Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Hạnh phúc là khi những gì bạn suy nghĩ, nói ra và thực hiện đều hòa hợp với nhau. (Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.)Mahatma Gandhi
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Chiên Đàn »»
(眞相): tức bản tướng (本相, hình tướng gốc), thật tướng (實相, hình tướng thật), bản lai diện mục (本來面目, mặt mũi xưa nay) của sự vật, vạn pháp. Trong Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh Chú Giải (楞伽阿跋多羅寶經註解, Taishō Vol. 39, No. 1789) quyển 1 định nghĩa rằng: “Chơn tướng giả, tùy duyên bất biến, thể tánh chơn tịnh dã (眞相者、隨緣不變、體性眞淨也, chơn tướng là tùy duyên không thay đổi, thể tánh trong sạch).” Hay trong Tục Thanh Lương Truyện (續清涼傳, Taishō Vol. 51, No. 2100) quyển Hạ có đoạn: “Thứ nhật, cúng dường chơn dung cập chư Thánh tượng dĩ; ngọ hậu, hiện Bồ Tát đại chơn tướng, ư bạch vân chi đoan (次日、供養眞容及諸聖像己、午後、現菩薩大眞相、於白雲之端, ngày hôm sau, khi cúng dường chơn dung và các tượng Thánh xong; sau buổi trưa, hiện hình tướng thật to lớn của Bồ Tát, nơi đầu đám mây trắng).” Hoặc trong Vi Lâm Thiền Sư Lữ Bạc Am Cảo (爲霖禪師旅泊菴稿, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1442) quyển 4, bài Thế Tôn Chiên Đàn Thụy Tượng Tán (世尊旃檀瑞像贊), lại có câu: “Như Lai chơn tướng nguyên vô tướng, xảo tượng như hà khắc đắc thành (如來眞相原無相、巧匠如何刻得成, Như Lai chơn tướng vốn không tướng, thợ khéo làm sao khắc được thành).”
(鐘、鍾): chuông; tên một loại pháp khí được dùng trong các tự viện Phật Giáo để báo thì giờ, tập trung tăng chúng. Tại Ấn Độ, khi triệu tập tăng chúng, người ta thường đánh loại Kiền Chùy (s: ghaṇṭā, 揵椎) bằng gỗ. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) quyển 24 có ghi lại việc đức Phật dạy tôn giả a nan đánh Kiền Chùy để tập trung đại chúng: “Nhữ kim ư lộ địa tốc kích Kiền Chùy, sở dĩ nhiên giả ? Kim thất nguyệt thập ngũ nhật thị thọ tuế chi nhật (汝今於露地速擊揵椎、所以然者、今七月十五日是受歲之日, các ngươi nay ở nơi đất trống mau đánh Kiền Chùy, vì cớ sao vậy ? Vì hôm nay ngày 15 tháng 7 là ngày nhận thêm tuổi).” Chuông có hai loại chính: Phạn Chung (梵鐘) và Hoán Chung (喚鐘). (1) Phạn Chung, còn gọi là Đại Chung (大鐘, chuông lớn), Điếu Chung (釣鐘), Chàng Chung (撞鐘), Hồng Chung (洪鐘), Kình Chung (鯨鐘), Bồ Lao (蒲牢), Hoa Kình (華鯨), Hoa Chung (華鐘), Cự Chung (巨鐘), v.v.; thông thường cao khoảng 150 cm, đường kính khoảng 60 cm; được treo trên lầu chuông, dùng để triệu tập đại chúng, hay để báo thời khắc sáng tối. Phần trên của Phạn Chung có đầu rồng, được gọi là điếu thủ (釣手, tay câu). Phần bên dưới có hình hai tòa hoa sen tương đối, được gọi là bát diệp (八葉, tám cánh). Trong Thiền lâm, chuông này được dùng để thông báo thời gian Tọa Thiền vào đầu đêm, nên có tên là Định Chung (定鐘); hay để thông báo đại chúng vào Tăng Đường, được gọi là Nhập Đường Chung (入堂鐘). Về ngữ nghĩa Bồ Lao, Lý Thiện (李善, 630-689), học giả thời nhà Đường, có chú dẫn lời của Tiết Tông (薛綜, ?-243) nhà Ngô thời Tam Quốc rằng: “Hải trung hữu đại ngư viết Kình, hải biên hựu hữu thú danh Bồ Lao; Bồ Lao tố úy Kình, Kình ngư kích Bồ Lao, triếp dại minh; phàm chung dục linh thanh đại giả, cố tác Bồ Lao ư thượng, sở dĩ chàng chi giả vi Kình ngư (海中有大魚曰鯨、海邊又有獸名蒲牢、蒲牢素畏鯨、鯨魚擊蒲牢、輒大鳴、凡鐘欲令聲大者、故作蒲牢於上、所以撞之者爲鯨魚, trong biển có con cá lớn gọi là Kình, ven biển lại có con thú tên là Bồ Lao; Bồ Lao chẳng sợ cá Kình, cá Kình đánh Bồ Lao, thường tạo ra tiếng vang lớn; hễ chuông muốn có âm thanh lớn thì nên tạc hình con Bồ Lao lên trên, vì vậy vật để đánh chuông là cá Kình).” Cho nên, đùi đánh chuông thường được khắc hình con cá Kình. Theo Thăng Am Ngoại Tập (升庵外集) quyển 95 của Dương Thận (楊愼, 1488-1559) nhà Minh cho biết rằng tục truyền rồng sinh ra chín con, con thứ ba tên là Bồ Lao, hình như con rồng nhưng nhỏ; và nay chính là hình con rồng trên đầu chuông. (2) Hoán Chung, còn gọi là Bán Chung (半鐘, chuông bằng một nữa), Tiểu Chung (小鐘, chuông nhỏ); thông thường cao khoảng 60 đến 80 cm, dùng để thông báo bắt đầu tiến hành pháp hội, v.v., nên được gọi là Hành Sự Chung (行事鐘). Tại Trung Quốc, từ xưa đã có chế tạo chuông bằng đồng, nhưng không rõ nguồn gốc. Trong Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 28 cho biết rằng vào năm 566 (Thiên Hòa [天和] thứ 5) nhà Bắc Chu, có bài Chu Võ Đế Nhị Giáo Chung Minh (周武帝二敎鐘銘); Đường Thái Tông Đại Hưng Thiện Tự Chung Minh (唐太宗大興善寺鐘銘); Đường Đông Cung Hoàng Thái Tử Tây Minh Tự Chung Minh (唐東宮皇太子西明寺鐘銘), v.v. Theo Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, Truyện Trí Hưng (智興傳), vào năm 609 (Đại Nghiệp [大業] thứ 5) nhà Tùy, trong khi trú tại Thiền Định Tự (禪定寺) ở Kinh Sư, Trí Hưng đã từng giữ chức Thời Chung. Theo thông tin trên, việc tạo lập Phạn Chung từ thời Bắc Chu trở đi đã bắt đầu thịnh hành. Ngoài ra, chuông ở Hàn Sơn Tự (寒山寺), Tô Châu (蘇州), nhờ bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊) của thi nhân Trương Kế (張繼, ?-779) nhà Đường mà trở nên nổi tiếng. Căn cứ vào tác phẩm Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Ký (入唐求法巡禮記) quyển 3 của Viên Nhân (圓仁, Ennin, 794-864), vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường cầu pháp, tại Ngũ Đài Sơn (五臺山) có hang lầu chuông với chuông vàng, lầu báu, là nơi Bồ Tát Văn Thù thường thị hiện. Tại Nhật Bản, hiện còn lưu lại một số chuông được đưa từ Trung Quốc vào, như chuông ở Vũ Tá Thần Cung (宇佐神宮, Usa Jingū) vùng Phong Tiền (豐前, Buzen); ở Ba Thượng Cung (波上宮, Nami-no-uegū) vùng Lưu Cầu (琉球, Ryūkyū); ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi), v.v.; chuông hiện tồn tối cổ được đúc vào năm 698 (Văn Võ Thiên Hoàng [文武天皇] thứ 2), và bảo lưu tại Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), Kyoto. Chuông đối với việc tu hành có công đức rất lớn và đóng vài trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống tâm linh của tín đồ Phật Giáo. Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, phần Chuông, có giải thích rằng: “Đại Chung, tùng lâm hiệu lịnh tư thỉ dã, hiểu kích tắc phá trường dạ cảnh thùy miên, mộ kích tắc giác hôn cù sơ minh muội (大鍾、叢林號令資始也、曉擊則破長夜警睡眠、慕擊則覺昏衢疏冥昧, chuông lớn là vật khởi đầu hiệu lịnh trong tùng lâm; đánh buổi sáng thì phá tan sự đêm dài, đánh thức ngủ say; đánh buổi tối thì làm tỉnh thức con đường mê muội, tối tăm).” Trong Sa Di Luật Nghi Tỳ Ni Nhật Dụng Hợp Tham (沙彌律儀毗尼日用合參, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1120) lại dạy rằng: “Hồng chung chấn hưởng giác quần mê, thanh biến thập phương vô lượng độ, hàm thức quần sanh phổ văn tri, bạt trừ chúng sanh trường dạ khổ, Lục Thức thường hôn chung dạ khổ, vô minh bị phú thức mê tình, tĩnh dạ văn chung khai giác ngộ, di thần tịnh sát đắc thần thông (洪鐘震響覺群迷、聲遍十方無量土、含識群生普聞知、拔除眾生長夜苦、六識常昏終夜苦、無明被覆識迷情、靜夜聞鐘開覺悟、怡神淨剎得神通, Hồng chung vang vọng tỉnh quần mê, tiếng khắp mười phương vô lượng cõi, nhận thức quần sanh khắp nghe biết, đoạn trừ chúng sanh đêm dài khổ, Sáu Thức thường mờ suốt đêm khổ, vô minh che lấp cõi mê tình, đêm lắng nghe chuông bày giác ngộ, hân hoan trong sạch chứng thần thông).” Lại nữa, trong Thích Môn Chánh Thống (釋門正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1513) quyển 4 có dẫn lời dạy của Kinh Tăng Nhất A Hàm rằng: “Nhược đả chung thời, nhất thiết ác đạo chư khổ, tinh đắc đình chỉ (若打鐘時、一切惡道諸苦、幷得停止, nếu khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ của đường ác, đều được dừng lại).” Trong Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện (付法藏因緣傳, Taishō Vol. 50, No. 2058) quyển 5 có ghi lại câu chuyện quốc vương nước Nguyệt Chi (月支) là Chiên Đàn Kế Nặc Tra (栴檀罽昵吒) cùng giao chiến với nước An Tức (安息), sát hại 9 ức người. Do vì nhân ác đó, nhà vua sau khi chết bị đọa làm thân con cá có ngàn cái đầu, vòng kiếm quay quanh thân chém đứt từng đầu, nhưng rồi lại sanh ra đầu khác; đau đớn vô cùng, không thể nào kể xiết. Tuy nhiên, mỗi khi nghe tiếng chuông thì vòng kiếm kia dừng lại; cho nên nhà vua cầu xin vị La Hán thường xuyên đánh chuông. Vị này thương xót, đánh chuông liên tục trong vòng 7 ngày thì không còn chịu khổ nữa. Trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, phần Đường Kinh Sư Đại Trang Nghiêm Tự Thích Trí Hưng Truyện (唐京師大莊嚴寺釋智興傳) có đề cập đến câu chuyện người anh của sư trên đường cùng với nhà vua đến Bành Thành (彭城) thì đột nhiên qua đời giữa đường. Người này về báo mộng cho vợ biết rằng mình đã chết, nay đọa xuống Địa Ngục, chịu khổ báo vô cùng, nên bảo rằng: “Lại dĩ kim nguyệt sơ nhật mông Thiền Định Tự tăng Trí Hưng minh chung phát thanh hưởng chấn Địa Ngục, đồng thọ khổ giả nhất thời giải thoát (賴以今月初日蒙禪定寺僧智興鳴鍾發聲響振地獄、同受苦者一時解脫, vào ngày mồng một tháng này, nhờ tăng sĩ Trí Hưng ở Thiền Định Tự đánh chuông phát ra tiếng vang chấn động Địa Ngục, khiến cho người chịu khổ nhất thời được giải thoát).” Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 1 ghi lại câu chuyện vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅) nhận lời thỉnh cầu của con rồng ác, kiến lập chùa chiền, đánh chuông và nhờ đó mà tâm sân hận của rồng được tiêu tan. Vì tầm quan trọng của tiếng chuông như vậy, trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký (毗尼日用切要香乳記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1116) trích dẫn lời dạy của Tạp Thí Dụ Kinh (雜譬喻經) về thái độ của người nghe chuông: “Sở tại văn chung thanh, ngọa giả tất tu khởi, hiệp chưởng phát thiện tâm, hiền thánh giai hoan hỷ (所在聞鐘聲、臥者必須起、合掌發善心、賢聖皆歡喜, nơi mình nghe tiếng chuông, người nằm phải nên dậy, chấp tay phát thiện tâm, hiền thánh đều hoan hỷ).” Cũng điển tịch này có dẫn lời của cổ đức rằng: “Văn chung ngọa bất khởi, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, hậu thế đọa xà thân (聞鐘臥不起、護法善神嗔、現前減福慧、後世墮蛇身, nghe chuông nằm không dậy, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, đời sau đọa rắn thân).” Trong Thiền môn có các bài kệ nguyện chuông rất phổ biến như: “Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết Vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sanh thành chánh giác (願此鐘聲超法界、鐵圍幽暗悉皆聞、聞塵清淨證圓通、一切眾生成正覺, nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới, Thiết Vi tăm tối thảy đều nghe, nghiệp trần trong sạch chứng viên thông, tất cả chúng sanh thành chánh giác).”; hay “Văn chung thanh phiền não khinh, trí huệ trưởng bồ đề sinh, ly Địa Ngục xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật độ chúng sinh (聞鐘聲煩惱輕、智慧長菩提生、離地獄出火坑、願成佛度眾生, nghe tiếng chuông phiền não tan, trí huệ lớn bồ đề sanh, lìa Địa Ngục ra hỏa than, nguyện thành Phật độ chúng sanh).” Theo nghiên cứu cho thấy rằng trong bộ Toàn Đường Thi (全唐詩) cũng như Toàn Đường Thi Bổ Biên (全唐詩補編), có gần 1100 câu thơ về tiếng chuông, về Phạn Chung có 300 câu, cho ta thấy tầm quan trọng của tiếng chuông chùa như thế nào. Xin giới thiệu một số tác phẩm liên quan đến tiếng chuông như sau. Trong bài Trường Thọ Tự Xán Công Viện Tân Trứu Tỉnh (長壽寺粲公院新甃井) của Lý Kì (李頎, 690-751) có đoạn: “Tăng phòng lai trú cửu, lộ tỉnh mỗi đồng quan, bạch thạch bảo tân trứu, thương đài y cựu lan, không bình uyển chuyển hạ, trường cảnh lộc lô bàn, cảnh giới nhân tâm tịnh, tuyền nguyên kiến để hàn, chung minh thời quán đảnh, đối thử nhật nhàn an (僧房來往久、露井每同觀、白石抱新甃、蒼苔依舊欄、空瓶宛轉下、長綆轆轤盤、境界因心淨、泉源見底寒、鐘鳴時灌頂、對此日閒安, tăng phòng đến đây ở, giếng nước ngày mỗi xem, đá trắng che mặt giếng, rêu xanh vẫn lan cùng, gàu nước buông thong thả, dây dài theo trục xoay, cảnh giới theo tâm lắng, suối nguồn tận đáy trong, chuông ngân dài quán đảnh, đối diện ngày an nhàn).” Trương Kế có làm bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊): “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, giang phong ngư hỏa đối sầu miên, Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (月落烏啼霜滿天、江楓漁火對愁眠、姑蘇城外寒山寺、夜半鐘聲到客船, trăng tà chiếc quạ kêu sương, lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ, thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông Chùa Hàn San).” Như trong Vãn Đường Chung Thanh (晚唐鐘聲) của Phó Đạo Bân (傅道彬) có nêu một đoạn trong bài thơ Du Long Môn Phụng Tiên Tự (遊龍門奉先寺) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770): “Dĩ tùng Chiêu Đề du, cánh túc Chiêu Đề cảnh, âm hác sanh hư lại, nguyệt lâm tán thanh ảnh, thiên khuyết tượng vĩ bức, vân ngọa y thường lãnh, dục giác văn thần chung, linh nhân phát thâm tỉnh (已從招提遊、更宿招提境、陰壑生虛籟、月林散清影、天闕象緯逼、雲臥衣裳冷、欲覺聞晨鐘、令人發深省, từ độ thăm Chiêu Đề, lại luyến cảnh Chiêu Đề, hang tối vang tiếng vọng, rừng trăng bóng tỏ mờ, cổng trời bóng voi hiện, mây nằm áo lạnh băng, muốn dậy nghe chuông sớm, khiến người tỉnh thức sâu).” Trong bài Kinh Thiếu Lâm Tinh Xá Ký Đô Ấp Thân Hữu (經少林精舍寄都邑親友) của Vi Ứng Vật (韋應物, 737-792) có câu: “Xuất hi thính vạn lại, nhập lâm trạc u tuyền, minh chung sanh đạo tâm, mộ khánh không vân yên (出巘聽萬籟、入林濯幽泉、鳴鐘生道心、暮磬空雲煙, ra hang vạn dây vướng, vào rừng rửa suối thiêng, chuông ngân sanh đạo tâm, khánh chiều mây khói quyện).” Lô Luân (盧綸, 739-799) có làm bài Thù Quý Đoan Công Dã Tự Bệnh Cư Kiến Ký (酬李端公野寺病居見寄): “Dã tự chung hôn sơn chánh âm, loạn đằng cao trúc thủy thanh thâm, điền phu tựu hướng hoàn y thảo, dã trĩ kinh phi bất quá lâm, trai mộc tạm tư đồng tĩnh thất, thanh luy dĩ giác trợ Thiền tâm, tịch mịch nhật trường thùy vấn tật, liệu quân duy thủ cổ phương tầm (野寺鐘昏山正陰、亂藤高竹水聲深、田夫就餉還依草、野雉驚飛不過林、齋沐暫思同靜室、清羸已覺助禪心、寂寞日長誰問疾、料君惟取古方尋, chùa hoang chuông chiều núi tỏa râm, dây leo trúc bám tiếng nước trầm, nông phu cất bước theo lối cỏ, gà đồng kinh hoảng bay qua rừng, chay tịnh ưu tư cùng tịnh thất, gầy xanh mới rõ ấy Thiền tâm, vắng lặng tháng ngày ai hỏi bệnh, khuyên người thôi chớ nhọc công tìm).” Hay trong bài Du Vân Tế Tự (遊雲際寺) của Chương Hiếu Tiêu (章孝標) có câu: “Vân lãnh phù danh khứ, chung chàng đại mộng tỉnh, mang mang sơn hạ sự, mãn nhãn tống lưu bình (雲領浮名去、鐘撞大夢醒、茫茫山下事、滿眼送流萍, mây núi phù danh bỏ, chuông ngân đại mộng tỉnh, mênh mang chuyện đời mặc, trước mắt bèo dạt trôi).” Trong bài Tặng Thiên Khanh Tự Thần Lượng Thượng Nhân (贈天卿寺神亮上人) của Triệu Hỗ (趙嘏, 806-853) cũng có đề cập đến tiếng chuông: “Ngũ khán xuân tận thử giang phần, hoa tự phiêu linh nhật tự huân, không hữu từ bi tùy vật niệm, dĩ vô tung tích tại nhân quần, nghênh thu nhật sắc diêm tiền kiến, nhập dạ chung thanh trúc ngoại văn, tiếu chỉ bạch liên tâm tự đắc, thế gian phiền não thị phù vân (五看春盡此江濆、花自飄零日自曛、空有慈悲隨物念、已無蹤跡在人群、迎秋日色簷前見、入夜鐘聲竹外聞、笑指白蓮心自得、世間煩惱是浮雲, năm bận đón xuân nơi bến sông, ngày nắng chói chan hoa phiêu bồng, không tâm từ bi theo vật nhớ, đã chẳng dấu tích chốn nhân quần, đón thu ngày mới trước thềm thấy, đêm về chuông vọng trúc ngoài vang, cười chỉ trắng sen lòng tự đắc, thế gian phiền não ấy phù vân).” Hay như trong bài Quá Hương Tích Tự (過香積寺) của Vương Duy (王維, ?-761) cũng vậy: “Bất tri Hương Tích Tự, sổ lí nhập vân phong, cổ mộc vô nhân kính, thâm sơn hà xứ chung, tuyền thanh yến nguy thạch, nhật sắc lãnh thanh tùng, bạc mộ không đàm khúc, an Thiền chế độc long (不知香積寺、數里入雲峰、古木無人逕、深山何處鐘、泉聲咽危石、日色冷青松、薄暮空潭曲、安禪制毒龍, nào hay Hương Tích Tự, mấy dặm trong mây rừng, cây xưa không người bước, núi sâu chuông chốn nào, tiếng suối ngâm lòng đá, ngày lên lạnh tùng xanh, chiều buông trên hồ vắng, tọa Thiền chế độc long).” Tại Tây Hồ, Hàng Châu có 2 ngôi danh lam là Tịnh Từ Tự (淨慈寺) và Linh Ẩn Tự (靈隱寺). Ở Tịnh Từ Tự có một đại hồng chung rất nổi tiếng, nơi nhà bia an trí chuông có bút tích của vua Khang Hy với dòng chữ: “Nam Bình Vãn Chung (南屏晚鐘, Chuông Chiều Nam Bình).” Thi sĩ Trương Đại (張岱, ?-?) nhà Đường có làm bài thơ để diễn tả sự xuất thần nhập hóa của tiếng chuông chùa này như sau: “Dạ khí ổng Nam Bình, khinh phong bạc như chỉ, chung thanh xuất thượng phương, dạ độ không giang thủy (夜氣滃南屏、輕風薄如紙、鐘聲出上方、夜渡空江水, màn đêm trùm khắp Nam Bình, gió nhè nhẹ thổi như hình giấy manh, tiếng chuông vút tận trời xanh, buông vào đêm vắng sông thanh nghìn trùng).” Sau này dân gian vẫn có câu: “Ngọc Bình thanh chướng mộ yên phi, cam điện chung thanh lạc thúy vi (玉屏青嶂暮煙飛、紺殿鐘聲落翠微, Ngọc Bình mây khói chiều lặng bay, điện báu chuông chùa rụng sương chầy).” Về phía Việt Nam, cũng có khá nhiều bài thơ nói về tiếng chuông, như trong bài Cảnh Chùa Đọi của Nguyễn Khuyến (阮勸, 1835-1909) có đoạn: “Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá, sư cụ nằm chung với khói mây, chuông trưa vẳng tiếng người không biết, trâu thả sườn non ngủ gốc cây.” Trong bài Vịnh Hà Trung Tự Thi (詠河中寺詩) của Hòa Thượng Thạch Liêm (石濂, 1633-1702) cũng có đoạn diễn tả như sau: “Lục liễu thùy thùy ẩn Phạm cung, chung thanh điều đệ mãn hà phong, trúc li thảo kính phù lam yểm, thạch hác hà lâu đảo ảnh không (綠柳垂垂隠梵宮、鐘聲迢遞滿河風、竹籬草徑浮嵐掩、石壑霞樓倒影空, nép bóng chùa xưa liễu xanh non, tiếng chuông xa vẳng theo gió sông, lối cỏ bờ trúc mây khói phủ, hang đá lầu chiều bóng nghiêng lồng).” Tục ngữ dân gian Việt Nam thường có câu: “Đánh tan tục lụy hồi chuông sớm, gõ nát trần tâm tiếng mõ trưa”; hay “Gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Sương, mịt mù khói toả ngàn sương, nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.” Hòa Thượng Giác Tiên (1880-1936), Tổ khai sáng Chùa Trúc Lâm (竹林寺), Huế, có câu thơ: “Tuần diêm thanh khánh sao minh nguyệt, nhiễu thọ sơ chung khấu bích thiên (巡簷清磬敲明月、繞樹疏鐘扣碧天, tiếng khánh quanh nhà lay trăng sáng, cùng cây chuông sớm gõ trời xanh).” Cố Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997), nguyên trú trì và khai sơn Hồng Ân Ni Tự (鴻恩尼寺) tại Huế, cũng có lưu lại bài thơ ca ngợi về nét Thiền vị của chùa Trúc Lâm như sau: “Bước đến Trúc Lâm luống chạnh lòng, chuông chùa tiếng dội khắp rừng thông, trông lên bảo tháp mây quang đãng, ngó xuống ao sen cá vẫy vùng, cảnh tịnh soi tâm tâm cũng tịnh, nước trong trăng chiếu bóng thường trong, cảnh này nếu được đem thêu vẽ, tỏa rạng ngàn năm nét Đại Hùng.”
(檀林, danrin): nguyên lai, nó là từ gọi tắt của Chiên Đàn Lâm (旃檀林), nơi chúng tăng hòa hợp, tập trung tu hành; thường chỉ cho tự viện; cho nên nó cũng là tên gọi khác của tự viện Phật Giáo. Về sau, nó trở thành cơ sở học vấn của Phật Giáo, vì tính chất cũng như cơ năng của nó giống như Học Lâm (學林), Học Liêu (學寮). Tại Nhật Bản, Đàn Lâm Viện (檀林院) được xây dựng vào năm thứ 3 (853) niên hiệu Nhân Thọ (仁壽) được xem như là tiền thân đầu tiên của Đàn Lâm. Đến thời đại Đức Xuyên (德川, Tokugawa), các tông phái bắt đầu thiết kế những cơ sở học vấn Đàn Lâm và Quan Đông Thập Bát Đàn Lâm (關東十八檀林, 18 cơ sở học vấn Đàn Lâm ở vùng Quan Đông) là tiêu biểu, nổi tiếng nhất. Riêng Tào Động Tông, trong khuôn viên của Cát Tường Tự (吉祥寺, Kichijō-ji) ở Giang Hộ (江戸, Edo) có Chiên Đàn Lâm với rất nhiều tăng chúng đến tham học. Tương truyền đến năm thứ 3 (1774) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), nơi đây có đến 641 người. Khoảng vào năm đầu (1624) niên hiệu Khoan Vĩnh, Quan Đông Thập Bát Đàn Lâm được thành lập, nhưng người hình thành hệ thống là Nguyên Dự Tồn Ứng (源譽存應, Genyō Zonō, 1544-1620), vị tổ đời thứ 12 của Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji). Đây là 18 ngôi tự viện có cơ cấu giáo dục cho tăng sĩ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản, gồm:
(1) Quang Minh Tự (光明寺, Kōmyō-ji) ở vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣]);
(2) Thắng Nguyện Tự (勝願寺, Shōgan-ji) ở Hồng Sào (鴻巢, Konosu, thuộc Saitama-ken [埼玉縣]);
(3) Thường Phước Tự (常福寺, Jōfuku-ji) ở Qua Liên (瓜連, Urizura, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]);
(4) Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji) ở Đông Kinh (東京, Tokyo);
(5) Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) ở Phạn Chiểu (飯沼, Iinuma, thuộc Ibaraki-ken);
(6) Đông Tiệm Tự (東漸寺, Tōzen-ji) ở Tùng Hộ (松戸, Maddo, thuộc Chiba-ken [千葉縣]);
(7) Đại Nham Tự (大巖寺, Daigan-ji) ở Thiên Diệp (千葉, Chiba, thuộc Chiba-ken);
(8) Liên Hinh Tự (蓮馨寺, Renkei-ji) ở Xuyên Việt (川越, Kawagoe, thuộc Saitama-ken);
(9) Đại Thiện Tự (大善寺, Daizen-ji) ở Bát Vương Tử (八王子, Hachiōji, thuộc Tokyo);
(10) Tịnh Quốc Tự (淨國寺, Jōkoku-ji) ở Nham Quy (岩槻, Iwatsuki, thuộc Saitama-ken);
(11) Đại Niệm Tự (大念寺, Dainen-ji) ở Đạo Phu (稻敷, Inashiki, thuộc Ibaraki-ken);
(12) Thiện Đạo Tự (善導寺, Zendō-ji) ở Quán Lâm (館林, Tatebayashi, thuộc Gunma-ken [群馬縣]);
(13) Hoằng Kinh Tự (弘經寺, Gukyō-ji) ở Thường Tổng (常總, Jōsō, thuộc Ibaraki-ken);
(14) Linh Sơn Tự (靈山寺, Reizan-ji) ở Mặc Điền (墨田, Sumida, thuộc Tokyo);
(15) Phan Tùy Viện (幡隨院, Banzui-in) ở Tiểu Kim Tỉnh (小金井, Koganei, thuộc Tokyo);
(16) Truyền Thông Viện (傳通院, Denzū-in) ở Văn Kinh (文京, Bunkyō, thuộc Tokyo);
(17) Đại Quang Viện (大光院, Daikō-in) ở Thái Đa (太田, Ōta, thuộc Gunma-ken);
(18) Linh Nham Tự (靈巖寺, Reigan-ji) ở Thâm Xuyên (深川, Fukagawa, thuộc Tokyo).
Trong Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Nghi (孔雀尊經科儀) có câu: “Chiên Đàn Lâm nội lục thù giá trọng ư Ta Bà, Cấp Cô Viên trung nhất chú thông tân ư Linh Thứu, cổ chế bàn toàn thanh thoại khí, ngọc lô liêu nhiễu bích tường vân, ngã kim nhiệt xử hiến Như Lai, duy nguyện từ bi ai nạp thọ (旃檀林內六銖價重於娑婆、給孤園中一炷通津於靈鷲、古晢盤旋清瑞氣、玉爐繚遶碧祥雲、我今熱處獻如來、唯願慈悲哀納受, trong Chiên Đàn Lâm sáu cây giá nặng bằng Ta Bà, nơi Vườn Cấp Cô một nén hương xông tận Linh Thứu, sao xưa xoay chuyển trong lành khí, lò ngọc tỏa vờn mây xanh thiêng, con nay đốt lên cúng Như Lai, cúi mong từ bi thương lãnh thọ).” Hay trong Chứng Đạo Ca (證道歌) của Vĩnh Gia Huyền Giác (永嘉玄覺, 675-713) cũng có câu: “Chiên Đàn Lâm vô tạp thọ, uất mật sum trầm sư tử trú, cảnh tĩnh lâm nhàn độc tự du, tẩu thú phi cầm giai viễn khứ (旃檀林無雜樹、鬱密森沉師子住、境靜林間獨自遊、走獸飛禽皆遠去, Chiên Đàn Lâm chẳng cây tạp, rừng rậm thâm u sư tử sống, cảnh vắng non nhàn mặc ngao du, thú chạy chim bay đều xa lánh).”
(奝然, Chōnen, 938-1016): vị tăng sống vào khoảng giữa thời Bình An, vị Tổ đời thứ 15 của Đông Đại Tự, húy là Điều Nhiên (奝然), hiệu Pháp Tế Đại Sư (法濟大師), xuất thân vùng Kyoto, con của Đằng Nguyên Chơn Liên (藤原眞連). Ông theo Quán Lý (觀理) ở Đông Nam Viện của Đông Đại Tự học về Tam Luận, rồi theo Nguyên Cảo (元杲) ở Thạch Sơn Tự (石山寺) học Chơn Ngôn Mật Giáo. Năm 983, ông sang nhà Tống cầu pháp, được vua Thái Tông (太宗, tại vị 976-997) hậu đãi, rồi đi tham bái Ngũ Đài Sơn và một số nơi khác; đến năm 986 thì trở về nước, mang theo hơn 5.000 quyển ấn bản mới của Đại Tạng Kinh cùng với tượng Phật Thích Ca đứng bằng gỗ Chiên Đàn. Năm sau, ông dâng biểu xin triều đình cho kiến lập ngôi già lam ở Ái Đãng Sơn (愛宕山) để an trí tượng Phật đã thỉnh về, nhưng trong thời gian ông còn sống thì không thể thực hiện được chí nguyện này. Đến năm 989, ông làm Biệt Đương của Đông Đại Tự và tại nhiệm được 3 năm. Sau này, Thanh Lương Tự (清涼寺) được đệ tử ông là Thạnh Toán (盛算) kiến lập. Trước tác của ông để lại có Nhập Tống Nhật Ký (入宋日記) 4 quyển.
(金繩): dây thừng bằng vàng. Trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 14, có đoạn: “Ngân Giác Đại Vương khuyến đạo: 'Một sự, ngã môn hoàn hữu Thất Tinh Kiếm, Ba Tiêu Phiến hòa Hoảng Kim Thằng tam kiện bảo bối, bất như phái nhân đáo Áp Long Động thỉnh lão mẫu thân nhất khối lai cật Đường Tăng nhục (銀角大王勸道∶沒事、我們還有七星劍、芭蕉扇和幌金繩三件寶貝、不如派人到壓龍洞請老母親一塊來吃唐僧肉, Ngân Giác Đại Vương khuyên rằng: 'Không được. Chúng ta đã có ba thứ bảo bối là Kiếm Thất Tinh, Quạt Ba Tiêu, Lưới Thừng Vàng; chi bằng phái người đến Áp Long Động thỉnh mẹ già thân chinh đến đây ăn thịt Đường Tăng').” Hay trong Phật Thuyết Đảnh Sanh Vương Nhân Duyên Kinh (佛說頂生王因緣經) quyển 5 cũng có đoạn: “Hựu Thiện Pháp Đường đạo lộ hồi hoàn, thanh tịnh nghiêm sức kim sa bố địa, xúc xứ biến sái Chiên Đàn hương thủy, kim thằng giao lạc thùy kim linh đạc dĩ giới đạo trắc (又善法堂道路回環、清淨嚴飾金沙布地、觸處遍灑旃檀香水、金繩交絡垂金鈴鐸以界道側, lại trở về nơi con đường của Thiện Pháp Đường, trong sạch, được trang trí với cát vàng rãi khắp mặt đất, các nơi đều được rưới khắp nước hương Chiên Đàn, thừng vàng buộc chặt nhau treo linh, mỏ vàng để làm ranh giới hai bên đường).” Ngoài ra, trong Thiền Môn Đối Liễn Đại Toàn (禪門對聯大全) còn có câu: “Kim thằng khai giác lộ, bảo phiệt độ mê tân (金繩開覺路、寶筏渡迷津, thừng vàng mở đường giác, bè báu vượt sông mê).”
(靈隱寺, Rinnin-ji, Reiin-ji): hiện tọa lạc tại Linh Ẩn Sơn (靈隱山), Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), gọi đủ là Bắc Sơn Cảnh Đức Linh Ẩn Tự (北山景德靈隱寺). Ban đầu vị tăng Huệ Lý (慧理) dựng am tu tập và dịch kinh. Sau đó, Ngô Việt Vương (呉越王) cho xây dựng Ngũ Bách La Hán Đường (五百羅漢堂), chỉnh trang lại các đường vũ, cung thỉnh Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽) đến khai đường thuyết giáo. Dưới thời nhà Tống, chùa được liệt vào hàng thứ 2 trong Ngũ Sơn. Minh Giáo Khế Tung (明敎契嵩), Phật Hải Huệ Viễn (佛海慧遠), Phật Chiếu Đức Quang (佛照德光), Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳), v.v., đã từng chấn tích giáo hóa tại đây. Hơn nữa, dưới thời Nam Tống, Đại Xuyên Phổ Tế (大川普濟) đã từng soạn bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元) tại chùa này. Đến thời nhà Thanh, chùa được đổi tên thành Vân Lâm Tự (雲林寺). Trong Sơn Môn có các thắng địa như Phi Lai Phong (飛來峰, tức Tiểu Đóa Phong [小朶峰]), Trực Chỉ Đường (直指堂), Lãnh Tuyền Đình (冷泉亭), Bắc Cao Phong (北高峰), Hô Viên Động (呼猿洞, hay Bạch Viên Động [白猿洞]), Thạch Liên Phong (石蓮峰), Hợp Giản Kiều (合澗橋), Thứu Lãnh (鷲嶺), Cửu Lý Tùng Kính (九里松徑), Hác Lôi Đình (壑雷亭), Liên Phong Đường (蓮峰堂), Chiên Đàn Lâm (栴檀林), v.v.
(s: pañca-sīla, p: pañca-śīla, 五戒): chỉ cho 5 loại giới điều do tầng lớp nam nữ tại gia thọ trì, trừ khi chúng ta không tin Phật, nhưng một khi đã tin Phật, học Phật thì nhất định phải thọ trì 5 giới điều này, gồm:
(1) Không sát sanh (p: pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不殺生, I undertake the training rule to abstain from taking life);
(2) Không trộm cắp (p: adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不偷盜, I undertake the training rule to abstain from taking what is not given);
(3) Không dâm dục (p: musāvāda veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不淫欲, I undertake the training rule to abstain from sexual misconduct);
(4) Không nói dối (p: musāvāda veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不妄語, I undertake the training rule to abstain from false speech); và
(5) Không uống rượu (p: surā-meraya-majja-pamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, 不飲酒, I undertake the training rule to abstain from drinks and drugs that cause heedlessness).
Năm Giới này còn gọi là Ưu Bà Tắc Ngũ Giới (優婆塞五戒), Ưu Bà Tắc Giới (優婆塞戒). Trong Phật Thuyết Diễn Đạo Tục Nghiệp Kinh (佛說演道俗業經, Taishō No. 820) có đoạn rằng: “Cư sĩ phục vấn: 'Sơ học đạo giả, thỉ dĩ hà chí ?' Phật ngôn: 'Tiên tập Ngũ Giới Tự Quy ư tam, hà vị Ngũ Giới ? Nhất viết từ tâm tư nhân bất sát, nhị viết thanh liêm tiết dụng bất đạo, tam giả trinh lương tiên khiết bất nhiễm, tứ viết đốc tín tánh hòa bất khi, ngũ viết yếu đạt chí minh bất loạn; hà vị Tam Tự Quy, nhất viết quy Phật vô thượng chánh chơn, nhị viết quy Pháp dĩ tự ngự tâm, tam viết quy chúng thánh chúng chi trung, sở thọ quảng đại, do như đại hải, mĩ sở bất bao' (居士復問、初學道者、始以何志、佛言、先習五戒自皈於三、何謂五戒、一曰慈心思仁不殺、二曰清廉節用不盜、三曰貞良鮮潔不染、四曰篤信性和不欺、五曰要達志明不亂、何謂三自皈、一曰皈佛無上正眞、二曰皈法以自御心、三曰皈眾聖眾之中、所受廣大、猶如大海、靡所不包, Cư sĩ lại hỏi: 'Người mới học đạo, trước hết lấy gì làm chí ?' Phật dạy: 'Trước tu tập Năm Giới và Ba Tự Quy Y, thế nào là Năm Giới ? Thứ nhất là từ tâm, thương người mà không giết hại; thứ hai là thanh liêm, tiết kiệm mà không trộm cắp; thứ ba là trinh tiết, trong sạch mà không ô nhiễm [không tà dâm]; thứ tư là một lòng tin, hòa thuận mà không xem thường [không nói dối]; thứ năm là cần đạt chí sáng suốt mà không rối loạn [không uống rượu]; thế nào là Ba Quy Y; một là Quy Y Phật, đấng vô thượng chánh chơn; hai là Quy Y Pháp, để tự chế ngự tâm; ba là Quy Y Tăng, trong các bậc Thánh; thọ trì rộng lớn, giống như biển lớn, không nơi nào không dung chứa').” Theo Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部) của Tiểu Thừa, người thọ Tam Quy thì đã trở thành Ưu Bà Tắc (s, p: upāsaka, 優婆塞); nhưng Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 說一切有部) lại quy định rằng trước thọ Tam Quy, sau thọ Năm Giới mới được gọi là Ưu Bà Tắc. Ba giới đầu để phòng thân, giới thứ tư phòng về miệng, giới thứ năm phòng cả thân và miệng, bảo vệ cho cả 4 giới trên. Từ xưa, ở Trung Quốc đã phối hợp Ngũ Giới với Ngũ Thường (五常, Nhân [仁], Nghĩa [義], Lễ [禮], Trí [智], Tín [信]); rồi đặt giới Không Sát Sanh ở phương Đông, Không Trộm Cắp ở phương Bắc, Không Tà Dâm ở phương Tây, Không Uống Rượu ở phương Nam, và Không Nói Dối ở Trung Ương. Năm Giới đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc thoát ly sanh tử, chứng thành Phật đạo; cho nên trong Ưu Bà Tắc Giới Kinh (優婆塞戒經, Taishō No. 1488) có dạy rằng: “Nhược hữu thuyết ngôn, ly Ngũ Giới độ sanh tử giả, vô hữu thử xứ. Thiện nam tử ! Nhược nhân dục độ sanh tử đại hải, ưng đương chí tâm thọ trì Ngũ Giới (若有說言、離五戒已度生死者、無有是處、善男子、若人欲度生死大海、應當至心受持五戒, nếu có người bảo rằng lìa Năm giới mà vượt qua sanh tử thì không có việc ấy. Này thiện nam tử ! Nếu có người muốn qua biển sanh tử lớn, hãy nên chí tâm thọ trì Năm Giới).” Hay Tứ Thập Nhị Chương Kinh (四十二章經, Taishō No. 784) cũng khẳng định rằng: “Phạn thiện nhân thiên, bất như phạn trì Ngũ Giới giả nhất nhân (飯善人千、不如飯持五戒者一人, cúng dường cơm cho ngàn người thiện không bằng cúng dường cơm cho một người giữ Năm Giới).” Một số lời dạy trong các kinh điển về việc hành trì Năm Giới như Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có câu: “Nhược bất đoạn sát, tu Thiền định giả, thí như hữu nhân, tự tắc kỳ nhĩ, cao thanh đại khiếu, cầu nhân bất văn (若不斷殺、修禪定者、譬如有人、自塞其耳、高聲大叫、求人不聞, người tu Thiền định, nếu không đoạn trừ sát sanh, ví như có người, tự bịt tai mình, la vang lớn tiếng, kêu người chẳng nghe).” Ưu Bà Tắc Giới Kinh quyển 6, Phẩm Ngũ Giới (五戒品) thứ 22 có dạy về giới trộm cắp rằng: “Nhược hữu chúng sanh thâu thiết thường trụ tài vật, cốc mễ, ẩm thực, y phục, nãi chí nhất vật bất dữ thủ giả, đương đọa Vô Gián Địa Ngục, cầu xuất vô kỳ (若有眾生偷竊常住財務、榖米、飲食、衣服、乃至一物不與取者、當墮無間地獄、求出無期, nếu có chúng sanh nào trộm cắp tài vật của thường trụ, thóc gạo, đồ ăn uống, áo quần, cho đến một vật không cho mà lấy, sẽ bị đọa Địa Ngục Vô Gián, không có thời hạn cầu mong thoát ra).” Trong khi đó, Vô Tự Bảo Khiếp Kinh (無字寶篋經, Taishō No. 828) khuyên rằng: “Ái tự mạng giả, tắc bất sát sanh; ái tự tài giả, bất đạo tha tài; ái tự thê giả, bất xâm tha thê (愛自命者、則不殺生、愛自財者、不盜他物、愛自妻者、不侵他妻, thương mạng sống mình, tất không sát sanh; thương tài sản mình, không lấy của người; thương vợ của mình, không phạm vợ người).” Lăng Nghiêm Kinh lại dạy về giới điều Không Nói Dối như sau: “Nhược bất đoạn kỳ đại vọng ngữ giả, như khắc nhân phẩn, vi Chiên Đàn hình, dục cầu hương khí, vô hữu thử xứ (若不斷其大妄語者、如刻人糞、爲旃檀形、欲求香氣、無有是處, nếu không đoạn trừ nói dối, như khắc phân người làm hình Chiên Đàn, muốn cầu hương thơm, không có việc ấy).” Về giới Không Uống Rượu, Ni Càn Tử Thọ Ký Kinh (尼乾子受記經) quyển 5, Phẩm Vấn Tội Quá (問罪過品) thứ 7, dạy rõ rằng: “Ẩm tửu đa phóng dật, hiện thế thường ngu si, vong thất nhất thiết sự, thường bị trí giả ha, lai thế thường ám độn, đa thất chư công đức, thị cố hiệt tuệ nhân, ly chư ẩm tửu thất (飲酒多放逸、現世常愚癡、忘失一切事、常被智者呵、來世常闇鈍、多失諸功德、是故黠慧人、離諸飲酒失, uống rượu nhiều buông túng, đời nay thường ngu si, quên mất tất cả chuyện, thường bị người trí trách, đời sau thường ngu độn, mất hết các công đức, cho nên người thông tuệ, lìa sai lầm uống rượu).” Trong Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập (紫柏尊者全集, CBETA No. 1452) quyển 20, phần Trì Giới Kệ (持戒偈) có cảnh tỉnh người hành trì Năm Giới rằng: “Ngũ Giới bất trì, nhân thiên lộ cùng, cử túc hà vãng, ngưu mã thai trung (五戒不持。人天路窮。舉足何徃。牛馬胎中, Năm Giới chẳng giữ, trời người cùng đường, nhấc chân về đâu, vào thai trâu ngựa).”
(牛頭): tức là Ngưu Đầu Chiên Đàn (牛頭栴檀), còn gọi là Xích Chiên Đàn (赤栴檀, Chiên Đàn Đỏ). Chiên Đàn là tên của một loại gỗ thơm, vốn phát xuất từ Ngưu Đầu Sơn (牛頭山); nên có tên gọi là Ngưu Đầu Chiên Đàn. Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập (翻譯名義集, Taishō Vol. 54, No. 2131) quyển 3 cho biết rằng: “Chánh Pháp Niệm Kinh vân: 'Thử châu hữu sơn, danh viết Cao Sơn; Cao Sơn chi phong, đa hữu Ngưu Đầu Chiên Đàn; nhược chư thiên dữ Tu La chiến thời, vi đao sở thương, dĩ Ngưu Đầu Chiên Đàn, đồ chi tức dũ; dĩ thử sơn phong trạng như ngưu đầu, ư thử phong trung, sanh Chiên Đàn thọ, cố danh Ngưu Đầu.' Đại Luận vân: 'Trừ Ma Lê Sơn, vô xuất Chiên Đàn, Bạch Đàn trị nhiệt bệnh, Xích Đàn khử phong thũng' (正法念經云、此洲有山、名曰高山、高山之峰、多有牛頭旃檀、若諸天與修羅戰時、爲刀所傷、以牛頭旃檀、塗之卽愈、以此山峰狀如牛頭、於此峰中、生旃檀樹、故名牛頭、大論云、除摩梨山、無出旃檀、白檀治熱病、赤檀去風腫, Chánh Pháp Niệm Kinh dạy rằng: 'Châu này có núi, tên là Cao Sơn, trên đỉnh Cao Sơn, có nhiều Ngưu Đầu Chiên Đàn; nếu khi các trời cùng giao chiến với Tu La, bị đao làm thương tích, thì lấy Ngưu Đầu Chiên Đàn thoa vào tức lành liền; vì hình trạng đỉnh núi này giống như đầu con trâu, trong đỉnh núi lại có cây Chiên Đàn, nên có tên là Ngưu Đầu.' Đại Luận còn dạy rằng: 'Trừ Ma Lê Sơn không có Chiên Đàn, loại Bạch Đàn trị bệnh nóng sốt, loại Xích Đàn thì khử phong thũng').” Đây là loại gỗ đặc biệt có công năng trị bệnh, và bảo vệ thân thể không bị đốt cháy nếu thoa vào mình. Như Bắc Sơn Lục (北山錄, Taishō Vol. 52, No. 2113) quyển 3 giải thích rằng: “Ma La Da Sơn hữu Chiên Đàn danh Ngưu Đầu Hương, nhược dĩ đồ thân, thiết nhập hỏa khanh hỏa bất năng thiêu (摩羅耶山有栴檀名牛頭香、若以塗身、設入火坑火不能燒, núi Ma La Da có loại Chiên Đàn tên Ngưu Đầu Hương, nếu lấy thoa vào mình, giả sử có vào trong hầm lửa, lửa không thể đốt cháy được).” Hay trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 9, No. 278) quyển 50 cũng có cùng thông tin như trên: “Phục hữu hương danh Ngưu Đầu Chiên Đàn, tùng Ly Cấu Sơn vương sanh, nhược dĩ đồ thân, hỏa bất năng thiêu (復有香名牛頭栴檀、從離垢山王生、若以塗身、火不能燒, lại có loại hương tên là Ngưu Đầu Chiên Đàn, từ vua Ly Cấu Sơn sanh ra, nếu lấy thoa vào mình, lửa không thể đốt cháy được).” Hoặc như trong Tuyển Tập Bách Duyên Kinh (撰集百緣經, Taishō Vol. 4, No. 200) quyển 3 có đoạn: “Kỳ nhân thân thể, sanh chư ác sang, thậm hoạn khổ não, thống bất khả ngôn, hoán chư lương y, dĩ chiêm liệu trị, vân tu Ngưu Đầu Chiên Đàn, dụng đồ sang thượng, khả đắc trừ dũ (其人身體、生諸惡瘡、甚患苦惱、痛不可言、喚諸良醫、以瞻療治、云須牛頭栴檀、用塗瘡上、可得除愈, người ấy thân thể, mọc các mụn nhọt dữ, lo âu khổ não, đau không tả xiết, bảo các lương y, xem xét trị liệu; họ bảo rằng nên lấy Ngưu Đầu Chiên Đàn đem thoa trên mụn nhọt ấy, có thể hết đau).” Trong Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 10 có ghi lại rằng: “Quốc Nam tân hải hữu Mạt Lạt Da Sơn, sùng nhai tuấn lãnh, động cốc thâm giản, kỳ trung tắc hữu Bạch Đàn Hương thọ, Chiên Đàn Nễ Ba thọ, thọ loại Bạch Đàn, bất khả dĩ biệt, duy ư thạnh Hạ, đăng cao viễn chiêm, kỳ hữu đại xà oanh chi giả, ư thị tri chi, do kỳ mộc tánh lương lãnh, cố xà bàn dã; ký vọng kiến dĩ, xạ tiễn vi ký, Đông Trập chi hậu, phương nãi thái phạt (國南濱海有秣剌耶山、崇崖峻嶺、洞谷深澗、其中則有白檀香樹、栴檀你婆樹、樹類白檀、不可以別、唯於盛夏、登高遠瞻、其有大蛇縈者、於是知之、猶其木性涼冷、故蛇盤也、旣望見已、射箭爲記、冬蟄之後、方乃採伐, ven bờ biển phía Nam của nước ta có núi Mạt Lạt Da, vách núi dựng đứng, đỉnh núi cao vút, hang động sâu thẳm, trong đó ắt có cây Bạch Đàn Hương, cây Chiên Đàn Nễ Ba, cây thuộc loại Bạch Đàn, không thể phân biệt được; chỉ vào giữa mùa Hạ, lên trên cao nhìn từ xa, cây nào có rắn cuốn chúng quanh, mới biết được rằng, do vì tánh cây ấy mát lạnh, nên rắn cuốn quanh; sau khi nhìn xong, bắn mũi tên để ghi dấu; sau mùa Đông Trập [ngủ đông], mới có thể hái chặt về).”
(氤氳): thời xưa chỉ cho trạng thái hai khí âm dương hòa hợp nhau. Như trong Bạch Hỗ Thông (白虎通), phần Giá Thú (嫁娶) có câu: “Thiên địa nhân uân, vạn vật hóa thuần (天地氤氳、萬物化淳, khí trời đất hòa hợp, muôn vật trở nên thuần).” Hay trong tác phẩm Tề Đông Dã Ngữ (齊東野語), phần Cổ Tương Thọ Từ (賈相壽詞) có đoạn: “Thính vạn vật nhân uân, tùng lai hình sắc, mỗi hướng tĩnh trung thứ (聽萬物氤氳、從來形色、每向靜中覷, lắng nghe khí âm dương hòa hợp muôn vật, hình sắc xưa nay, mỗi lần đều hướng vào trong sự tĩnh lặng mà nhìn kỹ).” Trong Hoa Nghiêm Kinh Hải Ấn Đạo Tràng Sám Nghi (華嚴經海印道場懺儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1470) quyển 31 lại có câu: “Nhất thiết bảo hương thọ, hương khí nhân uân, phổ huân thập phương (一切寶香樹、香氣氤氳、普熏十方, tất cả những cây có hương thơm báu, khí hương nghi ngút, xông khắp mười phương).” Trong bản Chánh Khắc Trung Khoa Du Già Tập Yếu (正刻中科瑜伽集要), hiện tàng bản khắc gỗ tại Chùa Báo Quốc, Huế; ghi năm ấn bản là “Đồng Khánh Mậu Tý (同慶戊子, 1889)”, có bài tán: “Trầm nhũ Chiên Đàn giá mạc luân, kim lô tài nhiệt phún tường vân, nhân uân biến triệt tam thiên giới, vi thụy vi tường đạt Thế Tôn (沉乳栴檀價莫倫、金爐纔爇噴祥雲、氤氳遍徹三千界、爲瑞爲祥達世尊, trầm đốt Chiên Đàn đâu sánh bằng, lò vàng vừa đốt tỏa mây lành, khí xông trùm khắp ba ngàn cõi, linh hiển cát tường đấng Thế Tôn).”
(國清寺, Kokusei-ji): ngôi chùa tọa lạc tại sườn núi phía nam của ngọn Phật Lũng Phong (佛隴峰), thuộc Thiên Thai Sơn (天台山), Huyện Thiên Thai (天台縣), Tỉnh Triết Giang (浙江省), là nơi phát xuất của Thiên Thai Tông Trung Quốc. Vào năm 596 (niên hiệu Khai Hoàng [開皇] thứ 18 nhà Tùy), vua nhà Tấn là Dương Quảng (揚廣, tức Dương Đế [煬帝]) sáng lập ngôi chùa này cho Đại Sư Trí Khải (智顗). Lúc đầu tiên, Thiền Sư Định Quang (定光) đến trú tại núi này, thường dạy chúng đệ tử rằng không bao lâu nữa sẽ có bậc thiện tri thức lỗi lạc đến đây. Sau đó, quả nhiên có Trí Khải đến quảng bố giáo pháp, nhưng chưa thành tựu bao nhiêu thì đã thị tịch ở Nam Kiến Tự (南建寺), Phật Lũng (佛隴). Nhà vua rất thương tiếc, bèn cúng dường trai tăng cho ngàn vị tăng để hồi hướng cho Trí Khải, và tiến hành trùng kiến các ngôi đường vũ. Ban đầu chùa có tên là Thiên Thai Sơn Tự (天台山寺), sau nhân lần đầu tiên khi Trí Khải đến núi, Định Quang mộng báo cho biết 3 nước (Bắc Chu, Bắc Tề và Trần) hợp thành một, có một người rất có thế lực mới có thể làm cho chùa thành tựu được, chùa thành tựu thì nước mới thanh bình; cho nên chùa được đặt tên là Quốc Thanh Tự. Vào năm 605 (niên hiệu Đại Nghiệp [大業] nguyên niên nhà Tùy), chùa được ban sắc ngạch với tên gọi như vậy. Không bao lâu sau, Quán Đảnh (灌頂) đến trú trì chùa và nơi đây trở thành đạo tràng căn bản của Thiên Thai Tông. Từ niên hiệu Trinh Nguyên (貞元) 9 nhà Đường trở về sau, các lưu học tăng Nhật Bản đến chùa tham học càng đông, như Tối Trừng (最澄), Nghĩa Chơn (義眞), Viên Giới (圓戒), Viên Tu (圓修), Thành Tầm (成尋), Tuấn Nhưng (俊芿), Trùng Nguyên (重源), Vinh Tây (榮西), v.v. Mọi người đều đến đảnh lễ miếu tháp của Trí Khải, sau đó mang về nước các tượng Phật, kinh luận, v.v., và khai sáng Thiên Thai Tông Nhật Bản. Theo cuốn Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Ký (入唐求法巡禮行記) của Viên Nhân (圓仁), đương thời chùa thường có khoảng150 vị tăng lưu trú, đến mùa An Cư kiết hạ thì có hơn 300 người; cho nên lúc bấy giờ chùa đang hồi cực thịnh. Đến lúc nạn Hủy Phật Hội Xương (會昌), chùa bị binh hỏa thiêu rụi. Vào năm 851 (niên hiệu Đại Trung [大中] thứ 5), chùa được trùng kiến lại và đến năm 1005 (niên hiệu Cảnh Đức [景德] thứ 2 nhà Tống), chùa đổi tên thành Cảnh Đức Quốc Thanh Tự (景德國清寺). Sau đó, chùa lại bị binh hỏa thiêu cháy, mấy trăm quyển sách của ba triều đại đều mất sạch, chỉ còn lại Liên Kinh (蓮經) do Trí Khải đề bút, 1 quyển kinh lá bối của Tây Vức và tượng Phật bằng gỗ Chiên Đàn thời nhà Tùy cũng như răng Phật mà thôi. Vào năm 1128 (niên hiệu Kiến Viêm [建炎] thứ 2 nhà Nam Tống), triều đình ban sắc lệnh trùng tu chùa, cho nên cảnh trí chùa đẹp hơn ngày xưa. Hai năm sau, triều đình hạ chiếu chuyển chùa sang Thiền Tông, vì vậy nơi đây trở thành Thiền tự. Về sau, chùa đã trải qua bao lần tái tạo và khuôn viên chùa được gọi là một trong 4 thắng cảnh trong thiên hạ. Nơi đây có cầu tên Phong Can Kiều (豐干橋), tương truyền dưới thời nhà Đường, Phong Can (豐干), Hàn Sơn (寒山) và Thập Đắc (拾得) đã từng đến chơi ở đây. Cũng phát xuất từ nhân duyên Của Thiền Sư Phong Can với chùa, nên từ đó về sau chùa được đội thành Thiền tự. Trước chùa có tháp 9 tầng bằng ngói. Bảo vật của chùa có tháp Xá Lợi bằng đồng do Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục (錢弘淑) tạo.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập