Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cầm sắt »»
(閻魔十殿): còn gọi là Diêm Vương Thập Điện (閻王十殿), Thập Điện Diêm Vương (十殿閻王), Thập Điện Minh Vương (十殿冥王), Thập Điện Từ Vương (十殿慈王). Nguyên lai chỉ có một vị Diêm Vương, nhưng sau khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, tín ngưỡng về Diêm Vương có ảnh hưởng to lớn đối với hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở đây, trải qua nhiều biến hóa, Hán hóa sắc thái và cuối cùng quan niệm này trở thành Thập Điện Diêm Vương. Kinh điển ban đầu của Phật Giáo không có đề cập đến Thập Điện Diêm Vương. Tỷ dụ như theo Cấm Độ Tam Muội Kinh (禁度三昧經), Diêm Vương chỉ quản hạ 5 vị quan, gồm: Tiên Quan (鮮官) chuyên ngăn cấm sát sanh, Thủy Quan (水官) chuyên ngăn cấm trộm cắp, Thiết Quan (鐵官) chuyên ngăn cấm tà dâm, Thổ Quan (土官) chuyên ngăn cấm nói lời hai lưỡi và Thiên Quan (天官) cấm việc uống rượu. Hơn nữa, trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 33, bộ sử truyện nổi tiếng của Phật Giáo Trung Quốc, có ghi rằng: “Trên đời truyền tụng rằng Hòa Thượng Đạo Minh (道明和尚) nhà Đường thần du xuống Địa Phủ, thấy có 15 hạng người thuộc hạ (của Diêm Vương), từ đó lưu truyền trên thế gian.” Như vậy, thuộc hạ của Diêm Vương đã biến thành 15 người. Danh hiệu của Thập Điện Diêm Vương xuất hiện đầu tiên trong Dự Tu Thập Ngũ Sanh Thất Kinh (預修十五生七經), Diêm Vương Kinh (閻王經), v.v. Căn cứ Ngọc Lịch Bảo Giám (玉曆寶鑑), 10 ngôi điện do Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寳十方救苦天尊) hóa thành, được 10 vị Diêm Ma (s: Yama, 閻魔) cai quản, gồm:
(1) Tần Quảng Vương (秦廣王, Qín-guàng, hay Tần Quảng Vương Tương [秦廣王蔣]), còn gọi là Thái Tố Diệu Quảng Chơn Quân (泰素妙廣眞君), cai quản ngôi điện thứ nhất, do Đông Phương Thiên Tôn (東方天尊) hóa thành, sống ở Huyền Minh Cung (玄冥宮), chịu trách nhiệm trông coi về sanh tử của của con người và quản lý toàn bộ việc cát hung của cõi u minh, ngày sinh của ông là mồng 2 tháng 2 âm lịch; quỷ Phán Quan của cõi này sống ngoài tảng đá Ốc Tiêu (沃焦[礁]) trong biển lớn; hướng chánh Tây của điện này là con đường tối om dẫn đến Huỳnh Tuyền (黃泉); nếu người làm ác thì sau khi chết sẽ bị nhập vào đài cao bên phải của điện này tên là Nghiệt Kính Đài (孽鏡台); đài cao 1 trượng, treo hướng về phía Đông, phía trên có 7 chữ lớn “Nghiệt Kính Đài tiền vô hảo nhân (孽鏡台前無好人, Trước Nghiệt Kính Đài không người tốt)”; sau khi được chiếu soi ở Nghiệt Kính Đài xong, tội nhân sẽ được phê giải xuống ngôi điện thứ hai để chịu ngục hình thọ khổ tùy theo tội nặng hay nhẹ.
(2) Sở Giang Vương (楚江王, Chŭ-jiāng, hay Sở Giang Vương Lệ [楚江王厲]), còn gọi là Âm Đức Định Hưu Chơn Quân (陰德定休眞君), cai quản ngôi điện thứ hai, do Nam Phương Thiên Tôn (南方天尊) hóa thành, sống tại Phổ Minh Cung (普明宮) dưới đáy biển sâu, chịu trách nhiệm trông coi Hoạt Đại Địa Ngục (活大地獄, địa ngục sống lâu), Hàn Băng Địa Ngục (寒冰地獄, địa ngục băng lạnh) và Bác Y Đình (剥衣亭, nhà cởi áo) và 16 địa ngục bên dưới như Hắc Vân Sa (黑雲沙), Phẩn Niệu Nê (糞尿泥), Ngũ Xoa (五叉), Cơ Ngạ (飢餓), Khát (渴), Nùng Huyết (膿血), Đồng Phủ (銅斧), Đa Đồng Phủ (多銅斧), Thiết Khải (鐵鎧), U Lượng (幽量), Kê (雞), Hôi Hà (灰河), Chước Tiệt (斫截), Kiếm Diệp (劍葉), Hồ Lang (狐狼), Hàn Băng (寒冰). Ngày sinh của ông là mồng 3 tháng 3 âm lịch.
(3) Tống Đế Vương (宋帝王, Sòng-dì, hay Tống Đế Vương [宋帝王餘]), còn gọi là Động Minh Phổ Tĩnh Chơn Quân (洞明普靜眞君), cai quản ngôi điện thứ ba, do Tây Phương Thiên Tôn (西方天尊) hóa thành, sống ở Trụ Tuyệt Cung (紂絕宮), chịu trách nhiệm trông coi Hắc Thằng Địa Ngục (s: Kālasūtra-naraka, 黒繩地獄, địa ngục có sợi dây thừng đen), những ai bị kiện tụng, không vâng lời các bậc trưởng thượng, không thương mạng dân, sĩ thứ thấy lợi mà quên nghĩa, chồng bất nghĩa, vợ không thuận, từng thọ ân huệ mà phụ bạc, nô bộc phản gia chủ, hay phạm tội vượt ngục, trốn quân dịch, v.v., sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục này. Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 2 âm lịch;
(4) Ngũ Quan Vương (五官王, Wŭ-guān, hay Ngũ Quan Vương Lữ [五官王呂]), còn gọi là Huyền Đức Ngũ Linh Chơn Quân (玄德五靈眞君), cai quản ngôi điện thứ tư, do Bắc Phương Thiên Tôn (北方天尊) hóa thành, sống ở Thái Hòa Cung (太和宮), chịu trách nhiệm trông coi Hợp Đại Địa Ngục (s: Saṅgāta-naraka, 合大地獄, địa ngục hợp lại thành to lớn) và Huyết Trì Địa Ngục (血池地獄, địa ngục có hồ máu) cùng với 16 địa ngục nhỏ như Trì (池), Mâu Liên Trúc Thiêm (蝥鏈竹籤), Phí Thang Kiêu Thủ (沸湯澆手), Chưởng Bạn Lưu Dịch (掌畔流液), Đoạn Cân Dịch Cốt (斷筋剔骨), Yển Kiên Loát Bì (堰肩), Tỏa Phu (鎖膚), Tồn Phong (蹲峰), Thiết Y (鐵衣), Mộc Thạch Thổ Ngõa (木石土瓦), Kiếm Nhãn (劍眼), Phi Hôi Tắc Khẩu (飛灰塞口), Quán Dược (灌藥), Du Hoạt Điệt (油滑跌), Thích Chủy (剌嘴), Toái Thạch Mai Thân (碎石埋身). Những ai thường hay lừa dối sẽ bị đọa xuống địa ngục này; ngày sinh của ông là 18 tháng 2 âm lịch.
(5) Diêm Ma Vương (閻魔王, Yama-rāja, Yán-mó, còn gọi là Diêm La Vương [閻羅王], Diêm Ma Vương Thiên Tử Bao [閻魔王天子包]), còn gọi là Tối Thánh Diệu Linh Chơn Quân (最聖耀靈眞君), cai quản ngôi điện thứ năm, nguyên trước kia trông coi ngôi điện thứ nhất, nhưng vì đồng tình với tội nhân ở đây, nên bị chuyển xuống đây, do Đông Bắc Phương Thiên Tôn (東北方天尊) hóa thành, sống ở Củ Luân Cung (糾倫宮), chịu trách nhiệm trông coi Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Raurava-naraka, 叫喚地獄, địa ngục la hét) và 16 địa ngục nhỏ khác; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng giêng âm lịch.
(6) Biện Thành Vương (卞城王, Biàn-chéng, hay Biện Thành Vương Tất [卞城王畢]), còn gọi là Bảo Túc Chiêu Thành Chơn Quân (寶肅昭成眞君), cai quản ngôi điện thứ sáu, do Đông Nam Phương Thiên Tôn (東南方天尊) hóa thành, sống ở Minh Thần Cung (明晨宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Mahāraurava-naraka, 大叫喚地獄, địa ngục la hét lớn) và Uổng Tử Thành (枉死城, thành chết oan uổng) cũng như 16 địa ngục nhỏ khác như Thường Quỵ Thiết Sa (常跪鐵砂), Thỉ Nê Tẩm Thân (屎泥浸身), Ma Tồi Lưu Huyết (磨摧流血), Kiềm Chủy (鉗嘴), Cát Thận Thử Giảo (割腎鼠咬), Cức Cương Hoàng Toản (棘綱蝗鑽), Đối Đảo Nhục Tương (碓搗肉漿), Liệt Bì Kỵ Lôi (裂皮曁擂), Hàm Hỏa Bế Hầu (銜火閉喉), Tang Hỏa Hồng (桑火烘), Phẩn Ô (糞污), Ngưu Điêu Mã Táo (牛雕馬躁), Phi Khiếu (緋竅), Đầu Thoát Xác (頭脫殼), Yêu Trảm (腰斬), Bác Bì Tuyên Thảo (剝皮揎草). Những ai đã từng chửi mắng trời và hướng về phương Bắc mà tiểu tiện sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 3 âm lịch.
(7) Thái Sơn Vương (泰山王, Tài-shān, hay Thái Sơn Vương Đổng [泰山王董]), còn gọi là Thái Sơn Huyền Diệu Chơn Quân (泰山玄妙眞君), cai quản ngôi điện thứ bảy, do Tây Nam Phương Thiên Tôn (西南方天尊) hóa thành, sống ở Thần Hoa Cung (神華宮), chịu trách nhiệm trông coi Nhiệt Não Địa Ngục (s: Tapana-naraka, 熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng) và 16 địa ngục nhỏ khác như Tuất Tự Thôn (卹自吞), Liệt Hung (冽胸), Địch Thối Hỏa Bức (笛腿火逼), Quyền Kháng Phát (權抗發), Khuyển Giảo Hĩnh Cốt (犬咬脛骨), Úc Thống Khốc Cẩu (燠痛哭狗), Tắc Đảnh Khai Ngạch (則頂開額), Đảnh Thạch Tồn Thân (頂石蹲身), Đoan Bảo Thượng Hạ Trác Giảo (端鴇上下啄咬), Vụ Bì Trư Tha (務皮豬拖), Điếu Giáp Túc (吊甲足), Bạt Thiệt Xuyên Tai (拔舌穿腮), Trừu Tràng (抽膓), Loa Đạp Miêu Tước (騾踏貓嚼), Lạc Thủ Chỉ (烙手指), Du Phủ Cổn Phanh (油釜滾烹). Những ai chế thuốc từ xương người chết và xa lánh người thân sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là 27 tháng 3 âm lịch.
(8) Đô Thị Vương (都市王, Dōu-shì, hay Đô Chủ Vương Hoàng [都主王黃]), còn gọi là Phi Ma Diễn Hóa Chơn Quân (飛魔演化眞君), cai quản ngôi điện thứ tám, do Thượng Phương Thiên Tôn (上方天尊) hóa thành, sống ở Bích Chơn Cung (碧眞宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục (s: Mahātapana-naraka, 大熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng lớn) và 16 địa ngục nhỏ như Xa Băng (車崩), Muộn Oa (悶鍋), Toái Quả (碎剮), Khổng Tiểu (孔小), Tiễn Chu (翦朱), Thường Thanh (常圊), Đoạn Chi (斷肢), Chích Tủy (炙髓), Ba Tràng (爬膓), Phần (焚), Khai Sanh (開瞠), Quả Hung (剮胸), Phá Đảnh Khiêu Xỉ (破頂撬齒), Cát (割), Cương Xoa (鋼叉). Ngày sinh của ông là mồng 1 tháng 4 âm lịch.
(9) Bình Đẳng Vương (平等王, Píng-dĕng, hay Đối Đẳng Vương Lục [對等王陸]), còn gọi là Vô Thượng Chánh Độ Chơn Quân (無上正度眞君), cai quản ngôi điện thứ chín, do Tây Bắc Phương Thiên Tôn (西北方天尊) hóa thành, sống ở Thất Phi Cung (七非宮), chịu trách nhiệm trông coi A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄, tức Địa Ngục Vô Gián) và 16 địa ngục nhỏ khác như Sao Cốt Chước Thân (敲骨灼身), Trừu Cân Lôi Cốt (抽筋擂骨), Nha Thực Tâm Can (鴉食心肝), Cẩu Thực Tràng Phế (狗食膓肺), Thân Tiễn Nhiệt Du (身濺熱油), Não Cô Bạt Thiệt Bạt Xỉ (腦箍拔舌拔齒), Thủ Não Điền (取腦填), Chưng Đầu Quát Não (蒸頭刮腦), Dương Súc Thành Diêm (羊搐成鹽), Mộc Giáp Đảnh (木夾頂), Ma Tâm (磨心), Phí Thang Lâm Thân (沸湯淋身), Hoàng Phong (黃蜂), Hiết Câu (蠍鉤), Nghĩ Chú Ngao Đam (蟻蛀熬眈), Tử Xích Độc Xà Toản (紫赤毒蛇鑽). Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 4 âm lịch.
(10) Chuyển Luân Vương (轉輪王, Zhuàn-lún, hay Chuyển Luân Vương Tiết [轉輪王薛]), còn gọi là Ngũ Linh Uy Đức Chơn Quân (五靈威德眞君), cai quản ngôi điện thứ mười, do Hạ Phương Thiên Tôn (下方天尊) hóa thành, sống ở Túc Anh Cung (肅英宮); ngày sinh của ông là 17 tháng 4 âm lịch. Ông chuyên trông coi các hồn quỷ được áp giải đến từ các điện khác, phân biệt, quyết định tôi phước nặng nhẹ của tội nhân, phân phát đi khắc các bộ châu, tìm đất và loại để cho vong hồn đầu thai. Ông còn có nhiệm vụ xem xét việc thiện ác của tội nhân để thông tri cho cấp trên, thẩm định thọ mạng ngắn dài cũng như tội phước thay đổi của tội nhân. Quá trình khảo tra rất nghiêm mật, cuối cùng mới cho tội nhân cầu vàng, cầu ngọc, cầu đá, cầu gỗ hay Cầu Nại Hà (奈河橋, Nại Hà Kiều) và tống lên cho đầu thai vào 6 đường. Nếu như ở trên đời làm các việc thiện, khi sanh ra sẽ được trời người kính ngưỡng; sau khi chết đi cũng được quỷ thần cung kính; lúc ấy tự thân Chuyển Luân Vương cũng thân hành dẫn các sứ thần đến nghinh đón. Cho nên dân gian có câu rằng: “Tích thiện chi gia hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia hữu dư ương (積善之家有餘慶、積不善之家有餘殃, Nhà tích lũy việc thiện thì có nhiều điều tốt đẹp, nhà không tích lũy việc thiện thì có nhiều tai ương).”
Từ cuối thời nhà Đường trở đi, tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương trở nên thịnh hành. Thông thường, trong Miếu Thành Hoàng ở các địa phương có thiết lập Diêm Vương Điện (閻王殿) để thờ Thập Điện Diêm Vương. Tại các tự viện Phật Giáo, hai bên phải trái của bàn thờ Địa Tạng Bồ Tát cũng có thờ Thập Điện Diêm Vương. Tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương cũng được du nhập vào Việt Nam và vẫn còn lưu hành cho đến ngày hôm nay. Như trong các lòng văn sớ dâng cúng cầu siêu, thường có đề cập đến Minh Vương (冥王, tức Diêm Vương), Diêm Ma Thập Điện như: “Tư lâm Đại Tường chi trai tuần, chánh trị khôn phủ đệ thập điện, Chuyển Luân Minh Vương án tiền trình quá (茲臨大祥之齋旬、正値坤府第十殿、轉輪冥王案前呈過, Nay gặp lúc tuần chay dịp Đại Tường, đúng vào điện thứ mười, xin trình trước án Chuyển Luân Minh Vương)”, hay “Cung phụng: Diện Nhiên Đại Sĩ, uy quang khắc đáo ư kim tiêu; Địa Tạng từ tôn, thần lực đại chương ư thử dạ; Diêm Ma Thập Điện, chiếu khai Thập Bát Địa Ngục chi môn; Tả Hữu Phán Quan, thiêu tận ức kiếp luân hồi chi tịch; tỷ Lục Đạo Tứ Sanh chi vi mạng, khô mộc phùng xuân; sử cửu huyền thất tổ chi sảng linh, đồng đăng giác ngạn (恭奉、面燃大士、威光刻到於今霄。地藏慈尊、神力大彰於此夜。閻魔十殿、照開十八地獄之門。左右判官、燒盡億刼輪廻之籍。俾六道四生之微命、枯木逢春。使九玄七祖之爽靈、同登覺岸, Cúi xin: Diện Nhiên Đại Sĩ, ánh sáng oai lực đến đêm nay; Địa Tạng từ bi, thần lực hiển bày vào tối này. Diêm Ma Mười Điện, mở Mười Tám địa ngục cửa tung; Phán Quan phải trái, đốt sạch hồ sơ luân hồi muôn kiếp; cho mạng nhỏ của Bốn Loài Sáu Đường, cây khô gặp xuân; khiến hương linh của cửu huyền thất tổ, cùng lên bờ giác)”, v.v.
(月下): dưới trăng; bên cạnh đó, nó còn là tên gọi của Nguyệt Hạ Lão Nhân (月下老人), Nguyệt Lão Công (月老公), Nguyệt Lão (月老), là vị thần chuyên quản lý việc hôn nhân trong truyền thuyết thần thoại Trung Quốc. Căn cứ tác phẩm Phù Sanh Lục Ký (浮生六記) của Trầm Phục (沉复, 1763-1825) nhà Thanh có giải thích rằng: “Nhất thủ hoán hồng ty, nhất thủ huề trượng huyền hôn nhân bộ, đồng nhan hạc phát (一手挽紅絲、一手攜杖懸婚姻簿、童顏鶴髮, ông lão một tay kéo sợi tơ hồng, một tay cầm gậy treo sổ hôn nhân, khuôn mặt trẻ con, tóc hạc).” Trong Tục U Quái Lục (續幽怪錄), phần Định Hôn Điếm (定婚店) của Lý Phục Ngôn (李復言, ?-?) nhà Đường sáng tác có ghi rõ truyền thuyết cho rằng vào năm đầu (627) niên hiệu Trinh Quán (貞觀), dưới thời vua Đường Thái Tông (唐太宗), có một người tên Vi Cố (韋固), lúc nhỏ đã để tang cả song thân, lớn lên đi khắp nơi để cầu hôn mà chẳng nơi nào thành công cả. Một hôm nọ, chàng ta đến thành nhà Tống, tá túc trong một quán nọ. Người khách cùng ở trọ giới thiệu chàng với tiểu thư của quan Tư Mã Phan Phòng (司馬潘防), tiền nhiệm vùng Thanh Hà (清河). Sáng sớm hôm sau, Vi Cố đến trước cổng Long Hưng Tự (龍興寺) ở phía tây quán trọ, chí thành cầu nguyện cho việc hôn nhân được thành tựu. Đến tối, khi trăng lên, chợt thấy một lão già mang cái túi sau lưng, ngồi trên tầng cấp cổng chùa, đang đọc văn thư dưới ánh trăng. Thoáng nhìn qua, những dòng chữ trên quyển sách ấy rất kỳ lạ, không đọc ra được. Động tính hiếu kỳ, Vi Cố buột miệng hỏi: “Ông lão đang đọc loại sách gì vậy ? Lúc nhỏ tôi đã từng khổ công học khá nhiều, vậy mà nay chẳng đọc được dòng chữ trên sách đó, cũng chẳng phải là tiếng Phạn của Thiên Trúc (天竺), và sách này xưa nay chưa từng thấy qua.” Lão già cười bảo: “Đây chẳng phải là sách của thế gian đâu, làm sao ngươi có cơ hội xem qua được chứ ?” Vi Cố hỏi tiếp: “Thế thì đó là sách gì ?” Lão già đáp: “Sách của cõi u minh.” Vi Cố lại hỏi: “Người của cõi u minh làm sao mà gặp được tôi chứ ?” Đáp: “Các quan lại của cõi này mỗi người chủ quản mỗi công việc của nhân gian, cho nên thường lui tới nhân gian.” Lại hỏi: “Họ chủ quản việc gì ?” Đáp: “Hồ sơ hôn nhân của con người trong thiên hạ.” Nghe vậy, Vi Cố rất mừng rỡ, thưa rằng: “Tôi Vi Cố, cô thân một mình, mong sao sớm được lập gia thất, sanh con nối dõi tông đường; nhưng trong mười năm qua, đã cầu hôn ở nhiều nơi mà vẫn chưa thành công. Hôm nay, có người hẹn với tôi đến thương nghị với tiểu thư của Phan Tư Mã để cầu hôn, liệu việc có thành công chăng ?” Lão ông đáp: “Nay cơ duyên vẫn chưa đến. Vợ ngươi nay chỉ mới ba tuổi, cần phải mười bảy tuổi mới có thể lập gia thất được.” Nghe vậy, Vi Cố hoàn toàn thất vọng, nhân đó hỏi thêm rằng: “Thế thì, trong cái túi ông lão mang trên lưng có gì vậy ?” Đáp: “Tơ hồng, dùng để cột chân nam nữ thành vợ chồng. Chỉ cần một sợi tơ hồng này thôi, không ai có thể trốn thoát được.” Lại hỏi: “Vậy tôi có thể biết được người vợ tương lai của tôi thế nào không ?” Đáp: “Là con gái của bà lão bán rau họ Trần ở phía bắc quán trọ.” Lại hỏi: “Có thể gặp được không ?” Đáp: “Bà ấy thường bế con theo bán rau, ngươi chạy theo ta, ta sẽ chỉ cho thấy.” Nói xong, lão già xếp sách bỏ vào túi cất bước chạy; Vi Cố hối hả chạy theo sau. Khi đến chợ rau, họ trông thấy bà cụ mù một mắt, trên tay ẵm một đứa con gái khoảng 3 tuổi; tuy nhiên hình dạng đứa bé rát khó thấy. Lão già chỉ đưa bé nói: “Đó là vợ tương lai của ngươi.” Thoáng thấy, Vi Cố tức giận bảo: “Tôi phải giết nó !” Ông lão nói: “Trong mạng người này có quyết định thọ hưởng tước lộc, lại còn nương vào tài năng nhà ngươi mà được phong làm quan huyện, làm sao ngươi có thể giết được chứ ?” Nói xong, ông lão biến mất. Vi Cố trở về quán trọ, mài con dao nhỏ, đem giao cho người hầu, bảo: “Nếu ngươi thay ta giết đứa bé kia, ta sẽ thưởng cho một vạn tiền.” Tên nô bộc nhận lời ngay. Sáng hôm sau, tên nô bộc giả dạng đến chợ bán rau, dùng dao nhỏ đâm đứa bé và trở về báo cho Vi Cố sự việc hoàn tất. Từ đó, chàng thanh niên này tiếp tục tha phương cầu hôn khắp nơi, nhưng cũng không hề thành công. Mười bốn năm sau, nhân vì triều đình tưởng nhớ đến công đức của phụ thân Vi Cố, phong cho anh làm Tham Quân (參軍) vùng Tương Châu (相州). Sắc Sứ Vương Thái (王泰) biết chàng có tài năng, nhường cho trông coi quản lý hình ngục, đem con gái gả cho. Tiểu thư họ Vương khoảng 17 tuổi, dung mạo rất xinh đẹp, làm cho Vi Cố hài lòng khôn xiết. Chỉ có một điều là trên lông mi của nàng ta thường gắn cái kẹp hoa, ngay cả khi tắm rửa cũng không hề tháo ra. Cưới nhau được ba năm, Vi Cố cũng đã ba lần hỏi nguyên do vì sao mang kẹp hoa như vậy, phu nhân đều thương tâm rơi lệ giải thích rằng: “Thiếp chỉ là con nuôi của Sắc Sứ thôi, chẳng phải là con ruột. Xưa kia, phụ thân thiếp từng làm Huyện Lịnh của thành nhà Tống, sau đó qua đời trong khi thiếp đang còn ẵm trên tay. Mẹ cũng như anh thiếp cũng thay nhau từ trần. Nơi phía nam thành có một trang điền, chủ nhân là bà họ Trần, xót thương đem thiếp về nuôi. Quán trọ gần bên trang điền ấy, ngày nào bà cụ cũng đi bán rau kiếm sống qua ngày. Thấy thiếp đang còn nhỏ, không thể bỏ một mình ở nhà, nên thường ẵm thiếp ra chợ rau. Có hôm nọ, bỗng nhiên có tên tặc tử điên khùng, dùng dao đâm thiếp và viết thương đến nay vẫn còn. Cho nên, thiếp thường đeo kẹp hoa để che vết thương ấy. Khoảng bảy, tám năm trước, thúc thúc đến làm quan vùng phụ cận này, thiếp theo người cho đến bây giờ.” Vi Cố hỏi: “Bà họ Trần có phải mù một mắt không ?” Phu nhân đáp: “Đúng vậy !” Nhân đó, Vi Cố thuật lại toàn bộ câu chuyện năm xưa cho vợ nghe; cả hai lại càng thương yêu, kính mến nhau. Về sau, họ sanh hạ được con trai tên Vi Côn (韋鯤), Vi Cố được phong làm Thái Thú (太守) trấn thủ biên cương Nhạn Môn (雁門) và cô gái họ Vương được phong là “Thái Nguyên Quận Thái Phu Nhân (太原郡太夫人).” Từ đó, tín ngưỡng về Nguyệt Lão rất thịnh hành ở Trung Quốc, ở bất cứ địa phương nào cũng đều có đền thờ vị thần hôn nhân này. Trong Hồng Lâu Mộng (紅樓夢), hồi thứ 57 của Tào Tuyết Cần (曹雪芹, 1715?-1763?) nhà Thanh có câu: “Nhược thị Nguyệt Hạ Lão Nhân bất dụng hồng tuyến thuyên đích, tái bất năng đáo nhất xứ (若是月下老人不用紅線拴的、再不能到一處, nếu như ông già dưới trăng không dùng giây tơ buộc lại, lại không thể đến một nơi được).” Việt Nam chúng ta có từ “Ông Tơ Bà Nguyệt” cũng xuất phát từ truyền thuyết kể trên. Như trong bài văn khấn cầu hôn có câu: “Con lạy bà Nguyệt ông Tơ, con lạy Hoàng Bảy Hoàng Bơ Hoàng Mười, tuổi con nay đã cao rồi, mà không tìm được một người kết duyên, tâm tư mang nặng ưu phiền, lòng con buồn tủi triền miên tháng ngày, con còn lầm lỗi chi đây, cúi xin nguyệt lão từ đây độ trì, tơ hồng lưỡng tính xương kỳ, quế loan Cầm sắt yến đi khan thường, thiên tiêu nguyệt lão rủ thương, rất công rất chính chẳng thiên bên nào…”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập