Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bối Diệp »»
(貝典): kinh điển, thư tịch viết trên lá bối, còn gọi là Bối Diệp Kinh (貝葉經). Như trong Như Tịnh Hòa Thượng Ngữ Lục (如淨和尚語錄, Taishō No. 2002A) quyển Hạ của Thiên Đồng Như Tịnh (天童如淨, 1163-1228) có câu: “Chí tai Khôn Nguyên đản Phật Quốc Ma Da chi thoại, đại hỷ bối điển chúc Tiên Đào Vương Mẫu chi xuân; chánh đương nhậm ma thả đạo, dĩ hà vi nghiệm, Quan Âm anh lạc diệu trang nghiêm, Thế Chí hoa man trường tự tại (至哉坤元誕佛國摩耶之瑞、大矣貝典祝仙桃王母之春、正當恁麼且道、以何爲驗、觀音瓔珞妙莊嚴、勢至花鬘長自在, tuyệt thay càn khôn mừng Phật Quốc Ma Da điềm lành, lớn thay kinh điển chúc Tiên Đào Vương Mẫu mùa xuân; thế nào mới đúng là đạo, lấy gì chứng nghiệm, Quan Âm anh lạc mầu trang nghiêm, Thế Chí tràng hoa luôn tự tại).” Hay như trong Tiên Giác Tông Thừa (先覺宗乘, CBETA No. 1620) quyển 2, phần Đường Tướng Quốc Bùi Hưu (唐相國裴休) có đoạn: “Thường trai giới, bình thị dục, hương lô bối điển, bất ly tả hữu, vịnh ca tán bối, dĩ vi pháp lạc (常齋戒、屛嗜慾、香爐貝典、不離左右、詠歌贊唄、以爲法樂, thường trai giới, giảm ít ham muốn, xông hương đọc kinh, chẳng rời phải trái, vịnh ca tán tụng, lấy làm pháp lạc).” Hoặc trong Biện Ngụy Lục (辯僞錄, Taishō No. 2116) quyển 4 cũng có đoạn rằng: “Mã Minh Long Thọ toản kỳ huy âm, Vô Trước Thiên Thân bá kỳ di mỹ, phi anh thanh ư tứ hải, đằng mậu thật ư bát phương; Pháp Lan Tăng Hội, tê bối điển nhi Đông truyền; Huệ Viễn Đạo Lâm, xướng huyền phong ư Nam quốc; Phật Đồ Trừng chưởng chiếu thiên lý, A Mục Khư tọa nục quần hung; Vệ Đạo An chú giáo khoa kinh, Tùy Trí Giả phân tông lập phái (馬鳴龍樹纂其徽音、無著天親播其遺美、蜚英聲於四海、騰茂實於八方、法蘭僧會、齎貝典而東傳、慧遠道林、唱玄風於南國、佛圖澄掌照千里、阿目佉坐衄群兇、衛道安注敎科經、隋智者分宗立典, Mã Minh và Long Thọ để lại tiếng thơm, Vô Trước và Thế Thân rộng truyền tốt đẹp; vang tiếng tăm khắp bốn biển, gieo hạt giống nơi tám phương; Trúc Pháp Lan và Khương Tăng Hội, mang kinh điển truyền về phương Đông; Huệ Viễn và Đạo Lâm, cao xướng tông phong nơi nước Nam; Phật Đồ Trừng lãnh đạo sáng khắp ngàn dặm, A Mục Khư ngồi đánh bại quần ma; Thích Đạo An nhà Vệ chú giải khoa kinh, Thiên Thai Trí Khải nhà Tùy phân tông lập phái).”
(心覺, Shingaku, 1117-1180/1182): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Tổ của Dòng Thường Hỷ Viện (常喜院流), húy là Tâm Giác (心覺), tự là Phật Chủng Phòng (佛種房), thông xưng là Tể Tướng A Xà Lê (宰相阿闍梨), Thường Hỷ Viện A Xà Lê (常喜院阿闍梨), xuất thân vùng Kyoto, con trai của Tham Nghị Bình Thật Thân (參議平實親). Ông xuất gia ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi), rồi đến trú tại Thường Hỷ Viện (常喜院) của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji). Sau khi bị bại trong cuộc luận nghị với Trân Hải (珍海) trong cung nội, ông chuyển sang Chơn Ngôn Tông, rồi thọ pháp của Dòng Tiểu Dã (小野流) từ Hiền Giác (賢覺) cũng như Thật Vận (實運) của Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), và thọ phép Quán Đảnh từ Kiêm Ý (兼意) ở Thành Liên Viện (成蓮院) của Cao Dã Sơn. Ông lại kiến lập Thường Hỷ Viện trên Cao Dã Sơn, sau đó đến trú tại Vãng Sanh Viện (徃生院, tức Biến Chiếu Quang Viện [遍照光院]). Ông chuyên tu về Đông Mật lẫn Thai Mật, nghiên cứu về sự tướng và viết tập đồ tượng Biệt Tôn Tạp Ký (別尊雜記). Trước tác của ông có Biệt Tôn Tạp Ký 57 quyển, Chư Tôn Đồ Tượng (諸尊圖像) 2 quyển, Đa La Diệp Ký (多羅葉記) 3 quyển, Bối Diệp Tập (貝葉集) 50 quyển, Tâm Mật Sao (心密抄) 16 quyển, v.v.
(三空): Ba Không. Các nhà Duy Thức nương vào 3 tánh Biến (遍), Y (依), Viên (圓) để lập ra nghĩa của Ba Không; tức là:
(1) Vô Tánh Không (無性空), còn gọi là Vô Thể Không (無體空), nghĩa là Tánh Biến Kế Sở Chấp (遍計所執性) trước khi vọng tình tuy là có nhưng thể tánh của nó thật sự là không.
(2) Dị Tánh Không (異性空), nghĩa là thể tướng của Tánh Y Tha Khởi (依他起性) khác hẳn với Biến Kế Sở Chấp, tuy chẳng phải là không có, nhưng cũng như sở chấp vào vọng tình mà chẳng phải có.
(3) Tự Tánh Không (自性空), có nghĩa Tánh Viên Thành Thật (圓成實性) là tự tánh của các pháp, thể hiện rõ hai tánh không của người và pháp.
Trong Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論, Taishō Vol. 31, No. 1602) quyển 15 có nêu ra Ba Không khác là Vô Thể Không (無體空), Viễn Ly Không (遠離空) và Trừ Di Không (除遺空). Hơn nữa, tùy theo sở chấp mà Không được chia thành 3 loại khác là:
(1) Ngã Không (我空), còn gọi là Nhân Không (人空); vì cho rằng pháp Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊, Năm Uẩn) độc lập, chủ tể, nên sinh ra có ngã chấp, nhưng nếu biết rõ Năm Uẩn Sắc (s, p: rūpa, 色), Thọ (s, p: vedanā, 受), Tưởng (s: sañjā, p: saññā, 想), Hành (s: saṁkhāra, p: saṅkhāra, 行) và Thức (s: vijñāna, p: viññāṇa, 識) vốn không có tự tánh, do nhân duyên mà sanh, thì chẳng hiện hữu ngã thể; đó được gọi là Ngã Không.
(2) Pháp Không (法空), nghĩa là đối với pháp Năm Uẩn cho là thật có, gọi là chấp vào pháp; nếu nhận thức rõ pháp Năm Uẩn ấy như huyễn hóa, từ duyên mà sanh khởi, vốn chẳng có tự tánh; đó được gọi là Pháp Không.
(3) Câu Không (倶空), tức hai chấp trước về ngã và pháp đều đoạn tận, ngay cả pháp chấp vào Không cũng không có thực thể, như vậy mới khế hợp với chân tâm bản tánh.
Bên cạnh đó, Tam Không còn chỉ cho Tam Giải Thoát (三解脫, Ba Pháp Giải Thoát) là Không (空), Vô Tướng (無相) và Vô Nguyện (無願); vì 3 pháp này đều làm sáng tỏ đạo lý Không, nên được gọi là Tam Không. Hay khi bố thí, nên quán 3 pháp người thọ nhận, người bố thí và vật bố thí đều là Không. Trong Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經略疏垂裕記, Taishō Vol. 38, No. 1779) quyển 2 có khẳng định rằng: “Tam Không giả, tức Không, Vô Tướng, Vô Nguyện (三空者、卽空、無相、無願, Ba Không là Không, Vô Tướng và Vô Nguyện).” Hay trong Kim Cang Tam Muội Kinh Luận (金剛三昧經論, Taishō Vol. 34, No. 1730) quyển Thượng có câu: “Phù nhất tâm chi nguyên ly hữu vô nhi độc tịnh, Tam Không chi hải dung chơn tục nhi trạm nhiên (夫一心之源離有無而獨淨、三空之海融眞俗而湛然, phàm nguồn nhất tâm lìa xa có không mà thanh tịnh, biển Ba Không dung nhiếp cả chơn tục mà sáng suốt).” Tác phẩm Long Hưng Biên Niên Thông Luận (隆興編年通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1512) quyển 29, phần Thái Bình Hưng Quốc Tam Niên (太平興國三年, năm thứ 3 [978] niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc) có đoạn: “Hữu Tây Vức Pháp Sư Thiên Tức Tai đẳng, thường trì Tứ Nhẫn, tảo ngộ Tam Không, phiên Bối Diệp chi chơn thuyên, tục nhân thiên chi thánh giáo (有西域法師天息災等、常持四忍、早悟三空、翻貝葉之眞詮、續人天之聖敎, có Pháp Sư Thiên Tức Tai người Tây Vức, v.v., thường hành trì Bốn Nhẫn, sớm giác ngộ Ba Không, phiên dịch kinh điển chân lý, kế tục Trời người Thánh giáo).”
(三空): Ba Không. Các nhà Duy Thức nương vào 3 tánh Biến (遍), Y (依), Viên (圓) để lập ra nghĩa của Ba Không; tức là (1) Vô Tánh Không (無性空), còn gọi là Vô Thể Không (無體空), nghĩa là Tánh Biến Kế Sở Chấp (遍計所執性) trước khi vọng tình tuy là có nhưng thể tánh của nó thật sự là không. (2) Dị Tánh Không (異性空), nghĩa là thể tướng của Tánh Y Tha Khởi (依他起性) khác hẳn với Biến Kế Sở Chấp, tuy chẳng phải là không có, nhưng cũng như sở chấp vào vọng tình mà chẳng phải có. (3) Tự Tánh Không (自性空), có nghĩa Tánh Viên Thành Thật (圓成實性) là tự tánh của các pháp, thể hiện rõ hai tánh không của người và pháp. Trong Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論) quyển 15 có nêu ra Ba Không khác là Vô Thể Không (無體空), Viễn Ly Không (遠離空) và Trừ Di Không (除遺空). Hơn nữa, tùy theo sở chấp mà Không được chia thành 3 loại khác là: (1) Ngã Không (我空), còn gọi là Nhân Không (人空); vì cho rằng pháp Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊, Năm Uẩn) độc lập, chủ tể, nên sinh ra có ngã chấp, nhưng nếu biết rõ Năm Uẩn Sắc (s, p: rūpa, 色), Thọ (s, p: vedanā, 受), Tưởng (s: sañjā, p: saññā, 想), Hành (s: saṁkhāra, p: saṅkhāra, 行) và Thức (s: vijñāna, p: viññāṇa, 識) vốn không có tự tánh, do nhân duyên mà sanh, thì chẳng hiện hữu ngã thể; đó được gọi là Ngã Không. (2) Pháp Không (法空), nghĩa là đối với pháp Năm Uẩn cho là thật có, gọi là chấp vào pháp; nếu nhận thức rõ pháp Năm Uẩn ấy như huyễn hóa, từ duyên mà sanh khởi, vốn chẳng có tự tánh; đó được gọi là Pháp Không. (3) Câu Không (倶空), tức hai chấp trước về ngã và pháp đều đoạn tận, ngay cả pháp chấp vào Không cũng không có thực thể, như vậy mới khế hợp với chân tâm bản tánh. Bên cạnh đó, Tam Không còn chỉ cho Tam Giải Thoát (三解脫, Ba Pháp Giải Thoát) là Không (空), Vô Tướng (無相) và Vô Nguyện (無願); vì 3 pháp này đều làm sáng tỏ đạo lý Không, nên được gọi là Tam Không. Hay khi bố thí, nên quán 3 pháp người thọ nhận, người bố thí và vật bố thí đều là Không. Trong Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經略疏垂裕記, Taishō Vol. 38, No. 1779) quyển 2 có khẳng định rằng: “Tam Không giả, tức Không, Vô Tướng, Vô Nguyện (三空者、卽空、無相、無願, Ba Không là Không, Vô Tướng và Vô Nguyện).” Hay trong Kim Cang Tam Muội Kinh Luận (金剛三昧經論, Taishō Vol. 34, No. 1730) quyển Thượng có câu: “Phù nhất tâm chi nguyên ly hữu vô nhi độc tịnh, Tam Không chi hải dung chơn tục nhi trạm nhiên (夫一心之源離有無而獨淨、三空之海融眞俗而湛然, phàm nguồn nhất tâm lìa xa có không mà thanh tịnh, biển Ba Không dung nhiếp cả chơn tục mà sáng suốt).” Tác phẩm Long Hưng Biên Niên Thông Luận (隆興編年通論, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1512) quyển 29, phần Thái Bình Hưng Quốc Tam Niên (太平興國三年, năm thứ 3 [978] niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc) có đoạn: “Hữu Tây Vức Pháp Sư Thiên Tức Tai đẳng, thường trì Tứ Nhẫn, tảo ngộ Tam Không, phiên Bối Diệp chi chơn thuyên, tục nhân thiên chi thánh giáo (有西域法師天息災等、常持四忍、早悟三空、翻貝葉之眞詮、續人天之聖敎, có Pháp Sư Thiên Tức Tai người Tây Vức, v.v., thường hành trì Bốn Nhẫn, sớm giác ngộ Ba Không, phiên dịch kinh điển chân lý, kế tục Trời người Thánh giáo).”
(西天): có hai nghĩa chính. (1) Là từ xưng hô của Trung Hoa ngày xưa đối với Ấn Độ. Thời cổ đại, Ấn Độ được gọi là Thiên Trúc (天竺), Tây Trúc (西竺); vốn nằm ở phía Tây Trung Hoa, nên có tên là Tây Thiên. Như trong bài Tích Trượng Ca Tống Minh Sở Thượng Nhân Quy Phật Xuyên (錫杖歌送明楚上人歸佛川) của Hoàng Phủ Tằng (皇甫曾, ?-?) nhà Đường có câu: “Thượng nhân viễn tự Tây Thiên chí, Đầu Đà hạnh biến Nam triều tự (上人遠自西天至、頭陀行遍南朝寺, Thượng nhân xa từ Tây Thiên đến, hạnh Đầu Đà khắp chùa Nam triều).” Hay trong bài thơ Dĩ Thừa Yến Mặc Tặng Tăng Pháp Nhất (以承宴墨贈僧法一) của Triều Xung Chi (晁沖之, ?-?) nhà Tống cũng có câu: “Vương hầu cựu vật nhân kim đắc, cánh tả Tây Thiên Bối Diệp thư (王侯舊物人今得、更寫西天貝葉書, vương hầu vật cũ nay có được, lại chép Tây Thiên lá bối kinh).” Trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (古尊宿語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1315) quyển 16, phần Thất Trung Ngữ Yếu (室中語要), lại có đoạn: “Đông Tây Nam Bắc, thất túng bát hoành, triêu đáo Tây Thiên, mộ quy Đường Độ (東西南北、七縱八橫、朝到西天、暮歸唐土, Đông Tây Nam Bắc, bảy dọc tám ngang, sáng đến Tây Thiên [Ấn Độ], tối về Đường Độ [Trung Hoa]).” Hoặc trong Hạt Đường Huệ Viễn Thiền Sư Quảng Lục (瞎堂慧遠禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1360) quyển 1 lại có đoạn: “Tự thử Tây Thiên tứ thất, Đông Độ nhị tam, Phật Phật thọ chi vô cùng, đăng đăng truyền chi bất tận (自此西天四七、東土二三、佛佛授之無窮、燈燈傳之不盡, từ đây Tây Thiên hai tám, Đông Độ sáu vị, Phật Phật truyền thọ vô cùng, đèn đèn nối nhau bất tận).” (2) Đối với tín đồ Tịnh Độ Giáo, từ này chỉ cho thế giới Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂) được đề cập trong Kinh A Di Đà.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập