Chỉ có hai thời điểm mà ta không bị ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Đó là lúc ta sinh ra đời và lúc ta nhắm mắt xuôi tay.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Báo Thân »»
(耶律楚材, Yaritsu Sozai, 1190-1244): còn gọi là Di Thích Sở Tài (移刺楚材), tự Tấn Khanh (晉卿), pháp húy Tùng Nguyên (從源), hiệu là Trạm Nhiên Cư Sĩ (湛然居士), hậu duệ của Đông Đan Vương Đột Dục (東丹王突欲) nhà Liêu, cha là Da Luật Lý (耶律履), mẹ họ Dương (楊), sanh ngày 20 tháng 6 năm đầu niên hiệu Minh Xương (明昌) nhà Kim. Năm 13 tuổi, ông đã học thi thư, đến năm 17 tuổi thì đỗ Tiến Sĩ. Đến năm thứ 2 (1214) niên hiệu Trinh Hựu (貞祐), ông được cử làm chức Tả Hữu Ty Viên Ngoại Lang (左右司員外郎). Ở tuổi này, theo lời cha khuyên, ông đến tham học với Vạn Tùng Hành Tú (萬松行秀) được 3 năm và được ấn khả của vị này. Sau khi nhà Kim bị tiêu diệt, ông làm việc cho triều đình nhà Nguyên. Khi đang còn ở Báo Ân Tự (報恩寺), Vạn Tùng nghe lời khuyên của Sở Tài, soạn bộ Tùng Dung Lục (從容錄) và trên đường Tây chinh chính ông đã viết lời tựa cho tác phẩm này. Trước tác của ông có Trạm Nhiên Cư Sĩ Văn Tập (湛然居士文集) 14 quyển, Tây Du Lục (西遊錄) 1 quyển. Vào ngày 14 tháng 5 năm thứ 4 (1244) niên hiệu Thuần Hựu (淳祐) nhà Nam Tống, ông xả Báo Thân từ trần, hưởng thọ 55 tuổi. Tống Tử Trinh (宋子貞) soạn bản Trung Thư Lịnh Da Luật Công Thần Đạo Bi (中書令耶律公神道碑).
(大覺): sự giác ngộ lớn, chỉ sự giác ngộ của đức Thế Tôn (世尊). Đây là tên gọi khác của chư Phật. Người phàm phu thì không có sự giác ngộ, tỉnh thức; còn các vị Thanh Văn (聲聞), Duyên Giác (緣覺), Bồ Tát (菩薩) thì có giác ngộ, nhưng không lớn bằng Phật; chỉ có chư Phật mới giác ngộ triệt để chân lý của vũ trụ, nên được xưng tán là Đấng Đại Giác. Như trong Đại Bát Niết Bàn Kinh Hậu Phần (大般涅槃經後分, Taishō No. 377) quyển Thượng có câu: “Nhĩ thời, tứ chúng nhất thiết chiêm ngưỡng Đại Giác Thế Tôn chơn kim sắc thân, mục bất tạm xả, tất giai khoái lạc (爾時、四眾一切瞻仰大覺世尊眞金色身、目不暫捨、悉皆快樂, lúc bấy giờ, bốn chúng tất cả đều chiêm ngưỡng thân sắc vàng của đấng Thế Tôn Đại Giác, mắt không hề rời, thảy đều vui mừng).” Hay như trong (肇論略註, CBETA No. 873) lại có câu: “Vị Như Lai tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tam giác dĩ viên, cố xưng Đại Giác; nhiên thử Đại Giác, nãi Báo Thân chi xưng (謂如來自覺、覺他、覺行圓滿、三覺已圓、故稱大覺、然此大覺、乃報身之稱, sự tự giác ngộ, giác ngộ cho người khác và thực hành sự giác ngộ tròn đầy của đức Như Lai, ba sự giác ngộ ấy đã viên mãn; nên gọi là sự giác ngộ lớn; do vậy sự giác ngộ lớn này là tên gọi của Báo Thân).”
(閻魔): trong cổ đại Trung Quốc vốn không có quan niệm về Diêm Ma hay Diêm Vương (閻王), nhưng sau khi Phật Giáo du nhập vào đất nước này, Diêm Vương được xem như là vị chủ thần của Địa Ngục và tín ngưỡng này bắt đầu lưu hành. Từ Diêm Ma, nguyên ngữ Sanskrit là Yama, âm dịch là Diêm Ma La Xã (閻魔羅社), Diễm Ma La Xà (琰摩羅闍), Diêm La (閻羅), Viêm Ma (炎摩), Diệm Ma (焰摩), Diễm Ma (琰魔), Diêm Ma La (閻摩羅); ý dịch có nhiều nghĩa khác nhau như trói buộc (trói tội nhân), song thế (nơi thế gian thường chịu hai loại quả báo vui và khổ), vua bình đẳng (trừng phạt tội một cách bình đẳng), dứt trừ tội ác, ngăn chận tranh giành và chấm dứt tội ác. Tất cả những ý nghĩa trên đều nói lên trách nhiệm của vua Diêm Ma dưới Minh Phủ nhằm giám thị tội của chúng sanh và làm cho phải khiếp sợ khi làm điều ác. Theo thần thoại cổ đại Ấn Độ, Yama—vị thần của chánh pháp—cùng với Yamī là thần song sinh, là người chết đầu tiên của nhân loại; vì vậy sau này họ được xem như là tử thần và thống quản âm giới. Sau khi Phật Giáo có mặt tại Ấn Độ, vua Diêm Ma được xem như là chủ của cõi Ngạ Quỷ, vua quản lý thế giới Địa Ngục, thân của ác nghiệp chiêu cảm, hay hóa thân của Địa Tạng Bồ Tát (地藏菩薩), v.v. Trong Mật Giáo, vua Diêm Ma là một trong 12 vị trời của Ngoại Kim Cang Bộ thuộc Kim Cang Giới Mạn Trà La (金剛界曼荼羅), là vị thần của Ngoại Kim Cang Bộ thuộc Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼荼羅). Trong truyền thuyết dân gian Trung Quốc, Bao Chửng (包拯, tức Bao Thanh Thiên [包青天]) là hóa thân của Diêm Vương. Sau khi qua đời, ông hóa thành Diêm La Vương, tiếp tục thẩm lý các vụ án dưới Âm Phủ. Có thuyết cho rằng ban ngày ông xét án trên dương gian, đến tối thì xử tội dưới địa ngục. Con người sau khi chết, linh hồn của họ sẽ được dẫn đến cho Bao Chửng thẩm phán; nếu quả thật người đó bị hảm hại, hàm oan, ông sẽ trả về dương gian cho sống lại. Nếu có tội thật sự thì sẽ bị tống vào địa ngục chịu hình phạt. Tương truyền Tứ Đại Diêm Vương (四大閻王) là Bao Chửng, Hàn Cầm Hổ (韓擒虎), Phạm Trọng Yêm (范仲淹) và Khấu Chuẩn (寇準). Có một vài tục ngữ liên quan đến Diêm Vương như “Diêm Vương bất tại gia, nghiệp quỷ do tha náo (閻王不在家、業鬼由他鬧, Diêm Vương không ở nhà, quỷ con gây náo loạn)”, có nghĩa là khi người chủ vắng mặt thì người cấp dưới lợi dụng cơ hội làm náo loạn; “Diêm Vương hảo kiến, tiểu quỷ nan đương (閻王好見、小鬼難當, Diêm Vương dễ thấy, quỷ con khó gặp)” hay “Diêm Vương phán nhĩ tam canh tử, bất đắc lưu nhân đáo ngũ canh (閻王判你三更死、不得留人到五更, Diêm Vương phán ngươi canh ba chết, chẳng được giữ người đến canh năm)”, v.v.
(妙覺): tự giác ngộ chính mình, làm cho người khác giác ngộ, sự giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, đó gọi là Diệu Giác; tức là quả vị Phật vô thượng chánh giác; là một trong 52 hay 42 giai vị tu hành của Bồ Tát Đại Thừa; còn gọi là Diệu Giác Địa (妙覺地). Hàng Nhị Thừa (Thanh Văn [s: śrāvaka, 聲聞] và Duyên Giác [s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺]) thì dừng lại ở cấp độ tự giác, không có công năng giác tha. Còn Bồ Tát tuy cùng song hành cả tự giác lẫn giác tha, nhưng chưa viên mãn; chỉ có Phật mới viên mãn cả hai, thể giác ngộ không thể nghĩ bàn. Tam Tạng Pháp Số (三藏法數) quyển 26 định nghĩa rằng: “Tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn, bất khả tư nghì, cố danh Diệu Giác Tánh (自覺覺他、覺行圓滿、不可思議、故名妙覺性, tự mình giác ngộ, làm cho người khác giác ngộ, giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, nên gọi là Tánh Diệu Giác).” Thiên Thai Tứ Giáo Nghi (天台四敎儀, Taishō Vol. 46, No. 1931) do Sa Môn Đế Quán (諦觀) người Cao Lệ thâu lục, giải thích rõ sự sai khác giữa Diệu Giác của Biệt Giáo và Viên Giáo thế nào. Quả vị Diệu Giác của Biệt Giáo ngồi trên tòa Đại Bảo Hoa Vương (大寶華王), dưới cây bồ đề có bảy báu thuộc thế giới Liên Hoa Tạng (蓮華藏), hiện Viên Mãn Báo Thân (圓滿報身), vì các Bồ Tát độn căn mà chuyển vô lương bánh xe pháp Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦). Trong khi đó, quả vị Diệu Giác của Viên Giáo thì lấy hư không làm tòa ngồi, thành tựu Thanh Tịnh Pháp Thân (清淨法身), trú tại Thường Tịch Quang Độ (常寂光土). Như trong Ngột Am Phổ Ninh Thiền Sư Ngữ Lục (兀菴普寧禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1404) có giải thích rằng: “Chí thử Diệu Giác vị, vị chi Như Lai địa, thuyết pháp như vân, lợi sanh như vũ, tự lợi lợi tha, độ vị độ dã (至此妙覺位、謂之如來地、說法如雲、利生如雨、自利利他、度未度也, đạt đến quả vị Diệu Giác này, gọi đó là cảnh địa của Như Lai, thuyết pháp như mây, làm lợi ích quần sanh như mưa, tự lợi và lợi tha, độ cho những người chưa được độ).” Hay trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, lại có câu: “Vị nhân nhân diệu giác bổn vô phàm thánh, vật vật toàn chân ninh hữu tịnh uế (謂人人妙覺本無凡聖、物物全眞寧有淨穢, bảo rằng người người diệu giác vốn không phàm thánh, vật vật toàn chân sao có sạch nhớp).”
(s: nirmāṇa-kāya, j: keshin, 化身): nghĩa là thân biến hóa, là một trong 3 thân (Pháp Thân, Ứng Thân Và Hóa Thân) và 4 thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân và Hóa Thân) của Phật. Nó còn được gọi là Ứng Phật, Ứng Thân Phật, Ứng Hóa Thân. Để cứu độ và giáo hóa chúng sanh, chư Phật và Bồ Tát đã hóa hiện ra 33 loại thân cũng như trăm ngàn ức loại thân khác nhau; cho nên có tên gọi “Thiên Bách Ức Hóa Thân (千百億化身).” Như trong Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh (六祖法寶壇經), Phẩm Sám Hối (懺悔品) thứ 6, có đoạn: “Hà danh Thiên Bách Ức Hóa Thân ? Nhược bất tư vạn pháp, tánh bổn như không, nhất niệm tư lường, danh vi biến hóa; tư lường ác sự, hóa vi Địa Ngục, tư lường thiện sự, hóa vi Thiên Đường, độc hại, hóa vi long xà, từ bi, hóa vi Bồ Tát, trí tuệ, hóa vi thượng giới, ngu si, hóa vi hạ phương, tự tánh biến hóa thậm đa, mê nhân bất năng tỉnh giác, niệm niệm khởi ác, thường hành ác đạo, hồi nhất niệm thiện, trí tuệ tức sanh, thử danh Tự Tánh Hóa Thân Phật (何名千百億化身、若不思萬法、性本如空、一念思量、名爲變化、思量惡事、化爲地獄、思量善事、化爲天堂、毒害、化爲龍蛇、慈悲、化爲菩薩、智慧、化爲上界、愚癡、化爲下方、自性變化甚多、迷人不能省覺、念念起惡、常行惡道、迴一念善、智慧卽生、此名自性化身佛, thế nào là Trăm Ngàn Ức Hóa Thân ? Nếu không tư duy vạn pháp, tánh vốn là không, một niệm tư lường, gọi là biến hóa; suy nghĩ việc ác, hóa thành Địa Ngục; suy nghĩ việc thiện, hóa thành Thiên Đường; độc hại thì hóa làm rồng rắn; từ bi thì hóa làm Bồ Tát; trí tuệ thì hóa thành cõi trên, ngu si thì hóa thành cõi dưới; tự tánh biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh thức, mỗi niệm khởi ác, thường hành đường ác, trở về niệm lành, trí tuệ liền sanh; đây gọi là Tự Tánh Hóa Thân Phật).”
(s, p: tathāgata, 如來): âm dịch là Đa Đà A Già Đà (多陀阿伽陀), Đa Tha A Già Độ (多他阿伽度), Đa Đà A Già Độ (多陀阿伽度), Đát Tát A Kiệt (怛薩阿竭), Đát Tha Nga Đa (怛他誐多), Đa A Kiệt (多阿竭); còn gọi là Như Khứ (如去), là một trong 10 danh hiệu của đức Phật, tôn xưng của vị Phật. Nếu phân tích Phạn ngữ tathāgata, có 2 loại: tathā-gata (如去, Như Khứ), tathā-āgata(如來, Như Lai). Như Khứ có nghĩa là cỡi đạo chơn như mà đạt đến quả Phật Niết Bàn. Theo cách giải thích sau có nghĩa là do chơn lý mà đến để thành chánh giác. Đức Phật cỡi chân lý mà đến, do chơn như mà hiện thân, nên được gọi là Như Lai. Một số kinh điển giải thích về thuật ngữ này như sau. Trong Thanh Tịnh Kinh (清淨經) của Trường A Hàm (長阿含) quyển 12 có đoạn: “Phật ư sơ dạ thành tối chánh giác, cập mạt hậu dạ, ư kỳ trung gian hữu sở ngôn thuyết, tận giai như thật, cố danh Như Lai; phục thứ, Như Lai sở thuyết như sự, sự như sở thuyết, cố danh Như Lai (佛於初夜成最正覺、及末後夜、於其中間有所言說、盡皆如實、故名如來、復次、如來所說如事、事如所說、故名如來, đức Phật vào đầu đêm thành chánh giác tối thượng, cho đến cuối đêm, trong khoảng thời gian giữa ấy, những lời nói của ngài, hết thảy đều như thật, nên được gọi là Như Lai; lại nữa, các việc do Như Lai nói ra, việc đúng như lời nói, nên được gọi là Như Lai).” Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 24 thì định nghĩa là: “Như thật đạo lai, cố danh vi Như Lai (如實道來、故名爲如來, đến với đạo như thật, nên có tên là Như Lai)”; hoặc quyển 55 thì cho là: “Hành Lục Ba La Mật, đắc thành Phật đạo, … cố danh Như Lai (行六波羅蜜、證成佛道、… 故名如來, thực hành Sáu Ba La Mật, chứng thành Phật đạo, … nên có tên là Như Lai).” Hay như theo Thành Thật Luận (成實論) quyển 1 là: “Như Lai giả, thừa như thật đạo lai thành chánh giác, cố viết Như Lai (如來者、乘如實道來成正覺、故曰如來, Như Lai là mang đạo như thật đến đây và thành chánh giác, nên được gọi là Như Lai).” Chuyển Pháp Luân Luận (轉法輪論) giải thích rằng: “Như thật nhi lai, cố danh Như Lai; … Niết Bàn danh Như, tri giải danh Lai, Chánh Giác Niết Bàn cố danh Như Lai (如實而來、故名如來、… 涅槃名如、知解名來、正覺涅槃故名如來, như thật mà đến, nên có tên là Như Lai; Niết Bàn gọi là Như, hiểu biết gọi là Lai; vì vậy Chánh Giác Niết Bàn được gọi là Như Lai).” Đại Nhật Kinh Sớ (大日經疏) cũng có giải thích tương tợ như vậy: “Như chư Phật thừa như thật đạo lai thành chánh giác, kim Phật diệc như thị lai, cố danh Như Lai (如諸佛乘如實道來成正覺、今佛亦如是來、故名如來, như các đức Phật mang đạo như thật đến đây và thành chánh giác, nay Phật cũng đến như vậy, nên có tên là Như Lai).” Bí Tạng Ký Bổn (秘藏記本) của Mật Giáo thì cho rằng: “Thừa như nhi lai cố viết Như Lai (乘如而來故曰如來, cỡi đạo như thật mà đến nên có tên là Như Lai).” Trong tác phẩm Giáo Hành Tín Chứng (敎行信證) quyển 4 của Thân Loan (親鸞, Shinran, 1173-1262) Nhật Bản có định nghĩa về Như Lai rằng: “Chơn như tức thị nhất như, nhiên giả Di Đà Như Lai tùng Như Lai sanh thị hiện Báo Ứng Hóa chủng chủng thân giả (眞如卽是一如、然者彌陀如來從如來生示現報應化種種身也, chơn như tức là nhất như, tuy nhiên, Di Đà Như Lai từ Như Lai sanh ra, thị hiện các loại thân như Báo Thân, Ứng Thân, Hóa Thân).” Ngoài ra, bản chú giải trường bộ kinh bằng tiếng Pāli là Sumaṅgala-vilāsinī có nêu 9 nghĩa của Như Lai, hay Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (十住毘婆沙論) thì giải thích 11 nghĩa, v.v. Tại Chánh Điện của dũng tuyền tự (湧泉寺), thuộc Phúc Châu (福州), Tỉnh Phúc Kiến (福建), Trung Quốc có câu đối rằng: “Bảo tướng hiện Như Lai nhân chứng Bồ Đề không Ngũ Uẩn, kim thân Quán Tự Tại tu La Hán ngộ Tam Thừa (寶相現如來因證菩提空五蘊、金身觀自在果修羅漢悟三乘, tướng báu hiện Như Lai nhân chứng Bồ Đề không Năm Uẩn, thân vàng Quán Tự Tại tu La Hán ngộ Ba Thừa).” Hay như tại Huệ Tế Tự (慧濟寺) thuộc Phổ Đà Sơn (普陀山), Tỉnh Triết Giang (浙江省) cũng có câu đối: “Tự Tại tự quán Quán Tự Tại, Như Lai như kiến kiến Như Lai (自在自觀觀自在、如來如見見如來, Tự Tại tự quán Quán Tự Tại, Như Lai như thấy thấy Như Lai).”
(焚香): đốt hương, xông hương, đốt nhang. Tại Trung Quốc, từ xưa đến nay, từ trong cung đình cho đến ngoài dân gian, đều có tập tục đốt hương để làm cho không khí thanh tịnh, đốt hương đàn cầm, hay đốt hương ngâm thơ, tĩnh tọa, v.v. Hai bên phải trái của bệ trước Thái Hòa Điện (太和殿) nhà Thanh có đặt 4 cái ghế cao gọi là Hương Kỷ (香幾), mỗi ghế an trí Lò Hương 3 chân. Khi Hoàng Đế lên điện, thường đốt Đàn Hương (檀香) ở trong lò, đem đặt trong Kim Loan Điện (金鑾殿); khói hương nghi ngút bay vờn chung quanh, khí thơm tỏa ngát bốn phương, khiến cho tinh thần con người phấn chấn lên. Thời xưa, khi chơi đàn cầm, Gia Cát Khổng Minh (諸葛孔明, 181-234) không chỉ có đồng tử hầu hạ hai bên, mà còn thường đặt hương án, đốt hương để tạo thêm cảm hứng. Các văn sĩ, thục nữ thời cổ đại, khi chơi đàn cũng có thói quen đốt hương, tạo thêm không khí u tĩnh, thanh thoát, phong nhã. Lục Du (陸游, 1125-1210), thi nhân ái quốc thời Nam Triều, mỗi khi đọc sách thường có xông hương. Như trong bài Hà Trung Nhàn Hộ Chung Nhật Ngẫu Đắc Tuyệt Cú (假中閒戶終日偶得絕句), ông có diễn tả cảm hứng rằng: “Thặng hỷ kim triêu tịch vô sự, phần hương nhàn khán ngọc khê thi (剩喜今朝寂無事、焚香閒看玉溪詩, vui quá sáng nay lặng vô sự, đốt hương nhàn ngắm khe ngọc thơ).” Cũng vậy, Tô Đông Pha (蘇東坡, 1037-1101), đại văn hào nhà Bắc Tống, lại thường đốt hương tĩnh tọa và tu tâm dưỡng tánh. Trên đường đến nhậm chức ở Đam Châu (儋州), Hải Nam (海南), ông có mua hơn 10 cân Đàn Hương, sau đó lập nên xe gọi là Tức Hiên (息軒), và tương truyền rằng ông thường xông hương tĩnh tọa trong xe đó. Cho nên, ông bảo rằng: “Vô sự thử tĩnh tọa, nhất nhật thị lưỡng nhật, nhược hoạt thất thập niên, tiện thị bách tứ thập (無事此靜坐、一日是兩日、若活七十年、便是百四十, vô sự ngồi yên lắng, một ngày là hai ngày, nếu sống bảy mươi năm, tức trăm bốn mươi tuổi).” Ngay như Tề Bạch Thạch (齊白石, 1864-1957), họa sĩ trứ danh hiện đại của Trung Quốc, cũng rất tôn kính tác dụng thần kỳ của việc xông hương vẽ tranh. Trong bài thơ Đông Đáo Kim Hoa Sơn Quán (冬到金華山觀) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770) nhà Đường có câu rằng: “Phần hương ngọc nữ quỳ, vụ lí tiên nhân lai (焚香玉女跪、霧裏仙人來, đốt hương ngọc nữ quỳ, sương mù tiên nhân đến).” Sách Hiền Kỷ Tập (賢己集) của Lý Tướng (李相) cho rằng khởi đầu của việc đốt hương là từ Phật Đồ Trừng (佛圖澄, 232-348). Như trong Cao Tăng Truyện (高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2059) quyển 9, phần Trúc Phật Đồ Trừng (竺佛圖澄), có đoạn: “Tức thủ ứng khí thạnh thủy thiêu hương chú chi, tu du sanh thanh liên hoa (卽取應器盛水燒香咒之、須臾生青蓮花, tức lấy bình bát đỗ đầy nước rồi chú nguyện, trong chốc lát thì hoa sen xanh sanh ra).” Trong khi đó, tác phẩm Năng Cải Trai Mạn Lục (能改齋漫錄) của Ngô Tằng (吳曾, ?-?) nhà Nam Tống thì cho là khởi đầu từ thời nhà Hán. Tập tục đốt hương đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người dân châu Á nói chung và của người Việt Nam nói riêng. Đốt hương để làm thanh tịnh đàn tràng, môi trường, thân tâm, để mặc khải với chư Phật, Bồ Tát, thần linh. Như trong Thiện Nữ Nhân Truyện (善女人傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1657) quyển Hạ, phần Minh Nhân Hiếu Từ Hoàng Hậu (明仁孝徐皇后), có đoạn rằng: “Hồng Võ tam thập nhất niên, Xuân chánh nguyệt sóc đán, ngô phần hương tĩnh tọa các trung, duyệt cổ kinh điển, tâm thần ngưng định, hốt hữu tử kim quang tụ, di mãn tứ châu, hoảng hốt nhược thùy, mộng kiến Quán Thế Âm Bồ Tát (洪武三十一年、春正月朔旦、吾焚香靜坐閣中、閱古經典、心神凝定、忽有紫金光聚、彌滿四周、恍惚若睡、夢見觀世音菩薩, vào sáng sớm ngày mồng một tháng Giêng mùa Xuân năm Hồng Võ thứ 31 [1398], ta đốt hương tĩnh tọa trong gác, đọc kinh điển xưa, tâm thần ngưng định, chợt có hào quang vàng tía tụ lại, đầy khắp bốn phía, mơ hồ như trong giấc ngủ, mơ thấy Bồ Tát Quán Thế Âm).” Đặc biệt, đối với Phật Giáo, truyền thống tắm rửa sạch sẽ, xông hương, ngồi tĩnh tọa và xả Báo Thân ra đi, được tìm thấy khá nhiều trong các thư tịch. Như trong Cư Sĩ Truyện (居士傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1646) quyển 42, phần Ân Trần Cố Châu Chu Thái Ngu Hoàng Trang Bào Truyện (殷陳顧朱周蔡虞黃莊鮑傳), có đoạn: “Niên lục thập hữu nhị, tự tri thệ kỳ, phần hương tọa thoát (年六十有二、自知逝期、焚香坐脫, vào năm 62 tuổi, ông tự biết lúc ra đi, bèn xông hương ngồi yên mà thoát hóa).” Hay trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (淨土聖賢錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1549) quyển 9, phần Kim Thích (金奭), lại có đoạn: “Phần hương an tọa, dĩ thủ kết ấn nhi hóa, thiên nhạc dị hương, chung nhật bất tán (焚香安坐、以手結印而化、天樂異香、終日不散, đốt hương ngồi yên, lấy tay bắt ấn mà ra đi, nhạc trời hương thơm lạ, suốt ngày vẫn không hết).” Hoặc trong Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1565) quyển 6, phần Thụy Châu Cửu Phong Đạo Kiền Thiền Sư (瑞州九峰道虔禪師), cũng có đoạn: “Toại phần hương, hương yên vị đoạn, tọa dĩ thoát khứ (遂焚香、香煙未斷、座已脫去, bèn đốt hương, khói hương chưa dứt, sư đã ngồi yên mà ra đi).”
(判官): còn gọi Quỷ Phán Quan (鬼判官). Trong Thập Điện Diêm La (十殿閻羅), ở hai bên của vua Diêm La tại mỗi điện đều có một vị Phán Quan phụ tá xử lý phiên tra công việc các vong hồn và chịu trách nhiệm thẩm tra các u hồn được dẫn đến Minh Phủ. Phán Quan có thể phân làm 4 loại: Thưởng Thiện Ty (賞善司), Phạt Ác Ty (罰惡司), Tra Sát Ty (查察司) và Thôi Phán Quan (崔判官). Ba tên đầu là chức danh, chỉ có chức cuối cùng thì thấy xuất hiện nhiều trong các thư tịch. Như trong Tây Du Ký (西遊記) cũng như truyền thuyết của các địa phương thường hay có tên vị này. Tương truyền Thôi Phán Quan tên là Giác (玨), người sống dưới thời Tùy Đường. Vào năm 633 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 7) nhà Đường, ông ra làm quan Huyện Lịnh Trường Tử (長子), Lộ Châu (潞州). Có thuyết cho rằng ông “ban ngày quản lý việc dương gian, tối xét xử các oan hồn dưới Âm Phủ, sai khiến người và quỷ, có năng lực như thần minh.” Trong dân gian có nhiều truyền thuyết về việc xử án của Thôi Giác (崔玨); trong đó có vụ án làm sáng tỏ con hổ làm thương tổn người được lưu truyền rộng rãi nhất. Truyền thuyết kể rằng nơi giáp giới phía tây nam Huyện Trường Tử và sông Thấm (沁) có một dãy núi lớn, tên là Điêu Hoàng Lãnh (雕黃嶺); xưa kia nơi đó thường có thú dữ xuất hiện. Một hôm, có chàng tiều phu lên núi đốn củi, không may bị con mãnh hổ ăn thịt. Người mẹ góa chồng hay tin đau lòng không muốn sống nữa, bèn lên Huyện đường kêu oan. Thôi Giác tức khắc phát lịnh bài, sai lính dịch Mạnh Hiến (孟憲) cầm điệp phù lên núi bắt cọp. Hiến lấy điệp phù ra đọc tụng trước Miếu Sơn Thần và dâng cúng trước án thần; khi ấy có một con cọp từ sau miếu lủi trốn ra. Hiến bèn dùng linh phù bắt con cọp dẫn về Huyện đường. Thôi Giác tức thì thăng đường, liệt kê tội phạm do con hổ gây ra từ trước đến nay; khi nghe mỗi tội như vậy, con hổ đều cúi đầu nhận chịu. Cuối cùng, ông phán quyết rằng: “Ăn thịt mạng người, tội không thể tha.” Con hổ nghe vậy đập đầu vào bậc cấp mà chết. Sau khi Thôi Giác qua đời, bá tánh đều lập miếu thờ ông ở khắp nơi. Tuy nhiên, cũng có thuyết nêu lên tên 4 vị phán quan có tên gọi hơi khác là: Chưởng Hình Phán Quán (掌刑判官, coi về hình phạt), Chưởng Thiện Bộ Phán Quan (掌善簿判官, coi về hồ sơ việc thiện), Chưởng Ác Bộ Phán Quan (掌惡簿判官, coi về hồ sơ việc ác) và Chưởng Sanh Tử Bộ Phán Quan (掌生死簿判官, coi về hồ sơ sống chết); trong đó vị cuối cùng là thủ lãnh tất cả. Tương truyền vị danh thần nhà Tống là Bao Thanh Thiên (包青天) cũng đã từng làm việc dưới Âm Phủ, có tên là Trương Bảo (張保), chuyên giám sát những người vượt ngục, trông coi hồ sơ sanh tử của con người và tuyên phạt những cực hình. Hình tượng các vị Phán Quan thường được tạc có đội mũ mềm trên đầu, mang cân đai, chân mang đôi hài mũi đen, trừng con mắt sáng quắt, tay trái cầm sổ thiệc ác, tay phải cầm cây bút sanh tử. Như vậy Quỷ Phán Quan là vị Phán Quan cõi Âm Phủ vốn có trong truyền thống văn hóa của Trung Quốc. Vì vậy, thế gian vẫn thường xưng tụng ông rằng: “Quân mạo tranh nanh, quân tâm công chánh, thanh lâm hắc tắc, duy quân sở mạng (君貌猙獰、君心公正、青林黑塞、唯君所命, Tướng người hung tợn, tâm người công chánh, rừng xanh chốn tối, chỉ người quản hạt).”
(s: dharma-kāya, 法身): tên gọi một trong 3 thân của Phật, gồm Pháp Thân, Báo Thân (報身) và Ứng Thân (應身). Với ý nghĩa là thân thể của chân lý (pháp), Pháp Thân là đương thể chân lý vĩnh viễn bất biến, là đức Phật lý tánh không sắc không hình, đem lại ý nghĩa mang tính nhân cách cho lý thể của chân như, còn được gọi là Pháp Thân Phật, Pháp Tánh Thân, Tự Tánh Thân, Như Như Phật, Như Như Thân, Đệ Nhất Thân, v.v. Đây là nhân cách hóa Phật tánh, tượng trưng cho Phật pháp tuyệt đối, chân lý không nơi đâu mà không hiện hữu, bao hàm khắp tất cả mọi nơi. Đức Phật là đấng giác ngộ, nên Pháp Thân là Giác Tánh (覺性, tánh giác ngộ), Báo Thân là Giác Tướng (覺相, tướng giác ngộ) và Ứng Thân là Giác Dụng (覺用, sự diệu dụng của giác ngộ). Hơn nữa, Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) có lập ra Tam Pháp Thân (三法身, ba loại Pháp Thân), gồm Pháp Hóa Sanh Thân (法化生身), Ngũ Phần Pháp Thân (五分法身) và Thật Tướng Pháp Thân (實相法身). Pháp Hóa Sanh Thân là hóa thân Phật do pháp tánh hóa hiện; Ngũ Phần Pháp Thân là thân thể có 5 phần công đức như Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến. Thật Tướng Pháp Thân là thật tướng của các pháp vốn có tánh Không. Bên cạnh đó, cũng có Tam Pháp Thân do Thiên Thai Tông lập ra, gồm Không Pháp Thân (空法身, Pháp Thân của Tiểu Thừa), Tức Giả Pháp Thân (卽假法身, Pháp Thân của Đại Thừa Biệt Giáo) và Tức Trung Pháp Thân (卽中法身, Pháp Thân của Đại Thừa Viên Giáo). Như trong Niệm Phật Khởi Duyên Di Đà Quán Kệ Trực Giải (念佛起緣彌陀觀偈直解, CBETA No. 1195) có giải thích về Pháp Thân rằng: “Pháp Thân giả, tức Như Lai Tạng Đại Niết Bàn thể, sanh diệt tâm diệt, chơn như tâm hiện, tức danh Pháp Thân; thử thân vô dộ khả lai, vô độ khả khứ, bổn Pháp Giới Thân, châu biến nhất thiết (法身者、卽如來藏大涅槃體、生滅心滅、眞如心現、卽名法身、此身無土可來、無土可去、本法界身、周遍一切, Pháp Thân tức là thể của Như Lai Tạng Đại Niết Bàn, tâm sanh diệt mà diệt, thì tâm chơn như hiển hiện, tức gọi là Pháp Thân; thân này không quốc độ nào có thể đến, không quốc độ nào có thể đi, vốn là thân của Pháp Giới, biến khắp tất cả).”
(三德): tức là Pháp Thân Đức (法身德), Bát Nhã Đức (般若德) và Giải Thoát Đức (解脫德). Căn cứ vào Phẩm Tựa của Kinh Đại Bát Niết Bàn, khi Phật sắp nhập diệt, các Phật tử đã chuẩn bị rất nhiều phẩm vật để dâng lên cúng dường đức Phật và chư Tăng một lần sau cuối. Những thực phẩm rất phong phú, đặc biệt có đầy đủ ba đức tính và sáu hương vị. Nghĩa là những thức ăn dâng cúng cho Phật và tăng thì phải đầy đủ 3 đức tính (yếu tố), gồm:
(1) Trong sạch, không nhơ nhớp;
(2) Mềm mại, ngon ngọt;
(3) Như pháp, tùy thời mà chế biến, làm ra đúng pháp.
Tam Đức này tượng trưng cho Ba Thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân) của Phật hoặc ba đức tướng (Trí Đức, Đoạn Đức, Ân Đức) của quả vị Phật. Từ sự kiện lịch sử này, đời sau, các chùa thường thiết lễ Cúng Ngọ và đọc câu “Tam Đức, Lục Vị, cúng Phật cập tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường (三德六味、供佛及僧、法界有情、普同供養, ba đức, sáu vị, cúng Phật cùng tăng, cùng khắp cúng dường).” Trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 90 có đoạn rằng: “Tại kính tắc Tam Đế viên dung, tại tâm tắc Tam Quán câu vận, tại nhân tắc Tam Đạo tương tục, tại quả tắc Tam Đức châu viên, như thị bản mạt tương thâu, phương nhập Đại Niết Bàn bí mật chi tạng (在境則三諦圓融、在心則三觀俱運、在因則三道相續、在果則三德周圓、如是本末相收、方入大涅槃祕密之藏, nơi kính thì Ba Đế viên dung, nơi tâm thì Ba Quán vận hành, nơi nhân thì Ba Đường liên tục, nơi quả thì Ba Đức tròn khắp, như vậy gốc ngọn cùng thâu, rồi nhập vào kho tàng bí mật của Đại Niết Bàn).” Hay như trong Thiền Môn Yếu Lược (禪門要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 55, No. 908) cũng có câu: “Hựu Tam Quán thành cố tức Tam Đức mãn, Trung Quán thành tức Pháp Thân mãn, Giả Quán thành tức Bát Nhã mãn, Không Quán thành tức giải thoát mãn, Tam Đức mãn cố danh Bí Mật Tạng (又三觀成故卽三德滿、中觀成卽法身滿、假觀成卽般若滿、空觀成卽解脫滿、三德滿故名秘密藏, lại Ba Quán thành nên Ba Đức tròn, Trung Quán thành tức Pháp Thân tròn, Giả Quán thành tức Bát Nhã tròn, Không Quán thành tức giải thoát tròn, vì Ba Đức tròn nên gọi là Kho Tàng Bí Mật).” Hoặc như trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung lại có câu: “Lịch Ngũ Vị Bồ Đề chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念, trãi qua con đường Bồ Đề Năm Vị, vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn thành Ba Niệm).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập