Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Tài năng là do bẩm sinh, hãy khiêm tốn. Danh vọng là do xã hội ban cho, hãy biết ơn. Kiêu căng là do ta tự tạo, hãy cẩn thận. (Talent is God-given. Be humble. Fame is man-given. Be grateful. Conceit is self-given. Be careful.)John Wooden
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ca Nặc Ca »»
(悟達, Gotatsu, 811-883): vị cao tăng sống dưới thời nhà Đường, xuất thân Hồng Nhã (洪雅), Mi Châu (眉州, nay là Tỉnh Tứ Xuyên), họ Trần (陳), pháp danh Tri Huyền (知玄), tự Hậu Giác (後覺). Hồi nhỏ ông rất thích hình tượng Phật và hình ảnh chư tăng. Đến năm lên 7 tuổi, nhân đến nghe Pháp Thái (法泰) ở Ninh Di Tự (寧夷寺) giảng về Kinh Niết Bàn (涅槃經), đêm đó chợt mộng thấy đức Phật ở chánh điện chùa lấy tay xoa đầu mình. Đến năm 11 tuổi, ông theo xuất gia với Pháp Thái, chuyên nghiên cứu về Kinh Niết Bàn. Hai năm sau, ông vâng mệnh vị Thừa Tướng thăng đường thuyết pháp ở Đại Từ Tự (大慈寺) đất Thục, thính giả đến nghe lên đến cả vạn người, ai cũng mến phục trí tuệ của ông, bèn tôn xưng ông là Trần Bồ Tát. Sau ông theo Luật Sư Biện Trinh (辯貞) thọ Cụ Túc giới, rồi theo Pháp Sư An Quốc Tín (安國信) học về Duy Thức, và tự mình nghiên cứu thêm các kinh điển của những tông phái khác. Ông thường hận mình không thể thuyết kinh được bằng tiếng địa phương. Nhân tụng chú Đại Bi, cảm ứng được vị thần tăng thay lưỡi cho ông trong mộng; hôm sau khi thức dậy, tiếng nói thay đổi. Một thời gian lâu sau, ông ngao du lên kinh đô, gặp lúc vua Võ Tông đang mến mộ phép thuật thành tiên của các đạo gia, nhà vua mời ông cùng luận tranh với các đạo sĩ ấy. Ông biện tài lanh lợi, nói thẳng chẳng sợ, nhà vua tuy không thích lời nói của ông nhưng cũng rất vui lòng với kiến thức của ông. Đến thời vua Tuyên Tông, nhà vua mời ông vào cung nội giảng kinh, ban cho Tử Y, phong làm vị Thủ Tòa của Tam Giáo. Vua Ý Tông thường thân lâm đến nghe giảng kinh và ban cho tòa ngồi bằng gỗ trầm hương; do vì ông sanh tâm hoan hỷ nên sanh ra mụt nhọt có mặt người nơi đầu gối của nhiều đời oan nghiệp chất chồng, sau nhờ tôn giả Ca Nặc Ca (迦諾迦) giúp cho rửa sạch mụt ấy. Về sau ông xin trở về chùa cũ của mình, đến sống tại Đơn Cảnh Sơn (丹景山) thuộc Bành Châu (膨州). Khi vua Hy Tông đến viếng thăm đất Thục, có ban cho ông hiệu Ngộ Đạt Quốc Sư. Khá nhiều tầng lớp sĩ phu cùng giao du với ông, như Lý Thương Ẩn (李商隱) sau khi về vui thú điền viên, đã cùng sống với ông trong một thời gian rất lâu. Ông thị tịch vào năm thứ 3 (883) niên hiệu Trung Hòa (中和), hưởng thọ 73 tuổi đời và 54 hạ lạp. Trước tác của ông có Từ Bi Thủy Sám Pháp (慈悲水懺法) 3 quyển, Thắng Man Kinh Sớ (勝鬘經疏) 4 quyển, Bát Nhã Tâm Kinh Sớ (般若心經疏), Kim Cang Kinh Sớ (金剛經疏), v.v. Trong bài cung văn đầu Kinh Thủy Sám có đoạn: “Quốc Sư Ngộ Đạt, quyên trừ lụy thế chi khiên vưu, sự khải nhất thời, pháp lưu thiên cổ, soạn vi Thượng Trung Hạ tam quyển chi nghi văn, nhân thiên kính ngưỡng, sám ma thân khẩu ý Thập Ác chi tội nghiệp, phàm thánh quy sùng (國師悟達、蠲除累世之愆尤、事啟一時、法流千古、撰爲上中下三卷之儀文、人天敬仰、懺摩身口意十惡之罪業、凡聖皈崇, Quốc Sư Ngộ Đạt trừ sạch các oan khiên của nhiều đời, việc mở ra một lúc, pháp lưu lại muôn thưở, soạn thành văn nghi thức ba quyển Thượng Trung Hạ, người trời đều kính ngưỡng; sám hối tội nghiệp Mười Điều Ác của thân, miệng, ý, phàm thánh thảy quy sùng).” Trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 51, phần Tăng Chức Sư Hiệu (僧職師號) có câu: “Hiến Tông tứ Sa Môn Tri Huyền Ngộ Đạt Quốc Sư (憲宗賜沙門知玄悟達國師, vua Hiến Tông [tại vị 805-820] nhà Đường ban tặng cho Sa Môn Tri Huyền là Ngộ Đạt Quốc Sư).” Hay như trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳) quyển 3, Truyện Đường Kinh Sư Mãn Nguyệt (唐京師滿月傳) cũng có câu: “Thời Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền, hiếu học Thanh Minh, lễ Nguyệt vi sư (時悟達國師知玄、好學聲明、禮月爲師, lúc bấy giờ Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền thích học về Thanh Minh, bèn bái Mãn Nguyệt làm thầy).”
(十六阿羅漢): còn gọi là Thập Lục A La Hán (十六阿羅漢), Thập Lục Tôn Giả (十六尊者), là các đệ tử đắc đạo của đức Thích Tôn. Căn cứ vào Pháp Trú Ký (法住記) của Tôn Giả Khánh Hữu (慶友尊者) nước Sư Tử (師子) thuộc thế kỷ thứ 2, khi nhập Niết Bàn, đức Phật có phó chúc cho 16 vị A La Hán hiện hữu trên thế gian để truyền bá Phật pháp, đem lại lợi ích cho chúng sanh; cho nên tác phẩm này đã sớm ghi lại danh xưng của 16 vị La Hán này. Còn gọi là Thập Lục A La Hán (十六阿羅漢), Thập Lục Tôn Giả (十六尊者), là các đệ tử đắc đạo của đức Thích Tôn. Căn cứ vào Pháp Trú Ký (法住記) của Tôn Giả Khánh Hữu (慶友尊者) nước Sư Tử (師子) thuộc thế kỷ thứ 2, khi nhập Niết Bàn, đức Phật có phó chúc cho 16 vị A La Hán hiện hữu trên thế gian để truyền bá Phật pháp, đem lại lợi ích cho chúng sanh; cho nên tác phẩm này đã sớm ghi lại danh xưng của 16 vị La Hán này. Đến thời nhà Đường (618-907), khi nhà dịch kinh nổi tiếng Huyền Tráng (玄奘, 602-664) dịch tác phẩm Pháp Trú Ký, tên gọi của 16 vị này được biết đến bằng Hán ngữ, từ đó tín ngưỡng về Thập Lục La Hán cũng bắt đầu thịnh hành dưới thời này. Từ cuối thời nhà Đường cho đến thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-979), các tác phẩm hội họa cũng như điêu khắc về 16 vị La Hán này bắt đầu xuất hiện. Một số danh gia như Lô Lăng Già (盧楞伽), Vương Duy (王維, 701-761), Đào Thủ Lập (陶守立), Quán Hưu (貫休, 832-912). Theo Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La Sở Thuyết Pháp Trú Ký (大阿羅漢難提蜜多羅所說法住記, bản Hán ngữ là Pháp Trú Ký), danh xưng của 16 vị này là:
(1) Tân Độ La Bạt Ra Nọa Xà (s: Piṇḍolabharadvāja, 賓度羅跋囉惰闍) cùng với 1.000 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲).
(2) Ca Nặc Ca Phạt Sa (s: Kanakavatsa, 迦諾迦伐蹉) cùng với 500 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại phương bắc nước Ca Thấp Di La (s: Kaśmīra, p: Kasmīra, 迦濕彌羅).
(3) Ca Nặc Ca Bạt Li Nọa Xà (s: Kanakabharadvāja, 迦諾迦跋厘惰闍) cùng với 600 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Đông Thắng Thân Châu (s: Pūrva-videha, 東勝身洲).
(4) Tô Tần Đà (s: Subinda, 蘇頻陀) cùng với 700 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bắc Cu Lô Châu (s: Uttara-kuru, 北倶盧洲).
(5) Nặc Cự La (s: Nakula, 諾距羅) cùng với 800 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲).
(6) Bạt Đà La (s: Bhadra, 跋陀羅) cùng với 900 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Đam Một La Châu (耽沒羅洲).
(7) Ca Lí Ca (s: Kālika, 迦理迦) cùng với 1.000 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tăng Già Trà Châu (僧伽荼洲).
(8) Phạt Già La Phất Đa La (s: Vajraputra, 伐闍羅弗多羅) cùng với 1.100 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bát Thích Noa Châu (缽刺拏洲).
(9) Thú Bác Ca (s: Jīvaka, 戍博迦) cùng với 900 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú trong Hương Túy Sơn (香醉山).
(10) Bán Thác Ca (s: Panthaka, 半託迦) cùng với 1.300 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại cõi trời thứ 33.
(11) La Hỗ La (s: Rāhula, 羅怙羅) cùng với 1.100 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tất Lợi Dương Cù Châu (畢利颺瞿洲).
(12) Na Già Tê Na (s: Nāgasena, 那伽犀那) cùng với 1.200 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bán Độ Ba Sơn (半度波山).
(13) Nhân Yết Đà (s: Aṅgaja, 因揭陀) cùng với 1.300 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Quảng Hiếp Sơn (廣脅山).
(14) Phạt Na Ba Tư (s: Vanavāsin, 伐那婆斯) cùng với 1.400 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Khả Trú Sơn (可住山).
(15) A Thị Đa (s: Ajita, 阿氏多) cùng với 1.500 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Thứu Phong Sơn (鷲峰山).
(16) Chú Đồ Bán Thác Ca (s: Cūḍapanthaka, 注荼半托迦, tức Châu Lợi Bàn Đà Già [周利槃陀伽]) cùng với 1.600 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Trì Tụ Sơn (持軸山)
Tại các già lam, tự viện có an trí 16 tôn tượng La Hán này, 18 La Hán hay 500 La Hán. Như vậy 18 La Hán cũng phát xuất từ 16 La Hán nêu trên, sau này dân gian Trung Quốc thêm vào 2 vị nữa, thành ra con số 18. Thuyết Thập Bát La Hán rất thịnh hành tại Trung Quốc cũng như Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Việt Nam, v.v. Có nhiều nguyên nhân giải thích việc biến thành Thập Bát La Hán, trong đó có thuyết giải thích người dân cổ đại Trung Quốc cho rằng con số 9 là số cát tường, tốt đẹp; vì vậy từ cuối thời nhà Đường người ta thêm 2 vị vào trong Thập Lục La Hán. Đến sau thời nhà Tống, Nguyên, thuyết về Thập Bát La Hán trở thành rất phổ cập trong dân gian cũng như văn học Trung Quốc; như trong tác phẩm Tây Du Ký (西遊記) có câu chuyện 18 vị La Hán đấu với Ngộ Không. Theo Bí Điện Châu Lâm Tục Biên (秘殿珠林續編) được hình thành dưới thời nhà Thanh, vua Càn Long (乾隆) có bài đề tụng 2 vị tôn giả cuối cùng trong 18 vị này là Hàng Long La Hán (降龍羅漢) tức Ca Diếp Tôn Giả (迦葉尊者), Phục Ma La Hán (伏虎羅漢) tức Di Lặc Tôn Giả (彌勒尊者). Ngoài ra, còn có thuyết khác về Thập Bát La Hán như:
(1) Hàng Long La Hán (降龍羅漢), tức Khánh Hữu Tôn Giả (慶友尊者), tương truyền đã từng hàng phục con rồng ác độc.
(2) Tọa Lộc La Hán (坐鹿羅漢), tức Tân La Bạt La Đa Tôn Giả (賓羅跋羅多尊者), từng cỡi hươu vào hoàng cung khuyến dụ quốc vương học Phật, tu hành.
(3) Cử Bát La Hán (舉缽羅漢), tức Ca Nặc Ca Bạt Li Tùy Các (迦諾迦跋厘隋閣), là hành giả từng cầm bình bát đi khất thực hóa duyên.
(4) Quá Giang La Hán (過江羅漢), tức Bạt Đà La Tôn Giả (跋陀羅尊者), tương truyền ông qua sông nhẹ như con chuồn chuồn.
(5) Phục Hổ La Hán (伏虎羅漢), tức Tân Đầu Lô Tôn Giả (賓頭盧尊者), từng hàng phục mãnh hổ.
(6) Tĩnh Tọa La Hán (靜坐羅漢), tức Nặc Cự La Tôn Giả (諾距羅尊者), còn gọi là Đại Lực La Hán (大力羅漢), do vì trong thời quá khứ ông xuất thân là võ sĩ, cho nên sức mạnh vô song.
(7) Trường Mi La Hán (長眉羅漢), tức A Thị Đa Tôn Giả (阿氏多尊者), tương truyền khi ông ra đời có hai sợi lông mi dài.
(8) Bố Đại La Hán (布袋羅漢), tức Nhân Yết Đà Tôn Giả (因揭陀尊者), thường mang trên một túi vải, thường mở miệng là cười.
(9) Khán Môn La Hán (看門羅漢), tức Chú Đồ Bán Thác Ca Tôn Giả (注荼半托迦), hay Châu Lợi Bàn Đà Già (周利槃陀伽), vì người tận trung giữ gìn chức phận mình.
(10) Thám Thủ La Hán (探手羅漢), tức Bán Thác Ca Tôn Giả (半托迦尊者), nhân khi ngồi thường chỉ tay lên không trung nên có tên như vậy.
(11) Trầm Tư La Hán (沉思羅漢), tức La Hỗ La Tôn Giả (羅怙羅尊者), một trong 10 đại đệ tử của Phật, lấy mật hạnh làm đầu.
(12) Kỵ Tượng La Hán (騎象羅漢), tức Ca Lí Ca Tôn Giả (迦理迦尊者), hay Tuần Tượng Sư (馴象師, bậc thầy thuần hóa voi nên thường cỡi voi).
(13) Hoan Hỷ La Hán (歡喜羅漢), tức Ca Nặc Phạt Sa Tôn Giả (迦諾伐蹉尊者), nguyên là một nhà hùng biện thời cổ đại Ấn Độ.
(14) Tiếu Sư La Hán (笑獅羅漢), tức La Phất Đa Tôn Giả (羅弗多尊者), nguyên là thợ săn, nhân học Phật nên từ bỏ sát sanh, sư tử đến tạ ơn, nên có tên như vậy.
(15) Khai Tâm La Hán (開心羅漢), tức Thú Bác Ca Tôn Giả (戍博迦尊者), giúp người hiểu được Phật trong tâm mình.
(16) Thác Tháp La Hán (托塔羅漢), tức Tô Tần Đà (蘇頻陀), là đệ tử được đức Phật thâu nhận cuối cùng; ông nhớ đến đức Phật nên thường mang theo tháp Phật trên tay.
(17) Ba Tiêu La Hán (芭蕉羅漢), tức Phạt Na Bà Tư Tôn Giả (伐那婆斯尊者), sau khi xuất gia ông thường ngồi tu hành công phu dưới gốc cây chuối, nên có tên như vậy.
(18) Oạt Nhĩ La Hán (挖耳羅漢), tức Na Ca Tê Na Tôn Giả (那迦犀那尊者), do ông nổi tiếng là nhĩ căn thanh tịnh nên thường được gọi là La Hán Móc Tai.
(慈悲三昧水懺法): hay còn gọi là Từ Bi Thủy Sám Pháp (慈悲水懺法, Taishō No. 1910), 3 quyển, do Tri Huyền (知玄, 811-883) nhà Đường trước thuật, là bộ sách chỉ về phương pháp sám hối, hình thành từ bản Viên Giác Kinh Tu Chứng Nghi (圓覺經修證儀) của Tông Mật (宗密, 780-841), được thâu lục vào trong Taishō quyển 45. Dưới thời vua Ý Tông nhà Đường, quốc sư Ngộ Đạt Tri Huyền có mụt nhọt mặt người trên đầu gối, khuôn mặt ấy có đầy đủ lông mày, mắt, miệng, răng; cứ mỗi lần ăn uống thì cũng đút cho ăn, nó hả miệng nhai nuốt chẳng khác chi người thường cả. Tuy Ngộ Đạt có mời danh y đến chữa nhưng vô hiệu. Sau nhờ có tôn giả Ca Nặc Ca (迦諾迦) giúp đỡ, ông thành tâm sám hối và dùng nước Tam Muội rửa mụt nhọt ấy, mụt mới lành. Nhân đó quốc sư bèn viết ra sách này để cho người đời sau nương đó mà sám hối. Hình thức của sách này cũng giống như các sách sám hối khác, trước hết đối trước chư Phật và Bồ Tát quy y, sau đọc văn sám hối, sám hối đối với hết thảy các phiền não chướng cũng như nghiệp chướng và báo chướng của Bốn Loài, Sáu Đường. Cuối cùng là văn hồi hướng phát nguyện. Nếu chúng sanh nào nương vào phương pháp sám hối này mà chí thành sám hối tội lỗi của mình, có thể làm cho tiêu tan những oan nghiệp trong đời trước. Cho nên phương pháp này được thịnh hành mãi cho đến ngày nay dưới tên gọi là Thủy Sám. Tại Việt Nam, hình thức này cũng được ứng dụng rộng rãi trong Thiền môn cũng như tầng lớp tại gia cư sĩ. Trong Từ Bi Thủy Sám Pháp có giải thích rằng: “Phù Tam Muội Thủy Sám giả, nhân Đường Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền, ngộ Ca Nặc Ca Tôn Giả, dĩ Tam Muội thủy vi trạc tích thế oán cừu, Tri Huyền toại diễn Đại Giác chi chỉ, thuật vi sám văn (夫三昧水懺者、因唐悟達國師知玄、遇迦諾迦尊者、以三昧水爲濯積世怨讎、知玄遂演大覺之旨、述爲懺文, phàm Tam Muội Thủy Sám là nhân vì Ngộ Đạt Quốc Sư Tri Huyền nhà Đường, gặp Tôn Giả Ca Nặc Ca, lấy nước Tam Muội để rửa sạch các oán thù tích chứa xưa kia; Tri Huyền bèn diễn bày ý chỉ của đấng Đại Giác, thuật lại thành văn sám hối).” Bản chú giải về sám pháp này có Từ Bi Đạo Tràng Thủy Sám Pháp Khoa Chú (慈悲道塲水懺法科註, CBETA No. 1496) của Long Trú (龍住).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập