấn (以右手作無畏相、此是不空成就佛根本印, dùng tay phải làm hình tướng Vô Úy, đây là ấn căn bản của Bất Không Thành Tựu Phật).” Về chư vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài, Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) cho biết rằng: “Thành Tựu Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, nhị Kim Cang Ngữ Bồ Tát, tam Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyền Bồ Tát (成就佛四菩薩者、一金剛業菩薩、二金剛語菩薩、三金剛藥叉菩薩、四金剛拳菩薩, bốn vị Bồ Tát của Thành Tựu Phật là, một Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, hai Kim Cang Ngữ Bồ Tát, ba Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, bốn Kim Cang Quyền Bồ Tát).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Trung Phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm Luận (金剛頂瑜伽中發阿耨多羅三藐三菩提心論, Taishō Vol. 32, No. 1665) có giải thích rằng: “Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật, do thành Thành Sở Tác Trí, diệc danh Yết Ma Trí dã (北方不空成就佛、由成成所作智、亦名羯磨智也, Bất Không Thành Tựu Phật ở phương Bắc do thành tựu Thành Sở Tác Trí, nên cũng được gọi là Yết Ma Trí).” Phật Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh (佛說瑜伽大敎王經, Taishō Vol. 18, No. 890) quyển 5 lại giải thích thêm rằng: “Phục thứ hàng phục pháp, trì tụng giả tiên tưởng Hồng tự, hóa thành Bất Không Thành Tựu Phật, thân tướng lục sắc quảng đại viên mãn (復次降伏法、持誦者先想吽字、化成不空成就佛、身相綠色廣大圓滿, lại nữa về pháp hàng phục, người trì tụng nên trước tưởng tượng chữ Hồng, hóa thành Bất Không Thành Tựu Phật, thân tướng màu xanh lục, to lớn tròn đầy).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Tác Biến Hóa Thân Bất Không Thành Tựu Phật (南慕作變化身不空成就佛, Kính Lễ Phật Bất Không Thành Tựu Có Thân Biến Hóa).”
Bát Nạn (s: aṣṭa-akṣaṇa, p: aṭṭha akkhaṇā, 八難): ý dịch là Bát Nạn Xứ (八難處), Bát Nạn Giải Pháp (八難解法), Bát Vô Hạ (八無暇), Bát Bất Nhàn (八不閑), Bát Phi Thời (八非時), Bát Ác (八惡); là 8 loại nạn xứ, tức là 8 loại cảnh giới mà một vị tu hành không thấy được Phật, không được nghe chánh pháp, không tu phạm hạnh để hướng đến đạo Bồ Đề. Đó là:
(1) Địa Ngục (s, p: naraka, 地獄);
(2) Súc Sanh (s: tiryagyoni, p: tiracchānayoni, 畜生);
(3) Ngạ Quỷ (s: preta, p: peta, 餓鬼);
(4) Trường Thọ Thiên (s: dīrghāyu-deva, p: digghāyu-deva, 長壽天, còn gọi là [無想天], tuổi thọ của chư thiên trên cõi trời này còn nhiều hơn tuổi thọ ở Bắc Cu Lô Châu [s: Uttara-kuru, 北俱盧洲], không có duyên gặp Phật, nghe pháp và thấy chư tăng);
(5) biên địa (s; pratyanta-janapada, p: paccanta-janapada, 邊地);
(6) manh lung ám á (s: indriya-vaikalya, p: indriya-vekalla, 盲聾瘖啞, mù, điếc, câm, ngọng, các căn bị hủy hoại, mất đi chức năng của chúng);
(7) thế trí biện thông (s: mithyā-darśana, p: micchā-dassana, 世智辯聰, tức tà kiến, nhận thức, quan điểm không đúng); và
(8) Phật tiền Phật hậu (s: tathāgatānāṁ anutpāda, p: tathāgatānāṁ anuppāda, 佛前佛後, sanh ra trước Phật hay sau Phật).
Như trong Thập Thượng Kinh (十上經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō No. 1) quyển 9, có giải thích rằng: “Vân hà Bát Nan Giải Pháp ? Vị Bát Bất Nhàn phương tu phạm hạnh, vân hà bát ? Như Lai chí chơn xuất hiện ư thế, thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, hữu nhân sanh Địa Ngục trung, thị vi bất nhàn xứ, bất đắc tu phạm hạnh; Như Lai chí chơn xuất hiện ư thế, thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, nhi hữu chúng sanh tại Súc Sanh trung, Ngạ Quỷ trung, Trường Thọ Thiên trung, biên địa vô thức, vô Phật pháp xứ, thị vi bất nhàn xứ, bất đắc tu phạm hạnh; Như Lai chí chơn đẳng chánh giác xuất hiện ư thế, thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, hoặc hữu chúng sanh sanh ư trung quốc, nhi hữu tà kiến, hoài điên đảo tâm, ác hạnh thành tựu, tất nhập Địa Ngục, thị vi bất nhàn xứ, bất đắc tu phạm hạnh; Như Lai chí chơn đẳng chánh giác xuất hiện ư thế, thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, hoặc hữu chúng sanh sanh ư trung quốc, lung manh ám á, bất đắc văn pháp, tu hành phạm hạnh, thị vi bất nhàn xứ; Như Lai chí chơn đẳng chánh giác bất xuất thế gian, vô hữu năng thuyết vi diệu pháp, tịch diệt vô vi, hướng Bồ Đề đạo, nhi hữu chúng sanh sanh ư trung quốc, bỉ chư căn cụ túc, kham thọ Thánh giáo, nhi bất trị Phật, bất đắc tu hành phạm hạnh, thị vi Bát Bất Nhàn (云何八難解法、謂八不閑妨修梵行、云何八、如來至眞出現於世、說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、有人生地獄中、是爲不閑處、不得修梵行、如來至眞出現於世、說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、而有眾生在畜生中、餓鬼中、長壽天中、邊地無識、無佛法處、是爲不閑處、不得修梵行、如來至眞等正覺出現於世、說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、或有眾生生於中國、而有邪見、懷顛倒心、惡行成就、必入地獄、是爲不閑處、不得修梵行、如來至眞等正覺出現於世、說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、或有眾生生於中國、聾盲瘖啞、不得聞法、修行梵行、是爲不閑處、如來至眞等正覺不出世間、無有能說微妙法、寂滅無爲、向菩提道、而有眾生生於中國、彼諸根具足、堪受聖敎、而不值佛、不得修行梵行、是爲八不閑, thế nào là Tám Pháp Khó Giải Quyết ? Tức là Tám Điều Không Yên làm trở ngại cho việc tu phạm hạnh, thế nào là tám ? Đức Như Lai chí chơn xuất hiện giữa đời, nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, nếu có người sanh vào trong Địa Ngục, là nơi không yên ổn, không thể tu phạm hạnh; đức Như Lai chí chơn xuất hiện giữa đời, nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, mà có chúng sanh nào trong cõi Súc Sanh, trong cõi Ngạ Quỷ, trong cõi Trường Thọ Thiên, biên địa không biết, nơi chẳng có Phật pháp, là nơi không yên ổn, không thể tu phạm hạnh; đức Như Lai chí chơn, giác ngộ chân chánh, xuất hiện giữa đời, nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, hoặc có chúng sanh nào sanh ở nước giữa, mà có tà kiến, mang tâm điên đảo, thành tựu hạnh ác, tất vào Địa Ngục, là nơi không yên ổn, không thể tu phạm hạnh; đức Như Lai chí chơn, giác ngộ chân chánh, xuất hiện giữa đời, nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, hoặc có chúng sanh nào sanh ở nước giữa, bị điếc, đui, câm, ngọng, không thể nghe pháp, tu hành phạm hạnh, là nơi không yên ổn; đức Như Lai chí chơn, giác ngộ chân chánh, không xuất hiện giữa đời, không thể nói pháp vi diệu, vắng lặng vô vi, hướng đến đạo Bồ Đề, mà có chúng sanh nào sanh ở nước giữa, các căn người đó đầy đủ, có thể thọ Thánh giáo, mà không gặp được Phật, không thể tu hành phạm hạnh; đó là Tám Điều Không Yên).” Hay như Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (慈悲道塲懺法, Taishō No. 1909) quyển 7 cũng giải thích tương tự: “Bát Nạn, nhất giả Địa Ngục, nhị giả Ngạ Quỷ, tam giả Súc Sanh, tứ giả biên địa, ngũ giả Trường Thọ Thiên, lục giả tuy đắc nhân thân lung tàn bách tật, thất giả sanh tà kiến gia, bát giả sanh Phật tiền, hoặc sanh Phật hậu, hữu thử Bát Nạn (八難、一者地獄、二者餓鬼、三者畜生、四者邊地、五者長壽天、六者雖得人身癃殘百疾、七者生邪見家、八者生佛前、或生佛後、有此八難, Tám Nạn, một là Địa Ngục, hai là Ngạ Quỷ, ba là Súc Sanh, bốn là biên địa, năm là Trường Thọ Thiên, sáu là tuy được thân người nhưng bị tàn tật trăm bệnh, bảy là sanh vào nhà tà kiến, tám là sanh ra trước Phật, hoặc sanh sau Phật, có Tám Nạn này).” Tắm Phật cũng có công đức xa lìa được Tám Nạn này, như trong Dục Phật Công Đức Kinh (浴佛功德經, Taishō No. 698) có dạy: “Trường từ Bát Nạn, vĩnh xuất khổ duyên (長辭八難、永出苦緣, từ bỏ Tám Nạn, mãi ra khỏi duyên khổ).” Hoặc trong Di Sơn Phát Nguyện Văn (怡山發願文) của Thiền Sư Di Sơn Kiểu Nhiên (怡山皎然, Isan Kōnen, ?-?) cũng có câu: “Chấp trì cấm giới, trần nghiệp bất xâm, nghiêm hộ oai nghi, quyên phi vô tổn, bất phùng Bát Nạn, bất khuyết Tứ Duyên (執持禁戒、塵業不侵、嚴護威儀、蜎飛無損、不逢八難、不缺四緣, vâng giữ giới cấm, trần nghiệp chẳng xâm, gìn giữ oai nghi, bọ bay chẳng hại, không gặp Tám Nạn, không khuyết Bốn Duyên).” Ngoài ra, theo giải thích của thế tục, Tám Nạn là 8 thứ tai ách: đói, khát, lạnh, nóng, lửa, nước, đao, binh.
(s: Prajñāpāramitā-hṛdaya, t: çes-rah sñiṅ-po bshugs-so, c: Pan-jo-po-lo-mi-to-hsin-ching, j: Hannyaharamittashinkyō, 般若波羅蜜多心經): nói cho đủ là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (摩訶般若波羅蜜多心經), còn gọi là Bát Nhã Đa Tâm Kinh (般若多心經), Bát Nhã Tâm Kinh (般若心經), Tâm Kinh (心經), 1 quyển, hiện còn, Taishō 8, 848, No. 251, Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch vào năm 649 hay 648 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 23 hay 22) nhà Đường. Có 6 dịch bản khác của kinh này:
(1) Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh (摩訶般若波羅蜜大明呪經), do Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch.
(2) Bát Nhã Ba La Mật Đa Na Đề Kinh (般若波羅蜜多那提經), do Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支, 562-727) dịch.
(3) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), do Bát Nhã (s: Prajñā, 般若, 734-?), Lợi Ngôn (利言, khoảng thế kỷ thứ 8) dịch.
(4) Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (普遍智藏般若波羅蜜多心經), do Pháp Nguyệt (s: Dharmacandra, 法月, 653-743) dịch.
(5) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), do Trí Huệ Luân (智慧輪) dịch.
(6) Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (聖佛母般若波羅蜜多心經), do Thí Hộ (s: Dānapāla, 施護, khoảng thế kỷ thứ 10) dịch.
Nếu so sánh các bản trên, bản dịch của Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập được lưu truyền rộng rãi nhất. Phạn bản của kinh này hiện còn ở Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) của Nhật Bản; năm 1884 F. Max Müller và Bunyū Nanjō (文雄南條) đã cùng hiệu đính, xuất bản; đến năm 1894 nó được dịch sang Anh ngữ. Ngoài ra, vào năm 1864, học giả người Anh là Beal Samuel cũng đã dịch sang Anh ngữ bản dịch của Huyền Trang. Nếu so bản tiếng Sanskrit và bản Hán dịch của Huyền Trang, chúng có nội dung tương đồng. Còn bản được phát hiện ở thạch động Đôn Hoàng là tư liệu rất quý trọng đối với giới học thuật. Về phần chú sớ của kinh này cũng có rất nhiều bản, trong đó quan trọng nhất là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh U Tán (般若波羅蜜多心經幽贊) của Khuy Cơ (窺基, 632-682), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Tán (般若波羅蜜多心經贊) của Viên Trắc (圓測, 613-696), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Lược Sớ (般若波羅蜜多心經略疏) của Pháp Tạng (法藏, 643-712), và Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Sớ (般若波羅蜜多心經疏) của Huệ Tịnh (慧淨, 578-?), v.v.
(秘藏寶鑰, Hizōhōyaku): 3 quyển, gọi tắt là Bảo Thược (寶鑰), Lược Luận (略論), tác phẩm của Không Hải (空海, Kūkai). Thể theo sắc mệnh của Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 758-764), trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Trường (天長, 824-833), những bậc học tượng của các tông phái dâng trình lên triều đình Tông nghĩa của họ; Không Hải thì viết Thập Trụ Tâm Luận (十住心論), sau đó tóm tắt nội dung của tác phẩm đó và viết nên bộ này. Với ý nghĩa của đề tác phẩm là chìa khóa khai mở tận cùng của Phật tánh vốn có đầy đủ trong chúng sanh, lấy Đại Nhật Kinh (大日經), Bồ Đề Tâm Luận (菩提心論), Thích Ma Ha Diễn Luận (釋摩訶衍論), v.v., trước tác này triển khai pháp môn của Thập Trú Tâm (十住心) giống như Thập Trụ Tâm Luận, giảm thiểu việc trích dẫn các kinh luận đến mức tối thiểu, giản lược 14 câu vấn đáp, giải thích sự sâu cạn của cảnh giới trú tâm thứ 9 mà thôi. Sách chú thích của tác phẩm này có rất nhiều như Văn Đàm Sao (聞談鈔, 4 quyển) của Đạo Phạm (道範), Ngu Thảo (愚艸, 5 quyển) của Lại Du (賴瑜), Bí Tạng Bảo Thược Sao (秘藏寶鑰鈔, 6 quyển) của Cảo Bảo (杲寶), Bí Tạng Bảo Thược Sao (秘藏寶鑰鈔, 40 quyển) của Hựu Khoái (宥快), Khai Tông Ký (開宗記, 10 quyển) của Huệ Hi (慧曦), v.v.
(辯顯密二敎論, Bengemmitsunikyōron): 2 quyển, do Không Hải soạn, là bộ luận thư tuyên ngôn lập tông, làm sáng tỏ sự phân biệt giữa Hiển Giáo và Mật Giáo, nêu lên điển cứ của 6 bộ kinh và 3 bộ luận, rồi dàn luận trận ngang dọc. Sáu bộ kinh gồm:
(1) Ngũ Bí Mật Kinh (五秘密經),
(2) Du Kỳ Kinh (瑜祇經),
(3) Lược Thuật Kim Cang Du Già Phân Biệt Thánh Vị Tu Chứng Pháp Môn (略術金剛瑜伽分別聖位修証法門),
(4) Đại Nhật Kinh (大日經),
(5) Lăng Già Kinh (楞伽經),
(6) Tam Quyển Giáo Vương Kinh (三巻敎王經).
Ba bộ luận là:
(1) Bồ Đề Tâm Luận (菩提心論),
(2) Đại Trí Độ Luận (大智度論),
(3) Thích Ma Ha Diễn Luận (釋摩訶衍論).
Ngoài ra còn có một số kinh điển khác được trích dẫn như Lục Ba La Mật Kinh (六波羅蜜經), Thủ Hộ Kinh (守護經), v.v. Về niên đại thành lập luận thư này, có một vào thuyết khác nhau.
(1) Vào năm 813 (niên hiệu Hoằng Nhân [弘仁] thứ 4), nhân dịp Trai Hội trong cung nội, chư tôn thạc đức của 8 tông phái hoạt động mạnh mẽ, nên tác phẩm này ra đời như là động cơ để xác lập tông phái mình.
(2) Có thuyết cho là tác phẩm này hình thành vào năm 815 (niên hiệu Hoằng Nhân thứ 6), đồng thời với bộ Tánh Linh Tập (性靈集), v.v. Như vậy chúng ta có thể tưởng tượng được luận thư này ra đời trong khoảng thời gian này. Một số sách chú thích về bộ luận này gồm Huyền Kính Sao (懸鏡鈔, 6 quyển) của Tế Xiêm (濟暹), Cương Yếu Sao (綱要鈔, 2 quyển) của Tĩnh Biến (靜遍), Thính Văn Sao (聽聞鈔) của Giác Noan (覺鑁), Thủ Kính Sao (手鏡鈔, 3 quyển) của Đạo Phạm (道範), Chỉ Quang Sao (指光鈔, 5 quyển) của Lại Du (賴瑜), v.v.
(s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩): từ gọi tắt của âm dịch Bồ Đề Tát Đỏa (菩提薩埵), hay Bồ Đề Sách Đa (菩提索多), Mạo Địa Tát Đát Phược (冐地薩怛縛), Phù Tát (扶薩); ý dịch là Đạo Chúng Sanh (道眾生), Giác Hữu Tình (覺有情), Đại Giác Hữu Tình (大覺有情), Đạo Tâm Chúng Sanh (道心眾生), Đại Sĩ (大士). Nguyên ngữ của nó được kết hợp bởi 2 từ bodhi và sattva. Từ bodhi (bồ đề [菩提]) có nghĩa là sự khai ngộ, tỉnh thức, được dịch là giác (覺). Sattva (tát đỏa [薩埵]) nghĩa là sinh vật, nên được dịch là chúng sanh (眾生), hữu tình (有情). Khi hai từ này được kết hợp lại với nhau, chúng có nghĩa là người tìm cầu sự giác ngộ hay người có trang bị đầy đủ sự giác ngộ. Đặc biệt, đối với trường hợp của Đại Thừa Phật Giáo, Bồ Tát không phải là người tu hành để tìm cầu sự giác ngộ cho tự thân mình, mà tồn tại trong hiện thực của cuộc đời để tìm cầu chân lý giác ngộ, tu hành thật tiễn (hạnh từ bi lợi tha) cho mọi người trên đời, nỗ lực tinh tấn Tịnh Độ hóa (làm thanh tịnh quốc độ Phật) hiện thực xã hội bằng chân lý giác ngộ. Từ đó, Đại Thừa Phật Giáo phê phán hai thừa Thanh Văn (聲聞) cũng như Duyên Giác (緣覺) vốn thoát ly hiện thực của Phật Giáo Nguyên Thủy, và nhấn mạnh vai trò của Bồ Tát Nhất Thừa (菩薩一乘). Trong các kinh điển Đại Thừa như Pháp Hoa (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華), v.v., đôi khi phủ nhận người xuất gia Tiểu Thừa, thay vào đó lập nên hình tượng Bồ Tát. Từ thế giới giác ngộ, vị này thể nhập vào cuộc đời, đồng cam cọng khổ với mọi người và tận lực cứu độ chúng sanh. Do đó, nhiều loại Bồ Tát được dựng lên và được tôn thờ trong dân gian. Tỷ dụ như Bồ Tát Quan Thế Âm (s: Avalokiteśvara, 觀世音), Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏), v.v. Chính vì vậy, việc điêu khắc hình tượng Bồ Tát cũng trở nên thịnh hành. Tại Nhật Bản—đất nước có đặc sắc khẳng định con người và trung tâm hiện thực—ngay từ buổi ban sơ khi Phật Giáo mới được truyền vào, chư vị thần được xem như là chúng sanh mê muội chẳng khác gì con người, cũng có địa vị tối cao như là vị thần của quốc gia hay của dân tộc và dần dần được thánh hóa là Bồ Tát. Trường hợp Bát Phan Đại Bồ Tát (八幡大菩薩) là một thí dụ điển hình. Bên cạnh đó, những con người thực tế như Bồ Tát Hành Cơ (行基), v.v., cũng được Bồ Tát hóa để tôn xưng vị tu hành có đạo cao đức trọng. Ở Việt Nam, trường hợp Bồ Tát Thích Quảng Đức cũng như vậy.
(s: Dharmākara, 法藏): còn gọi là Pháp Tạng Tỳ Kheo (法藏比丘); âm dịch là Đàm Ma Ca (曇摩迦), Đàm Ma Ca Lưu (曇摩迦留); ý dịch là Pháp Bảo Xứ (法寶處), Pháp Xứ (法處), Pháp Tích (法積), Tác Pháp (作法); là pháp danh của đức Phật A Di Đà khi chưa thành Phật. Theo Vô Lượng Thọ Kinh, quyển Thượng, trong đời quá khứ xa xưa thời đức Thế Tự Tại Vương Phật (世自在王佛) trụ thế, có vị quốc vương, sau khi nghe Phật thuyết pháp, bèn phát tâm vô thượng, xả bỏ vương vị xuất gia, hiệu là Pháp Tạng. Vị này tài cao, minh triết, siêu bạt giữa đời, theo tu tập với Thế Tự Tại Vương Phật, phát 48 lời thệ nguyện để cứu độ chúng sanh và sau một thời gian tu hành lâu xa, ngài thành tựu bản nguyện của mình và được thành Phật. Vị Phật này chính là A Di Đà Phật. Như trong Lễ Niệm Di Đà Đạo Tràng Sám Pháp (禮念彌陀道塲懺法, CBETA No. 1467) quyển 7, phần Phát Nguyện Vãng Sanh (發願徃生) có đoạn rằng: “Thị cố phục ưng tu học Bồ Đề hạnh nguyện, như A Di Đà Phật tối sơ nhân trung, vi Pháp Tạng Tỳ Kheo, sở phát tứ thập bát nguyện; hựu như Phổ Hiền Văn Thù quảng đại hạnh nguyện, diệc như thập phương tam thế chư đại Bồ Tát sở hữu hạnh nguyện, ngã diệc như thị thứ đệ tu học (是故復應修學菩提行願、如阿彌陀佛最初因中、爲法藏比丘、所發四十八願、又如普賢文殊廣大行願、亦如十方三世諸大菩薩所有行願、我亦如是次第修學, vì vậy lại nên tu học hạnh nguyện Bồ Đề, như trong nhân vị đầu tiên của Phật A Di Đà, là Tỳ Kheo Pháp Tạng, đã phát bốn mươi tám nguyện, cũng như hạnh nguyện rộng lớn của Phổ Hiền, Văn Thù, cũng như hạnh nguyện vốn có của chư vị đại Bồ Tát trong mười phương ba đời, con cũng lần lượt tu học như vậy).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.45 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập