Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Khi thời gian qua đi, bạn sẽ hối tiếc về những gì chưa làm hơn là những gì đã làm.Sưu tầm
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Khi ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là chúng ta đang sống, ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Kinh nghiệm quá khứ và hy vọng tương lai là những phương tiện giúp ta sống tốt hơn, nhưng bản thân cuộc sống lại chính là hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Càn Phong »»
(道宣, Dōsen, 596-667): vị tăng Luật Tông dưới thời nhà Đường, còn được gọi là Nam Sơn Luật Sư (南山律師), Nam Sơn Đại Sư (南山大師), tổ sáng lập ra Nam Sơn Luật Tông, người Ngô Hưng (呉興), Triết Giang (浙江), có thuyết cho là vùng Đơn Đồ (丹徒), Nhuận Châu (潤州), Giang Tô (江蘇), họ Tiền (錢), tự là Pháp Biến (法遍). Năm 16 tuổi, ông xuất gia, theo Huệ Quân (慧頵) ở Nhật Nghiêm Tự (日嚴寺) và Trí Thủ (智首) ở Đại Thiền Tự (大禪寺) học Luật; sau ông đến trú tại Phỏng Chưởng Cốc (倣掌谷, phía Nam Trường An), tạo dựng Bạch Tuyền Tự (白泉寺) và chuyên tâm nghiên cứu, hoằng truyền Tứ Phần Luật, cho nên tôn phái của ông được gọi là Nam Sơn Luật Tông. Ông đã từng đi khắp nơi thuyết giảng Luật học và cùng tham gia phiên dịch với Huyền Trang (玄奘). Ông đã từng sống qua vài nơi như Sùng Nghĩa Tự (崇義寺), Phong Đức Tự (豐德寺) và Tịnh Nghiệp Tự (淨業寺). Vào năm thứ 3 (658) niên hiệu Hiển Khánh (顯慶), ông vâng sắc chỉ đến trú trì Tây Minh Tự (西明寺) ở Trường An. Không bao lâu sau, ông soạn ra Thích Môn Chương Phục Nghi (釋門章服儀), Thích Môn Quy Kính Nghi (釋門歸敬儀), v.v. Vào năm thứ 2 (662) niên hiệu Long Sóc (龍朔), vua Cao Tông ra sắc lệnh các tăng ni phải lễ bái nhà vua, ông cùng với Huyền Trang dâng thư kháng tranh, nên việc này được đình chỉ. Đến tháng 2 năm thứ 2 (667) niên hiệu Càn Phong (乾封), ông sáng lập giới đàn tại Tịnh Nghiệp Tự, các nơi đến cầu giới hơn 20 người. Cũng vào tháng 10 năm này ông thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi đời và 52 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu Trừng Chiếu (澄照). Trước tác của ông có Tứ Phần Luật San Phồn Bổ Khuyết Hành Sự Sao (四分律刪繁補闕行事鈔) 12 quyển, Yết Ma Sớ (羯磨疏) 3 quyển, Giới Bổn Sớ (戒本疏) 6 quyển, Thập Tỳ Ni Nghĩa Sao (拾毘尼義鈔) 6 quyển, Tỳ Kheo Ni Nghĩa Sao (比丘尼義鈔) 6 quyển, được gọi là 5 bộ trọng yếu của Luật học. Trong đó, Hành Sự Sao là bộ sách không thể thiếu khi nghiên cứu về Tứ Phần Luật. Ngoài ra ông còn soạn ra bộ Đại Đường Nội Điển Lục (大唐內典錄) 10 quyển, là sách mục lục chỉnh lý toàn bộ kinh điển đang hiện hành. Ngoài ra, ông còn biên tập Cổ Kim Phật Đạo Luận Hành (古今佛道論行) 4 quyển, Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集) 30 quyển, v.v., để tuyên dương Phật Giáo. Hơn nữa, ông còn trước tác Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) 10 quyển, Thích Thị Lược Phổ (釋氏略譜), Thích Ca Phương Chí (釋迦方志), Tam Bảo Cảm Thông Lục (三寳感通錄), v.v.
(戒壇): là đàn tràng dùng để cử hành nghi thức truyền thọ giới pháp cũng như thuyết giới. Nguyên lai, Giới Đàn không cần phải xây dựng nhà cửa gì cả, tùy theo chỗ đất trống kết giới mà thành. Xưa kia, thời cổ đại Ấn Độ tác pháp ngoài trời, không cần phải làm đàn. Về việc Giới Đàn được kiến lập đầu tiên, Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Thượng, có ghi lại rằng Bồ Tát Lâu Chí (樓至) thỉnh ý đức Phật xin thiết lập Giới Đàn cho chư vị Tỳ Kheo thọ giới và được Ngài hoan hỷ chấp thuận: “Tây Thiên Kỳ Viên, Tỳ Kheo Lâu Chí thỉnh Phật lập đàn, vi Tỳ Kheo thọ giới Như Lai ư viên ngoại viện Đông Nam, trí nhất đàn, thử vi thỉ dã (西天祇園、比丘樓至請佛立壇、爲比丘受戒、如來於園外院東南、置一壇、此爲始也, Kỳ Viên ở Tây Thiên [Ấn Độ], Tỳ Kheo Lâu Chí xin Phật thiết lập Giới Đàn để truyền thọ giới cho Tỳ Kheo; đức Như Lai thiết lập một đàn ở phía Đông Nam ngoài Kỳ Viên; đây là khởi đầu).” Tại Trung Quốc, tương truyền Giới Đàn đầu tiên do Đàm Kha Ca La (s: Dharmakāla, 曇柯迦羅) kiến lập trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Bình (嘉平, 249-254), Chánh Nguyên (正元, 254-256) nhà Tào Ngụy. Từ thời nhà Tấn, Tống trở đi, ở phương Nam kiến lập Giới Đàn rất nhiều. Như Pháp Hộ (法護) nhà Đông Tấn lập đàn ở Ngõa Quan Tự (瓦官寺), Dương Đô (揚都, Nam Kinh [南京]). Chi Đạo Lâm (支道林, 314-366) cũng thiết lập ở Thạch Thành (石城, Lê Thành [黎城], Sơn Tây [山西]), Phần Châu (汾州, Tân Xương [新昌], Triết Giang [浙江]) mỗi nơi một đàn. Chi Pháp Tồn (支法存, ?-457) lập đàn ở Nhã Da (若耶, Thiệu Hưng [紹興], Triết Giang). Trí Nghiêm (智嚴) nhà Nam Tống lập đàn ở Thượng Định Lâm Tự (上定林寺, Nam Kinh). Huệ Quán (慧觀) lập đàn ở Thạch Lương Tự (石梁寺, Thiên Thai Sơn [天台山]). Cầu Na Bạt Ma (s: Guṇavarman, 求那跋摩, 367-431) lập đàn ở Nam Lâm Tự (南林寺). Tăng Phu (僧敷, ?-?) của nhà Nam Tề lập đàn ở Vu Hồ (蕪湖). Pháp Siêu (法超) của nhà Lương thời Nam Triều lập đàn ở Nam Giản (南澗, Nam Kinh). Tăng Hựu (僧祐, 445-518) thiết lập tại Nam Kinh 4 chùa Vân Cư (雲居), Thê Hà (棲霞), Quy Thiện (歸善) và Ái Kính (愛敬) mỗi nơi một đàn. Tổng cọng hơn 300 Giới Đàn. Đến thời nhà Đường, vào năm thứ 2 (667) niên hiệu Càn Phong (乾封), Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) kiến lập Giới Đàn tại Tịnh Nghiệp Tự (淨業寺) ở ngoại ô Trường An (長安). Bắt đầu từ thời này, Giới Đàn đã hình thành quy thức nhất định. Về sau, chư cao tăng khác như Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713), Nhất Hành (一行, 683-727), Kim Cang Trí (金剛智, 671-741), v.v., từng kiến lập Giới Đàn ở vùng phụ cận Lạc Dương (洛陽). Vào năm đầu (765) niên hiệu Vĩnh Thái (永泰), vua Đại Tông (代宗, tại vị 762-779) ban sắc lệnh kiến lập Phương Đẳng Giới Đàn (方等戒壇, tức Đại Thừa Giới Đàn) ở Đại Hưng Thiện Tự (大興善寺); rồi cho đặt 10 vị Lâm Đàn Đại Đức (臨壇大德) trong giáo đoàn Tăng Ni ở Kinh Thành; tức sau này là Tam Sư Thất Chứng (三師七證). Về phía Nhật Bản, Giới Đàn đầu tiên do Giám Chơn (鑑眞, Ganjin, 688-763) kiến lập ở phía trước Chánh Điện Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) vào năm 749 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寶] thứ 6). Đến tháng 4 năm này, Giám Chơn đã truyền giới cho Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) cùng với 430 người khác. Sau đó, Giới Đàn Viện (戒壇院) được kiến lập ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji); và hai Giới Đàn khác ở Quan Thế Âm Tự (觀世音寺, Kanzeon-ji), vùng Trúc Tử (筑紫, Chikushi) và Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) thuộc tiểu quốc Hạ Dã (下野, Shimotsuke). Trong (Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành) Thích Giáo Bộ Vị Khảo ([古今圖書集成]釋敎部彙考, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1521) quyển 2 có câu: “Trường Khánh tứ niên, Kính Tông tức vị, Từ Tứ Vương Trí Hưng, thỉnh trí Tăng Ni Giới Đàn (長慶四年、敬宗卽位、徐泗王智興、請置僧尼戒壇, niên hiệu Trường Khánh thứ 4 [824], vua Kính Tông nhà Đường lên ngôi, Từ Tứ Vương Trí Hưng, xin thiết trí Giới Đàn Tăng Ni).” Hay trong Chung Nam Gia Nghiệp (終南家業, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1109) quyển Trung có đoạn rằng: “Chí Nguyên Hỷ thập niên, hữu Tăng Già Bạt Ma, ư Dương Đô Nam Lâm Giới Đàn, vi Tăng Huệ Chiếu đẳng ngũ thập nhân, Ni Huệ Quả đẳng tam thập tam nhân, trùng thọ cụ giới (至元喜十年、有僧伽拔摩、於揚都南林戒壇、爲僧慧照等五十人、尼慧果等三十三人、重受具戒, cho đến niên hiệu Nguyên Hỷ thứ 10, tại Giới Đàn Chùa Nam Lâm ở Dương Đô, có Tăng Già Bạt Ma vì nhóm Tăng Huệ Chiếu 50 người, nhóm Ni Huệ Quả 33 người, thọ giới Cụ Túc lại).”
(s: Mahākalpina, p: Mahākapphiṇa, 摩訶劫賓那): còn gọi là Ma Ha Kiếp Tân Ninh (摩訶劫賓寧), Ma Ha Kiếp Tỷ Noa (摩訶劫比拏), Ma Ha Kế Tân Na (摩訶罽賓那), Ma Ha Ca Thất Na (摩訶迦匹那), Ma Ha Kim Tỳ La (摩訶金毘羅), hay Đại Kiếp Tân Na (大劫賓那), Kiếp Tân Na (劫賓那); ý dịch là Hoàng Sắc (黃色), Phòng Túc (房宿), Đại Phân Biệt Thời (大分別時), v.v. Ông là một trong các đại đệ tử của Phật, rất tinh thông thiên văn, lịch số, biết được sự vận hành của các vì sao, được gọi là Tri Tinh Tú Đệ Nhất (知星宿第一). Theo phẩm Đại Kiếp Tân Ninh (大劫賓寧), Hiền Ngu Kinh (賢愚經) 7, ông là con của đức vua Kiếp Tân Ninh nước Kim Địa Quốc (金地國), bẩm tánh thông minh, có sức mạnh cường tráng. Sau khi vua cha qua đời, ông kế thừa ngôi vị, binh lửa dẹp yên, đất nước an bình, uy phong chấn động khắp nơi; từ đó ông muốn chế ngự miền trung Ấn Độ, bèn sai sứ đến Thành Xá Vệ cầu viện vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿). Lúc bấy giờ đức Phật đang trú tại Tinh Xá Kỳ Hoàn (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍), tự biến hóa thành vị Chuyển Luân Thánh Vương, dùng thần thông biến hiện làm cho Kiếp Tân Na quy phục. Từ đó, ông phát tâm xuất gia, thường tinh tấn dõng mãnh tu tập, trú định Tam Muội. Về sau ông chứng đắc Pháp Nhãn thanh tịnh và A La Hán quả. Lại căn cứ vào Quang Trạch Pháp Hoa Nghĩa Sớ (光宅法華義疏) quyển 1, Pháp Hoa Huyền Tán (法華玄贊) quyển 1 cho biết rằng Kiếp Tân Na có tên là Phòng Túc. Lúc mới xuất gia, ông chỉ nghe danh Phật chứ chưa từng được diện kiến Ngài, vì vậy ông khát khao muốn được gặp Ngài, bèn lên đường đến trú xứ Phật. Ban đêm gặp trời mưa to, ông phải tá túc qua đêm tại một nhà làm đồ gốm. Chủ nhà dành cho ông một căn phòng tá túc qua đêm. Tuy nhiên, Kiếp Tân Na lại trãi cỏ mà nằm, đến nữa đêm bỗng nhiên có một vị Tỳ Kheo già đến xin tá túc. Ông nhường chỗ cho lão Tỳ Kheo kia và tự mình ngồi. Nhân đó, lão Tỳ Kheo thuyết pháp cho ông nghe, và đêm ấy ông ngộ đạo. cuối cùng ông mới biết được vị kia chính là đức Phật đã hóa hiện ra để hóa độ mình. Hay theo Pháp Hoa Văn Cú (法華文句) quyển 1, nhân vì cha mẹ ông kết hôn đã lâu năm mà chẳng sanh con, nên thành tâm cầu nguyện các vì sao để mong có con, từ đó cảm ứng được sao thứ tư Phòng Túc trong 28 ngôi sao giáng sanh.
(入室, nyūshitsu): thông thường từ này có nghĩa là vào trong thất hay căn phòng, nhưng đối với Thiền Tông thì có nghĩa là người đệ tử đã tham học lâu năm mới được phép vào trong thất riêng của Thầy để thọ nhận những lời giáo chỉ, huấn thị ân cần, hay để hỏi đạo. Cho nên người mới đến tham học thì không được vào thất Thầy. Ngày xưa không có quy chế rõ rệt nào đối với việc nhập thất, vì tùy theo cơ duyên, thời tiết, căn cơ mà cho đệ tử nhập thất. Nhưng từ sau thời Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一, 709-788), Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海, 749-814) trở đi, bắt đầu có quy định rõ ràng, có ngày nhất định để tiến hành nhập thất. Ngoài đời cho rằng đắc được pháp của Thầy tức là đệ tử nhập thất; tuy nhiên nếu bảo là người nhập thất thì người đó chưa hẳn đã đắc được pháp của Thầy. Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑) quyển 8 có đoạn rằng: “Tổ Sư truyện vân: 'Ngũ Tổ Đại Sư chí dạ, mật lịnh thị giả ư Đối Phường chiêu Lô hành giả nhập thất, toại truyền y pháp.' (祖師傳云、五祖大師至夜、密令侍者於碓坊召盧行者入室、遂傳衣法, Tổ Sư truyện kể rằng: 'Đến đêm Ngũ Tổ Đại Sư lén ra lịnh cho thị giả đến Đối Phường mời Lô hành giả nhập thất, bèn truyền cho y pháp').” Trong Kinh Pháp Hoa cũng có câu: “Trước Như Lai y, nhập Như Lai thất (著如來衣、入如來室, mặc y của Như Lai, vào thất của Như Lai).” Lại trong A Hàm Kinh (阿含經) cũng có dạy rằng: “Phật cáo Bí Sô, ngô lưỡng nguyệt dục yến tọa, những đẳng bất tu tham vấn, duy trừ tống thực cập sái địa thời khả chí ư thử; ưng tri Phật Tổ đương thời hữu nhập thất chi nghi dã (佛告苾芻、吾兩月欲宴坐、汝等不須參問、唯除送食及灑地時可至於此、應知佛祖當時有入室參問之儀也, Phật bảo các Tỳ Kheo, ta muốn ở yên trong hai tháng, các người không nên đến tham vấn, chỉ trừ khi cúng dường thức ăn và rưới nước trên đất thì có thể đến nơi đây; vậy nên biết rằng đương thời Phật Tổ đã có nghi nhập thất tham vấn rồi).” Trong phần Nhập Thất (入室) của Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修清規) có giải thích rằng: “Nhập thất giả, sư gia khám biện học tử, sách kỳ vị chí, đảo kỳ hư kháng, công kỳ thiên trọng (入室者、師家勘辯學子、策其未至、擣其虛亢、攻其偏重, người nhập thất là học trò được vị Thầy xem xét, làm rõ, giúp hoàn thành điều trò chưa đạt đến, lấp lổ hỏng của trò, phá tan chỗ thiên chấp của trò).” Trong Hưng Thiền Hộ Quốc Luận (興禪護國論, Gōzengokokuron), Minh Am Vinh Tây (明庵榮西, Myōan Eisai, 1141-1215), vị tổ sư khai sáng Lâm Tế Tông Nhật Bản, có dạy rằng: “Nhập thất vị ngộ Hòa Thượng gian hà chi nhật kiến lập chi, thử Tông nhất đại sự dã (入室謂遇和尚間暇之日建立之、此宗一大事也, nhập thất là gặp ngày Hòa Thượng rảnh rang mà lập nên, là việc trọng đại của Tông này).” Riêng đối với Mật Giáo, có thất riêng dùng làm cho lễ Quán Đảnh; cho nên nhập thất có nghĩa là vào trong thất thọ nhận phép Quán Đảnh.
(祥光): ánh sáng, hào quang tốt lành, tượng trưng cho điềm lành. Như trong bài Tuyên Đức Hoàng Hậu Đôn Khuyến Lương Vương Lịnh (宣德皇后敦勸梁王令) của Nhiệm Phưởng (任昉, 460-508) nhà Lương thời Nam Triều có đoạn: “Phong công hậu lợi, vô đắc nhi xưng, thị dĩ tường quang tổng chí, hưu khí tứ tắc (豐功厚利、無得而稱、是以祥光總至、休氣四塞, công lợi to lớn, không có mà thổi phồng lên, vì vậy điềm lành thảy đến, khí tốt bốn phương).” Trong Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1594) quyển 11, phần Thập Tổ Hiếp Tôn Giả Truyền Pháp Phú Na Dạ Xà (十祖脅尊者傳法富那夜奢), có đoạn: “Hiếp Tôn Giả, trung Ấn Độ nhân, bổn danh Nan Sanh, xử thai lục thập nguyệt, tương đản chi tịch, mẫu mộng bạch tượng tải nhất bảo tòa, tòa trí nhất minh châu, tùng môn nhi nhập, ký giác toại sanh, sanh nhi tường quang chúc thất, thể hữu kỳ hương (脅尊者、中印度人、本名難生、處胎六十年、將誕之夕、母夢白象載一寶座、座置一明珠、從門而入、既覺遂生、生而祥光燭室、體有奇香, Hiếp Tôn Giả, người miền trung Ấn Độ, tên là Nan Sanh, ở trong bào thai mẹ mười sáu tháng; vào đêm sắp sanh, mẹ ông mộng thấy con voi trắng chở một tòa báu, trên tòa ấy có đặt một viên ngọc sáng, con voi từ cửa đi vào; khi tỉnh dậy thì sanh ra ông, khi sanh thì hào quang tỏa sáng căn phòng, thân có mùi hương thơm lạ).” Hay trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1524) quyển 19, phần Nhị Tiêu Sư Truyện (二蕭師傳), lại có đoạn: “Sư chí Tống Gia Hy gian, thỉ nhập diệt, trụ thế tam bách dư tuế, hỏa hóa ư Phụng Quan nham, tường quang chúc thiên, dị hương phổ văn (師至宋嘉熙間、始入滅、住世三百餘歲、火化於鳳冠巖、祥光燭天、異香普聞, đến trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Hy [1237-1240] nhà Tống, sư mới bắt đầu nhập diệt, sống ở đời được hơn ba trăm tuổi, hỏa táng tại núi Phụng Quan, hào quang rực trời, hương lạ ngát khắp).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập