Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bổn Quốc Tự »»
(日禛, Nisshin, 1561-1617): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, húy là Nhật Chân (日禛), tự Tôn Giác (尊覺), hiệu Cứu Cánh Viện (究竟院); con của quan Quyền Đại Nạp Ngôn Quảng Kiều Quốc Quang (權大納言廣橋國康). Năm 1574, ông xuất gia với Nhật Thê (日栖) ở Bổn Quốc Tự (本圀寺) thuộc kinh đô Kyoto; và đến năm 1578 thì kế thừa trú trì chùa này. Vào năm 1583, ông mở ra Học Viện Cầu Pháp tại chùa để chấn hưng học thuật; hơn nữa, chị của Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi) là Ni Nhật Tú (日秀) phát tâm quy y theo ông; nhờ vậy ông mới có thể xây dựng thêm một số kiến trúc khác tại chùa này. Thêm vào đó, cũng nhờ sự hỗ trợ đắc lực của Gia Đằng Thanh Chánh (加藤清正, Katō Kiyomasa), ông đã mở rộng thế lực của mình ở địa phương Cửu Châu (九州). Trong lễ hội cúng dường 1.000 vị tăng ở Phương Quảng Tự (方廣寺), ông cùng với Nhật Áo (日奥) chủ trương chính sách Không Nhận Không Cho; nhưng đến năm 1599 thì ông phải nhượng bộ với Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), và giáo đoàn dần dần bị thuộc dưới quyền cai quản của chính quyền Mạc Phủ.
(日叡, Nichiei, 1334-1397): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Nam Bắc Triều; húy Nhật Duệ (日叡), hiệu là Lăng Nghiêm Phòng (楞嚴房), Diệu Pháp Phòng (妙法房). Ông từng che giấu thân phận của mình để đến tham bái mộ phần của cha, người trước kia đối kháng với Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji), rồi bị ông này giết chết; và sau đó, ông đến vùng Liêm Thương, theo làm đệ tử của Nhật Tĩnh (日靜) ở Bổn Quốc Tự (本國寺). Sau khi Bổn Quốc Tự được dời về kinh đô Kyoto, ông ở lại Liêm Thương, rồi xây dựng nên Diệu Pháp Tự (妙法寺) trên nền đất cũ của Bổn Quốc Tự, và suốt đời chuyên tâm cầu nguyện cho thân phụ được siêu độ.
(日審, Nisshin, 1599-1666): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng đầu và giữa thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Thẩm (日審), tự Văn Gia (文嘉); hiệu Linh Thứu Viện (靈鷲院); xuất thân vùng Kyoto, con trai thứ 3 của Giang Thôn Cửu Mậu (川村久茂). Lúc lên 8 tuổi, ông theo xuất gia với Nhật Huyền (日玄) ở Huệ Quang Tự (慧光寺) thuộc Kyoto. Từ năm 17 tuổi trở đi, ông theo học các khoa học tại những trường Đàn Lâm. Đến năm 1629, ông làm trú trì đời thứ 12 của Trường Nguyên Tự (長源寺) vùng Nhược Hiệp (若狹, Wakasa, thuộc Fukui-ken [福井縣]), rồi đi bố giáo ở địa phương Cửu Châu (九州, Kyūshū) cho đến năm 1640. Năm sau, ông làm Hóa Chủ cho Lục Điều Đàn Lâm (六條檀林, tức Bổn Quốc Tự [本圀寺]); đến năm 1647 thì làm trú trì đời thứ 20 của Lập Bổn Tự (立本寺) tại kinh đô Kyoto. Ông đã từng đi khắp toàn quốc mà thuyết giáo Kinh Pháp Hoa và rất nổi tiếng với tư cách là Tăng sĩ bố giáo thời Cận Đại. Trước tác của ông có Pháp Hoa Khẩu Diễn Sao (法華口演抄) 4 quyển, Pháp Hoa Tọa Đàm Nghĩa (法華坐談義) 1 quyển, Viên Đốn Giả Giảng Thảo (圓頓者講草) 1 quyển.
(日靜, Nichijō, 1298-1369): vị Tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tĩnh (日靜), tự Phong Long (豐龍), hiệu Diệu Long Viện (妙龍院); xuất thân vùng Hạ Đảo (賀島), Tuấn Hà (駿河, Suruga, thuộc Shizuoka-ken [靜岡縣]), con của Thượng Sam Lại Trọng (上杉賴重). Ông xuất gia với Nhật Vị (日位) ở Bổn Giác Tự (本覺寺) vùng Tuấn Hà; sau khi vị này qua đời thì ông đến làm đệ tử của Nhật Ấn (日印) ở Bổn Thắng Tự (本勝寺) vùng Liêm Thương. Về sau, ông lên kinh đô, sáng lập nên Bổn Quốc Tự (本國寺) ở vùng Lục Điều Quật Xuyên (六條堀川). Ông được Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) quy y theo, nhờ vậy mà phát triển chùa này to lớn ngang hàng với Diệu Hiển Tự (妙顯寺), và sáng lập Dòng Phái Lục Điều (六條門流). Trước tác của ông có Liêm Thương Điện Trung Vấn Đáp Ký (鎌倉殿中問答記) 1 quyển, Thử Kinh Nan Trì Thập Tam Khẩu Quyết (此經難持十三口決), Lục Điều Yếu Văn (六條要文).
(日助, Nichijo, 1495-1553): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Chiến Quốc, húy là Nhật Trợ (日助); hiệu Liên Quang Viện (蓮光院). Ông vốn là con nuôi của quan Thái Chính Đại Thần Hoa Sơn Viện Chính Trường (花山院政長), được bổ nhiệm làm chức Đại Tăng Đô, và làm trú trì đời thứ 14 của Bổn Quốc Tự (本圀寺) ở kinh đô Kyoto. Làm trú trì được 33 năm thì gặp phải cuộc tấn công dữ dội của đồ chúng Tỷ Duệ Sơn, nên các đường tháp của chùa bị đốt cháy tan tành và ông phải chạy đi lánh nạn ở vùng Hòa Tuyền (和泉, Izumi). Đến năm 1542, ông trở về kinh đô, tái kiến lại ngôi già lam như cũ ở vùng Lục Điều Quật Xuyên (六條堀川).
(日澄, Nicchō, 1441-1510): học Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Nhật Trừng (日澄); thông xưng là Nhất Như Phòng (一如房), tự Khải Vận (啟運); hiệu là Viên Minh Viện (圓明院). Ông xuất gia theo Nhật Viên (日圓) ở Bổn Quốc Tự (本國寺) thuộc kinh đô Kyoto; rồi đến năm 39 tuổi thì sáng lập ra Viên Minh Tự (圓明寺) ở vùng Y Đậu (伊豆, Izu). Sau ông đến ẩn cư ở Diệu Pháp Tự (妙法寺) vùng Liêm Thương, thiết lập lớp học trong chùa này, và chuyên tâm trước tác cũng như giảng nghĩa Kinh Pháp Hoa. Ông đã từng viết bộ Pháp Hoa Khải Vận Sao (法華啟運抄), chủ xướng Tín Tâm Làm Gốc, và chủ trương tông học theo kiểu của giáo tổ. Hơn nữa, bộ Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚) của ông đã gây ảnh hưởng rất lớn cho hậu thế. Trước tác của ông có Pháp Hoa Khải Vận Sao (法華啟運抄) 55 quyển, Bổn Tích Quyết Nghi Sao (本迹決疑抄) 2 quyển, Nhật Xuất Đài Ẩn Ký (日出台隱記) 2 quyển, Trợ Hiển Xướng Đạo Văn Tập (助顯唱道文集) 7 quyển, Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚) 5 quyển.
(日秀, Nisshū, 1383-1450): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng thời đại Thất Đinh, húy là Nhật Tú (日秀); tự Quán Tùy (觀隨), hiệu Ngọc Động Diệu Viện (玉洞妙院). Ông xuất gia năm lên 13 tuổi, rồi theo hầu Nhật Truyền (日傳) ở Bổn Quốc Tự (本圀寺) thuộc kinh đô Kyoto. Năm 1410, ông sáng lập ra Bổn Nguyện Mãn Túc Tự (本願滿足寺, tức Bổn Mãn Tự [本滿寺]) tại biệt trang của cha ông.
(法華宗, Hokkeshū) tức Nhật Liên Tông (日蓮宗, Nichirenshū): theo pháp chế hiện tại thì đây là đoàn thể tôn giáo lấy Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở vùng Thân Diên (身延, Minobu) làm Đại Bản Sơn; nhưng nếu xét về mặt lịch sử thì đây là tên gọi chung của tập đoàn tôn giáo vốn kế thừa và thực hiện giáo lý của Nhật Liên dưới thời đại Liêm Thương. Với ý nghĩa đó, Pháp Hoa Tông là tên gọi do các tông phái khác gọi về Nhật Liên Tông, hay cũng là tiếng tự xưng, và phần nhiều cách gọi này được dùng phổ biến hơn. Năm 1282, Nhật Liên (日蓮, Nichiren) chỉ danh 6 người đệ tử chân truyền của ông là Nhật Chiêu (日昭, Nisshō, 1221-1323), Nhật Lãng (日朗, Nichirō, 1245-1320), Nhật Hưng (日興, Nikkō, 1246-1333), Nhật Hướng (日向, Nikō, 1253-1314), Nhật Đảnh (日頂, Nicchō, 1252-1317 hay 1328?) và Nhật Trì (日持, Nichiji, 1250-?), với tên gọi là Lục Lão Tăng (六老僧). Sau đó, các môn phái được hình thành Dòng Phái Nhật Chiêu (日昭門流, tức Dòng Phái Banh [浜門流]), Dòng Phái Nhật Lãng (日朗門流, tức Dòng Phái Tỷ Xí Cốc [比企谷門流]), Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Phú Sĩ [富士門流]), Dòng Phái Nhật Hướng (日向門流, Dòng Phái Thân Diên [身延門流]). Sau khi Nhật Liên qua đời, xuất hiện thêm Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Trung Sơn [中山門流]). Thật thể của Nhật Liên Tông thời Trung Đại chính là những môn phái vừa nêu trên. Các môn phái mở rộng vùng giáo tuyến của mình ở vùng Đông Quốc, rồi sau đó dần dần tiến về phía kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động giáo hóa cho giáo đoàn. Những nhân vật có công trong việc này là Nhật Tượng (日像, Nichizo, 1269-1342) thuộc Dòng Phái Tứ Điều (四條門流) vốn lấy Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji) làm trung tâm; Nhật Tĩnh (日靜, Nichijō, 1298-1369) của Dòng Phái Lục Điều (六條門流), lấy Bổn Quốc Tự (本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji) làm trung tâm. Kế thừa dòng phái này có Nhật Tôn (日尊, Nisson, ?-1603) của Dòng Phái Phú Sĩ; rồi Nhật Thân (日親, Nisshin, 1407-1488) và Nhật Chúc (日祝, Nisshū, 1437-1513) của Dòng Phái Trung Sơn. Họ không những tiếp cận hàng công gia khanh tướng, mà còn lấy tầng lớp thương gia, công nhân và nông dân làm môn đồ; nhờ vậy đã tạo dựng được rất nhiều tự viện khắp nơi. Bên cạnh đó, những cuộc luận tranh về lập trường Tích Môn hay Bổn Môn của Kinh Pháp Hoa, cũng như điểm hay dở trong kinh bắt đầu được triển khai. Về phía Dòng Phái Lục Điều, Nhật Trận (日陣, Nichijin, 1339-1419) sáng lập ra Bổn Thiền Tự (本禪寺, Honzen-ji), rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Trận (日陣門流, tức Dòng Phái Bổn Thành Tự [本成寺, Honjō-ji]). Còn về phía Dòng Phái Tứ Điều, hai chùa Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji) và Diệu Liên Tự (妙蓮寺, Myōren-ji) chia rẽ nhau; Nhật Long (日隆, Nichiryū, 1385-1464) thì chủ trương tính hay dở của kinh, lấy Bổn Hưng Tự (本興寺) ở vùng Ni Khi (尼崎, Amazaki) và Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji) ở kinh đô Kyoto làm cứ điểm hoạt động truyền đạo, rồi hình thành nên Dòng Phái Nhật Hưng (日興門流, tức Dòng Phái Bát Phẩm [八品門流]). Trường hợp Nhật Thập (日什, Nichijū, 1314-1392) thì khai cơ Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji) và sáng lập ra Dòng Phái Nhật Thập (日什門流, tức Dòng Phái Diệu Mãn Tự [妙滿寺門流]). Nhật Thân sáng lập Bổn Pháp Tự (本法寺, Hompō-ji), còn Nhật Chúc thì có Đảnh Diệu Tự (頂妙寺, Chōmyō-ji), và hình thành Dòng Phái Quan Tây Trung Sơn (關西中山門流). Những ngôi già lam này mở rộng phạm vi hoạt dộng ở vùng Tây Quốc, còn ở kinh đô Kyoto thì có được 21 ngôi chùa. Dưới thời đại Chiến Quốc, Nhật Liên Tông đã cùng với với dân chúng trong thôn xóm hình thành đội tự vệ. Trước uy lực mạnh mẽ như thế này, các giáo đoàn của những tông phái khác tập trung lại với nhau tại Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), hợp với các nhà Đại Danh có thế lực, dòng võ lực đàn áp Nhật Liên Tông. Từ đó, xảy ra vụ Loạn Thiên Văn Pháp Hoa (天文法華の亂) vào năm thứ 5 (1536) niên hiệu Thiên Văn (天文). Khi ấy, các chùa ở kinh đô đều phải lánh nạn đi nơi khác, và sau mới được phép cho trở về. Đến thời Trung Đại, chủ trương gọi là “Bất Thọ Bất Thí (不授不施, Không Nhận Không Cho)” của Nhật Liên Tông bị những nhà lãnh đạo chính quyền đương thời như Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga), Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) chống đối kịch liệt. Cho nên xảy ra các vụ pháp nạn lớn, nhiều tăng lữ cũng như tín đồ phải hy sinh trong mấy lần pháp nạn này. Đến thời Cận Đại, tổ chức giáo dục chư tăng được thiết lập. Về mặt xuất bản cũng rất thịnh hành, các bức di văn của Nhật Liên từ đó được lưu hành rộng rãi. Truyện Nhật Liên cũng được lưu bố khắp nơi, cho nên xuất hiện các tác phẩm như Nhật Liên Thánh Nhân Chú Họa Tán (日蓮上人註畫讚), Nhật Liên Đại Thánh Nhân Ngự Truyền Ký (日蓮大上人御傳記), v.v. Đặc sắc lớn của Nhật Liên Tông thời Cận Đại là triển khai cuộc vận động Phật Giáo tại gia, trong đó cuộc vận động Quốc Trụ Hội (國柱會) của Điền Trung Trí Học (田中智學) là đối ứng với sự hưng thịnh của quốc gia Minh Trị (明治, Meiji); rồi Bổn Đa Nhật Sanh (本多日生) tổ chức thành Thiên Tình Hội (天晴會), thâu nạp toàn tầng lớp trí thức và quân nhân. Trong khi đó, nhóm Sơn Điền Tam Lương (山田三良) thì thành lập Pháp Hoa Hội (法華會). Vào thời kỳ Đại Chánh (大正, Taishō), Chiêu Hòa (昭和, Shōwa), tôn giáo tân hưng thuộc hệ Nhật Liên Tông bắt đầu triển khai. Sau thời chiến, một số hội khác ra đời như Linh Hữu Hội (靈友會, Reiyūkai), Lập Chánh Giao Thành Hội (立正佼成會, Risshōkōseikai), Sáng Giá Học Hội (創価學会, Sōkagakkai), v.v., và Nhật Liên Tông trở thành tôn giáo đại chúng. Căn cứ vào tài liệu Nhật Bản Sử Từ Điển (日本史辭典, Nihonshijiten) của Triêu Vĩ Trực Hoằng (朝尾直弘, Asao Naohiro), Vũ Dã Tuấn Nhất (宇野俊一, Uno Shunichi), Điền Trung Trác (田中琢, Tanaka Migaku), nhà xuất bản Giác Xuyên Thư Điếm (角川書店, 1996) cho biết rằng hiện tại Nhật Liên Tông có một số dòng phái chính (theo thứ tự tên dòng phái, chùa trung tâm) như: (1) Môn Lưu Banh (浜門流), Diệu Pháp Tự (妙法寺, Myōhō-ji, Kamakura); (2) Môn Lưu Lãng (朗門流), Diệu Bổn Tự (妙本寺, Myōhon-ji, Kamakura), Bổn Môn Tự (本門寺, Honmon-ji, Musashi); (3) ; (4) Môn Lưu Tảo Nguyên (藻原門流), Diệu Quang Tự (妙光寺, Myōkō-ji, Kamifusa); (5) Môn Lưu Lục Điều (六條門流), Bổn Quốc Tự (本國寺, Honkoku-ji, Kyōto); (6) Môn Lưu Trung Sơn (中山門流), Bổn Diệu Pháp Hoa Kinh Tự (本妙法華經寺, Honmyōhokkekyō-ji, Shimofusa); (7) Môn Lưu Tứ Điều (四條門流), Diệu Hiển Tự (妙顯寺, Myōken-ji, Kyoto); (8) Phái Bất Thọ Bất Thí (不受不施派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (9) Môn Phái Bất Thọ Bất Thí Giảng (不受不施派講門派), Diệu Giác Tự (妙覺寺, Myōkaku-ji, Bizen); (10) Môn Lưu Phú Sĩ (富士門流), Đại Thạch Tự (大石寺, Daiseki-ji, Suruga); (11) Phái Bổn Thành Tự (本成寺派), Bổn Thành Tự (本成寺, Honjō-ji, Echigo); (12) Phái Diệu Mãn Tự (妙滿寺派), Diệu Mãn Tự (妙滿寺, Myōman-ji, Kyoto); (13) Phái Bát Phẩm (八品派), Bổn Hưng Tự (本興寺, Honkō-ji, Settsu), Bổn Năng Tự (本能寺, Honnō-ji, Kyoto); (14) Phái Bổn Long Tự (本隆寺派), Bổn Long Tự (本隆寺, Honryū-ji, Kyoto).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập