Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Chỉ có hai thời điểm mà ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Đó là lúc ta sinh ra đời và lúc ta nhắm mắt xuôi tay.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Chu Hy »»
(八卦): là khái niệm triết học cơ bản của Trung Quốc cổ đại. Nguyên lai có hai khái niệm khác nhau:
(1) Khái niệm gọi là “Vô Cực sanh Hữu Cực, Hữu Cực thị Thái Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng diễn Bát Quái, bát bát lục thập tứ quái (無極生有極、有極是太極、太極生兩儀、兩儀生四象、四象演八卦、八八六十四卦, Vô Cực sanh ra Hữu Cực, Hữu Cực là Thái Cực, Thái Cực sanh ra Lưỡng Nghi [tức âm và dương], Lưỡng Nghi sanh ra Tứ Tượng [tức Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm], Tứ Tượng diễn thành Bát Quái, tám tám sáu mươi bốn quẻ).” Đây được gọi là Phục Hy Bát Quái (伏羲八卦) hay còn gọi là Tiên Thiên Bát Quái (先天八卦).
(2) Là học thuyết càn khôn của Chu Văn Vương (周文王). Ông cho rằng trước có trời đất, trời đất giao nhau sinh ra vạn vật; Thiên là Càn (乾), Địa là Khôn (坤); còn lại 6 quẻ kia là các con của nhà vua. Quẻ Chấn (震) là con trai đầu, Khảm (坎) là con trai giữa, Cấn (艮) là con trai út, Tốn (巽) là con gái đầu, Ly (離) là con gái giữa, Đoài (兌) là con gái út. Đây được gọi là Văn Vương Bát Quái (文王八卦) hay Hậu Thiên Bát Quái (後天八卦). Thông thường phù hiệu Bát Quái được kết hợp với Thái Cực Đồ (太極圖), đại diện cho chân lý chung cực mang tính tín ngưỡng truyền thống của Trung Quốc—Đạo (道). Bát Quái được hình thành do ba vạch, thể hiện ý tượng theo thứ tự: tên quẻ, tự nhiên, tánh tình, gia đình, thân thể, phương vị. Càn (乾, ☰, Trời, khỏe mạnh, cha, đầu, Tây Bắc); Đoài (兌, ☱, đầm nước, vui mừng, thiếu nữ, Tây); Ly (離, ☲, lửa, tươi đẹp, gái giữa, miệng, Nam); Chấn (震, ☳, sấm sét, cử động, trưởng nam, chân, Đông); Tốn (巽, ☴, gió, đi vào, trưởng nữ, bắp đùi, Đông Nam); Khảm (坎, ☵, nước, vùi lấp, trai giữa, lỗ tai, Bắc); Cấn (艮, ☶, núi, dừng lại, thiếu nam, tay, Đông Bắc); Khôn (坤, ☷, đất, thuận hòa, mẹ, bụng, Tây Nam). Từ hình tượng phù hiệu của các quẻ như trên, Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Nam Tống đã đặt ra bài ca cho các em nhỏ dễ nhớ: “Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chấn ngưỡng vu, Cấn phú oản, Ly trung hư, Khảm trung mãn, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn (乾三連、坤六斷、震仰盂、艮覆碗、離中虛、坎中滿、兌上缺、巽下斷, quẻ Càn ba vạch nối liền, quẻ Khôn ba vạch đứt thành sáu đoạn, quẻ Chấn có hai vạch trên đứt đoạn, quẻ Cấn có hai vạch dưới đứt đoạn, quẻ Ly có vạch giữa đứt đoạn, quẻ Khảm có vạch giữa liền nhau, quẻ Đoài có vạch trên đứt đoạn, quẻ Tốn có vạch dưới đứt đoạn).”
Tại Trung Quốc, đồ hình Bát Quái thường được treo trước cửa nhà để trấn trừ tà ma, quỷ mị, bên trong có cái kính, gọi là “Chiếu Yêu Kính (照妖鏡).” Nó có ảnh hưởng đến các phương diện bói toán, phong thủy, y học, võ thuật, âm nhạc, v.v. Tại Việt Nam, tư tưởng Bát Quái cũng có ảnh hưởng và phổ cập trong dân gian. Trong tác phẩm Chu Dịch Dịch Chú (周易譯注) của Chu Chấn Phủ (周振甫) nhận định rằng Bát Quái có mối quan hệ giống như 4 nguyên tố hình thành vạn vật của Ấn Độ cũng như Hy Lạp cổ đại là đất, nước, gió và lửa. Ông cho rằng Bát Quái có thể phân thành 4 loại: đất hòa với núi tương thông, nước hòa với sông hồ tương thông, gió hòa với trời tương thông, lửa hòa với sấm sét tương thông. Hơn nữa, Bát Quái cũng có mối quan hệ rất mật thiết với Ngũ Hành (五行) của truyền thống Trung Quốc: Càn là trời, thuộc về Kim; Đoài là sông hồ, thuộc về Kim; Ly là lửa, thuộc về Hỏa; Chấn là sấm sét, thuộc về Mộc; Tốn là gió, thuộc về Mộc; Khảm là nước, thuộc về Thủy; Cấn là núi, thuộc về Thổ; Khôn là đất, thuộc về Thổ. Về mối quan hệ với Cửu Cung (九宮), Cửu Cung là 9 phương vị được quy định trong Lạc Thư (洛書). Nhìn chung, người ta thường lấy hậu thiên bát quái đặt vào phương vị trong Lạc Thư, hình thành nên cái gọi là Cửu Cung Bát Quái (九宮八卦). Tại Đài Loan rất thịnh hành thuyết Bái Quái này, như dưới thời nhà Thanh có xuất hiện Bát Quái Hội (八卦會), lãnh đạo nông dân khởi nghĩa và hiện tại vẫn còn địa danh Bát Quái Sơn (八卦山). Trong dân gian Việt Nam cũng rất thịnh hành một loại Bát Quái Đồ gọi là Bát Quái Đồ Trừ Tà, hay thường gọi là Bùa Bát Quái, người Tàu vẽ sẵn, bán ở các tiệm kiếng. Loại Bát Quái Đồ Trừ Tà này gồm các quẻ giống hệt Bát Quái Tiên Thiên, nhưng sắp thứ tự các quẻ theo chiều quay ngược lại. Trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 87 có đoạn liên quan đến Cửu Cung Bát Quái: “Tống Giang tùy tức điều khiển quân mã xuất thành, ly thành thập lí, địa danh Phương Sơn, địa thế bình thản, kháo sơn bàng thủy, bài hạ Cửu Cung Bái Quái trận thế, đẳng hầu gian, chỉ kiến Liêu binh phân cố tam đội nhi lai (宋江隨卽調遣軍馬出城、離城十裏、地名方山、地勢平坦、靠山傍水、排下九宮八卦陣勢、等候間、只見遼兵分做三隊而來, Tống Giang vâng lời liền điều khiển quân mã ra khỏi thành, rời thành được mười dặm, có vùng đất tên Phương Sơn, địa thế bằng phẳng, nương núi tựa sông, bèn bày trận thế Cửu Cung Bái Quái; chờ đợi một lúc, chỉ thấy quân Liêu chia thành ba đội tiến đến).”
(乾元): có mấy nghĩa. (1) Hình dung đức lớn của Thiên tử. Như trong Dịch Kinh (易經), quẻ thứ nhất Càn Vi Thiên (乾爲天) có lời Thoán (彖) rằng: “Đại tai Càn Nguyên, vạn vật tư thỉ, nãi thống thiên (大哉乾元、萬物資始、乃統天, lớn thay Càn Nguyên, muôn vật nhờ nó mà bắt đầu nảy nở, nên cai quản cả trời).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) nhà Đường giải thích rằng: “Càn thị quái danh, Nguyên thị Càn đức chi thủ (乾是卦名、元是乾德之首, Càn là tên quẻ, Nguyên là đứng đầu trong các đức của Càn).” Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Nam Tống cho biết thêm rằng: “Càn Nguyên, thiên đức chi đại thỉ (乾元、天德之大始, Càn Nguyên là khởi đầu cho đức lớn của trời).” Từ đó trở về sau, Càn Nguyên được dùng để hình dung cho đức độ to lớn của Thiên tử. (2) Chỉ cho Trời. Như trong Trần Thư (陳書), chương Cao Tổ Kỷ Thượng (高祖紀上) có câu: “Đại tai Càn Nguyên, tư nhật nguyệt dĩ trinh quán; chí tai khôn nguyên, bằng sơn xuyên dĩ tải vật (大哉乾元、資日月以貞觀、至哉坤元、憑山川以載物, lớn thay Càn Nguyên, lấy trinh quán [đạo lý chánh đại] để giúp đỡ trời trăng; lấy việc nâng đỡ muôn vật để nương tựa núi sông).” Hay trong bài Thái Giai Lục Phù Phú (泰階六符賦) của thi nhân Tiền Khởi (錢起, 710-782) nhà Đường cũng có câu: “Ký xuất một dĩ hậu quân đức, hựu huỳnh hoàng dĩ lệ Càn Nguyên (旣出沒以候君德、又熒煌以麗乾元, từng ẩn hiện để trông đợi đức của vua, lại tỏa sáng để làm đẹp Càn Nguyên [Trời]).” (3) Chỉ cho đế vương. Như trong Tấn Thư (晉書), phần Hiếu Võ Định Hoàng Hậu (孝武定皇后) của Hậu Kỷ Truyện Hạ (后妃傳下) có câu: “Đức phối Càn Nguyên, cung thừa tông miếu, huy âm lục cung, mẫu nghi thiên hạ (德配乾元、恭承宗廟、徽音六宮、母儀天下, đức hợp đế vương, nối dõi tông miếu, tiếng tốt sáu cung, mẫu nghi thiên hạ).” Hay trong bài thơ Môn Nhân Trần Thiên Thu Đẳng Sơ Lai Thảo Đường Vấn Học Thị Chư Tử (門人陳千秋等初來草堂問學示諸子) của Khang Hữu Vi (康有爲, 1858-1927) cũng có câu: “Quần long vô thủ thùy tri cát, tự hữu càn nguyên đại thống trường (群龍無首誰知吉、自有乾元大統長, nhóm rồng đầu chẳng ai biết tốt, tự có đế vương thống lãnh lâu).” (4) Chỉ cho nguyên khí, đại khí, hơi thở. Như trong bài thơ Cô Trúc Quân Chi Nhị Tử (孤竹君之二子) của Quách Mạt Nhược (郭沫若, 1892-1978) có câu: “Ngã phủ ngưỡng tại thiên địa chi gian hô hấp càn nguyên, tạo hóa đích tinh thần tại hung trung phún dũng (我俯仰在天地之間呼吸乾元,造化的精神在我胸中噴湧, ta cúi xuống ngẩng lên giữa trời đất hô hấp nguyên khí, tinh thần của tạo hóa ở trong lồng ngực tuôn trào ra).”
(行狀): là một thể loại văn chương ghi lại sơ lược tất cả những việc làm, sinh hoạt, quê quán, ngày tháng năm sinh và năm mất của một người nào đó; còn gọi là Hành Trạng Ký (行狀記), Hành Thuật (行述), Hành Thật (行實), Hành Nghiệp (行業), Hành Nghiệp Ký (行業記). Dưới thời nhà Hán thì gọi là Trạng, và từ thời nhà Nguyên trở về sau thì gọi là Hành Trạng. Nguồn gốc của Hành Trạng khởi đầu vào thời Đông Hán (東漢, 25-220), đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều (魏晉南北朝, 220-589) thì bắt đầu thịnh hành; được tìm thấy trong phần trích dẫn về hành trạng của chư vị hiền đi trước của Truyện Viên Thiệu (袁紹), Ngụy Chí (魏志) 6 thuộc Tam Quốc Chí (三國志); hay trong Truyện Vương Ẩn (王隱) của Tấn Thư (晉書) quyển 82, cho biết rằng Vương Ẩn lúc nhỏ rất thích học, có chí viết ký thuật, thường ghi chép lại những sự việc nhà Tấn cũng như hành trạng của chư vị công thần. Có một số ký thuật hành trạng nổi tiếng qua các triều đại của Trung Quốc. Tỷ dụ như dưới thời nhà Đường (唐, 618-907) có Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀), 1 quyển, không rõ tác giả; Đổng Tấn Hành Trạng (董晉行狀) của Hàn Dũ (韓愈, 768-824); Hàn Lại Bộ Hành Trạng (韓吏部行狀) của Lý Cao (李翱, 774-836), v.v. Thời nhà Tống (宋, 960-1279) có Tư Mã Ôn Công Hành Trạng (司馬溫公行狀) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101); Phó Anh Châu Khất Đan Hành Trạng (赴英州乞舟行狀) cũng của Tô Thức; Minh Đạo Tiên Sinh Hành Trạng (明道先生行狀) của Trình Di (程頤, 1033-1107); Hoàng Khảo Lại Bộ Chu Công Hành Trạng (皇考吏部朱公行狀) của Chu Hy (朱熹, 1130-1200); Trương Ngụy Công Hành Trạng (張魏公行狀) của Chu Hy; Triều Phụng Đại Phu Văn Hoa Các Đãi Chế Tặng Bảo Mô Các Trực Học Sĩ Thông Nghị Đại Phu Thụy Văn Chu Tiên Sinh Hành Trạng (朝奉大夫文華閣待制贈寶謨閣直學士通議大夫諡文朱先生行狀) của Hoàng Càn (黃乾, 1152-1221), v.v. Thời nhà Nguyên (元, 1206-1368) có Cao Phong Thiền Sư Hành Trạng (高峰禪師行狀) của Triệu Mạnh Phủ (趙孟頫, 1254-1322). Dưới thời nhà Minh (明, 1368-1662) thì có Thành Ý Lưu Công Cơ Hành Trạng (誠意伯劉公基行狀) của Hoàng Bá Sanh (黃伯生, ?-?); Tự Tự Tiên Thế Hành Trạng (自敘先世行狀) của Hoàng Tá (黃佐, 1490-1566); Viên Trung Lang Hành Trạng (袁中郎行狀) của Viên Trung Đạo (袁中道, 1570-1623), v.v. Thời nhà Thanh (清, 1616-1911) có Ngô Đồng Sơ Hành Trạng (吳同初行狀) của Cố Viêm Võ (顧炎武, 1613-1682). Về hành trạng của Phật Giáo, trong Nghệ Văn Chí (藝文志) của Tân Đường Thư (新唐書) quyển 59 có Tăng Già Hành Trạng (僧伽行狀) do Tân Sùng (辛崇) soạn, 1 quyển; trong Thiên Tăng Hành (僧行篇) của Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集) quyển 23 có phần Chư Tăng Luy Hành Trạng (諸僧誄行狀). Trong Đại Tạng Kinh của Phật Giáo có Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀, Taishō Vol. 50, No. 2052), 1 quyển; Huyền Tông Triều Phiên Kinh Tam Tạng Thiện Vô Úy Tặng Hồng Lô Khanh Hành Trạng (玄宗朝翻經三藏善無畏贈鴻臚卿行狀, Taishō Vol. 50, No. 2055), do Lý Hoa (李華) soạn, 1 quyển; Đại Đường Cố Đại Đức Tặng Tư Không Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không Tam Tạng Hành Trạng (大唐故大德贈司空大辨正廣智不空三藏行狀, Taishō Vol. 50, No. 2056) do Triệu Thiên (趙遷) soạn, 1 quyển; Đại Đường Thanh Long Tự Tam Triều Cúng Phụng Đại Đức Hành Trạng (大唐青龍寺三朝供奉大德行狀, Taishō Vol. 50, No. 2057, không rõ tác giả), 1 quyển, v.v. Trong Kim Thạch Tụy Biên (金石萃編) quyển 134 có Truyền Ứng Pháp Sư Hành Trạng (傳應法師行狀); Tục Kim Thạch Tụy Biên (續金石萃編) quyển 17 có Chiêu Hóa Tự Chính Thiền Sư Hành Trạng (昭化寺政禪師行狀), v.v.
(學士): có mấy nghĩa. (1) Chỉ chung cho những người đọc sách bình thường. Như trong Bão Phác Tử (抱樸子), Phần Sùng Giáo (崇敎), của Cát Hồng (葛洪, 284-363) nhà Tấn, có câu: “Tỉnh văn chương ký bất hiểu, đỗ học sĩ như thảo giới (省文章旣不曉、睹學士如草芥, xét văn chương đã không hiểu, xem người đọc sách như cỏ rác).” (2) Giống như học giả. Như trong tác phẩm Thiếu Thất Sơn Phòng Bút Tùng (少室山房筆叢), phần Hoa Dương Bác Nghị Hạ (華陽博議下), của Hồ Ứng Lân (胡應麟, 1551-1602) nhà Minh, có đoạn: “Giới Phủ, Nguyên Hối tự thị học sĩ, bất đắc dĩ sở trường một chi (介甫、元晦自是學士、不得以所長沒之, Giới Phủ [tức Vương An Thạch, 1021-1086], Nguyên Hối [tức Chu Hy, 1130-1200] tự là học giả, không được để cho sở trường mất đi).” (3) Tên một chức quan. Từ thời Nam Bắc Triều (南北朝, 420-589) trở về sau, Học Sĩ được xem như là chức quan chuyên trách về soạn thuật văn học. Dưới thời nhà Đường (唐, 618-907), chức này được gọi là Hàn Lâm Học Sĩ (翰林學士), vì tiếp cận với Hoàng Đế, nên thỉnh thoảng có tham dự việc triều chính. Đến thời nhà Tống (宋, 960-1279), chức quan này được thiết định rõ ràng, chức quyền và địa vị cũng tương đồng với thời nhà Đường. Sang thời nhà Minh (明, 1368-1662) thì cho thiết lập các chức như Hàn Lâm Viện Học Sĩ (翰林院學士), Hàn Lâm Viện Thị Độc (翰林院侍讀), Thị Giảng Học Sĩ (侍講學士). Đến thời nhà Thanh (清, 1616-1911) thì đổi Hàn Lâm Viện Học Sĩ thành Chưởng Viện Học Sĩ (掌院學士). Trong Lịch Đại Tam Bảo Ký (歷代三寶紀, Taishō Vol. 49, No. 2034) quyển 1 có đoạn: “Khai Hoàng thập thất niên Phiên Kinh Học Sĩ thần Phí Trường Phòng (開皇十七年翻經學士臣費長房, năm Khai Hoàng 17 [597], thần Phí Trường Phòng, Học Sĩ Phiên Dịch Kinh Điển).” (4) Tên một loại học vị.
(廬山): ngọn đại hùng phong nổi tiếng nằm ở phía bắc Tỉnh Giang Tây (江西省), Trung Quốc; là chốn danh lam thắng cảnh đã được hàng ngàn bậc văn đàn cự tượng đến tham quan như Tư Mã Thiên (司馬遷), Đào Uyên Minh (陶淵明), Lý Bạch (李白), Bạch Cư Dị (白居易), Tô Thức (蘇軾), Vương An Thạch (王安石), Hoàng Đình Kiên (黃庭堅), Lục Du (陸游), Chu Hy (朱熹), Khang Hữu Vi (康有為), Hồ Thích (胡適), Quách Mạt Nhược (郭沫若), v.v.
(須至): có 2 nghĩa. (1) Cần phải, nhất định. Như trong bài Nhân Vật Ngâm (人物吟) của Thiệu Ung (邵雍, 1011-1077) nhà Tống có câu: “Nhân phá tu chí hộ, vật phá tu chí bổ (人破須至護、物破須至補, người phá cần phải giúp đõ, vật phá cần phải tu bổ).” (2) Thời xưa, đây là từ được dùng theo tập quán ở câu kết của các công văn cũng như chấp chiếu. Như trong bài Giảm Mộc Thán Tiền Hiểu Dụ (減木炭錢曉諭) của Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Tống có câu: “Thiết khủng hương thôn nhân hộ vị năng thông tri, tu chí tán bảng hiểu thị giả (竊恐鄉村人戶未能通知、須至散榜曉示者, e rằng người trong thôn làng chưa được thông báo, cho nên dán bảng khắp nơi thông báo rõ).” Trong tác phẩm Thông Tục Biên (通俗編), phần Chính Trị (政治), Trạch Hạo (翟灝, ?-?) nhà Thanh giải thích rõ rằng: “Tu chí, kim công văn trung tập vi định thức, vấn kỳ nghĩa, tắc vô năng ngôn chi (須至、今公文中習爲定式、問其義、則無能言之, từ 'tu chí', nay trong công văn đã quen thành thể thức nhất định, nếu hỏi nghĩa của nó, thì không thể nói được).” Như vậy, trong công văn, thuật ngữ “tu chí” này đôi khi được dùng như thói quen và không có nghĩa gì cả.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập