Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bách Tế »»
(大安寺, Daian-ji): ngôi chùa của Phái Cao Dã Sơn (高野山派) thuộc Chơn Ngôn Tông, tọa lạc tại Daianji-cho (大安町), Nara-shi (奈良市), là một trong 7 ngôi chùa lớn của Phật Giáo Nam Đô, còn gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji). Theo Đại An Tự Già Lam Duyên Khởi Tinh Lưu Ký Tư Tài Trương (南大寺伽藍緣起并流記資財帳) có ghi lại việc Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) phó thác cho Điền Thôn Hoàng Tử (田村皇子, sau này là Thư Minh Thiên Hoàng [舒明天皇, Jomei Tennō]) xây dựng ngôi đại tự với tên gọi là Hùng Ngưng Tự (熊凝寺, Kumagori-dera). Đây chính là khởi nguyên của Đại An Tự. Trong Thánh Đức Thái Tử Truyện Tư Ký (聖德太子傳私記) cũng cho rằng Hùng Ngưng Tự là tiền thân của ngôi già lam này. Trong Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi rằng vào năm thứ 11 (639) đời Thư Minh Thiên Hoàng, nhà vua ra chiếu chỉ xây Đại Cung và Đại Tự bên bờ sông Bách Tế, cho dựng ngôi tháp 9 tầng và đổi tên chùa là Bách Tế Đại Tự (百濟大寺, Kudara-no-ōdera). Đến năm thứ 2 (673) đời vua Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), chùa lại được dời về vùng Cao Thị (高市, Takechi) và lấy tên là Cao Thị Đại Tự (高市大寺, Takechi-no-ōdera). Sau đó, chùa lại đổi tên là Đại Quan Đại Tự (大官大寺, Daikandai-ji), trở thành một trong 3 ngôi chùa quan lớn và hưng thịnh đến tột đỉnh. Vào năm thứ 3 (710) niên hiệu Hòa Đồng (和銅), lúc kinh đô được dời về Bình Thành (平城, Heizei), chùa cũng chuyển về vị trí hiện tại và lấy tên là Đại An Tự. Từ quy mô già lam có dạng thức đặc thù được gọi là Cách Thức Đại An Tự, chiều cao của chùa, nó được gọi là Nam Đại Tự (南大寺, Nandai-ji) để sánh với Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) và Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji). Với tư cách là trung tâm học vấn của Tam Luận Tông, chùa đã một thời hưng thạnh. Chính từ đây đã xuất hiện những bậc danh tăng như Đạo Từ (道慈, Dōji), Cần Tháo (勤操, Gonzō), Hành Biểu (行表, Gyōbyō), Tối Trừng (最澄, Saichō), Lương Biện (良辨, Rōben), v.v. Đến thời đại Bình An, sau mấy lần bị hỏa tai vào năm thứ 11 (911) niên hiệu Diên Hỷ (延喜), năm đầu (1071) niên hiệu Khoan Nhân (寬仁), ngôi già lam bị cháy rụi khá nhiều và sau đó được tái thiết ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, vào khoảng cuối thời Bình An, cũng cùng chung số phận với những ngôi đại tự khác của vùng Nam Đô, chùa lâm vào tình trạng suy vi. Đến thời Liêm Thương, cùng với việc phục hưng giáo học, một số chùa như Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji), Tây Đại Tự, v.v., đã phát triển mạnh; nhưng trường hợp Đại An Tự thì lại càng suy thối hơn. Quần thể đường vũ hiện tồn được tái thiết dưới thời Minh Trị; bảo vật của chùa có bức tượng đứng Thập Nhất Diện Quan Âm (dưới thời Nại Lương) là tượng thờ chính, tượng Dương Liễu Quan Âm, Thiên Thủ Quan Âm, v.v., theo Cách Thức Đại An Tự.
(欽明天皇, Kimmei Tennō, tại vị 539-571): người con thứ 4 của Kế Thể Thiên Hoàng (繼体天皇), tên là Thiên Quốc Bài Khai Quảng Đình (天國排開廣庭, Amekunioshiharaki Hironiwa), tức vị vào năm 539 (có thuyết cho là năm 531). Vào thời đại này, vua Thánh Minh (聖明) của Bách Tế (百濟, Kudara) sai sứ đem dâng hiến Phật điển và Phật tượng cho thiên triều Nhật. Đây được xem như là lần đầu tiên Phật Giáo được truyền vào Nhật.
(良辨, Rōben, 689-773): vị tăng của Hoa Nghiêm Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Nại Lương, vị trú trì đời thứ nhất của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), húy Lương Biện (良辨), thông xưng là Căn Bổn Tăng Chánh (根本僧正), Kim Thứu Bồ Tát (金鷲菩薩), Kim Chung Hành Giả (金鐘行者), xuất thân vùng Tương Mô (相模, Sagami, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣], cũng có thuyết cho là vùng Chí Hạ [志賀], Cận Giang [近江, Ōmi] ?), họ Tất Bộ (漆部, hay Bách Tế [百濟] ?). Ông học Pháp Tướng với Nghĩa Uyên (義淵, Giin), Hoa Nghiêm với Thẩm Tường (審祥, Shinjō). Năm 733, ông kiến lập Kim Chung Tự (金鐘寺, Konshō-ji, tức Pháp Hoa Đường của Đông Đại Tự). Vào năm 740, ông cung thỉnh Thẩm Tường đến làm giảng sư tại chùa này, tận lực cống hiến cho Đông Đại Tự như sáng lập Pháp Hoa Hội, v.v., và đến năm 752 thì làm chức Biệt Đương đầu tiên của chùa. Ông từng làm Thiền Sư khán bệnh cho Thánh Võ Thượng Hoàng (聖武天皇, Shōmu Jōkō) và đến năm 756 thì được tiến chức Đại Tăng Đô. Năm 760, ông cùng với nhóm Từ Huấn (慈訓, Jikun) đề cử cải cách về chế độ giai cấp trong tăng lữ. Năm 773, ông làm Tăng Chánh và khai sơn Thạch Sơn Tự (石山寺) ở vùng Cận Giang. Câu chuyện lúc nhỏ ông bị chim ưng bắt đi, sau lớn lên gặp lại được song thân, đã trở thành truyền thuyết nổi tiếng trong dân gian.
(法隆寺, Hōryū-ji): ngôi chùa trung tâm của Thánh Đức Tông (聖德宗), hiện tọa lạc tại Ikaruka-cho (斑鳩町), Ikoma-gun (生駒郡), Nara-ken (奈良縣), là một trong 7 ngôi chùa lớn vùng Nam Đô. Nguyên gốc chùa này thuộc về Pháp Tướng Tông, nhưng vào năm 607 Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) khai cơ sáng tạo, nên chùa thuộc vào Thánh Đức Tông. Xưa kia, chùa có các tên gọi khác như Pháp Long Học Vấn Tự (法隆學問寺), Ban Cưu Tự (斑鳩寺, Ikaruka-dera), Giác Tự (鵤寺, Ikaruka-dera). Vào năm 670 (năm thứ 9 đời Thiên Trí Thiên Hoàng [天智天皇, Tenchi Tennō]) chùa bị cháy tiêu tan, và cho đến đầu thế kỷ thứ 8 chùa chỉ được tái kiến tạm thời mà thôi. Được phối trí theo dạng thức Pháp Long Tự, chùa có kiến trúc bằng gỗ tối cổ nhất thế giới, bao gồm Tây Viện, lấy Kim Đường (金堂), Ngũ Trùng Tháp (五重塔) của mô dạng thời đại Phi Điểu (飛鳥, Asuka) làm trung tâm; Đông Viện lấy Mộng Điện (夢殿) của mô dạng thời Thiên Bình (天平, Tempyō) làm trung tâm. Tượng thờ chính tại Kim Đường là Thích Ca Tam Tôn thuộc dạng thức của Phật Giáo hậu kỳ thời Bắc Ngụy (北魏, 386-534). Tương truyền khi Thánh Đức Thái Tử qua đời, vào năm 623 (năm thứ 31 đời Suy Cổ Thiên Hoàng [推古天皇, Suiko Tennō]), nhóm quý tộc đã phát nguyện và ra lệnh cho An Tác Chỉ Lợi (鞍作止利, Karatsukuri-no-Tori, còn gọi là Chỉ Lợi Phật Sư [止利佛師]) đúc tượng này. Ngoài ra, tại Kim Đường còn có một pho tượng Dược Sư Như Lai; tương truyền khi Dụng Minh Thiên Hoàng (用明天皇, ) lâm trọng bệnh, Thánh Đức Thái Tử đã phát nguyện đúc pho tượng này để cầu nguyện cho Thiên Hoàng lành bệnh và đến năm 607 (năm thứ 15 đời Suy Cổ Thiên Hoàng) mới hoàn thành. Pho tượng Dược Sư Như Lai hiện tồn được xem như là mới hơn pho Thích Ca Tam Tôn. Tây Viện Già Lam hiện tồn có Kim Đường (金堂), Ngũ Trùng Tháp (五重塔), Trung Môn (中門), Hành Lang, là những kiến trúc lúc mới thành lập chùa (cuối thế kỷ thứ 7); bên cạnh đó, ngoài Kho Kinh (經藏), Đông Thất (東室), Thực Đường (食堂), Đông Đại Môn (東大門) thuộc thời đại Thiên Bình, còn có Đại Giảng Đường (大講堂, năm 990), Lầu Chuông (金樓, khoảng năm 990), Tây Viên Đường (西圓堂, năm 1250), Nam Đại Môn (南大門, năm 1438), v.v. Quần thể này thể hiện toàn bộ bóng dáng kiến trúc già lam cổ đại. Về mỹ thuật Phật Giáo, ngôi cổ tự này hiện đang tàng trữ tại rất nhiểu bảo vật vô giá như tượng Thích Ca Tam Tôn, Dược Sư Như Lai, Bách Tế Quan Âm (百濟觀音), Mộng Vi Quan Âm (夢違觀音), Ngọc Trùng Trù Tử (玉虫厨子), Quất Phu Nhân Trù Tử (橘夫人厨子), v.v. Vào năm 1949, trong nội bộ và những tranh vẽ trên tường bị cháy tiêu, nhưng sau đó đã được phục nguyên lại toàn bộ. Đến năm 1993, chùa được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
(關白, Kampaku): tên gọi một chức quan trọng yếu nhằm bổ tá cho Thiên Hoàng và chấp hành các công việc chính trị, được dùng vào cuối thời Bình An trở đi. Vào năm 884, dưới thời Quang Hiếu Thiên Hoàng (光孝天皇, Kōkō Tennō, tại vị 884-887) thì hết thảy văn thư trước khi đưa cho nhà vua ngự lãm thì thường giao qua cho vị Quan Bạch tên Đằng Nguyên Cơ Kinh (藤原基經, Fujiwara Mototsune, 1218-1256) xem trước, và từ đó chức quan này ra đời. Chức quan này thường ngồi cao hơn Thái Chính Đại Thần.
(廣隆寺, Kōryū-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Ngự Thất (御室派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Sakyō-ku (右京區), Kyōto-to (京都市), Kyōto-fu (京都府); còn gọi là Phong Cang Tự (蜂岡寺), Thái Tần Tự (太秦寺), Tần Tự (秦寺), Tần Công Tự (秦公寺), Cát Dã Tự (葛野寺); hiệu núi là Phong Cang Sơn (蜂岡山). Ở vùng này, vào thời đại Ứng Thần Thiên Hoàng (應神天皇), con cháu của vua Tần Thủy Hoàng cũng như những người di dân từ Vương Quốc Bách Tế (百濟, Kudara) bên Triều Tiên sang đã làm cho hưng thạnh sản nghiệp, và đây cũng là nơi di thực nền văn minh từ vùng Đại Lục Trung Hoa vậy. Trong số những người dân đến đây có người hậu duệ của nhà họ Tần là Tần Hà Thắng (秦河勝). Tương truyền vị này nhân để an trí tượng Phật mà được Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtōku Taishi) ban tặng vào năm 604, cũng như các tượng Phật do hai nước Tân La (新羅) và Nhậm Na (任那) ban tặng, đã tạo lập nên ngôi chùa này nơi vùng đất nhà họ Tần. Sau đó, vào năm 810 và 1150 thì chùa bị cháy tan tành, nhưng cũng đã được tái kiến lại mấy lần. Chùa này vốn là chùa của dòng họ Tần, là ngôi chùa tối cổ ở vùng Kinh Đô Kyoto, là một trong bảy ngôi chùa có liên quan đến hành trạng của Thái Tử, bên cạnh Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), Tứ Thiên Vương Tự (四天王寺, Shitennō-ji). Quần thể kiến trúc hiện tại có Giảng Đường là kiến trúc được tái kiến dưới thời Bình An. Trong tòa nhà này ở chính giữa thờ tượng ngồi A Di Đà Phật bằng gỗ, bên phải có tượng Địa Tạng Bồ Tát, bên trái có tượng Hư Không Tạng Bồ Tát (虛空藏菩薩), phía đằng sau hai bên phải trái lại có an trí hai tượng Bất Không Quyên Sách Quan Âm (不空羂索觀音), Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音). Còn Chánh Điện Quế Cung Viện (桂宮院) là kiến trúc ảnh hưởng phong trào tín ngưỡng Thái Tử vào thời Liêm Thương, được xây dựng dưới hình thức Mộng Điện, nhà hình tròn bát giác. Trong điện thờ tượng ngồi bán già Như Ý Luân Quan Âm (如意輪觀音) bằng gỗ. Thượng Cung Vương Viện Thái Tử Điện (上宮王院太子殿) lại là Chánh Điện chính của chùa, thờ tượng Thánh Đức Thái Tử ngồi bán già. Linh Bảo Điện (靈寶殿) là nơi tàng trữ những vật báu của chùa ngang tầm cỡ quốc bảo. Bảo vật của chùa có tượng Bồ Tát Di Lặc ngồi bán già, bằng gỗ; tượng ngồi A Di Đà Như Lai, bằng gỗ; tượng đứng Bất Không Quyên Sách Quan Âm, bằng gỗ; tượng đứng Thiên Thủ Quan Âm, bằng gỗ; tượng đứng Thập Nhị Thần Tướng, bằng gỗ; Chánh Điện Quế Cung Viện, v.v.
(三韓): tên gọi chung của ba tiểu quốc Mã Hàn (馬韓), Thần Hàn (神韓) và Biện Hàn (辨韓), đã chiếm cứ phía Nam Triều Tiên cổ đại. Nó còn là tên gọi chung của Tân La (新羅), Bách Tế (百濟) và Cao Cú Lệ (高句麗).
(新羅, Shiragi): tên gọi ngày xưa của Triều Tiên cổ đại. Khoảng năm 47 trước CN, Hách Cư Thế (赫居世) lập nên Tư Lô Quốc (斯盧國) ở Khánh Châu (慶州), đến thế kỷ thứ 4 sau CN, nước này thống nhất các tiểu quốc Thần Hàn (辰韓) và lấy tên là Tân La. Từ thế kỷ thứ 6 trở đi, Tân La tiêu diệt các nước Gia La (加羅), bắt tay với nhà Đường của Trung Hoa để chinh phục hai nước Bách Tế (百濟, Kudara) cũng như Cao Cú Lệ (高句麗, Kōkuri), và đến năm 668 thì thống nhất toàn bộ lãnh thổ Triều Tiên. Sau đó, họ đã dẹp tan thế lực của nhà Đường ra khỏi bán đảo. Năm 935, nước này bị Vương Kiến (王建) của Cao Lệ (高麗) tiêu diệt. Dầu du nhập từ Trung Quốc vào, Tân La đã làm cho phát triển với đặc thù riêng Nho Giáo, Phật Giáo, Chế Độ Luật Lịnh, v.v., và đã đem lại ảnh hưởng rất to lớn cho Nhật Bản về mặt văn hóa, xã hội.
(成實宗, Jōjitsu-shū): tên gọi của học phái nghiên cứu dựa trên bộ Thành Thật Luận (s: Satyasiddhi-śāstra, 成實論) của Ha Lợi Bạt Ma (s: Harivarman, 訶利跋摩, khoảng thế kỷ thứ 3-4), do Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch vào khoảng năm 411-412. Ở Trung Hoa thì nó thuộc một chi nhánh của Tam Luận Tông. Trước tiên tông này được môn hạ của La Thập nghiên cứu, rồi Tăng Đạo (僧道) và Tăng Tung (僧嵩) đã thành lập nên 2 hệ thống tư tưởng lớn. Tăng Đạo thì trước tác bộ Thành Thật Luận Nghĩa Sớ (成實論義疏), đóng vai trò chỉ đạo trong việc nghiên cứu về Thành Thật Tông ở vùng phía Nam. Ông có một số đệ tử như Đàm Tế (曇濟), Đạo Lượng (道亮), Đạo Mãnh (道猛), v.v. Đệ tử của Đàm Tế và Đạo Mãnh thì có Pháp Sủng (法寵). Còn đối với Đạo Lượng, người soạn ra bộ Thành Thật Luận Nghĩa Sớ thì có Trí Lâm (智林). Tăng Tung thì quảng bố Thành Thật Luận ở Từ Châu; còn các môn hạ của đệ tử ông là Tăng Uyên (僧淵) như Đàm Độ (曇度), Đạo Đăng (道登), Huệ Cầu (慧球), v.v., thì được tín nhiệm thời Bắc Ngụy. Vào thời Nam Tề thì Tăng Nhu (僧柔), Huệ Thứ (慧次) vâng theo mệnh lệnh của vua Tuyên Văn Vương (宣文王) trước tác bộ Lược Thành Thật Luận (略成實論); sau này môn hạ của họ cũng xuất hiện ra 3 vị đại pháp sư của nhà Lương là Trí Tạng (智藏), Tăng Mân (僧旻) và Pháp Vân (法雲). Trong số 3 người này thì Trí Tạng là người đã đem hết sức mình xiển dương Thành Thật Luận. Vào đời nhà Tùy thì có Trí Thoát (智脫) rất nổi tiếng. Đối với Nhật Bản thì tông này cũng được vương triều Bách Tế (百濟) của Triều Tiên truyền vào, nhưng chỉ phụ thuộc vào Tam Luận Tông, chứ không tồn tại như một tông phái lớn như ở Trung Quốc.
(鎭護國家, chingokokka): cầu nguyện Thần, Phật để tiêu diệt các tại hại và đuổi lui ngoại xâm. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6, Thánh Minh Vương (聖明王) của triều Bách Tế (百濟, Kudara) đem dâng hiến tượng Phật cũng như kinh luận; Khâm Minh Thiên Hoàng (欽明天皇, Kimmei Tennō) lấy thái độ trung lập, khi ấy Tô Ngã Đạo Mục (蘇我稻目, Soga-no-iname) bèn thọ nhận các tượng Phật, v.v (Thị Tộc Phật Giáo). Vào tháng 5 năm thứ 6 (660) đời vua Tề Minh Thiên Hoàng (齊明天皇, Saimei Tennō), để đối phó với tình thế quân sự ở bán đảo Triều Tiên, nhà vua đã tiến hành cầu nguyện cho quân ngoại xâm (quân Tân La Triều Tiên và nhà Đường Trung Quốc) rút lui; cho nên Phật Giáo đóng vai trò trấn hộ quốc gia (Quốc Gia Phật Giáo). Người ta tin rằng nếu đọc tụng Nhân Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh (仁王般若波羅蜜經) thì các quỷ thần sẽ bảo vệ đất nước và đuổi lui ngoại địch. Vào năm thứ 5 (676) đời vua Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), để cầu nguyện cho hạn hán tiêu trừ, tại các tiểu quốc tiến hành dâng lụa cho thần, thuyết giảng Kim Quang Minh Kinh (金光明經, thuyết rằng Tứ Thiên Vương ủng hộ quốc gia khỏi bị tại hại và ngoại xâm) cũng như Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經); cho nên Thiên Hoàng nắm quyền chủ đạo làm cho Phật pháp hưng long và quyền thống chế giới Phật Giáo. Tại 4 ngôi chùa lớn (Đại Quan Đại Tự [大官大寺], Dược Sư Tự [藥師寺], Pháp Hưng Tự [法興寺] và Xuyên Nguyên Tự [川原寺]) dưới thời đại kinh đô Đằng Nguyên, các pháp hội cầu nguyện cho Thiên Hoàng hay tai hại tiêu diệt, v.v., được tiến hành thường xuyên. Vào năm thứ 9 (737) niên hiệu Thiên Bình (天平), làn sóng dao động bệnh ghẻ lở và nạn đói cũng như nỗi sợ hãi quân Tân La sang xâm chiếm tràn lan khắp nơi; tại các tiểu quốc lệnh vẽ tượng Thích Ca Tam Tôn và chép Đại Bát Nhã Kinh (大般若經, có lợi ích trừ tai nạn và được phước đức) được ban bố. Y Thế Thần Cung (伊勢神宮, Ise Jingu) cũng như những đền thờ thần xã ở vùng Trú Cát (住吉) và Vũ Tá (宇佐) lệnh cho các sứ tiết cầu nguyện trấn phục quân Tân La. Trong khi đó, Đạo Từ (道慈) thì giảng Tối Thắng Vương Kinh (最勝王經) ở Đại Cực Điện (大極殿) trong hoàng cung. Vào năm thứ 12 (740) niên hiệu Thiên Bình, Đằng Nguyên Quảng Từ (藤原廣嗣, ) bắt đầu cử binh ở Đại Tể Phủ (大宰府, Dazaifu) và cuộc nỗi loạn ở Cửu Châu (九州, Kyūshū) có khả năng kết hợp với thế lực của quân Tân La. Thấy vậy, Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō) bị sốc nặng, bèn bỏ Bình Thành Kinh (平城京), dời đô về Cung Nhân Kinh (恭仁京); năm sau Thiên Hoàng cho xây dựng tại các tiểu quốc những ngôi Kim Quang Minh Tứ Thiên Vương Hộ Quốc Chi Tự (金光明四天王護國之寺, tức Quốc Phận Tăng Tự) cũng như Pháp Hoa Diệt Tội Chi Tự (法華滅罪之寺, tức Quốc Phận Ni Tự) và cho an trí Kinh Thắng Man (勝鬘經) bằng giấy tím viết chữ vàng vào trong tháp của những ngôi Quốc Phận Tăng Tự. Đến năm đầu (767) niên hiệu Thần Hộ Cảnh Vân (神護景雲), tại các Quốc Phận Tăng Tự có tu pháp sám hối Cát Tường Thiên (吉祥天) để cầu nguyện cho thóc lúa được mùa, triệu dân an lạc và việc này đã được thông lệ hóa, hình thành nên Cát Tường Hội (吉祥會). Như ta đã thấy ở trên, Phật Giáo đóng vai trò cầu nguyện trấn hộ quốc gia đã phát triển tột đỉnh dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara). Trong quá trình các kinh đô như Trường Cương Kinh (長岡京), Bình An Kinh (平安京) được dời chuyển đến nơi khác, những ngôi chùa ở kinh đô cũ cũng di chuyển về kinh đô mới; tuy nhiên, chỉ có trường hợp dời đô của Bình Thành Kinh thì ngoại lệ. Điều này cho thấy rằng từ thời Bình An (平安, Heian) trở về sau, mối quan hệ giữa Phật Giáo và quốc gia càng lạt lẽo dần. Tối Trừng (最澄, Saichō) lấy việc an trí 100 bộ Hiển Giới Luận (顯戒論) và 100 vị tăng Bồ Tát trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) để khẳng định rằng ngôi chùa là thành quách của quốc gia và tuyên xướng tư tưởng Trấn Hộ Quốc Gia, nhưng quy mô của nó không thể sánh với Phật Giáo Trấn Hộ Quốc Gia dưới thời đại Nại Lương. Tuy nhiên, Nhân Vương Hội (仁王會) là một lễ hội rất thịnh hành trong triều đình thời Bình An, cũng thể hiện rõ nét bóng dáng của Phật Giáo Trấn Hộ Quốc Gia.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập