Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cam Lồ »»

(s: Amitāyus, Amitābha; t: Dpag-tu-med, Dpag-yas, j: Amidabutsu, 阿彌陀佛): tên gọi của một vị Phật rất quan trọng trong Phật Giáo Đại Thừa, giáo chủ của thế giới Tây Phương Cực Lạc, còn gọi là A Di Đa Phật (阿彌多佛), A Nhi Đa Phật (阿弭跢佛), thường được gọi là A Di Đà Phật hay A Di Đà Như Lai, gọi tắt là Di Đà. Nguyên bản Sanskrit có hai chữ: Amitāyus có âm dịch là A Di Đa Sưu (阿彌多廋), nghĩa là người có thọ mạng vô hạn hay vô lượng thọ; còn Amitābha có âm dịch là A Di Đa Bà (阿彌多婆), là người có ánh sáng vô hạn hay vô lượng quang; nhưng cả hai đều được phiên âm là A Di Đà. Trên thực tế, nguyên ngữ Amitābha được dùng khá phổ biến. Về xuất xứ của danh hiệu A Di Đà Phật này, trong A Di Đà Kinh (阿彌陀經) do Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch, có đề cập đến. Vị Phật này có ánh sáng vô lượng, tuổi thọ vô lượng, cho nên được gọi là A Di Đà Phật. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào bản tiếng Sanskrit A Di Đà Kinh (阿彌陀經) và Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh (稱讚淨土佛攝受經), vị Phật này có tuổi thọ vô số, ánh sáng vô biên, cho nên được gọi là Vô Lượng Thọ Phật và Vô Lượng Quang Phật. Riêng trong Bình Đẳng Giác Kinh (平等覺經) có bài kệ của A Di Đà Phật, còn trong Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, v.v., có danh hiệu khác là Vô Lượng Thanh Tịnh Phật hiện trú tại thế giới thanh tịnh tên Cực Lạc. Kinh điển lấy tín ngưỡng A Di Đà Phật làm chủ đề có 3 bộ kinh của Tịnh Độ là Vô Lượng Thọ Kinh (s: Sukhāvatīvyūha-sūtra, 無量壽經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經) và A Di Đà Kinh (阿彌陀經); cho nên trên cơ sở của ba kinh này Tịnh Độ Giáo được thành lập. Theo Vô Lượng Thọ Kinh, quyển thượng, trong đời quá khứ xa xưa thời đức Thế Tự Tại Vương Phật (世自在王佛) trụ thế, có vị quốc vương phát tâm vô thượng, xả bỏ vương vị xuất gia, tên là Bồ Tát Pháp Tạng (s: Dharmākara, 法藏, hay Tỳ Kheo Pháp Tạng). Vị này theo tu tập với Thế Tự Tại Vương Phật, phát 48 lời thệ nguyện để cứu độ chúng sanh và sau một thời gian tu hành lâu xa, ngài thành tựu bản nguyện của mình và được thành Phật. Vị Phật này chính là A Di Đà Phật. Cho đến hiện tại ngài vẫn đang thuyết pháp tại thế giới gọi là Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂), cách đây khoảng 10 vạn ức Phật độ về phía Tây. Ngài thường tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sanh về cõi Tây Phương Tịnh Độ, cho nên được gọi là Tiếp Dẫn Phật. Thông thường tượng A Di Đà Tam Tôn có hai vị Bồ Tát Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音) và Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 勢至) đứng hầu hai bên, cho nên hai vị này cùng với Phật A Di Đà được gọi là Tây Phương Tam Thánh. Theo Bát Nhã Tam Muội Kinh (般若三昧經) quyển thượng cho biết rằng đức Phật A Di Đà có 32 tướng tốt, ánh sáng chiếu tỏa khắp, hùng tráng không gì sánh bằng. Đặc biệt, theo lời dạy trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh cho thấy rằng thân của đức Phật Vô Lượng Thọ có trăm ngàn sắc màu vàng rực như vàng Diêm Phù Đàn (s: jambūnadasuvarṇa, 閻浮檀) của Trời Dạ Ma (s, p: Yāma, 夜摩), cao 60 vạn ức na do tha (s: nayuta, niyuta, 那由他) Hằng hà sa số do tuần (s, p: yojana, 由旬). Giữa hai lông mi của ngài có lông mi trắng uyển chuyển xoay về bên phải, tướng lớn nhỏ của lông mi có độ cao gấp 5 lần núi Tu Di (s, p: Sumeru, 須彌山). Mắt của ngài trong trắng, rõ ràng, có bề ngang rộng gấp 4 lần nước biển lớn. Thân ngài có 84.000 tướng tốt, trong mỗi mỗi tướng như vậy có 84.000 ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới, thâu nhiếp các chúng sanh niệm Phật. Tại Tây Tạng, Phật A Di Đà được xem như hai vị Phật Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ; nếu ai mong cầu có trí tuệ thì quy y Phật Vô Lượng Quang, ai mong cầu tuổi thọ và phước lạc thì quy y Phật Vô Lượng Thọ. Trong Mật Giáo, Phật A Di Đà được xem như là diệu quang sát trí của Đại Nhật Như Lai (s: Vairocana, 大日如來), được gọi là Cam Lồ Vương (s: Amṛta-rāja, 甘露王). Trong Kim Cang Giới Mạn Trà La (金剛界曼茶羅), ngài được gọi là A Di Đà Như Lai có thân thọ dụng trí tuệ, nằm ở trung ương vòng nguyệt luân phía Tây. Thân của ngài có sắc vàng ròng, tay bắt ấn Tam Ma Địa (s, p: samādhi, 三摩地), chủng tử là hrīḥ, mật hiệu là Thanh Tịnh Kim Cang, và hình Tam Muội Da là hoa sen. Trong Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼茶羅), ngài được gọi là Vô Lượng Thọ Như Lai, nằm ở phía Tây, trong đài có 8 cánh sen. Thân ngài có sắc màu vàng trắng hay vàng ròng, mắt nhắm lại, thân nhẹ như tà áo, ngồi xếp bằng trên tòa sen báu, tay bắt ấn nhập định, chủng tử là saṃ, mật hiệu là Thanh Tịnh Kim Cang, và hình Tam Muội Da là hoa sen vừa mới hé nở. Tại An Lạc Lâm (安樂林), Bạch Vân Am (白雲菴), thuộc Từ Khê (慈谿), Ninh Ba (寧波), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có câu đối như sau: “Nhất cú Di Đà hữu thể hữu tông hữu dụng, tam thiên thế giới tức không tức giả tức trung (一句彌陀有體有宗有用、三千世界卽空卽假卽中, một câu Di Đà, có thể có tông có dụng, ba ngàn thế giới là không là giả là trung).” Hay tại Phổ Đà Tự (普陀寺) ở Hạ Môn (廈門), Tỉnh Phúc Kiến (福建省南) cũng có câu đối tán thán công hạnh của đức Phật A Di Đà như: “Di Đà thủ tiếp Liên Trì khách, chúng sanh tâm quy Cực Lạc bang (彌陀手接蓮池客、眾生心歸極樂邦, Di Đà tay rước Liên Trì khách, chúng sanh tâm về Cực Lạc bang).” Đào Duy Từ (1572-1634) có câu thơ rằng: “Những khi khói tỏ yên hà, mảng âu mây cuốn Di Đà Tây Thiên.” Hay trong truyện Phan Trần cũng có câu: “Tam Quy Ngũ Giới chứng tình, xem câu nhân quả niệm kinh Di Đà.”
(s, p: Ānanda, 阿難): từ gọi tắt của âm dịch A Nan Đà (阿難陀), ý dịch là Khánh Hỷ (慶喜), Vô Nhiễm (無染), con trai của vương tộc Sĩ Cam Lộ Phạn (s: Amṛtodana, 士甘露飯, còn gọi là Bạch Phạn Vương [白飯王]) thuộc dòng họ Thích Ca (s: Śākya, p: Sakya, 釋迦), anh em với Đề Bà Đạt Đa (s, p: Devadatta, 提婆達多), anh em chú bác với đức Phật, là thị giả hầu cận Ngài trong một thời gian lâu dài. Ngày đức Thế Tôn thành đạo là ngày A Nan ra đời; Ngài giảng kinh xong 20 năm thì khi ấy A Nan mới xuất gia. Sau khi thành đạo, lần đầu tiên đức Thế Tôn trở về thành Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), khi Ngài trú tại Vườn Xoài (s: Āmrapāli-vana, p: Ambapāli-vana, 菴婆波梨園, tức Am Bà Ba Lợi Viên), Tôn giả A Nan đã cùng với các vương tử thuộc dòng họ Thích Ca và người thợ hớt tóc Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離) xin xuất gia theo Phật. Từ đó trở đi, Tôn giả thường hầu hạ bên đức Thích Tôn, phần nhiều nghe được những lời dạy của Ngài, nên được xưng tụng là Đa Văn Đệ Nhất (多聞第一, nghe nhiều số một). Có thuyết cho rằng Tôn giả đã tu đắc pháp gọi là Tánh Giác Tự Tại Tam Muội (性覺自在三昧), có thể ở trong định thấu hiểu các pháp; cho nên khi kết tập Pháp Tạng thì A Nan được suy cử. Khi dưỡng mẫu của Phật là bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī Gautamī, s: Mahāpajāpatī Gotamī, 摩訶波闍波提) cầu xin xuất gia nhưng không được phép, chính Tôn giả đã đích thân xin Phật và sau khi được phép thì Tôn giả là người đã tận lực sáng lập giáo đoàn Tỳ Kheo Ni đầu tiên. Vào tháng thứ 2 sau khi Phật diệt độ, khi cuộc kết tập lần đầu tiên được tiến hành tại Hang Thất Diệp (s: Sapta-parṇa-guhā, 七葉窟) ngoài Thành Vương Xá (s: Rājagṛha, p: Rājagaha, 王舍城), Tôn giả đã cùng tham dự với 499 vị đệ tử của đức Phật chứng quả A La Hán. Khi đức Phật diệt độ, tương lai của giáo đoàn được phó thác lại cho Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉), cho nên A Nan được Ca Diếp truyền trao giáo pháp cho và trở thành vị tổ thứ 2 của Thiền Tông Tây Thiên. Theo các tài liệu như Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni Kinh (救拔焰口餓鬼陀羅尼經, Taishō 1313), Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni Thần Chú Kinh (救面燃餓鬼陀羅尼神呪經, Taishō 1314), Du Già Tập Yếu Cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu Nghi Quỹ Kinh (瑜伽集要救阿難陀羅尼焰口儀軌經, Taishō 1318), Du Già Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Khởi Giáo A Nan Đà Duyên Do (瑜伽集要焰口施食起敎阿難陀緣由, Taishō 1319), có dẫn về nguồn gốc cúng thí thực Ngạ Quỷ, âm linh cô hồn. Câu chuyện kể rằng có một đêm nọ trong khi đang hành Thiền định quán chiếu những lời dạy của Đức Phật, vào canh ba tôn giả A Nan chợt nhìn thấy một con quỷ đói thật hung tợn tên là Diệm Khẩu (s: Ulkā-mukha, 焰口) có thân hình gầy ốm, miệng rực cháy lửa và cổ họng của nó nhỏ như cây kim. Con quỷ ấy đến trước mặt tôn giả thưa rằng ba ngày sau mạng của tôn giả sẽ hết và sanh vào thế giới ngạ quỷ (ma đói). Nghe vậy, tôn giả A Nan vô cùng ngạc nhiên và lấy làm sợ hãi, bèn hỏi con quỷ kia xem có cách nào thoát khỏi tai họa ấy không. Con quỷ trả lởi rằng: “Vào sáng ngày mai nếu tôn giả có thể cúng dường thức ăn và nước uống cho trăm ngàn ức chúng ngạ quỷ nhiều như cát sông Hằng, cho vô số đạo sĩ Bà La Môn, cho chư thiên và các vị thần cai quản việc làm của con người, cho quá cố các vong linh, dùng cái hộc của nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀) để cúng dường cho họ 49 hộc thức ăn và nước uống, và vì họ mà cúng dường cho Tam Bảo, như vậy tôn giả sẽ được tăng thêm tuổi thọ, cùng lúc đó sẽ làm cho chúng tôi thoát khỏi cảnh khổ đau của Ngạ Quỷ và sanh lên cõi trời.” Trên cơ sở của nguồn gốc này, nghi lễ Cúng Thí Thực cho âm linh cô hồn Ngạ Quỷ ra đời cho đến ngày nay.
(s: Aniruddha, p: Anuruddha, 阿冕樓馱): còn gọi là A Na Luật (阿那律), A Nan Luật (阿難律), A Lâu Đà (阿樓陀), hay A Ni Luật Đà (阿尼律陀), A Nê Lô Đậu (阿泥盧豆); ý dịch là Vô Diệt (無滅), Vô Tham (無貪), Vô Chướng (無障), Như Ý (如意), Thiện Ý (善意), Bất Tranh Hữu Vô (不爭有無); là người em họ của Đức Phật, một trong các vị đại đệ tử của Phật. Về xuất xứ tên Vô Tham của Tôn Giả, do đời trước xa xưa đói khát, ông thường lấy thức ăn của mình cúng dường cho một vị Bích Chi Phật (辟支佛), do đó, 7 đời sanh lên cõi trời đều làm Thiên Vương; 7 đời sanh vào cõi người đều làm vua, đời đời về sau mọi cầu mong đều được như ý, và trong 91 kiếp không chịu nỗi khổ nghèo cùng, khốn khổ. Về thân thế của Tôn Giả, Khởi Thế Kinh (起世經) quyển 10, Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 15, Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經) quyển 2, v.v., cho biết rằng Tôn Giả là con của Hộc Phạn Vương (斛飯王). Tuy nhiên, Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經) quyển 11, Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 3 lại cho rằng Tôn Giả là con Cam Lồ Phạn Vương (甘露飯王). Sau khi thành đạo, đức Phật trở về thăm cố hương, lúc đó A Na Luật cùng với A Nan (阿難), Nan Đà (難陀), Ưu Ba Ly (優波離), v.v., xuất gia làm đệ tử đức Phật. Tôn Giả cũng giống như A Nan và rất nhiều người trong giòng họ xuất gia theo Phật. Tôn Giả có tật vừa nghe thuyết pháp vừa ngủ gục nên một lần kia bị Đức Phật quở mắng, Ngài phát thệ nguyện từ đó trở đi, tuyệt đối không ngủ nghỉ, đến nỗi, về sau Tôn Giả bị mù cả hai mắt. Tuy nhiên, do kết quả của sự tinh tấn tu hành như vậy, Tôn Giả đã chứng được Thiên Nhãn. Tôn Giả thông cả Bát Đại Niệm (八大念, tức tám điều giác ngộ của bậc đại nhân) và Tứ Niệm Xứ (四念處, bốn phép Thiền Quán). Tôn Giả được liệt vào 10 vị đại đệ tử và được xem là người có Thiên Nhãn Đệ Nhất. Khi Đức Phật nhập diệt thì Tôn Giả đã cùng với A Nan và các đệ tử khác hầu cận một bên.
(孤魂): những vong hồn cô quạnh, sống lây lất đây đó, không nơi nương tựa, không ai thờ tự. Trong Đạo Giáo cũng như Phật Giáo thường tiến hành nghi thức cúng cho các âm linh cô hồn để cho họ có thức ăn uống và nhờ nghe câu kinh, tiếng kệ mà được siêu độ, thoát khỏi cảnh khổ sống không nơi nương tựa như vậy. Theo Linh Bảo Lãnh Giáo Tế Độ Kim Thư (靈寶領敎濟度金書) của Đạo Giáo, nghi thức này được gọi là Ngọc Sơn Tịnh Cúng (玉山淨供), Cam Lồ Tịnh Cúng (甘露淨供), Tế Luyện (祭煉), hay tên gọi phổ biến nhất là Phóng Diệm Khẩu (放焰口). Trong Lịch Thế Chơn Tiên Thể Đạo Thông Giám (歷世眞仙體道通鑒) quyển 23 có dạy rằng: “Mỗi ư Tam Nguyên Bát Tiết, cát nhật lương tiêu, phổ triệu thập phương chư đại Địa Ngục, cùng hồn trệ phách, lai nghệ đàn tiền, câu thọ Tế Luyện, kỳ thừa phù lục, các toại siêu sanh (毎於三元八節、吉日良宵、普召十方諸大地獄、窮魂滞魄、來詣壇前、倶受祭煉、祇承符籙、各逐超生, Vào mỗi dịp Tam Nguyên, tám tiết, ngày tốt đêm lành, mời khắp mười phương các địa ngục lớn, hồn cùng đường, phách lang thang, đến tập trung trước đàn, đều thọ lễ Tế Luyện, mong thừa phù phép, thảy được siêu sanh).” Trong Phật Giáo, lễ nghi này cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống tâm linh của người Phật tử. Tùy theo nghi lễ tiến hành đơn giản hay long trọng, tên gọi có khác nhau như Cúng Cháo, Cúng Cô Hồn, Cúng Thí Thực, Chẩn Tế Cô Hồn, Phóng Diệm Khẩu, Thí Ngạ Quỷ, v.v. Trong bài Chúng Sanh Thập Loại Tế Văn (眾生十類祭文, Văn Tế Mười Loại Chúng Sanh) của Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) có đoạn rằng: “Trong trường dạ tối tăm trời đất, có khôn thiêng phảng phất u minh, thương thay thập loại chúng sinh, hồn đơn phách chiếc linh đinh quê người, hương lửa đã không nơi nương tựa, hồn mồ côi lần lữa đêm đen, còn chi ai khá ai hèn, còn chi mà nói kẻ hiền người ngu…”
(古心如磬, Koshin Nyokei, 1541-1615): vị tăng Luật Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Minh, tổ của Phái Cổ Lâm (古林派), xuất thân Lật Thủy (溧水), Giang Tô (江蘇), họ Dương (楊), tự là Cổ Tâm (古心). Lúc còn nhỏ tuổi, ông đã mất cha, được mẹ nuôi khôn lớn. Vào năm thứ 31 (1552) niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖), mẹ lại qua đời, ông cảm nhận được lý vô thường của cuộc đời, nên đến năm thứ 10 (1582, có thuyết cho là trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Tĩnh) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), ông theo xuất gia với Tố An (素安) ở Thê Hà Tự (棲霞寺), Nhiếp Sơn (攝山). Sau nhân đọc Phẩm Trú Xứ Bồ Tát trong Kinh Hoa Nghiêm, ông thệ nguyện thọ giới với Bồ Tát Văn Thù (文殊), bèn đến Ngũ Đài Sơn (五臺山), suốt đêm thành tâm cầu nguyện. Cho đến một hôm, trong khi hoảng hốt, ông được một lão bà ban cho y Tăng Già Lê (僧伽黎), nhìn thấy ra là Bồ Tát, liền đốn ngộ pháp môn tâm địa của 5 thiên, 3 tụ, cảm thấy luật của Đại Thừa và Tiểu Thừa đều từ trong ngực lưu xuất ra. Giữa đường khi trở về cố hương, ông đi qua Nam Kinh (南京), tình cờ gặp lúc ngôi tháp ở Trường Can Tự (長干寺, tức Báo Ân Tự [報恩寺]) đang được tu sửa, ông lưu trú tại đây và được gọi là Ưu Ba Ly (優波離) tái lai. Ông từng sống qua các chùa như Linh Cốc (靈谷), Thê Hà (棲霞), Cam Lồ (甘露), v.v.; khai đàn truyền giới hơn 30 nơi, và có khoảng hơn vạn người theo thọ giáo với ông. Vào năm thứ 41 (1613) niên hiệu Vạn Lịch, vua Thần Tông ban cho ông Tử Y, bình bát, tích trượng với hiệu là Huệ Vân Luật Sư (慧雲律師), và mời ông thiết lập Đại Hội Long Hoa (龍華大會) tại Thánh Quang Vĩnh Minh Tự (聖光永明寺) trên Ngũ Đài Sơn. Trước tác của ông có Kinh Luật Giới Tướng Bố Tát Quỹ Nghi (經律戒相布薩軌儀) 1 quyển. Ông thị tịch vào tháng 11 năm thứ 43 niên hiệu Vạn Lịch, hưởng thọ 75 tuổi. Pháp hệ của ông được gọi là Phái Cổ Lâm.
(s: maṇḍa, sarpir-maṇḍa, p: maṇḍa, sappi-maṇḍa, 醍醐):
(1) chỉ loại dầu tinh chất được chế thành từ ván sữa; màu vàng trắng, đem làm bánh, rất ngọt và béo;
(2) chỉ cho một loại rượu ngon;
(3) là một trong 5 vị, tức sữa, cạo sữa, ván sữa sống, ván sữa chín và đề hồ; nên có tên gọi là Đề Hồ Vị (醍醐味);
(4) vì Đề Hồ là vị ngon nhất trong các loại sữa, nên Phật Giáo dùng để chỉ Niết Bàn, Phật tánh, giáo lý chân thật. Trong kinh điển Hán dịch của Phật Giáo Trung Quốc thời kỳ đầu, Đề Hồ có nghĩa là “bản chất, tinh túy.”
Ngoài ra, Đề Hồ còn được dùng như là một phương thuốc chữa bệnh; như trong chương Tây Vức (西域) của Ngụy Thư (魏書) có đoạn: “Tục tiễn phát tề mi, dĩ Đề Hồ đồ chi, dục dục nhiên quang trạch, nhật tam tháo thấu, nhiên hậu ẩm thực (俗剪髮齊眉、以醍醐塗之、昱昱然光澤、日三澡漱、然後飲食, có tục lệ cắt tóc xén lông mày, lấy đề hồ thoa lên, hong nắng ánh sáng, một ngày tắm giặt ba lần, sau đó mới ăn uống).” Quyển 596 của Toàn Đường Văn (全唐文), bài Tống Thái Chiểu Hiếu Liêm Cập Đệ Hậu Quy Mân Cận Tỉnh Tự (送蔡沼孝廉及第後歸閩覲省序) của Âu Dương Chiêm (歐陽詹, 756-798) lại có đoạn rằng: “Phanh nhũ vi đề hồ, đoán kim vi càn tương, dự kỳ phanh đoán dĩ biến hóa (烹乳爲醍醐、鍛金爲乾將、予期烹鍛以變化, nấu sữa thành Đề Hồ, nung vàng làm kiếm tốt, chờ đợi lúc nấu và rèn biến hóa).” Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅蜜多經) quyển 1 có giải thích rằng: “Khế Kinh như nhũ, điều phục như lạc, Đối Pháp Giáo giả như bỉ sanh tô, Đại Thừa Bát Nhã do như thục tô, Tổng Trì Môn giả thí như Đề Hồ. Đề Hồ chi vị, nhũ, lạc, tô trung vi diệu đệ nhất, năng trừ chư bệnh, linh chư hữu tình thân tâm an lạc. Tổng Trì Môn giả, Khế Kinh đẳng trung tối vi đệ nhất, năng trừ trọng tội, linh chư chúng sanh giải thoát sanh tử, tốc chứng Niết Bàn an lạc pháp thân (契經如乳、調伏如酪、對法敎者如彼生酥、大乘般若猶如熟酥、總持門者譬如醍醐。醍醐之味、乳、酪、酥中微妙第一、能除諸病、令諸有情身心安樂。總持門者、契經等中最爲第一、能除重罪、令諸眾生解脫生死、速證涅槃安樂法身, Khế Kinh như sữa, điều phục như cạo sữa, giáo lý Đối Pháp giống như ván sữa sống, Bát Nhã Đại Thừa như ván sữa chín, Tổng Trì Môn ví như Đề Hồ. Vị của Đề Hồ vi diệu số một trong các loại sữa, cạo sữa, ván sữa; có thể trừ các bệnh, khiến cho thân tâm chúng hữu tình được an lạc. Tổng Trì Môn là số một trong Khế Kinh, v.v., có thể trừ các tội nặng, khiến các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, pháp thân an lạc).” Do vì Đề Hồ được xem như là giáo lý tối thượng, Phật tánh, v.v.; cho nên xuất hiện thuật ngữ “Đề Hồ Quán Đảnh (醍醐灌頂)” để ví dụ cho việc lấy giáo pháp tối thượng giúp người hành trì để chuyển hóa vô minh, phiền não và đạt được mát mẻ, an lạc. Như trong bài thơ Hành Lộ Nan (行路難) của Cố Huống (顧況, 725-814) có câu: “Khởi tri quán đảnh hữu Đề Hồ, năng sử thanh lương đầu bất nhiệt (豈知灌頂有醍醐、能使清涼頭不熱, sao biết quán đảnh có Đề Hồ, thể khiến mát trong không nóng).” Hay trong bài Ta Lạc Phát (嗟落髮) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) cũng có câu: “Hữu như Đề Hồ quán, tọa thọ thanh lương lạc (有如醍醐灌、坐受清涼樂, lại như rưới Đề Hồ, ngồi thọ vui mát mẻ).” Lại như trong bài Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh Tự (大乘本生心地觀經序) của vua Hiến Tông (憲宗, tại vị 805-820) nhà Đường có đoạn: “Tỉ phi duyệt chi giả Cam Lồ sái ư tâm điền, hiểu ngộ chi giả Đề Hồ lưu ư tánh cảnh (俾披閱之者甘露灑於心田、曉悟之者醍醐流於性境, người đọc kỹ nó như Cam Lồ rưới nơi ruộng tâm, người hiểu ngộ được nó như Đề Hồ chảy vào cảnh giới tánh).” Bên cạnh đó, trong bài Thật Tế Tự Cố Tự Chủ Hoài Uẩn Phụng Sắc Tặng Long Xiển Đại Pháp Sư Bi Minh (實際寺故寺主懷惲奉敕贈隆闡大法師碑銘) của Đổng Hạo (董浩) nhà Thanh cũng có đoạn: “Tri dữ bất tri, ngưỡng Đề Hồ ư cú kệ, thức dữ bất thức, tuân pháp nhũ ư ba lan (知與不知、仰醍醐於句偈、識與不識、詢法乳於波瀾, biết và không biết, kính Đề Hồ từng câu kệ, hiểu và không hiểu, tin sữa pháp nơi sóng cả).” Ngay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 31 có câu: “Na Sa Tăng nhất văn Tôn Ngộ Không tam cá tự, tiện hảo tợ Đề Hồ quán đảnh, Cam Lồ tư tâm (那沙僧一聞孫悟空三個字、便好似醒醐灌頂、甘露滋心, Sa Tăng một khi nghe được ba chữ Tôn Ngộ Không, tức thì giống như nước Đề Hồ rưới đầu, Cam Lồ rửa tâm).” Trong bài tán Kinh Pháp Hoa cũng có đề cập đến Đề Hồ như: “Hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội đề hồ đích đích lương (喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼, dưới cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trong miệng Đề Hồ giọt giọt tươi).”
(s: Kṣitigarbha, j: Jizō, 地藏): tức Địa Tạng Bồ Tát (地藏菩薩, Jizō Bosatsu), âm dịch là Khất Xoa Để Nghiệt Bà (乞叉底蘗婆), Chỉ Sư Đế Yết Bà (枳師帝掲婆), ý dịch là Trì Địa (持地), Diệu Tràng (妙幢), Vô Biên Tâm (無邊心). Kể từ khi đức Thế Tôn nhập diệt cho đến khi Phật Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) xuất hiện, ngài thường hiện hình tướng Thanh Văn, phân chia thân mình khắp Sáu Đường để cứu độ hết thảy chúng sanh từ trên trời cho xuống dưới Địa Ngục, sau đó mới thệ nguyện thành Phật. Tên gọi của ngài có 6 loại như:
(1) Kim Cang Nguyện Địa Tạng (金剛願地藏): vị Bồ Tát thường cứu độ chúng sanh trong cõi Địa Ngục, tay trái cầm tràng phan và tay phải bắt Ấn Thành Biện (成辨印);
(2) Kim Cang Bảo Địa Tạng (金剛寳地藏): đức Địa Tạng chuyên cứu độ chúng sanh trong đường Ngạ Quỷ, tay trái cầm viên ngọc báu, và tay phải bắt Ấn Cam Lồ (甘露印) hay Ấn Thí Vô Úy (施無畏印);
(3) Kim Cang Bi Địa Tạng (金剛悲地藏): đức Địa Tạng chuyên cứu độ chúng sanh trong đường Súc Sanh, vai trái mang cây Tích Trượng (s: khakkhara, khakharaka, 錫杖), bàn tay phải ngữa ra theo hình thức tiếp đón;
(4) Kim Cang Tràng Địa Tạng (金剛幢地藏): đức Địa Tạng chuyên cứu độ chúng sanh trong cõi Tu La, tay trái cầm tràng phan hay cây kiếm, tay phải bắt Ấn Thí Vô Úy (施無畏印);
(5) Phóng Quang Địa Tạng (放光地藏): đức Địa Tạng chuyên cứu độ chúng sanh trong cõi người, tay trái cầm cây Tích Trượng, tay phải bắt Ấn Dữ Nguyện (與願印);
(6) Dự Thiên Hạ Địa Tạng (預天賀地藏): đức Địa Tạng chuyên cứu độ chúng sanh trên cõi trời, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải bắt Ấn Thuyết Pháp (說法印).
Tại Nhật Bản, tín ngưỡng Địa Tạng phổ biến rộng rãi từ giữa thời Bình An (平安, Heian) trở đi; người ta tôn thờ ngài hai bên đường lộ, đặc biệt trong Thiền Tông thì Lục Địa Tạng Tôn (六尊地藏) được tôn trí tại các nghĩa trang. Bên cạnh đó, còn có tín ngưỡng về Địa Tạng Giữ Con (子守地藏), Địa Tạng Nuôi Con (子育地藏), Địa Tạng Sinh Con An Toàn (子安地藏). Ngoài ra còn có Diên Mạng Địa Tạng (延命地藏), Thắng Quân Địa Tạng (勝軍地藏), v.v.
(s: saddharma, 妙法): âm dịch là Tát Đạt Ma (薩達磨), Tát Đạt Thích Ma (薩達刺摩); nghĩa là pháp tối thắng đệ nhất, vi diệu, không thể nghĩ bàn. Như trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Nghĩa (妙法蓮華經玄義, Taishō Vol. 33, No. 1716) quyển 1, phần Tư Tự Vương (私序王), giải thích rằng: “Sở ngôn diệu giả, bao mỹ bất khả tư nghì chi pháp dã (所言妙者、褒美不可思議之法也, cái gọi là diệu, là khen ngợi pháp không thể nghĩ bàn vậy).” Hay trong Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 19, phần Nội Điển Tự (內典序) có câu: “Diệu pháp luân chuyển, Cam Lộ khải phi (妙法輪轉、甘露啟霏, pháp mầu xoay chuyển, Cam Lộ rưới khắp).” Hoặc trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475), Phẩm Phật Quốc (佛國品), cũng có đoạn: “Dĩ tư diệu pháp tế quần sinh, nhất thọ bất thối thường tịch nhiên, độ lão bệnh tử đại y vương, đương lễ pháp hải đức vô biên (以斯妙法濟群生、一受不退常寂然、度老病死大醫王、當禮法海德無邊, lấy pháp mầu này cứu quần sinh, thọ nhận không thối thường lặng yên, độ già bệnh chết vua thuốc lớn, nên lễ biển pháp đức vô biên).”
(東極青華大帝): còn gọi là Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (青玄九陽上帝), là hóa thân của Đông Hoa Đế Quân (東華帝君), tức Mộc Công (木公) hay Đoàn Hoa Mộc Công, ngự tại Đông Cực (東極). Hậu thế thường cho là Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế và Đông Hoa Đế Quân có cùng nguyên khí hóa hợp; nhưng thực thế thì Đông Hoa Đế Quân có liên quan đến Đông Vương Công (東王公). Vương Công tức là Mộc Công, hay Đông Hoàng Thái Ất (東皇太乙), cùng với Tây Vương Mẫu (西王母) quản lý hai khí, phân thành âm dương, định ra càn khôn; về sau hóa thành Đông Hoa Đại Đế (東華大帝) và Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙救苦天尊). Khí của Thanh Hoa Đại Đế hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, thệ nguyện cứu độ chúng sanh, nên được tôn xưng là “Vạn Vị Đế Chúa Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế (萬彙帝主東極青華大帝)”, thuộc vào một trong Tứ Ngự của Đạo Giáo. Ngài Cứu Khổ Thiên Tôn cùng với Chu Lăng Thiên Tôn (朱陵天尊) và Độ Mạng Thiên Tôn (度命天尊) được gọi là Thái Ất Tam Cứu Khổ, là vị thần chủ tể tối cao cứu độ vạn loại. Sau khi biến hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế lại ứng hóa khắp mười phương, nên có hiệu là “Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (十方救苦天尊).” Chư vị Thiên Tôn trong 10 phương có hiệu là: Đông Phương Bảo Hoàng Thượng Thiên Tôn (東方寶皇上天尊), Nam Phương Huyền Chơn Vạn Phước Thiên Tôn (南方玄眞萬福天尊), Tây Phương Thái Diệu Chí Cực Thiên Tôn (西方太妙至極天尊), Bắc Phương Huyền Thượng Ngọc Thần Thiên Tôn (北方玄上玉宸天尊), Đông Nam Phương Hiếu Sanh Độ Thiên Tôn (東南方好生度天尊), Đông Bắc Phương Độ Tiên Thượng Thánh Thiên Tôn (東北方度仙上聖天尊), Tây Nam Phương Thái Linh Hư Hoàng Thiên Tôn (西南方太靈虛皇天尊), Tây Bắc Phương Vô Lượng Thái Hoa Thiên Tôn (西北方無量太華天尊), Thượng Phương Ngọc Hư Minh Hoàng Thiên Tôn (上方玉虛明皇天尊) và Hạ Phương Chơn Hoàng Động Thần Thiên Tôn (下方眞皇洞神天尊); được gọi chung là Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寶十方救苦天尊). Vị Thiên Tôn này còn quản lý luôn cả việc thần quỷ dưới Minh Phủ, hóa thành Thập Điện Minh Vương (十殿冥王) như: Đông Phương Thiên Tôn hóa thành Tần Quảng Vương (秦廣王) của điện thứ nhất, cư trú ở Huyền Minh Cung (玄冥宮); Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Sở Giang Vương (楚江王) của điện thứ hai, cư tại Phổ Minh Cung (普明宮); Tây Phương Thiên Tôn hóa thành Tống Đế Vương (宋帝王) của điện thứ ba, cư tại Củ Tuyệt Cung (糾絕宮); Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Ngũ Quan Vương (五官王) của điện thứ tư, cư tại Thái Hòa Cung (太和宮); Đông Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Diêm La Vương (閻羅王) của điện thứ năm, cư tại Củ Luân Cung (糾倫宮); Đông Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Biện Thành Vương (卞城王) của điện thứ sáu, cư tại Minh Thần Cung (明晨宮); Tây Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Thái Sơn Vương (泰山王) của điện thứ bảy, cư tại Thần Hoa Cung (神華宮); Tây Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Bình Đẳng Vương (平等王) của điện thứ tám, cư tại Thất Phi Cung (七非宮); Thượng Phương Thiên Tôn hóa thành Đô Thị Vương (都市王) của điện thứ chín, cư tại Bích Chơn Cung (碧眞宮); và Hạ Phương Thiên Tôn hóa thành Chuyển Luân Vương (轉輪王) của điện thứ mười, cư tại Túc Anh Cung (肅英宮). Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn có đầy đủ thần lực tự tại, sức trí tuệ lớn vô lượng, thường giải ách nạn, phá tà, hàng ma, cũng như giải trừ hết thảy bệnh tật cho con người; cho nên cũng có tên là Thái Ất Y Vương (太乙醫王). Ngài có đủ sức thần thông nên có thể ngao du khắp nơi như lên trời, xuống cõi người, Địa Phủ, v.v. Vì vậy, trên Trời Ngài có tên là Thái Nhất Phước Thần (太一福神), trên đời gọi là Đại Từ Nhân Giả (大慈仁者), dưới lòng đất là Nhật Diệu Địa Quân (日耀地君), nơi chỗ ngoại đạo là Sư Tử Minh Vương (獅子明王), dưới Thủy Phủ là Động Uyên Đế Quân (洞淵帝君). Ngài thường hóa hiện các thân hình, theo âm thanh để cứu độ chúng sanh, nên cũng được gọi là Thái Ất Tầm Thanh Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙尋聲救苦天尊). Trong Tống Sử (宋史), phần Phương Kỷ Truyện Hạ (方技傳下), Lâm Linh Tố (林靈素) có câu: “Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương giả, Thượng Đế chi trưởng tử, kỳ đệ hiệu Thanh Hoa Đế Quân giả, chủ Đông phương (神霄玉清王者、上帝之長子、其弟號青華帝君者、主東方, Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương là trưởng tử của Thượng Đế, em trai ông hiệu Thanh Hoa Đế Quân, chủ quản phương Đông).” Hay như trong bài thơ Bộ Hư (步虛) của Lục Du (陸游, 1125-1210) nhà Tống có câu: “Bán túy kỵ nhất hạc, khứ yết Thanh Hoa Quân (半醉騎一鶴、去謁青華君, nữa say cỡi con hạc, đến yết Thanh Hoa Quân).” Trong Thái Thượng Vô Cực Đại Đạo Tam Thập Lục Bộ Tôn Kinh (太上無極大道三十六部尊經) có câu kính lễ rằng: “Chí tâm quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, Thất Bảo phương khiên lâm, Cửu Sắc Liên Hoa tòa, vạn chơn hoàn củng nội, bách ức thoại quang trung, Ngọc Thanh Linh Bảo Tôn, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Thập Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Ức Ức Kiếp Trung, Độ Nhân Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (志心皈命禮、青華長樂界、東極妙嚴宮、七寶芳騫林、九色蓮花座、萬真環拱內、百億瑞光中、玉清靈寶尊、應化玄元始、號劫垂慈濟、大千甘露門、妙道眞身、紫金瑞相、隨機赴感、誓願無邊、大聖大慈、大悲大願、十方化號、普度眾生、億億劫中、度人無量、尋聲赴感、太乙救苦天尊、青玄九陽上帝, Một lòng quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, rừng hương thơm Bảy Báu, tòa Hoa Sen Chín Sắc, vạn loài đều củng phục, trong trăm ức hào quang, Đấng Ngọc Thanh Linh Bảo, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Mười Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Trong Muôn Ức Kiếp, Độ Người Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế).” Ngày thánh đản của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là 11 tháng 11 Âm Lịch.
(覺皇): vua giác ngộ, còn gọi là Giác Vương (覺王), xưng hiệu của Phật. Như trong bài Đại Hưng Long Tiết Công Đức Sớ (代興龍節功德疏) của Trần Sư Đạo (陳師道, 1053-1101) nhà Tống có câu: “Phục nguyện bằng Giác Hoàng chi ngoại trợ, hiệu thần tử chi nội tâm (伏願憑覺皇之外助、效臣子之內心, cúi mong nương Giác Hoàng ấy ngoài giúp, chữa chúng thần ấy trong tâm).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3, phần Lục Hiến Tổng Văn (六獻總文), lại có đoạn: “Như Cam Lộ nhi ốc tâm, tợ Đề Hồ nhi quán đảnh, hà tất cánh tầm Di Lặc Phật, chỉ kim hạnh đổ Thích Ca Sư, cung đối Giác Hoàng, liêu ngâm Phật vận, tín sĩ kiền thành, cung thân thiết bái (如甘露而沃心、似醍醐而灌頂、何必更尋彌勒佛、只今幸睹釋迦師、恭對覺皇、聊吟佛韻、信士虔誠、躬身設拜, như Cam Lộ mà rót tâm, tựa Đề Hồ mà rưới đầu, hà tất lại tìm Di Lặc Phật, chỉ nay may gặp Thích Ca Ngài, cung đối Giác Hoàng, hứng ngâm Phật hiệu, tín đồ lòng thành, cúi thân lễ lạy).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập