Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Hầu hết mọi người đều cho rằng sự thông minh tạo nên một nhà khoa học lớn. Nhưng họ đã lầm, chính nhân cách mới làm nên điều đó. (Most people say that it is the intellect which makes a great scientist. They are wrong: it is character.)Albert Einstein
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
Hãy nhớ rằng hạnh phúc nhất không phải là những người có được nhiều hơn, mà chính là những người cho đi nhiều hơn. (Remember that the happiest people are not those getting more, but those giving more.)H. Jackson Brown, Jr.
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Khi tự tin vào chính mình, chúng ta có được bí quyết đầu tiên của sự thành công. (When we believe in ourselves we have the first secret of success. )Norman Vincent Peale
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Châu Tước »»
(藤原道長, Fujiwara-no-Michinaga, 966-1027): nhà quý tộc và quan lại sống giữa thời Bình An, con thứ 5 của Kiêm Gia (兼家), thường gọi là Ngự Đường Quan Bạch (御堂關白), Quan Bạch Thái Chính Đại Thần (關白太政大臣) trước khi xuất gia ở Pháp Thành Tự (法成寺), hay còn gọi là Pháp Thành Tự Nhiếp Chính (法成寺攝政). Dưới thời kỳ cực thịnh của dòng họ Đằng Nguyên, ông là người đứng đầu dòng họ. Chương Tử (彰子), con gái đầu của ông, là Hoàng Hậu của Nhất Điều Thiên Hoàng (一條天皇, Ichijō Tennō), sanh ra hai vị Thiên Hoàng Hậu Nhất Điều (後一條, Goichijō) và Hậu Châu Tước (後朱雀, Gosuzaku). Thứ nữ Nghiên Tử (妍子) là Hoàng Hậu của Tam Điều Thiên Hoàng (三條天皇, Sanjō Tennō); con gái thứ 3 Uy Tử (威子) là Hoàng Hậu của Hậu Nhất Điều Thiên Hoàng, con gái thứ 4 Hy Tử (嬉子) là vợ của Hậu Châu Tước Thiên Hoàng. Ông là người có công xây dựng Pháp Thành Tự. Tác phẩm của ông có nhật ký Ngự Đường Quan Bạch Ký (御堂關白記) do tự tay ông viết.
(藤原賴通, Fujiwara-no-Yorimichi, 992-1074): nhà quý tộc và quan lại sống giữa thời Bình An, trưởng tử của Đạo Trưởng (道長), Quan Bạch vùng Vũ Trị (宇治, Uji). Ông từng làm chức Nhiếp Chính và Quan Bạch trong suốt 52 năm trường dưới thời 3 vị Thiên Hoàng là Hậu Nhất Điều (後一條, Goichijō), Hậu Châu Tước (後朱雀, Gosuzaku) và Hậu Lãnh Tuyền (後冷泉, Goreisen). Sau đó, ông làm Thái Chính Đại Thần (太政大臣). Đến cuối đời, ông xây dựng Bình Đẳng Viện (平等院, Byōdō-in) ở Vũ Trị và sống nhàn cư tại đây.
(藤原忠平, Fujiwara-no-Tadahira, 880-949): nhà quý tộc và quan lại sống giữa thời Bình An, con của Cơ Kinh (基經). Dưới thời Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō), ông làm Tả Đại Thần (左大臣); sau khi thay thế người anh là Thời Bình (時平), ông soạn bộ Diên Hỷ Cách Thức (延喜格式) và dâng lên cho triều đình. Dưới thời Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō), ông làm Thái Chính Quan Bạch (太政關白), Thái Chính Đại Thần (太政大臣). Cùng với Thời Bình và Trọng Bình (仲平), cả ba được gọi là Tam Bình (三平). Ông được ban tặng thụy hiệu là Trinh Tín Công (貞信公) và để lại tác phẩm Trinh Tín Công Ký (貞信公記).
(醍醐寺, Daigo-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đề Hồ (醍醐派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu núi là Thâm Tuyết Sơn (深雪山), hiện tọa lạc tại Daigo (醍醐), Fushimi-ku (伏見區), Kyoto-shi (京都市). Theo truyền ký của chùa cho biết, Thánh Bảo (聖寶) là người khai sáng chùa vào năm 874 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 16). Ban đầu ông trú tại Tây Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), vùng đất chùa này là khoảng giữa của Thạch Sơn Tự (石山寺) và Đông Đại Tự. Ông điêu khắc hai bức tượng Chuẩn Đề và Quan Âm, rồi an trí trên núi. Người con gái của nhà hào tộc vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) là Dận Tử (胤子) theo làm cung phi của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) và hạ sanh Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930). Hay đời sau Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō, tại vị 930-946) hạ sanh cũng nhờ cầu nguyện đức Chuẩn Đề. Với mối quan hệ dó, chùa được tầng lớp Hoàng Thất quy y theo. Vì thế, năm 904 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 4), Thích Ca Đường; rồi đến năm 907 thì Dược Sư Đường, Ngũ Đại Dường lần lượt được kiến lập, và đến năm 913 thì nơi đây trở thành chùa được cấp định ngạch của Hoàng triều. Vào năm 949 (niên hiệu Thiên Lịch [天曆] thứ 3), Pháp Hoa Tam Muội Đường được kiến lập dưới chân núi; đến năm 952, ngôi tháp 5 tầng hiện tồn được tạo dựng và coi như ngôi già lam được hoàn bị. Đối với các công trình kiến trúc này, hệ thống của Đề Hồ Thiên Hoàng đã có nỗ lực rất lớn; nhưng đến khi dòng họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara) nắm chính quyền thì sự ngoại hộ từ phía Hoàng Thất trở nên thưa thớt dần, song đến thời Viện Chính thì chùa lại được phục hưng nhờ vị Tọa Chủ xuất thân dòng họ Nguyên (源, Minamoto). Tức là các vị Tọa Chủ đời thứ 13 là Giác Nguyên (覺源, con thứ 4 của Hoa Sơn Thiên Hoàng [花山天皇, Kazan Tennō, tại vị 984-986]), đời thứ 14 là Định Hiền (定賢, con của Nguyên Long Quốc [源隆國]), đời thứ 15 là Thắng Giác (勝覺) cũng như đời thứ 18 là Thật Vận (實運, con của Nguyên Tuấn Phòng [源俊房]), đời thứ 16 là Định Hải (定海, con của Nguyên Hiển Phòng Tử [源顯房子]), đời thứ 17 là Nguyên Hải (元海, con của Nguyên Nhã Tuấn [源雅俊]), v.v. Thêm vào đó, nhờ có các danh tăng xuất hiện nên mọi người đều quy ngưỡng về chùa này. Vốn là con cháu đích truyền của Dòng Tiểu Dã (小野流), là trung tâm nghiên cứu dòng pháp, hiện tại Đề Hồ Tự vẫn bảo quản khá nhiều sách khẩu truyền, nghiên cứu, đặc biệt là các đồ hình, tượng, v.v. Vào năm 1115 (niên hiệu Vĩnh Cửu [永久] thứ 3), tiếp theo việc kiến lập Tam Bảo Viện của Thắng Giác, Kim Cang Vương Viện của Thánh Hiền (聖賢), Lý Tánh Viện của Hiền Giác (賢覺), Vô Lượng Thọ Viện của Nguyên Hải, Báo Ân Viện của Thành Hiền (成賢), Địa Tạng Viện của Đạo Giáo (道敎) lần lượt xuất hiện, hình thành nên 6 dòng phái Đề Hồ. Về mặt chính trị, dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) thì không có can hệ gì, chùa trở thành trung tâm nghiên cứu sự tướng, đồ tượng cho các tông phái. Về sau, chùa bị cháy hơn phân nữa trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁). Đến thời Nghĩa Diễn (義演) làm Tọa Chủ nơi đây, nhờ sự hỗ trợ của dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), ông tiến hành phục hưng chùa. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), nhờ sự bảo hộ phái Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗), nên chùa không bị dao động gì cả. Chùa hiện tồn rất nhiều quần thể kiến trúc cũng như bảo vật có giá trị cấp quốc bảo như Dược Sư Đường, Khai Sơn Đường, Như Ý Luân Đường, Kim Đường, 5 bức Ngũ Đại Tôn Tượng, Diêm Ma Thiên Tượng, Đại Nhật Kim Luân, A Di Đà Tam Tôn, v.v.
(五行): là quan niệm về vật chất của người Trung Quốc cổ đại, phần nhiều được dùng trong các phương diện triết học, y học cũng như bói toán; tức là 5 nguyên tố cần thiết vận hành giữa trời đất gồm Thủy (水), Hỏa (火), Mộc (木), Kim (金) và Thổ (土). Tên gọi khác của Ngũ Thường (五常, 5 yếu tố con người thường cần phải thực hiện) gồm Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Tín. Người Trung Quốc co rằng tự nhiên được cấu thành bởi 5 yếu tố, tùy theo các yếu tố này mà thạnh suy, khiến cho tự nhiên sinh ra các biến hóa, có ảnh hưởng đến vận mạng của con người, đồng thời làm cho vũ trụ tuần hoàn không ngừng. Trong các kinh điển luận về Ngũ Hành, trước hết thấy xuất hiện trong Thượng Thư (尚書), phần Hồng Phạm (洪範) có nêu rõ rằng: “Ngũ Hành, nhất viết Thủy, nhị viết Hỏa, tam viết Mộc, tứ viết Kim, ngũ viết Thổ (五行、一曰水、二曰火、三曰木、四曰金、五曰土, Ngũ Hành, thứ nhất là Thủy, thứ hai là Hỏa, thứ ba là Mộc, thứ tư là Kim, thứ năm là Thổ).” Nguồn gốc của Ngũ Hành vốn phát xuất từ số của sách Hà Đồ (河圖), Lạc Thư (洛書); số 1, 6 là Thủy; 2, 7 là Hỏa; 3, 8 là Mộc; 4, 9 là Kim; 5, 10 là Thổ. Theo Hà Đồ, nếu xoay về bên trái thì tương sinh; theo Lạc Thư, nếu xoay về bên phải thì tương khắc. Như vậy Ngũ Hành tương khắc gồm có Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ Khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. Ngũ Hành tương sinh là Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim. Năm yếu tố này có mối quan hệ mật thiết với các truyền thống văn hóa Trung Quốc khác như phương vị, thiên can, địa chi, màu sắc, thời tiết, v.v. Xin liệt kê theo thứ tự các yếu tố Ngũ Hành, Ngũ Tài (五材), Ngũ Sắc (五色, 5 màu sắc), Ngũ Phương (五方), Ngũ Quý (五季, 5 mùa), Ngũ Thời (五時), Ngũ Tiết (五節), Ngũ Tinh (五星, 5 ngôi sao), Ngũ Thanh (五聲, 5 loại tiếng), Ngũ Âm (五音, 5 loại âm), Ngũ Tạng (五臟), Ngũ Phủ (五腑), Ngũ Chí (五志, 5 loại cảm xúc), Ngũ Quan (五官, 5 giác quan), Ngũ Giác (五覺, 5 loại cảm giác), Ngũ Dịch (五液, 5 loại chất dịch), Ngũ Vị (五味, 5 loại mùi vị), Ngũ Xú (五臭), Ngũ Khí (五氣), Ngũ Vinh (五榮), Ngũ Thú (五獸, 5 loại thú thần thoại), Ngũ Súc (五畜, 5 loại súc vật), Ngũ Cốc (五穀), Ngũ Quả (五果), Ngũ Thái (五菜), Ngũ Thường (五常), Ngũ Chính (五政), Ngũ Ác (五惡), Ngũ Hóa (五化), Thiên Can (千干), Địa Chi (地支). Kim thường đi với Kim, màu xanh, phương Đông, mùa xuân, buổi sáng, Tân Niên, Mộc Tinh (木星), tiếng kêu gọi, Giác, gan, mật, bực tức, mắt, màu sắc, nước mắt, chất chua, mùi hôi (của cừu, nai, v.v.), gân, móng, Thanh Long (青龍), con chó, lúa tẻ, trái Mận, rau Hẹ, Nhân, khoan dung, gió, sanh sản, Giáp và Ất, Dần và Mão. Hỏa đi với Hỏa, màu đỏ, phương Nam, mùa hè, giữa ngày, Thượng Tỵ (上巳, tiết hội của người Hán được tổ chức vào ngày Tỵ của thượng tuần tháng 3 Âm Lịch để cầu gió mát), Hỏa Tinh (火星), tiếng cười, Chưng, tim, ruột non, niềm vui, lưỡi, sự xúc chạm, mồ hôi, vị đắng, mùi khét, máu, mặt, Châu Tước (朱雀), con dê, thóc, trái Hạnh, rau Kiệu, Lễ, sự sáng suốt, sức nóng, sự trưởng thành, Bính và Đinh, Tỵ và Ngọ. Thổ đi với Thổ, màu vàng, phương giữa, giữa hè, xế chiều, Đoan Ngọ (端午, mồng 5 tháng 5 Âm Lịch), Thổ Tinh (土星), tiếng ca, Cung, lá lách, bụng, suy tư, miệng, mùi vị, nước dãi, vị ngọt, mùi hương thơm, thịt, môi, Hoàng Lân (黃麟) hay Đằng Xà (滕蛇), con bò, lúa, trái Táo, rau Quỳ, sự cung kính, ẩm thấp, biến hóa, Mậu và Kỷ, Thìn, Mùi, Tuất và Sửu. Kim đi với Kim, màu trắng, phương Tây, mùa Thu, mặt trời lặn, Thất Tịch (七夕, mồng 7 tháng 7 Âm Lịch), Kim Tinh, tiếng khóc, Thương, phổi, ruột già, sự đau buồn, mũi, hương thơm, nước mũi, vị đắng, mùi tanh, hơi, lông, Bạch Hổ (白虎), con gà, gạo, trái Đào, rau Hành, Nghĩa, sức mạnh, khô ráo, thâu lại, Canh và Tân, Giáp và Dậu. Thủy đi với Thủy, màu đen, phương Bắc, mùa Đông, giữa đêm, Trùng Dương (重陽, mồng 9 tháng 9 Âm Lịch, còn gọi là Trùng Cửu [重九]), Thủy Tinh (水星), tiếng rên rỉ, quả thận, bàng quang, sự lo sợ, lỗ tai, âm thanh, nước bọt miếng, vị mặn, mùi thối mục, xương, tóc, Huyền Võ (玄武), lợn, đậu, hạt dẻ, lá dâu, Trí, sự tĩnh lặng, lạnh lẽo, che giấu, Nhâm và Quý, Hợi và Tý.
(五方五帝): còn gọi là Ngũ Phương Thần (五方神); là tên gọi của các vị Thiên Đế của 5 phương trong thần thoại Trung Quốc, về sau được Đạo Giáo tôn thờ như là thần. Theo Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七簽) quyển 18, phần Lão Tử Trung Kinh (老子中經), của Đạo Giáo cho biết, Đông phương Thương Đế (蒼帝) là Đông Hải Quân (東海君), Nam phương Xích Đế (赤帝) là Nam Hải Quân (南海君), Tây phương Bạch Đế (白帝) là Tây Hải Quân (西海君), Bắc phương Hắc Đế (黑帝) là Bắc Hải Quân (北海君), và trung ương Hoàng Đế Quân (黃帝君). Cổ Công Sảng (賈公彥, ?-?) nhà Đường giải thích rằng: “Ngũ Đế giả, Đông phương Thanh Đế Linh Uy Ngưỡng, Nam phương Xích Đế Xích Tiêu Nỗ, Trung ương Hoàng Đế Hàm Xu Nữu, Tây phương Bạch Đế Bạch Chiêu Củ, Bắc phương Hắc Đế Diệp Quang Kỷ (五帝者、東方青帝靈威仰、南方赤帝赤熛怒、中央黃帝含樞紐、西方白帝白招矩、北方黑帝葉光紀, Ngũ Đế là Thanh Đế Linh Uy Ngưỡng ở phương Đông, Xích Đế Xích Tiêu Nỗ ở phương Nam, Hoàng Đế Hàm Xu Nữu ở phương giữa, Bạch Đế Bạch Chiêu Củ ở phương Tây, Hắc Đế Diệp Quang Kỷ ở phương Bắc).” Đạo Giáo lấy phương Đông Thanh Long (青龍) là Thanh Đế, phương Tây Bạch Hổ (白虎) là Bạch Đế, phương Nam Châu Tước (朱雀) là Xích Đế, phương Bắc Huyền Võ (玄武) là Hắc Đế, phương giữa Kỳ Lân (麒麟) là Hoàng Đế.
(青龍): tên gọi của cây đao báu được Quan Công thường đeo bên mình, còn gọi là Thanh Long Yển Nguyệt Đao (青龍偃月刀). Nhờ cây đao này, Quan Công đã từng tạo những chiến công hiển hách như chém Hoa Hùng (華雄), Phách Nhan Lương (劈顏良), Tru Văn Xú (誅文醜), v.v.; cho nên người Trung Quốc cũng thần thánh hóa và xem nó như là Tướng Quân Võ Thánh. Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa (三國演義), hai người con của Quan Công là Quan Hưng (關興) và Quan Sách (關索) cũng cầm cây đao này. Như trong bài thơ Quá Ngũ Quan Trảm Lục Tướng (過五關斬六將) có câu: “Quải ấn phong kim từ Hán tướng, tầm huynh diêu vọng viễn đồ hoàn, mã kỵ Xích Thố hành thiên lý, đao yển Thanh Long xuất ngũ quan (掛印封金辭漢相、尋兄遙望遠途還、馬騎赤兔行千里、刀偃青龍出五關, treo ấn niêm phong thôi Hán tướng, tìm anh xa tít muôn dặm đàng, cỡi ngựa Xích Thố đi vạn nẻo, Thanh Long đao xếp ra cửa quan).” Sau này, khi điêu khắc hay tạc vẽ hình tượng của Quan Công đều có hình tay cầm cây Thanh Long Yển Nguyệt Đao này. Ngoài ra, Thanh Long còn gọi là Thương Long (蒼龍). Trong truyền thống văn hóa của Trung Quốc, Thanh Long là một trong Tứ Tượng (四象). Căn cứ học thuyết Ngũ Hành, Thanh Long đại biểu cho loại linh thú ở phương Đông, là con rồng có màu xanh. Phương vị của sao này nằm ở phương Đông, đại biểu cho mùa Xuân. Trong 28 chùm sao theo quan niệm của Trung Quốc, Thanh Long là tên gọi chung của 7 ngôi sao ở phương Đông, gồm: Giác (角), Cang (亢), Để (氐), Phòng (房), Tâm (心), Vĩ (尾) và Ky (箕). Hình trạng của 7 ngôi sao này rất giống một con rồng. Trong phần Tạp Ứng (雜應) của Bão Phác Tử (抱朴子) có đề cập đến Tiên Kinh (仙經) chỉ dẫn cho cách khi vẽ hình Thái Thượng Lão Quân thì bên trái phải có 12 con Thanh Long, bên phải có 26 con Bạch Hổ, phía trước 24 con Châu Tước và phía sau là 72 Huyền Võ. Sau này, Tứ Tượng được nhân cách hóa và phong hiệu như vậy. Theo Bắc Cực Thất Nguyên Tử Diên Bí Quyết (北極七元紫延秘訣) cho biết rằng Thanh Long hiệu là “Mạnh Chương Thần Quân (孟章神君)”, Bạch Hổ hiệu “Giám Binh Thần Quân (監兵神君)”, Châu Tước là “Lăng Quang Thần Quân (陵光神君)” và Huyền Võ là “Chấp Minh Thần Quân (執明神君).” Trong cuốn Nhạc Dương Phong Thổ Ký (岳陽風土記) của Phạm Trí Năng (範致能) nhà Tống có đoạn rằng: “Lão Tử từ hữu nhị thần tượng, vị Thanh Long, Bạch Hổ dã (老子祠有二神像、謂青龍、白虎也, tại đền thờ Lão Tử có hai tượng thần là Thanh Long và Bạch Hổ).” Bên cạnh đó, trong Thường Thục Tư Chí (常熟私志), Thiên Thư Tự Quan (舒寺觀篇) của Diêu Tông Nghi (姚宗儀) cũng có ghi rằng: “Trí Đạo Quán sơn môn nhị đại thần, tả vi Thanh Long Mạnh Chương Thần Quân, hữu vi Bạch Hổ Giám Binh Thần Quân (致道觀山門二大神、左爲青龍孟章神君、右爲白虎監兵神君, đặt tại sơn môn của Đạo Quán hai tượng thần lớn, bên trái là Thanh Long Mạnh Chương Thần Quân, bên phải là Bạch Hổ Giám Binh Thần Quân).” Thái Thượng Hoàng Lục Trai Nghi (太上黃籙齋儀) quyển 44 nhà Minh gọi 7 ngôi sao Thanh Long ở phương Đông là “Giác Tú Thiên Môn Tinh Quân (角宿天門星君), Cang Tú Đình Đình Tinh Quân (亢宿庭庭星君), Đê Tú Thiên Phủ Tinh Quân (氐宿天府星君), Phòng Tú Thiên Tứ Tinh Quân (房宿天駟星君), Tâm Tú Thiên Vương Tinh Quân (心宿天王星君), Vĩ Tú Thiên Kê Tinh Quân (尾宿天雞星君), và Ky Tú Thiên Luật Tinh Quân (箕宿天律星君)”. Về hình tượng của Thanh Long, Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập (道門通敎必用集) quyển 7 có giải thích rằng: “Rồng nhả mây nuốt khí, phun sấm sét phát ra tiếng, bay khắp Tám Cực, chu du Tứ Minh.” Lại nữa, bộ Linh Cấp Thất Thiêm (靈笈七籖) quyển 72 có dẫn rằng: “Thanh Long là Giáp, Ất, Mộc, Thủy, Ngân ở phương Đông, lắng trong mà không chút gợn, quậy lên mà không đục, đến gần không thể lấy được, cách xa chẳng thể bỏ qua, tiềm tàng biến hóa vô tận, nên gọi là rồng”. Tục ngữ có câu rằng: “Nam tánh sanh thực khí vô âm mao, tại quá khứ dã khiếu thanh long (男性生殖器無陰毛、在過去也叫青龍, người nam sanh ra dương vật không có lông, tại vì đời trước gào thét Thanh Long).” Ngoài ra, dân gian thường cho rằng rồng có tánh dâm, nên khi nó hòa hợp với bò thì sinh ra kỳ lân, với con heo thì sinh ra con voi.
(院號, Ingō):
(1) Là xưng hiệu của Thái Thượng Hoàng. Vào năm 823 (Hoằng Nhân [弘仁] 14), sau khi Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823) nhượng vị, lần đầu tiên ông lấy nơi mình ở mà đặt tên thành Tha Nga Viện (嵯峨院). Trường hợp hai vị Thiên Hoàng Lãnh Tuyền (冷泉, Reizei, tại vị 967-969) và Viên Dung (圓融, Enyū, tại vị 969-984) trong lúc sinh tiền cũng đặt cho mình Viện Hiệu là Lãnh Tuyền Viện (冷泉院) và Châu Tước Viện (朱雀院).
(2) Là truy hiện của Thiên Hoàng. Từ thời Lãnh Tuyền Thiên Hoàng trở đi, sau khi Thiên Hoàng nhường ngôi vị thì thường dùng Viện Hiệu theo tên gọi nơi mình trú ngụ làm truy hiệu của vị Thiên Hoàng đó. Hơn nữa, từ thời Hậu Nhất Điều Thiên Hoàng (後一條天皇, Goichijō Tennō, tại vị 1016-1036) trở về sau, cũng có thông lệ ban Viện Hiệu cho các Thiên Hoàng đang tại vị mà qua đời.
(3) Là xưng hiệu của Nữ Viện. Trường hợp này được khởi đầu từ thân mẫu của Nhất Điều Thiên Hoàng (一條天皇, Ichijō Tennō, tại vị 986-1011) là Hoàng Thái Hậu Đằng Nguyên Thuyên Tử (藤原詮子, Fujiwara-no-Senshi), được ban cho Viện Hiệu là Đông Tam Điều Viện (東三條院) vào năm 991 (Chánh Lịch [正曆] 2). Tiếp theo, sau thời Thượng Đông Môn Viện (上東門院, tức bà Đằng Nguyên ảnh Tử [藤原彰子, Fujiwara-no-Shōshi]), thường phần nhiều lấy mệnh danh theo môn hiệu Cung Thành (宮城, Miyagi) mà thôi. Còn ở Tiền Đông Cung (前東宮) thì chỉ có một trường hợp duy nhất được ban cho Viện Hiệu là Tiểu Nhất Điều Viện (小一條院), tức Đông Cung Hoàng Tử Đôn Minh Thân Vương (敦明親王, Atsuakira Shinnō), con của Hậu Nhất Điều Thiên Hoàng.
(4) Là xưng hiệu của Pháp Danh, Giới Danh của những vị quan Nhiếp Chính, Tướng Quân. Tỷ dụ như trường hợp Pháp Hưng Viện (法興院) của quan Nhiếp Chính Đằng Nguyên Kiêm Gia (藤原兼家, Fujiwara-no-Kaneie); hay Đẳng Trì Viện (等持院) của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji), v.v. Đây là tên gọi của các ngôi tự viện trong lúc sinh tiền họ đã từng góp công rất lớn trong việc kiến lập, tu tạo. Sau này, dù chẳng liên quan đến việc góp công kiến lập chùa chiền gì cả, hàng thứ dân bình thường cũng bắt đầu thêm chữ Viện vào nơi giới danh của họ.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.186 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập