Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì. (It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cần Tháo »»
(大安寺, Daian-ji): ngôi chùa của Phái Cao Dã Sơn (高野山派) thuộc Chơn Ngôn Tông, tọa lạc tại Daianji-cho (大安町), Nara-shi (奈良市), là một trong 7 ngôi chùa lớn của Phật Giáo Nam Đô, còn gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji). Theo Đại An Tự Già Lam Duyên Khởi Tinh Lưu Ký Tư Tài Trương (南大寺伽藍緣起并流記資財帳) có ghi lại việc Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) phó thác cho Điền Thôn Hoàng Tử (田村皇子, sau này là Thư Minh Thiên Hoàng [舒明天皇, Jomei Tennō]) xây dựng ngôi đại tự với tên gọi là Hùng Ngưng Tự (熊凝寺, Kumagori-dera). Đây chính là khởi nguyên của Đại An Tự. Trong Thánh Đức Thái Tử Truyện Tư Ký (聖德太子傳私記) cũng cho rằng Hùng Ngưng Tự là tiền thân của ngôi già lam này. Trong Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi rằng vào năm thứ 11 (639) đời Thư Minh Thiên Hoàng, nhà vua ra chiếu chỉ xây Đại Cung và Đại Tự bên bờ sông Bách Tế, cho dựng ngôi tháp 9 tầng và đổi tên chùa là Bách Tế Đại Tự (百濟大寺, Kudara-no-ōdera). Đến năm thứ 2 (673) đời vua Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), chùa lại được dời về vùng Cao Thị (高市, Takechi) và lấy tên là Cao Thị Đại Tự (高市大寺, Takechi-no-ōdera). Sau đó, chùa lại đổi tên là Đại Quan Đại Tự (大官大寺, Daikandai-ji), trở thành một trong 3 ngôi chùa quan lớn và hưng thịnh đến tột đỉnh. Vào năm thứ 3 (710) niên hiệu Hòa Đồng (和銅), lúc kinh đô được dời về Bình Thành (平城, Heizei), chùa cũng chuyển về vị trí hiện tại và lấy tên là Đại An Tự. Từ quy mô già lam có dạng thức đặc thù được gọi là Cách Thức Đại An Tự, chiều cao của chùa, nó được gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji) để sánh với Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) và Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji). Với tư cách là trung tâm học vấn của Tam Luận Tông, chùa đã một thời hưng thạnh. Chính từ đây đã xuất hiện những bậc danh tăng như Đạo Từ (道慈, Dōji), Cần Tháo (勤操, Gonzō), Hành Biểu (行表, Gyōbyō), Tối Trừng (最澄, Saichō), Lương Biện (良辨, Rōben), v.v. Đến thời đại Bình An, sau mấy lần bị hỏa tai vào năm thứ 11 (911) niên hiệu Diên Hỷ (延喜), năm đầu (1071) niên hiệu Khoan Nhân (寬仁), ngôi già lam bị cháy rụi khá nhiều và sau đó được tái thiết ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, vào khoảng cuối thời Bình An, cũng cùng chung số phận với những ngôi đại tự khác của vùng Nam Đô, chùa lâm vào tình trạng suy vi. Đến thời Liêm Thương, cùng với việc phục hưng giáo học, một số chùa như Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji), Tây Đại Tự, v.v., đã phát triển mạnh; nhưng trường hợp Đại An Tự thì lại càng suy thối hơn. Quần thể đường vũ hiện tồn được tái thiết dưới thời Minh Trị; bảo vật của chùa có bức tượng đứng Thập Nhất Diện Quan Âm (dưới thời Nại Lương) là tượng thờ chính, tượng Dương Liễu Quan Âm, Thiên Thủ Quan Âm, v.v., theo Cách Thức Đại An Tự.
(離六堂集): bên cạnh các tác phẩm như Hùng Lục Đường Nhị Tập (雄六堂二集), Triều Hành Cận Thảo (潮行近草), Ly Lục Đường Cận Cảo (離六堂近稿), Hải Ngoại Kỷ Sự (海外紀事), bộ này cũng là Thi Văn Tập do Thiền tăng Đại Sán (大汕) trước tác, được thâu lục vào trong quyển thứ 99 của Thiền Tông Toàn Thư (禪宗全書), quyển thứ 7 của Thiền Môn Dật Thư (禪門逸書); nguyên san bản của Hoài Cổ Lâu (懷古樓) trong khoảng thời gian Khang Hy (康熙, 1661-1722). Vốn là pháp từ của Giác Lãng Đạo Thạnh (覺浪道盛, 1592-1659), vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Thanh, Đại Sán kế thừa tông phong của Thầy và làm cho phát triển. Tư tưởng Thiền học của Đạo Thạnh khá đặc dị, từng đưa ra các quan niệm lấy Tào Động Tông chỉnh hợp học thuyết Thiền Tông Ngũ Gia (禪宗五家) với Tam Giáo Nho, Đạo, Thích; từ đó đề xuất lý luận gọi là “tôn hỏa vi tông (尊火爲宗, tôn sùng lửa làm tông chỉ).” Hơn nữa, tư tưởng này còn liên quan đến chủ trương Ngũ Vị Quân Thần Quyết (五位君臣訣) của Tào Sơn Bổn Tịch (曹山本寂, 840-901) cũng như quan niệm lấy Ngũ Vị phối hợp với 5 quẻ trong 64 quẻ của Chu Dịch (周易). Việc Đại Sán lấy tên Ly Lục (離六) đặt tên cho nhà ông ở, cho danh tập, cũng đều có liên quan đến tư tưởng nói trên. Có nghĩa là Tào Động Tông lấy phẩm vị Kiêm Trung Đáo (兼中到) trong Ngũ Vị để phối hợp với quẻ Trùng Ly (重離) của 64 quẻ dịch. Theo giải thích của Đại Sán, Ly Lục có nghĩa là “dĩ nhất quy ngũ (以一歸五, lấy một quy về năm)”; lấy 6 quy về 5 tức là đạt đến Kiêm Trung Đáo của Ngũ Vị, là cảnh giới sự lý viên dung vô ngại. Ly Lục nghĩa là lìa nước được lửa, và đó cũng là “lấy lửa làm tông khí, tạo nên pháp mạch của Tào Động”. Được hình thành với 12 tập, trong phần đầu có khá nhiều bài Tựa của các danh nhân đương thời như Tằng Xán (曾燦), Hùng Nhất Tiêu (熊一瀟), Khuất Đại Quân (屈大均), Cao Tằng Vân (高層雲), Từ Hoàn (徐釚), v.v. Trong 12 quyển ấy, có 1 quyển chuyên về Phú, thơ 1 quyển. Trước sách có đồ hình 32 bức, mỗi bức đều có đề tán của các danh nhân. Trong sách có thuật lại những phong tục, tập quán xã hội Lĩnh Nam (嶺南), tình hình xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, v.v.
(講, kō): tập đoàn kết chúng tập trung lại với nhau để đath thành mục đích về mặt tôn giáo, kinh tế cũng như xã giao, nên mới lấy tên là Giảng. Nếu truy tìm nguyên gốc từ Giảng này, ta thấy nó vốn phát xuất từ dụng ngữ của Phật Giáo. Có nghĩa rằng ban đầu nó là hội nghiên cứu về việc thuyết giảng kinh điển Phật Giáo của những Tăng sĩ có học thức, hay là pháp hội Phật sự làm cho uyên nguyên việc giảng đọc kinh điển, chấp hành nghi lễ Phật Giáo. Từ hội Pháp Hoa Giảng (法華講), Duy Ma Giảng (維摩講), Thắng Man Giảng (勝鬘講), cho đến Tối Thắng Giảng (最勝講), Nhân Vương Giảng (仁王講), Đà La Ni Giảng (陀羅尼講), Dược Sư Giảng (藥師講), Di Lặc Giảng (彌勒講), v.v., đều phát xuất từ đây. Nguồn khế cơ phát sanh hội này vốn có từ thời đại sơ truyền của Phật Giáo. Sự du nhập của Phật Giáo bắt đầu bằng những vật tượng trưng như tượng Phật, phan cái, kinh điển, v.v.; nhưng đương nhiên sự thọ dung đúng nhất vẫn là việc lý giải về giáo nghĩa cũng như nghi lễ. Nỗ lực này được thể hiện qua bộ Tam Kinh Nghĩa Sớ (三經義疏) do Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) biên soạn vào đầu thế kỷ thứ 7. Đương nhiên cũng có nghi vấn cho rằng đây không phải là trước tác của Thái Tử; nhưng nếu ta xét về điểm thành lập của triều đại Suy Cổ (推古, Suiko), thì phần lớn đều nhất trí. Như vậy việc giảng cứu Phật điển ban đầu là trung tâm hoạt động của tự viện, rồi truyền thống này được bảo trì một thời gian lâu dài; và đến thế kỷ thứ 8 dưới triều đại Nại Lương (奈良, Nara, 710-794) thì nó đạt đến đỉnh cao. Tuy nhiên, việc giảng nghĩa những kinh điển Phật Giáo vốn có tính giáo học sâu xa thì lại được tiến hành song song với nghi lễ tôn giáo. Cho nên, nghi lễ còn được gọi là Pháp Hội. Chính các tổ chức như Thích Ca Hội (釋迦會) nhằm lễ tán thánh đức của Phật, Dược Sư Hội (藥師會) nhằm tán thán công đức của Phật Dược Sư; Di Lặc Hội (彌勒會) nhằm cầu nguyện Phật Di Lặc hạ sanh, v.v., đều phát xuất từ đây. Ba bộ kinh hộ quốc quan trọng gồm Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經), Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), Pháp Hoa Kinh (法華經) vốn được xem như là những kinh điển hộ trì quốc gia, tất yếu phải được sử dụng tại các pháp hội ở những ngôi chùa quan, chùa lớn, chùa có định ngạch. Từ đó xuất hiện Tối Thắng Giảng Hội (最勝講會), Nhân Vương Giảng Hội (仁王講會) và Pháp Hoa Giảng Hội (法華講會). Trên cơ sở của ba hội chính này, các hội khác lần lượt ra đời như Duy Ma Giảng Hội (維摩講會), Thắng Man Giảng Hội (勝鬘講會), v.v., với khá nhiều hình thức và nội dung phong phú. Nhưng mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 9 dưới thời Bình An, việc biên tập và quy định hình thức giảng nhất định mới hình thành. Vào khoảng đầu thời Bình An, tín ngưỡng đáng chú ý nhất về Pháp Hoa được hoằng truyền từ trong tầng lớp Tăng Ni tại các tự viện cho đến xã hội thế tục bên ngoài, từ tầng lớp quý tộc trong cung đình cho đến lớp quan binh, và lan truyền đến tận dân chúng bên ngoài, trở nên rất sùng tín. Đặc biệt là các hoạt động của những người trì Kinh Pháp Hoa vốn được xem như là những người truyền giáo cuồng tín, thì quá nhiều. Ta có thể tìm thấy những hình thức hoạt động như thế này thông qua bộ Nhật Bản Linh Dị Ký (日本靈異記) cũng như Bản Triều Pháp Hoa Nghiệm Ký (本朝法華驗記), v.v. Trong đó, hội Pháp Hoa Bát Giảng (法華八講) là thịnh hành nhất từ trong cung nội cho đến ngoài dân dã. Hội này được Cần Tháo (勤操, Gonzō) ở Thạch Uyên Tự (石淵寺) vùng Đại Hòa (大和, Yamato) khởi xướng vào năm 796, sau đến đầu thế kỷ thứ 9 mới thịnh hành ngoài dân gian. Đây là pháp hội lấy 8 quyển Kinh Pháp Hoa, mỗi ngày sáng tối hai thời đọc tụng cúng dường 2 quyển, và kéo dài trong vòng 4 ngày. Ban đầu, pháp hội này được tiến hành tại Thạch Uyên Tự, nhưng dần dần người dân thường cũng tổ chức pháp hội này tại cung đình cũng như dinh phủ quan, với động cơ nhằm cúng dường truy tiến cho linh hồn người chết, hay cầu sống lâu trường thọ, hoặc kỳ nguyện vãng sanh. Với đà thịnh hành của hội Pháp Hoa Giảng này, nó đã tạo ảnh hưởng rất lớn cho các hội khác ra đời. Một số hội như Dược Sư Giảng (藥師講), Di Lặc Giảng (彌勒講), Thích Ca Giảng (釋迦講), Nhân Vương Giảng (仁王講), Tối Thắng Giảng (最勝講), v.v., lần lượt bỏ đi tên gọi pháp hội mà lấy tên Giảng. Thuận theo xu hướng thời đại, các tổ chức như A Di Đà Giảng (阿彌陀講), Bồ Đề Giảng (菩提講), Vãng Sanh Giảng (徃生講), Thập Nhị Bồ Tát Lai Nghênh Giảng (十二菩薩來迎講), Địa Tạng Giảng (地藏講), Thập Trai Giảng (十齋講), v.v., cũng liên tiếp xuất hiện. Khi những tổ chức này được phổ cập hóa, thẩm thấu vào dân gian thì chúng có nhiều cơ hội tiếp xúc với tín ngưỡng dân gian; cho nên các tập đoàn tín ngưỡng địa phương vốn dựa trên cơ sở sùng bái tự nhiên như núi, sông, nước, đá, cây, v.v., được gọi là Sơn Thần Giảng (山神講), Thủy Thần Giảng (水神講), Thạch Thần Giảng (石神講). Còn những tập đoàn tế tự, sùng bái thiên nhiên như mặt trời, mặt trăng, mưa, gió, sấm, sét, v.v., có tên gọi là Nhật Đãi Giảng (日待講), Nguyệt Đãi Giảng (月待講), Long Thần Giảng (龍神講), Phong Thần Lôi Thần Giảng (風神雷神講). Hơn nữa, tư tưởng Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹, Honjisuijaku) chính là diểm trọng yếu đã tạo khế cơ cho việc thế tục hóa cũng như dân gian hóa Phật Giáo. Tại Nhật Bản, trong các lễ tế tự ở những đền thờ Thần Xã, truyền thống từ ngàn xưa vẫn được duy trì, và thể chế tượng trưng mang tính tôn giáo của tập đoàn dân tộc được hình thành. Có nghĩa rằng tập đoàn tế tự được cấu thành với hạt nhân trung tâm là đền thờ Thần Xã để phát huy cơ năng tôn giáo. Nguyên nhân các tổ chức tế tự như thế này lấy tên Giảng của Phật Giáo, vốn phát xuất từ trào lưu thời đại của Thần Phật Tập Hợp. Vì thế trong các đền thờ Thần Xã được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10, ta thấy có xuát hiện bóng dáng của Phật Giáo. Phần lớn các Thần sự đều được tổ chức dưới hình thức Giảng, và đó cũng là khế cơ nảy sinh mối giao lưu Thần Phật. Cho nên các tổ chức như Thị Thần Giảng (氏神講), Trấn Thủ Giảng (鎭守講), Quyền Hiện Giảng (權現講), Cung Tòa Giảng (宮座講), cho đến Xuân Nhật Giảng (春日講), Trú Cát Giảng (住吉講), Bát Phan Giảng (八幡講), Hùng Dã Giảng (熊野講), Y Thế Giảng (伊勢講), Tam Sơn Giảng (三山講), Tam Xã Giảng (三社講), v.v., dần dần xuất hiện trong thần đạo. Đến cuối thời Trung Đại, hoạt động sinh sản của con người phân hóa, phương hướng tạo nên cơ cấu tổ chức Giảng cũng thay đổi với lý do không những chỉ vì động cơ tín ngưỡng tôn giáo, mà còn vì lý do xã hội cũng như kinh tế. Đến thời Trung Đại, tại các tự viện có các hội như Lại Mẫu Tử Giảng (賴母子講) nhằm dung thông lẫn nhau tiền vàng, vật phẩm giữa Tăng Ni; Quân Vương Giảng (君王講) của Mộc Địa Sư (木地師), Hoang Thần Giảng (荒神講), v.v. Khuynh hướng này được kéo dài cho đến thời Cận Đại, phát huy thành nhiều hình thức Giảng mới như Điền Thần Giảng (田神講) của nông dân, Sơn Thần Giảng (山神講) của những người làm nghề sơn lâm, Hải Thần Giảng (海神講), Long Cung Giảng (龍宮講), Huệ Mỹ Tu Giảng (惠美須講) nhằm cầu nguyện cho được nhiều cá và thuận buồm xuôi gió; thêm vào đó, còn có rất nhiều tổ chức Giảng ở thành phố. Từ thời Trung Đại đến Cận Đại, biển với đất liền phát triển giao thông mạnh mẽ, người ta đi du lịch các nơi trở nên dễ dàng hơn, và mọi người có nhiều cơ hội trở về cố hương mình. Đặc biệt việc tham bái các thánh địa cũng như hành hương những ngôi già lam, đền miếu, càng lúc càng hưng thịnh; chính vì lẽ đó, tổ chức Tham Nghệ Giảng (參詣講) được hình thành. Tỷ dụ như Thiện Quang Tự Giảng (善光寺講), Thành Điền Giảng (成田講), Tam Phong Giảng (三峰講), Đại Sơn Giảng (大山講), Y Thế Giảng (伊勢講), Xuất Vân Giảng (出雲講), Bạch Sơn Giảng (白山講), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập