Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Chủ Sứ »»
(呪): ngôn ngữ bí mật có năng lực linh ứng đặc biệt, không thể lấy ngôn ngữ bình thường để giải thích được, là câu văn bí mật dùng xướng tụng trong khi cầu nguyện, còn gọi là thần chú (神呪), mật chú (密呪), chơn ngôn (眞言). Nguyên lai từ chú (呪) là chúc (祝), là mật ngữ dùng tụng niệm hướng về chư vị thần linh cầu đảo, tuyên cáo khiến cho kẻ oán địch bị tai họa, hay mong muốn tiêu trừ ách nạn, cầu mong được lợi ích. Trong kinh Phệ Đà (吠陀) xưa của Ấn Độ đã có chú thuật rồi. Theo quyển 14 Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經) cho biết rằng đức Thích Tôn đã từng bài bác vấn đề chú thuật; tuy nhiên, quyển 9 của kinh này có đề cập việc đức Phật thuyết Chú Hộ Thân (s: parītta, p: paritta, parittā, còn gọi là Hộ Chú [護呪], Hộ Kinh [護經], Chú Văn [呪文]) trị rắn độc, cho nên chúng ta biết rõ rằng chú thuật đã được phổ biến ở Ấn Độ từ xa xưa và sau này Phật Giáo cũng có dùng đến. Các kinh điển thuộc giáo phái Đại Thừa Hiển Giáo như Bát Nhã (般若), Pháp Hoa (法華), Bảo Tích (寶積), Đại Tập (大集), Kim Quang Minh (金光明), Lăng Già (楞伽), v.v., đều có Phẩm Đà La Ni (陀羅尼品) nêu rõ những câu thần chú. Đặc biệt Mật Giáo rất chú trọng đến mật chú, cho rằng chú là biểu thị cho “pháp nhĩ thường nhiên (法爾常然, pháp vốn thường như vậy)”; cho nên nếu tụng đọc, quán tưởng mật chú, hành giả có thể được lợi ích thành Phật. Thần chú được thuyết trong các kinh điển thì nhiều vô cùng, tỷ dụ như Thủy Hỏa Chú (水火呪), An Trạch Phù Chú (安宅符呪), Sát Lợi Chú (刹利呪), v.v., trong A Ma Trú Kinh (阿摩晝經) thuộc quyển 13 hay Phạm Động Kinh (梵動經) trong quyển 14 của Trường A Hàm (長阿含). Trong Tứ Phần Luật (四分律) quyển 27, Thập Tụng Luật (十誦律) quyển 46, v.v., có các chú trị bệnh trùng trong ruột, chú hàng phục ngoại đạo, v.v. Hay một số chú khác như Bà La Môn Chú (婆羅門呪), Thủ Đà La Thần Chú (首陀羅神呪), Đại Phạm Thiên Vương Bà Tỳ La Chú (大梵天王婆毘羅呪), v.v., trong phẩm Chúng Tướng Vấn (眾相問) của Ma Đăng Già Kinh (摩登伽經) quyển thượng, v.v. Ngoài ra, trong quyển 4 của Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集) có Quán Đảnh Thất Vạn Nhị Thiên Thần Vương Hộ Tỳ Kheo Chú Kinh (觀頂七萬二天神王護比丘呪經), Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Thần Chú (摩訶般若波羅蜜神呪), Thập Bát Long Vương Thần Chú Kinh (十八龍王神呪), Chú Củ Xỉ (呪齲齒), Thập Nhị Nhân Duyên Kết Lũ Thần Chú (十二因緣結縷神呪), Uy Đức Đà La Thần Chú (威德陀羅神呪), v.v., mỗi thứ 1 quyển. Thần chú có 2 loại lành và dữ. Loại thần chú lành thường được dùng để chữa bệnh hay hộ thân; thần chú dữ dùng để bùa yểm người khác, khiến cho họ bị tai họa. Trong Phẩm Phổ Môn thuộc quyển 7 của Pháp Hoa Kinh (法華經), quyển 57 của Cựu Hoa Nghiêm Kinh (舊華嚴經), quyển 4 của Thập Địa Kinh (十地經), v.v., có đề cập đến loại thần chú dữ này. Đức Thế Tôn cấm chỉ hàng đệ tử tu tập chú thuật, sử dụng nó để mưu sinh, mà chỉ cho phép dùng chú để trị bệnh hay hộ thân mà thôi. Thông thường từ mantra được dịch là chú (呪). Hiện tồn bản tiếng Sanskrit của Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), Đà La Ni Nhập Lăng Già Kinh (陀羅尼入楞伽經) có xuất hiện từ mantra này. Thế nhưng, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙) quyển 11 lại dịch từ Pāli vijjāmayā là chú. Trong Phẩm Đà La Ni thuộc quyển 7 của Pháp Hoa Kinh dịch từ Sanskrit dhārāṇī là chú. Từ đó, chúng ta thấy rằng từ Hán dịch chú có nhiều nguyên ngữ khác nhau. Bên cạnh đó, dhārāṇī còn có nghĩa là tổng trì (總持), vidya (p: vijjā) là minh (明), thuật (術), mantra là chơn ngôn. Nghĩa các từ tuy có khác nhau nhưng đã được dùng lẫn lộn nhau. Có khá nhiều vị tăng ngoại quốc truyền Phật Giáo đầu tiên đến Trung Quốc rất sở trường về chú thuật, như trường hợp Đàm Vô Sấm (曇無讖) được xem như là Đại Chú Sư. Đạo Giáo Trung Quốc từ đó cũng bắt đầu lưu hành chú thuật. Trong Đăng Thiệp Thiên (登涉篇) thuộc quyển 4 của Bảo Bốc Tử Nội Thiên (抱朴子) có phần Lục Giáp Bí Chú (六甲祕呪), có khả năng khiến cho người trong chiến trận không bị tử thương. Hay trong Thái Thượng Tử Vi Trung Thiên Thất Nguyên Chân Kinh (太上紫微中天七元眞經, Đạo Giáo quyển 1055) có Bắc Đẩu Thất Tinh Chú (北斗七星呪), Cơ Tinh Chân Nhân Chân Quân Bảo Mạng Chú (機星眞人眞君保命呪), v.v. Hơn nữa, trong Thái Thượng Nguyên Thỉ Thiên Tôn Thuyết Bảo Nguyệt Quang Hoàng Hậu Thánh Mẫu Khổng Tước Minh Vương Kinh (太上元始天尊說寶月光皇后聖母孔雀明王經, Đạo Giáo quyển 1058) có Bí Mật Khu Tà Phân Quỷ Nhân Đạo Chú (祕密驅邪分鬼人道呪), v.v., tất cả đều có pha lẫn Phạn ngữ. Cũng giống như vậy, các kinh điển Phật Giáo như Quán Đảnh Kinh (灌頂經), Thích Ma Ha Diên Luận (釋摩訶衍論) quyển 9 có nêu rõ các loại thần chú, Uế Tích Kim Cang Cấm Bách Biến Pháp Kinh (穢跡金剛禁百變法經) thì đề cập đến những loại phù chú, ấn pháp. Tất cả đều có ảnh hưởng đến kinh điển Đạo Giáo. Ngoài ra, Mật Giáo của Nhật Bản cũng sử dụng rất nhiều mật chú.
(戒珠): tỷ dụ giới luật trong sạch, không tỳ vết, sai phạm như viên minh châu, có thể trang nghiêm thân người; cho nên cần phải siêng năng tu tịnh giới. Như trong Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō Vol. 48, No. 2023) quyển 9, phần Tấn Vương Thọ Bồ Tát Giới Sớ (晉王受菩薩戒疏), có câu: “Thiên Thai Trí Khải Thiền Sư, Phật pháp long tượng, đồng chơn xuất gia, giới châu viên tịnh, niên tương nhĩ thuận, định thủy uyên trừng (天台智顗禪師、佛法龍象、童眞出家、戒珠圓淨、年將耳順、定水淵澄, Thiền Sư Thiên Thai Trí Khải, là bậc long tượng của Phật pháp, xuất gia lúc còn nhỏ, giới luật nghiêm trì, đến tuổi sáu mươi, nước định lắng sâu).” Hay trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) quyển 21, phần Chư Sư Tạp Truyện Đệ Thất (諸師雜傳第七), Nho Sĩ Thuật Am Tiết Trừng (儒士述菴薛澄), lại có đoạn: “Thám giới châu ư li hạm, phi huệ kiếm ư Long Môn, tảo du nhận ư Nho lâm, vô thư bất độc (探戒珠於驪頷、飛慧劍於龍門、早遊刃於儒林、無書不讀, tìm ngọc giới nơi hàm ngựa, vung kiếm tuệ ở Cửa Rồng, sớm tinh thông nơi rừng Nho, sách nào cũng đọc).” Hoặc trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 31, phần Phục Hoàng Tinh Nguyên Chư Cư Sĩ (復黃惺源諸居士), cũng có đoạn khác: “Oánh giới châu vu Ngũ Trược, thị thủy khả thanh; xúc thiện đạo vu Bát Quan, hữu tình giai Phật (瑩戒珠于五濁、是水可清、趨善道于八關、有情皆佛, sáng ngọc giới nơi Năm Trược, nước ấy cũng trong; đẩy đường thiện về Tám Cửa [Bát Quan Trai], hữu tình thành Phật).”
(法席): chỗ ngồi thuyết pháp. Như trong bài Quán Thế Âm Bồ Tát Ứng Hiện Ký (觀世音菩薩應現記) của Viên Anh Đại Sư Văn Tập (圓瑛大師文集) có đoạn: “Kim Phổ Đà đảnh sơn tự Văn Chất Lão Hòa Thượng trùng hưng dĩ lai, đại khai pháp tịch, nhi hưng tiền hậu tự thành đỉnh túc chi thế, đạo phong nhật chấn (今普陀頂山自文質老和尚重興以來、大開法席、而與前後寺成鼎足之勢、道風日振, hiện tại kể từ khi Văn Chất Lão Hòa Thượng trùng hưng đỉnh núi Phổ Đà đến nay, chùa mở pháp hội lớn, làm cho phát triển trước sau, chùa trở thành thế chân vạc, đạo phong của người ngày càng vang xa).” Hay trong bài Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách (潙山大圓禪師警策) của Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐, 771-853) cũng có câu: “Tỳ ni pháp tịch, tằng vị thao bồi, liễu nghĩa thượng thừa, khởi năng chân biệt (毘尼法席、曾未叨陪、了義上乘、豈能甄別, pháp tịch giảng dạy Luật tạng, chưa từng học hỏi thực hành, giáo lý thượng thừa liễu nghĩa, làm sao phân biệt được).” Trong tác phẩm Bảo Khánh Ký (寳慶記, Hōkeiki) của Thiền Sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen, 1200-1253) có đoạn rằng: “Đạo Nguyên con hồi còn nhỏ đã phát bồ đề tâm, đến tham vấn chư sư nơi bổn quốc, mới biết được chút do lai của nhân quả. Tuy nhiên, thế mà vẫn chưa xác định rõ việc quy y theo Phật Pháp Tăng, cứ mãi bị ràng buộc trong vòng danh tướng. Sau đến tham học Thiên Quang Thiền Sư, lần đầu tiên được nghe tông phong của Lâm Tế. Nay con theo hầu Toàn Pháp Sư sang nhà Tống nầy. Biển khơi vạn dặm, phó mặc huyễn thân nầy cho sóng cả nghìn trùng. Cuối cùng mới có thể đến được nhà Đại Tống, và dự vào pháp tịch của Hòa Thượng. Có lẽ đây là điều may mắn nhất trong đời. Ngưỡng mong Hòa Thượng đại từ đại bi, kẻ tiểu nhân nơi chốn xa nước ngoài đến đây, chỉ nguyện rằng chẳng kể thời quang trôi qua, không màng đầy đủ uy nghi, chỉ mong sao được thỉnh giáo ngu hoài lên phương trượng. Sống chết là việc lớn, vô thường chóng qua mau, chẳng trông đợi một ai, rời xa Thánh đạo tất ân hận một đời. Tiểu tăng Đạo Nguyên xin trăm lạy cúi đầu khẩn thỉnh.”
(上堂, Jōdō): đến Tăng Đường (僧堂) để ăn cơm cháo. Trong Chương Thạch Thê Hòa Thượng (石梯和尚章) của Hội Yếu (會要) 5 có đoạn rằng: “Sư kiến thị giả thác bát thượng đường, nãi hô vân: 'thị giả', giả ứng 'nặc'; sư vân: 'thậm xứ khứ ?', vân: 'thượng đường trai khứ' (師見侍者托鉢上堂、乃呼云、侍者、者應諾、師云、甚處去、云上堂齋去, Thầy thấy vị thị giả mang bình bát lên nhà ăn, bèn gọi rằng: 'này thị giả !' Người thị giả đáp: 'dạ'; thầy hỏi: 'đi đâu vậy ?' Đáp: 'lên nhà ăn cơm')”. Bên cạnh đó, từ này còn có nghĩa là lên Pháp Đường (法堂) để thuyết pháp. Ngày xưa, nghi thức này được tiến hành hằng ngày hai thời sáng và tối; nhưng sau này nó được tiến hành vào buổi sáng với thời gian quy định với các tên gọi như Tứ Tiết Thượng Đường (四節上堂), Ngũ Tham Thượng Đường (五參上堂), v.v. Từ này còn được gọi là Triêu Tham (朝參), Đại Tham (大參), Phổ Thuyết (普說) và Thăng Tòa (陞座). Trong phần Bách Trượng Quy Thằng Tụng (百丈規繩頌) của Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規) 10 có đoạn rằng: “Kỳ hạp viện đại chúng, triêu tham tịch tụ, trưởng lão thượng đường thăng tòa, chủ sự đồ chúng nhạn lập trắc linh (其闔院大眾、朝參夕聚、長老上堂陞座、主事徒眾鴈立側聆, đại chúng trong toàn viện ấy đều buổi sáng tham vấn, buổi tối tập trung, vị trưởng lão lên tòa thuyết pháp, tất cả đồ chúng đứng ngay ngắn một bên lắng nghe).”
(宗門拈古彙集, Shūmonnenkoishū): 45 quyển, do Bạch Nham Tịnh Phù (白巖淨符) nhà Thanh biên soạn, san hành vào năm thứ 3 (1664) niên hiệu Khang Hy (康熙). Đây là thư tịch bổ khuyết, đính chính những ngữ yếu về niêm đề, cơ duyên của chư vị tổ sư trước thời nhà Tống, Nguyên được thâu lục trong Tông Môn Thống Yếu Tục Tập (宗門統要續集), và thâu tập các niêm cổ của chư sư về những ngữ yếu đó. Tiếp theo bộ Thống Yếu Tục Tập (統要續集), nội dung của bộ này gồm có 33 đời chư vị Thiền sư thuộc môn hạ của Nam Nhạc (南岳) và 36 đời thuộc môn hạ của Thanh Nguyên (青原). Nó là bản thâu tập vĩ đại về những công án của 1700 tắc công án xưa nay.
(智海, Chikai, ?-1306): vị Tăng chuyên học cả Luật và Chơn Ngôn Tông, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương, húy là Trí Hải (智海), tự Tâm Tuệ (心慧), hiệu là Đạo Chiếu Phòng (道照房). Ông học Mật Giáo của hai dòng Dã Trạch (野澤) từ Hựu Tường (宥祥), Viên Hựu (圓祐) và Nguyên Du (元瑜). Rồi sau đó ông lại học thêm cả Giới Luật với Nhẫn Tánh (忍性) cũng như Hiến Tĩnh (憲靜) ở Cực Lạc Tự (極樂寺) vùng Liêm Thương. Vào năm 1269, vị Tướng Quân chấp quyền đương thời là Bắc Điều Trinh Thời (北條貞時, Hōjō Sadatoki), nhân để cầu nguyện cho quân nhà Nguyên bại trận rút lui, đã cải đổi Dược Sư Đường thành Giác Viên Tự (覺園寺), và thỉnh mời ông đến làm vị Tổ khai sơn chùa này. Kể từ khi đến sống tại chùa này, ông chuyên tâm giảng nghĩa về Giới Luật, nên các bậc anh tài của Hiển lẫn Mật Giáo đều vân tập về đây. Trước tác của ông có Lưỡng Bộ Đại Kinh Giáo Chủ Sự (兩部大經敎主事) 1 quyển.
(叢林): chỉ các tự viện nơi tăng chúng tập trung sinh sống, đặc biệt chỉ cho các tự viện Thiền Tông. Xưa kia, tại Ấn Độ, phần lớn người ta thường chọn các khu rừng thâm u, tĩnh mịch, cách xa thành thị náo nhiệt, để kiến lập Tinh Xá; cho nên, nơi chư tăng dừng lại an trú được gọi là Lan Nhã (蘭若, nơi vắng vẻ, yên tĩnh), tùng lâm, v.v. Các kinh điển giải thích về từ này rất nhiều, như Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 3 cho rằng tăng chúng hòa hợp, cư trú tại một nơi, giống như khu rừng có cây cối tụ tập, nên lấy đó làm thí dụ. Đại Trang Nghiêm Luận Kinh (大莊嚴論經, Taishō Vol. 4, No. 201) quyển 1 thì cho rằng: “Tăng do dũng kiện quân, năng tồi ma oán địch, như thị chúng tăng giả, thắng trí chi tùng lâm (僧猶勇健軍、能摧魔怨敵、如是眾僧者、勝智之叢林, tăng như quân hùng mạnh, phá được địch ma oán, như vậy chúng tăng là, tùng lâm có thắng trí).” Hay Thiền Lâm Bảo Huấn Âm Nghĩa (禪林寶訓音義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1262) định nghĩa hai chữ tùng lâm rằng: “Tùng lâm nãi chúng tăng sở chỉ chi xứ, hành nhân thê tâm tu đạo chi sở dã; thảo bất loạn sanh viết tùng, mộc bất loạn trưởng viết lâm; ngôn kỳ nội hữu quy cũ pháp độ dã (叢林乃眾僧所止之處、行人棲心修道之所也、草不亂生曰叢、木不亂長曰林、言其內有規矩法度也, tùng lâm là nơi chúng tăng dừng chân, là chốn hành giả dưỡng tâm tu đạo; cỏ không mọc loạn xạ gọi là tùng, cây không sinh trưởng tạp loạn gọi là lâm; gọi như vậy vì bên trong có quy cũ, pháp tắc vậy).” Thông thường, tùng lâm chỉ cho các tự viện Thiền Tông, nên còn có tên là Thiền lâm (禪林). Bên cạnh đó, người ta lấy rừng cây Chiên Đàn có hương thơm phức để ví cho chốn tùng lâm thanh tịnh, nơi cư trú của các bậc long tượng, nên còn được gọi là Chiên Đàn Lâm (栴檀林). Sau này, các tự viện các tông phái về Luật, Giáo, v.v., cũng mô phỏng theo chế độ Thiền lâm mà gọi là tùng lâm. Trong tùng lâm, tất cả tài sản của chùa đều thuộc về của công, không phải của riêng cho bất cứ ai, theo một quy củ nhất định mà thâu nhận chư tăng từ khắp nơi đến; vị Trú Trì cũng được tuyển chọn thông qua sự đồng ý của đại tăng; cho nên nơi đây còn được gọi là Thập Phương Tùng Lâm (十方叢林). Lại theo Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) quyển 13 cho biết rằng tùng lâm có thể làm cho phát sanh trí tuệ, thần thông, v.v., nên còn có tên là Công Đức Tùng Lâm (功德叢林). Đối với Thiền Tông Trung Hoa, từ sau thời Lục Tổ Huệ Năng (慧能, 638-713) trở đi, trong vòng hơn 100 năm, phần lớn chư vị Thiền tăng lúc bấy giờ sống trong các hang động hay tá túc tại các tự viện của Luật Tông; sau đó, Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一, 709-788) sáng lập ra tùng lâm để giúp tăng chúng được an cư. Tiếp theo, nhân việc trú xứ của tăng chúng tôn ty thượng hạ không phân định rõ ràng; thuyết pháp, Trú Trì chẳng theo quy chế nào cả, v.v., Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海, 749-814) bèn chế định ra Thanh Quy, gọi là Bách Trượng Thanh Quy (百丈清規). Trãi qua từ cuối thời nhà Đường (唐, 618-907) đến nhà Tống (宋, 960-1279), việc kiến lập tùng lâm ngày một hoàn bị, Thiền tăng thường tập trung cư trú; nếu chốn tùng lâm nào có bậc cao đức Trú Trì, số lượng tăng chúng có thể lên đến trên ngàn người. Tùng lâm ở phương Bắc hưng thịnh dưới thời nhà Tống; vào thời vua Nhân Tông (仁宗, tại vị 1022-1063), Thiền đạo thịnh hành ở Biện Kinh (汴京); rồi vua Thần Tông (神宗, tại vị 1067-1085) sắc mệnh sáng lập hai Đại Thiền Viện là Huệ Lâm (慧林), Trí Hải (智海), và sau này trở thành những Thiền Lâm trứ danh của Kinh Sư Khai Phong (開封). Đến năm thứ 2 (1103) niên hiệu Sùng Ninh (崇寧) đời vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1126), khi Tông Trách (宗賾, ?-?) biên tập bộ Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規, 10 quyển), chế độ tùng lâm đã được hoàn bị một cách rạng rỡ. Sau khi Hoàng thất nhà Tống đi về phương Nam, các danh tăng Thiền tông xuất hiện, tùng lâm nhất thời đạt đến tột đỉnh cực thịnh; Sử Di Viễn (史彌遠, 1164-1233) bèn dâng sớ tâu xin quy định các Thiền Tự ở Giang Nam là Ngũ Sơn Thập Sát (五山十剎); gồm: (1) Kính Sơn Tự (徑山寺) ở Dư Hàng (餘杭), (2) Linh Ẩn Tự (靈隱寺) ở Hàng Châu (杭州), (3) Tịnh Từ Tự (淨慈寺), (4) Thiên Đồng Tự (天童寺) ở Ninh Ba (寧波), (5) Dục Vương Tự (育王寺) làm Thiền Viện Ngũ Sơn (禪院五山); còn (1) Trung Thiên Trúc Tự (中天竺寺) ở Hàng Châu, (2) Đạo Tràng Tự (道場寺) ở Hồ Châu (湖州), (3) Giang Tâm Tự (江心寺) ở Ôn Châu (溫州), (4) Song Lâm Tự (雙林寺) ở Kim Hoa (金華), (5) Tuyết Đậu Tự (雪竇寺) ở Ninh Ba, (6) Quốc Thanh Tự (國清寺) ở Đài Châu (台州), (7) Tuyết Phong Tự (雪峰寺) ở Phúc Châu (福州), (8) Linh Cốc Tự (靈谷寺) ở Kiến Khang (建康), (9) Vạn Thọ Tự (萬壽寺) ở Tô Châu (蘇州), (10) Hổ Kheo Tự (虎丘寺) là Thiền Viện Thập Sát (禪院十剎). Đến thời kỳ này, chế độ tùng lâm tồn tại một thời gian lâu ở Giang Nam. Về quy mô tùng lâm, ban đầu vẫn còn nhỏ. Trong một chùa, chỉ có Phương Trượng (方丈), Pháp Đường (法堂), Tăng Đường (僧堂) và Nhà Liêu. Trú Trì là chủ của tăng chúng, được tôn làm Trưởng Lão, ở tại nhà Phương Trượng. Ban đầu không có Điện Phật, chỉ thiết lập Pháp Đường mà thôi. Khi tăng chúng vào Tăng Đường, tùy theo Giới Lạp (戒臘) lớn nhỏ mà an bài vị thứ; hay khi tiến hành Pháp Phổ Thỉnh (普請法, lao động tập thể), bất luận trên dưới, mọi người đều phải tham gia lao động để tự cung tự cấp. Trước khi tùng lâm được thiết lập, đầu não của tự viện là Tam Cang (三綱), gồm Thượng Tọa (上座), Tự Chủ (寺主), Duy Na (維那, tức Đô Duy Na [都維那]); để lãnh đạo chúng tăng và duy trì cương kỷ Thiền môn. Sau khi tùng lâm hình thành, các vị Chấp Sự có Thủ Tòa (首座), Điện Chủ (殿主), Tạng Chủ (藏主), Trang Chủ (莊主), Điển Tòa (典座), Duy Na, Giám Viện (監院), Thị Giả (侍者), v.v. Đời sau khi tổ chức tùng lâm mỗi lúc một lớn mạnh, gia phong các tự viện lại bất đồng; vị Trú Trì phần lớn nhân thời thế mà tự lập ra ban Chấp Sự, nên danh mục quá nhiều. Theo Thiền Uyển Thanh Quy, danh mục Chấp Sự có 23 loại. Từ thời nhà Tống trở đi, chế độ tùng lâm ít có cải đổi. Căn cứ vào Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規) dưới thời nhà Nguyên, chế độ tùng lâm lại tăng thêm nhiều; chức phận được chia nhỏ ra, có thể đạt đến 80 loại. Nhân viên Chấp Sự trong tùng lâm ít nhiều đều tùy theo quy mô thiết lập lớn nhỏ mà định. Trong một tự viện, phòng Phương Trượng là chổ ở chính của Thiền lâm, là nơi vị Trú Trì cư ngụ; nên vị Trú Trì còn được gọi là Phương Trượng. Bên cạnh đó, vị Trú Trì còn là người đứng đầu của các ngôi điện đường trong chùa, nên được tôn xưng là Đường Đầu Hòa Thượng (堂頭和尚). Bên dưới Trú Trì có hai bên Đông và Tây. Các vị Chấp Sự trọng yếu của bên Tây là Thủ Tòa (xưa là Thượng Tọa), Tây Đường (西堂), Hậu Đường (後堂), Đường Chủ (堂主), Thư Ký (書記), Tri Tạng (知藏), Tạng Chủ, Tri Khách (知客), Liêu Nguyên (寮元, thủ lãnh của Vân Thủy Đường [雲水堂]), v.v. Bên Đông thì có Giám Viện (xưa là Tự Chủ, tục xưng là Đương Gia [當家]), Phó Tự (副寺, tức Tri Khố [知庫]), Duy Na, Duyệt Chúng (悅眾), Thị Giả, Trang Chủ, v.v. Ngoài ra, còn có một số chức vụ khác như Phạn Đầu (飯頭), Thái Đầu (菜頭), Hỏa Đầu (火頭), Thủy Đầu (水頭), Uyển Đầu (碗頭, tức Hành Đường [行堂]), Chung Đầu (鐘頭), Cổ Đầu (鼓頭), Môn Đầu (門頭), Viên Đầu (園頭), Dục Đầu (浴頭, hay Tri Dục [知浴]), Thanh Đầu (圊頭, hay Tịnh Đầu [淨頭]), Tháp Đầu (塔頭, hay Tháp Chủ [塔主]), Thọ Đầu (樹頭), Sài Đầu (柴頭), Ma Đầu (磨頭), Trà Đầu (茶頭), Thán Đầu (炭頭), Lô Đầu (爐頭), Oa Đầu (鍋頭), Dũng Đầu (桶頭), Đăng Đầu (燈頭), Tuần Sơn (巡山), Dạ Tuần (夜巡), Hương Đăng (香燈), Ty Thủy (司水), Chiếu Khách (照客), Thính Dụng (聽用), v.v. Các loại Chấp Sự kể trên được phân thành đẳng cấp rõ ràng, nhân viên Tri Sự thuộc cấp 1, nhân viên Chủ Sự là cấp 2, và nhân viên Đầu Sự là cấp 3. Dưới Phương Trượng, tổ chức căn bản có 4, gọi là Tứ Đại Đường Khẩu (四大堂口); gồm: (1) Thiền Đường (禪堂), là trung tâm của tùng lâm; (2) Khách Đường (客堂), nơi các chức ty tiếp đãi khách và nội vụ; (3) Khố Phòng (庫房), là nhà kho, nơi cất giữ các vật phẩm, v.v. (4) Y Bát Liêu (衣鉢寮), văn phòng sự vụ của Trú Trì Phương Trượng. Về chủng loại, căn cứ Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1565) quyển 15, phần Tùy Châu Trí Môn Quang Tộ Thiền Sư (隨州智門光祚禪師), có nêu ra 4 loại tùng lâm: (1) Chiên Đàn Tùng Lâm (栴檀叢林, tùng lâm thuần cây Chiên Đàn), (2) Kinh Cức Tùng Lâm (荊棘叢林, tùng lâm thuần cây gai), (3) Tùng lâm thuần cây gai mà có cây Chiên Đàn bao bọc, (4) Tùng lâm thuần cây Chiên Đàn mà có cây gai bao bọc. Đây là căn cứ theo loại cây gì trồng và bao bọc chung quang tùng lâm để phân loại. Hiện tại có 2 loại là Tử Tôn Tùng Lâm (子孫叢林, hay Pháp Môn Tùng Lâm [法門叢林]) và Thập Phương Tùng Lâm (十方叢林), v.v. Có nhiều điển tịch Thiền Tông liên quan đến hành sự trong tùng lâm cũng như phong quy của chư vị cổ đức, ngoại trừ các loại Cao Tăng Truyện (高僧傳), Tăng Bảo Truyện (僧寶傳) ra, còn có Nhập Chúng Nhật Dụng Thanh Quy (入眾日用清規, hay Nhập Chúng Nhật Dụng [入眾日用], 1 quyển, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1246) của Vô Lượng Tông Thọ (無量宗壽, ?-?), vị tăng của Phái Đại Huệ thuộc Lâm Tế Tông, sống dưới thời nhà Tống; Nhập Chúng Tu Tri (入眾須知, 1 quyển, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1247, không rõ soạn giả); Thiền Lâm Bị Dụng Thanh Quy (禪林僃用清規, 10 quyển, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1250) do Thích Nhất Hàm (釋弌咸) nhà Nguyên soạn; Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 1 quyển, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248) của Trung Phong Minh Bổn (中峰明本, 1263-1323), vị tăng của Phái Dương Kì và Phá Am thuộc Lâm Tế Tông, sống dưới thời nhà Nguyên; Tùng Lâm Lưỡng Tự Tu Tri (叢林兩序須知, 1 quyển, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1251), của Phí Ẩn Thông Dung (費隱通容, 1593-1661) vị tăng của Lâm Tế Tông, sống dưới thời nhà Minh, v.v. Ngoài ra, một số văn hiến quan trọng khác cùng loại như trên cũng có liên quan đến hành sự trong tùng lâm như Tùng Lâm Thạnh Sự (叢林盛事, 2 quyển, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1611) của Cổ Nguyệt Đạo Dung (古月道融, ?-?), vị tăng của Phái Hoàng Long thuộc Lâm Tế Tông, sống dưới thời nhà Tống; Tùng Lâm Công Luận (叢林公論, 1 quyển,卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1268) của Giả Am Huệ Lâm (者菴惠彬, ?-?) nhà Nam Tống; Lâm Nhàn Lục (林間錄, 2 quyển, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1624) của Giác Phạm Huệ Hồng (覺範慧洪, 1071-1128), vị tăng của Phái Hoàng Long thuộc Lâm Tế Tông, sống dưới thời nhà Tống; Thiền Lâm Bảo Huấn (禪林寶訓, 4 quyển, Taishō Vol. 48, No. 2022) của Tịnh Thiện (淨善) nhà Nam Tống; Sơn Am Tạp Lục (山庵雜錄, 2 quyển, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1616) của Vô Uấn (無慍), vị tăng của Thiên Thai Tông sống dưới thời nhà Minh, v.v. Trong Thiền Lâm Bảo Huấn (禪林寶訓, Taishō Vol. 48, No. 2022) quyển 4 có đoạn rằng: “Học giả bảo ư tùng lâm, tùng lâm bảo ư đạo đức, Trú Trì nhân vô đạo đức, tắc tùng lâm tương kiến kỳ phế hĩ (學者保於叢林、叢林保於道德、住持人無道德、則叢林將見其廢矣, học giả giữ gìn nơi tùng lâm, tùng lâm giữ gìn nơi đạo đức, vị Trú Trì không có đạo đức, thì tùng lâm sẽ gặp sự tàn phế vậy).”
(王會圖): tác phẩm do Diêm Lập Bổn (閻立本) soạn vào năm thứ 3 (629) niên hiệu Trinh Quán (貞觀) nhà Đường (唐太宗三年). Như trong Cựu Đường Thư (舊唐書) quyển 197 có đoạn rằng: “Trung Thư Thị Lang Nhan Sư Cổ tấu ngôn: 'Tích Chu Võ Vương thời, thiên hạ thái bình, viễn quốc quy khoản; Chu Sử nãi thư kỳ sự vi Vương Hội Thiên; kim vạn quốc lai triều, chí ư thử bối chương phục, thật khả đồ tả; kim thỉnh soạn vi Vương Hội Đồ (中書侍郎顏師古奏言、昔周武王時、天下太平、遠國歸款、周史乃書其事爲王會篇、今萬國來朝、至於此輩章服、實可圖寫、今請撰爲王會圖, xưa kia thời Chu Võ Vương, thiên hạ thái bình, các nước xa xôi cũng quy phục; sử nhà Chu mới ghi chép việc này thành Vương Hội Thiên; nay vạn quốc đều đến triều cống, cho đến lũ này cũng phải thần phục, thật nên vẽ chép nên; nay xin thỉnh soạn thành Vương Hội Đồ).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.125 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập