Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Hãy đạt đến thành công bằng vào việc phụng sự người khác, không phải dựa vào phí tổn mà người khác phải trả. (Earn your success based on service to others, not at the expense of others.)H. Jackson Brown, Jr.
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bạch Ngọc »»
(乾開坤闔): càn mở khôn đóng, tức trời mở ra và đất đóng lại. Trong Hệ Từ Truyện (繫辭傳) có giải thích rằng: “Hạp hộ vị chi khôn, tịch hộ vị chi càn, nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai vô cùng vị chi thông (闔戶謂之坤、闢戶謂之乾、一闔一闢謂之變、徃來無窮謂之通, Đóng cửa gọi là khôn, mở cửa gọi là càn, một đóng một mở gọi là biến, qua lại không cùng gọi là thông).” Hay trong phần Huyền Quan Hiển Bí Luận (玄關顯秘論) của Tử Thanh Chỉ Huyền Tập (紫清指玄集) do Bạch Ngọc Thiềm (白玉蟾, 1194-?) nhà Tống soạn, cũng có đoạn rằng: “Khai hạp càn khôn tạo hóa quyền, đoán luyện nhất lô chơn nhật nguyệt (開闔乾坤造化權、煅煉一爐眞日月, Đóng mở trời đất tạo hóa quyền, nung luyện một lò đúng trời trăng).” Trong bài (望海亭賦) của Phạm Thành Đại (范成大) nhà Tống có câu: “Thiên phong kích xuy, ba đào hạp khai (天風激吹、波濤闔開, gió trời thổi mạnh, sóng cả đóng mở).”
(s: mahāvīra, 大雄): ý chỉ bậc anh hùng vĩ đại, là đức hiệu của đức Phật, vì Ngài là đấng anh hùng, có đủ năng lực trí tuệ lớn, có thể hàng phục ma chướng, chiến thắng tự thân mình. Vì vậy, tại Chánh Điện tôn thờ đức Phật được gọi là “Đại Hùng Bảo Điện (大雄寶殿, ngôi điện báu của đấng Đại Hùng).” Như trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262), Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (從地踊出品) thứ 15, có câu: “Thiện tai ! Thiện tai ! Đại hùng Thế Tôn ! (善哉、善哉、大雄世尊, Lành thay ! Lành thay ! Đức Thế Tôn đại hùng !).” Hay trong Phụ Tử Hợp Tập Kinh (父子合集經, Taishō Vol. 11, No. 320) quyển 13, Phẩm Tịnh Cư Thiên Thuyết Kệ Tán Phật (淨居天子說偈讚佛品) thứ 24, có đoạn: “Đại hùng mãnh Thế Tôn, xả sanh tử trọng đảm, cần tu vô thối khuất, tốc chí ư Bồ Đề (大雄猛世尊、捨生死重擔、勤修無退屈、速至於菩提, Thế Tôn đại hùng mãnh, bỏ sống chết gánh nặng, siêng tu không thối chuyển, mau đến nơi Bồ Đề).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 7, phần Trú Kim Lăng Thiên Giới Thiền Tự Ngữ Lục (住金陵天界禪寺語錄), lại có câu: “Đại Hùng Điện niêm hương, hoàng kim điện thượng Tam Tôn Phật, Bạch Ngọc quang trung nhất cá tăng (大雄殿拈香、黃金殿上三尊佛、白玉光中一箇僧, nơi Điện Đại Hùng niêm hương, vàng ròng trên điện Ba Đấng Phật, ngọc trắng hào quang một lão tăng).”
(彌天): có hai nghĩa chính. (1) Tỷ dụ ý chí cao ngất trời. Như trong bài thơ Tống Tánh Nguyên Thượng Tọa Hoàn Thanh Phố (送性原上座還青浦) của Kim Nông (金農, 1687-1764) nhà Thanh có câu: “Thành Phật mạc giáo linh vận hậu, di thiên đắc tợ Đạo An vô (成佛莫敎靈運後、彌天得似道安無, thành Phật chớ bảo thời vận hậu, ý chí ai bằng Đạo An đây).” Từ đó, Di Thiên cũng được dùng thay thế cho Thích Đạo An (道安, 312[314]-385), nhân vật trung tâm của Phật Giáo thời Đông Tấn. Như trong bài thơ Tống Trọng Chế Đông Du Kiêm Ký Trình Linh Triệt Thượng Nhân (送仲制東遊兼寄呈靈澈上人) của Lưu Vũ Tích (劉禹錫, 772-842) nhà Đường có câu: “Kinh Châu bổn tự trọng Di Thiên, Nam Triều tháp miếu do y nhiên (荊州本自重彌天、南朝塔廟猶依然, Kinh Châu vốn kính trọng Di Thiên, Nam Triều tháp miếu còn y nguyên).” (2) Đầy trời, ngất trời. Như trong bức Báo Đông Hải Tương Lương Quý Nhiên Thư (報東海相梁季然書) của Ứng Cừ (應璩, 190-252) nhà Ngụy thời Tam Quốc có câu: “Đốn di thiên chi võng, thu vạn nhận chi ngư (頓彌天之網、收萬仞之魚, bủa khắp trời lưới võng, thâu vạn thước cá to).” Hay trong Cổ Lâm Thanh Mậu Thiền Sư Ngữ Lục (古林清茂禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1412) quyển 5, phần Vô Lượng Thọ Phật Tượng Tán (無量壽佛像讚), có đoạn: “Chiêm lễ vô vong thập nhị thì, cố hương đoan khả dữ tâm kỳ, di thiên tướng hảo thanh lương nguyệt, ánh nhật liên khai Bạch Ngọc trì (瞻禮無忘十二時、故鄉端可與心期、彌天相好清涼月、映日蓮開白玉池, chiêm lễ đâu quên mười hai thời, cố hương trông ngóng tâm muôn nơi, khắp trời tướng tốt trăng trong sáng, trời tỏ sen khai ngọc trắng phơi).”
(s: padma, kōren, 紅蓮): hoa sen hồng, âm dịch là Bát Đầu Ma (鉢頭摩), nguyên sản ở vùng Đông Ấn Độ, Ba Tư (波斯). Trong 40 tay của Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音, Quan Âm Ngày Tay), có 1 tay bên phải cầm hoa này, gọi là Hồng Liên Hoa Thủ (紅蓮華手, tay hoa sen hồng). Trong Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (千手千眼觀世音菩薩大悲心陀羅尼, Taishō 20, 118) có đoạn rằng: “Nhược vi cầu sanh chư Thiên cung giả, đương ư Hồng Liên Hoa Thủ; chơn ngôn: 'án thương yết lệ tát phạ hạ' (若爲求生諸天宮者、當於紅蓮華手、眞言:唵商掲隷薩嚩賀, nếu có người vì cầu sanh lên cung điện của chư Thiên thì nên ở nơi cánh tay cầm hoa sen hồng; chơn ngôn là 'án thương yết lệ tát phạ hạ').” Trong bài kệ xưng tán Kinh Pháp Hoa có câu: “Lục vạn dư ngôn thất trục trang, vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng, Bạch Ngọc xỉ biên lưu Xá Lợi, Hồng Liên thiệt thượng phóng hào quang, hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội Đề Hồ trích trích lương, giả nhiêu tạo tội quá sơn nhạc, bất tu diệu pháp lưỡng tam hàng (六萬餘言七軸裝、無邊妙義廣含藏、白玉齒邊流舍利、紅蓮舌上放毫光、喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼、假饒造罪過山嶽、不須妙法兩三行, hơn sáu vạn lời bảy cuốn thành, vô biên nghĩa mầu rộng ẩn tàng, bên răng Ngọc Trắng tuôn Xá Lợi, trên lưỡi sen hồng phóng hào quang, trong cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trên miệng Đề Hồ giọt giọt tan, giả như tạo tội hơn núi cả, chẳng bằng diệu pháp vài ba hàng).”
(蓮邦): gọi đủ là Liên Hoa chi bang (蓮華之邦), nghĩa là quốc độ, đất nước hoa sen. Đây là tên gọi khác của thế giới Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂), vì tất cả chúng sanh trên cõi Cực Lạc đều an trú trong hoa sen. Như trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, CBETA No. 1215) có bài thơ rằng: “Đài đầu tận thị Hoàng Kim điện, cử nhãn vô phi Bạch Ngọc đường, Thất Bảo Diêu Trì phu hạm đạm, Bát Công Đức Thủy hý uyên ương, chư quân chơn đáo Liên Bang quốc, tiện thỉnh tri âm hòa nhất chương, thanh thanh Phật hiệu hữu vô trúng chỉ yếu hành nhân tín nguyện sung (抬頭盡是黃金殿、舉眼無非白玉堂、七寶瑤池敷菡萏、八功德水戲鴛鴦、諸君真到蓮邦國、便請知音和一章、聲聲佛號有無中、只要行人信願充, ngẩng đầu lên ấy vàng ròng điện, mở mắt nào hay ngọc trắng đường, bảy báu Diêu Trì phô sen nở, Tám Công Đức Nước giỡn uyên ương, mọi người đã đến Liên Bang cõi, xin thỉnh tri âm hòa một chương, mỗi danh hiệu Phật có không thảy, chỉ cần hành giả tín nguyện tròn).” Hay như trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, CBETA No. 1204) quyển 3 cũng có câu: “Ngũ lậu thân thành chướng cấu đa, vi nhi vi nữ khổ bôn ba, kim triêu phương thức trần trung huyễn, hàm tiếu liên bang thổ bích hà (五陋身成障垢多、爲兒爲女苦奔波、今朝方識塵中幻、含笑蓮邦吐碧荷, xấu xí thân hình tội chướng đa, làm thân người nữ khổ bôn ba, sáng nay mới biết trong trần huyễn, cười mĩm Liên Bang nở sen hoa).”
(蓮花 hay 蓮華, renge): hoa sen. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, người ta thường cho loại hoa sen mà có rễ (củ sen) là hoa sen, nhưng ở Ấn Độ còn có thêm một loại sen nước (thủy liên) khác nữa ngoài hai thứ trên, và khi nói đến hoa sen người ta thường ám chỉ loại sen nước này nhiều hơn. Tại Ấn Độ có nhiều loại hoa sen, nhưng trong kinh điển Phật Giáo có đề cập đến 5 loại. Đó là hoa sen trắng (s, p: puṇḍarīka, âm dịch là Phân Đà Lợi Ca [分陀利迦], 白蓮), hoa sen xanh (s: utpala, p: uppala, âm dịch là Ưu Bát La [優鉢羅], 青蓮), hoa sen hồng (s: padma, p: paduma, âm dịch là Bát Đầu Ma [鉢頭摩], 紅蓮), hoa sen vàng (s, p: kumuda, âm dịch là Câu Vật Đầu [拘物頭], 黃蓮), và loại hoa sen xanh khác (s, p: nīlotpala, 青蓮). Nhưng trên thực tế thì trừ loại hoa sen trắng (puṇḍarīka) ra, loại nào cũng có màu trắng và hồng cả. Từ ngàn xưa ở Ấn Độ người ta rất yêu chuộng loại hoa sen này. Trong đạo Bà La Môn có thần thoại cho rằng từ trong lỗ rún của thần Vishnu sinh ra hoa sen, trong hoa sen có Phạm Thiên là người sáng tạo ra vạn vật. Hoa sen vốn mọc trong bùn, nhưng trồi ra khỏi bùn để sống, không bị nhiễm mùi hôi tanh của bùn nhơ, mà còn có mùi thơm trong sạch, cho nên nó được ví như là Phật tâm vốn có cũng như chư Phật và Bồ Tát thanh tịnh. Một trong những kinh điển tiêu biểu của Đại Thừa nói về hoa sen là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka, 妙法蓮華經), ví diệu pháp của Phật như là hoa sen trắng lớn. Thế giới của Kinh Pháp Hoa là Liên Hoa Tạng Thế Giới (蓮華藏世界) hay nói cho đúng là Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải (s: Kusumatalagarbha-vyūhālaṃkāra-lokadhātu-samudra, 蓮華藏莊嚴世界海). Cổ Côn Pháp Sư (古崑法師) nhà Thanh có câu thơ rằng: “Nhất thanh Phật hiệu vi vi tụng, thất bảo Liên Hoa đại đại khai (一聲佛號微微誦、七寶蓮花大大開, một tiếng niệm Phật nhỏ nhỏ tụng, hoa sen bảy báu nở lớn dần).” Hay như tại Cửu Phong Thiền Tự (九峰禪寺) ở Vĩnh Gia (永嘉), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có câu đối như sau: “Hoàng kim địa thượng bảo thọ trùng trùng tận thị tu hành giả chủng, Bạch Ngọc trì trung Liên Hoa đóa đóa vô phi niệm Phật nhân tài (黃金地上寶樹重重盡是修行者種、白玉池中蓮花朵朵無非念佛人栽, trên đất vàng ròng cây báu hàng hàng thảy do người tu hành trồng, trong hồ ngọc trắng hoa sen đóa đóa đều là người niệm Phật gieo).”
(西宮王母): có nhiều nghĩa khác nhau:
(1) Tức Tây Vương Mẫu (西王母), tục xưng là Vương Mẫu Nương Nương (王母娘娘), Tây Mụ (西姥), Vương Mẫu (王母), Kim Mẫu (金母), Kim Mẫu Nguyên Quân (金母元君), Diêu Trì Kim Mẫu (瑤池金母); gọi đủ là Bạch Ngọc Quy Đài Cửu Linh Thái Chơn Kim Mẫu Nguyên Quân (白玉龜台九靈太眞金母元君), Bạch Ngọc Quy Đài Cửu Phụng Thái Chơn Tây Vương Mẫu (白玉龜台九鳳太真西王母), Thái Linh Cửu Quang Quy Đài Kim Mẫu Nguyên Quân (太靈九光龜台金母元君). Tục tánh của Tây Vương Mẫu là Hầu (侯), hay Dương (楊); tên Hồi (回), tự là Uyển Linh (婉姈), hay Thái Hư (太虛); là vị nữ thần, tiên nữ trong truyền thuyết thần thoại Trung Quốc, xưa kia dùng làm tượng trưng cho trường sanh bất lão. Tên gọi Tây Vương Mẫu lần đầu tiên xuất hiện trong Sơn Hải Kinh (山海經), phần Tây Thứ Tam Kinh (西次三經): “Tây Vương Mẫu cư trú tại Ngọc Sơn chi sơn, kỳ trạng như nhân, báo vĩ hổ xỉ nhi thiện khiếu, bồng phát đái thắng (西王母居住在玉山之山、其狀如人、豹尾虎齒而善嘯、蓬髮戴勝, Tây Vương Mẫu cư trú tại núi Ngọc Sơn, hình trạng như người, đuôi báo, răng cọp mà khéo gầm thét, tóc bềnh bồng có cài hoa).” Chữ “Tây (西)” chỉ cho phương hướng, “Vương Mẫu (王母)” là thần danh. Tây Vương Mẫu được kết thành từ khí Tây Hoa Chí Diệu (西華至妙) trong nguyên khí hỗn độn của đất trời tự nhiên. Trong Hán Võ Đế Nội Truyện (漢武帝內傳) có diễn tả khi Tây Vương Mẫu đăng điện như sau: “Trước hoàng kim đáp thuộc, văn thái tiên minh, quang nghi thục mục, đái Linh Phi đại thụ, yêu bội Phân Cảnh chi kiếm, đầu thượng Thái Hoa kế, đái Thái Chơn Thần Anh chi quan, lý Huyền Quyết Phụng Văn chi tích; thị chi kahr niên tam thập hứa, tu đoản đắc trung, thiên tư yểm ái, dung nhan tuyệt thế (著黃金褡孎、文采鮮明、光儀淑穆、帶靈飛大綬、腰佩分景之劍、頭上太華髻、戴太眞晨嬰之冠、履玄鐍鳳文之舄、視之可年三十許、修短得中、天姿掩藹、容顏絕世, Bà mặc áo bào vàng ròng, văn hoa sáng ngời, dáng nghi hiền thục, mang dây đai lớn Linh Phi, lưng đeo cây kiếm Phân Cảnh, trên đầu búi tóc Thái Hoa, đầu đội mão Thái Chơn Thần Anh, chân mang hài Huyền Quyết Phụng Văn, mới nhìn khoảng chừng ba mươi tuổi, song có thể trẻ hơn, dáng trời thư thái, dung nhan tuyệt thế).” Hán Võ Đế (漢武帝, tại vị 141-87 ttl.) lạy nhận mệnh của Tây Vương Mẫu. Bà là tông tổ của các tiên nữ, cư trú tại núi Côn Lôn (崑崙), có thành quách cả vạn dặm, lầu ngọc 12 ngôi, cửa khuyết Quỳnh Hoa (瓊華), nhà bằng ngọc Quang Bích (光碧), phòng bằng hạt Tử Thúy (紫翠); bên trái giáp giới với Diêu Trì (瑤池), bên phải bao vòng cả Thúy Sơn (翠山). Trong Bác Vật Chí (博物志) cho rằng nơi Diêu Trì ấy có cây đào tên Bàn Đào (蟠桃), ba ngàn năm mới sanh trái một lần. Từ đó, Tây Vương Mẫu còn có tên gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Thánh Mẫu, chủ nhân của Hội Bàn Đào. Trên trời dưới đất, Ba Cõi Mười Phương, bất cứ người nữ nào đắc đạo thành tiên, đều phải lệ thuộc vào sự quản lý của Tây Vương Mẫu. Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) ban cho Tây Vương Mẫu hồ sơ Phương Thiên Nguyên Thống Quy Sơn Cửu Quang (方天元統龜山九光) để tổng quản vạn linh, chư thánh hiền. Tương truyền Chu Mục Vương (周穆王) đã từng xa giá đến vùng Tây Bào (西跑), cách kinh đô mấy vạn dặm, gặp Tây Vương Mẫu bên hồ Diêu Trì, cùng nhau uống rượu thù tạc, thậm chí quên đường về. Như trong Mục Thiên Tử Truyện (穆天子傳) quyển 3 có đoạn rằng: “Thiên tử thương Tây Vương Mẫu vu Diêu Trì chi thượng, Tây Vương Mẫu vi Thiên tử dao (天子觴西王母于瑤池之上,西王母爲天子謠, Thiên tử uống rượu với Tây Vương Mẫu trên hồ Diêu Trì, Tây Vương Mẫu ca hát cho Thiên tử nghe).” Sau này Hán Võ Đế đi tìm thuốc trường sanh bất tử, được Tây Vương Mẫu từ trên trời giáng xuống và ban cho bảy hạt Đào Tiên. Đến thời nhà Hán, hình tượng của Vương Mẫu được tiên nhân hóa, như trong Hoài Nam Tử Lãm Minh Huấn (淮南子覽冥訓) có đoạn: “Nghệ thỉnh bất tử chi dược ư Tây Vương Mẫu, Hằng Nga thiết dĩ bôn nguyệt (羿請不死之藥於西王母、姮娥竊以奔月, Hậu Nghệ xin thuốc bất tử nơi Tây Vương Mẫu, Hằng Nga trộm lấy thuốc ấy đùa với trăng).” Cho nên, Tây Vương Mẫu được xem như là kho báu bí mật của thuốc trường sanh bất tử, là người đào tạo ra các tiên nhân. Đạo Giáo và dân gian đều kính ngưỡng Vương Mẫu như là tượng trưng cho sự trường thọ, xem Bà như là vị chủ thần của Kim Lục Diên Thọ Đạo Tràng (籙延壽道塲), ban bố sự sống lâu. Về ngày đản sanh của Vương Mẫu, có thuyets cho là mồng 3 tháng 3, và có thuyết cho là 18 tháng 7. Vào ngày này, tín đồ Đạo Giáo, đặc biệt là người nữ, thường tập trung tại các Đạo Quán, để dâng hương, chúc mừng Thánh đản và cầu nguyện sức khỏe, sống lâu.
(2) Tây Vương Mẫu còn là tên gọi của một tiểu quốc ngày xưa. Như trong Nhĩ Nhã (爾雅), phần Thích Địa (釋地) cho biết rằng: “Cô Trúc, Bắc Hộ, Tây Vương Mẫu, Nhật Hạ, vị chi tứ hoang (觚竹、北戶、西王母、日下、謂之四荒, Cô Trúc, Bắc Hộ, Tây Vương Mẫu, Nhật Hạ là bốn vùng hoang sơ).” Quách Phác (郭璞, 276-324) nhà Đông Tấn chú thích rõ rằng: “Tây Vương Mẫu tại Tây, giai tứ phương hôn hoang chi quốc (西王母在西、皆四方昏荒之國, Tây Vương Mẫu ở phía Tây, là nước bốn phương đều hoang sơ).”
(3) Ngoài ra, Tây Vương Mẫu còn là tên gọi khác của con hươu; như trong Bão Phác Tử (抱樸子), phần Đăng Trắc (登陟) của Cát Hồng (葛洪, 284-364) nhà Tấn có câu: “Xưng Đông Vương Phụ giả, mi dã; Tây Vương Mẫu giả, lộc dã (稱東王父者、麋也、西王母者、鹿也, gọi Đông Vương Phụ là nai, Tây Vương Mẫu là hươu).” Lý Thương Ẩn (李商隱, 812/813-858), đại thi hào nhà Đường, có để lại bài thơ Diêu Trì (瑤池) như sau: “Diêu Trì A Mẫu ỷ song khai, hoàng trúc ca thanh động địa ai, bát tuấn nhật hành tam vạn lí, Mục Vương hà sự bất trùng lai (瑤池阿母綺窗開、黃竹歌聲動地哀、八駿日行三萬里、穆王何事不重來, Diêu Trì A Mẫu dõi trông ai, trúc vàng lời hát động ngân dài, tám ngựa một ngày ba vạn dặm, Mục Vương cơ sự chẳng về đây).”
có tên gọi khác như Nguyệt Chánh (月正), Tân Chánh (新正), Mạnh Xuân (孟春), Thủ Xuân (首春), Thượng Xuân (上春), Dần Mạnh Xuân (寅孟春), Thỉ Xuân (始春), Tảo Xuân (早春), Nguyên Xuân (元春), Tân Xuân (新春), Sơ Xuân (初春), Đoan Xuân (端春), Triệu Xuân (肇春), Hiến Xuân (獻春), Xuân Vương (春王), Hoa Tuế (華歲), Tuế Tuế (歲歲), Triệu Tuế (肇歲), Khai Tuế (開歲), Hiến Tuế (獻歲), Phương Tuế (芳歲), Sơ Tuế (初歲), Sơ Nguyệt (初月), Sơ Dương (初陽), Mạnh Dương (孟陽), Tân Dương (新陽), Xuân Dương (春陽), Xuân Vương (春王), Thái Thấu (太簇), Tuế Thỉ (歲始), Vương Chánh Nguyệt (王正月), Sơ Không Nguyệt (初空月), Hà Sơ Nguyệt (霞初月), Sơ Xuân Nguyệt (初春月), Tưu Nguyệt (陬月), Vương Nguyệt (王月), Đoan Nguyệt (端月), Mạnh Tưu (孟陬), Thái Nguyệt (泰月), Cẩn Nguyệt (謹月), Kiến Dần (建寅), Dần Nguyệt (寅月), Dương Nguyệt (楊月), Mạnh Xuân Nguyệt (孟春月), Tam Vi Nguyệt (三微月), Tam Chánh (三正), Mục Nguyệt (睦月), Thượng Nguyệt (上月), Tam Chi Nhật (三之日). Một số câu hay cho tháng Giêng như Tam Dương sơ trưởng (三陽初長, tháng Giêng mới lớn), Tứ Tự cánh đoan (四序更端, bốn mùa trở lại đầu), mai đôi Bạch Ngọc (梅堆白玉, mai chất đầy ngọc trắng [tuyết]), liễu đĩnh hoàng kim (柳錠黃金, liễu trĩu nặng vàng ròng), tiêu hoa tống lạp (椒花送臘, hoa tiêu tiễn năm cũ đi), canh điểu sơ minh (庚鳥初鳴, chim Vàng Anh bắt đầu hót), Ngọc Luật hồi phù (玉律回夫, nhạc khí Ngọc Luật trở về chăng), duệ Ki tiễn lạp (睿璣餞臘, sao Ki sáng tiễn năm cũ), tiêu chuyển Bắc Đẩu (杓轉北鬥, chuôi sao chuyển Bắc Đẩu), nhân tại Đông phong (人在東風, người nơi gió Đông), nhất thanh trừ cựu (一聲除舊, một tiếng vang trừ năm cũ), vạn hộ cánh tân (萬戶更新, ngàn nhà lại mới mẻ). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như mai tai lệ phấn (梅腮淚粉, mặt hoa mai đầy phấn lệ), liễu nhãn bi thanh (柳眼悲青, mắt liễu buồn trong xanh). Ngữ cú dành cho Thượng Nguyên như cửu thiên nguyệt lãng (九天月朗, chín tầng trời trăng sáng rực), vạn hộ đăng huy (萬戶燈輝, vạn nhà đèn tỏ rạng). Một số từ dùng cho Lập Xuân như Đông phong giải đống (東風解凍, gió Đông làm tan băng), Bắc Đẩu hồi chước (北斗回杓, chùm Bắc Đẩu trở về đuôi).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.239 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập