Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ba tra »»
(閻魔十殿): còn gọi là Diêm Vương Thập Điện (閻王十殿), Thập Điện Diêm Vương (十殿閻王), Thập Điện Minh Vương (十殿冥王), Thập Điện Từ Vương (十殿慈王). Nguyên lai chỉ có một vị Diêm Vương, nhưng sau khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, tín ngưỡng về Diêm Vương có ảnh hưởng to lớn đối với hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở đây, trải qua nhiều biến hóa, Hán hóa sắc thái và cuối cùng quan niệm này trở thành Thập Điện Diêm Vương. Kinh điển ban đầu của Phật Giáo không có đề cập đến Thập Điện Diêm Vương. Tỷ dụ như theo Cấm Độ Tam Muội Kinh (禁度三昧經), Diêm Vương chỉ quản hạ 5 vị quan, gồm: Tiên Quan (鮮官) chuyên ngăn cấm sát sanh, Thủy Quan (水官) chuyên ngăn cấm trộm cắp, Thiết Quan (鐵官) chuyên ngăn cấm tà dâm, Thổ Quan (土官) chuyên ngăn cấm nói lời hai lưỡi và Thiên Quan (天官) cấm việc uống rượu. Hơn nữa, trong Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀) quyển 33, bộ sử truyện nổi tiếng của Phật Giáo Trung Quốc, có ghi rằng: “Trên đời truyền tụng rằng Hòa Thượng Đạo Minh (道明和尚) nhà Đường thần du xuống Địa Phủ, thấy có 15 hạng người thuộc hạ (của Diêm Vương), từ đó lưu truyền trên thế gian.” Như vậy, thuộc hạ của Diêm Vương đã biến thành 15 người. Danh hiệu của Thập Điện Diêm Vương xuất hiện đầu tiên trong Dự Tu Thập Ngũ Sanh Thất Kinh (預修十五生七經), Diêm Vương Kinh (閻王經), v.v. Căn cứ Ngọc Lịch Bảo Giám (玉曆寶鑑), 10 ngôi điện do Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寳十方救苦天尊) hóa thành, được 10 vị Diêm Ma (s: Yama, 閻魔) cai quản, gồm:
(1) Tần Quảng Vương (秦廣王, Qín-guàng, hay Tần Quảng Vương Tương [秦廣王蔣]), còn gọi là Thái Tố Diệu Quảng Chơn Quân (泰素妙廣眞君), cai quản ngôi điện thứ nhất, do Đông Phương Thiên Tôn (東方天尊) hóa thành, sống ở Huyền Minh Cung (玄冥宮), chịu trách nhiệm trông coi về sanh tử của của con người và quản lý toàn bộ việc cát hung của cõi u minh, ngày sinh của ông là mồng 2 tháng 2 âm lịch; quỷ Phán Quan của cõi này sống ngoài tảng đá Ốc Tiêu (沃焦[礁]) trong biển lớn; hướng chánh Tây của điện này là con đường tối om dẫn đến Huỳnh Tuyền (黃泉); nếu người làm ác thì sau khi chết sẽ bị nhập vào đài cao bên phải của điện này tên là Nghiệt Kính Đài (孽鏡台); đài cao 1 trượng, treo hướng về phía Đông, phía trên có 7 chữ lớn “Nghiệt Kính Đài tiền vô hảo nhân (孽鏡台前無好人, Trước Nghiệt Kính Đài không người tốt)”; sau khi được chiếu soi ở Nghiệt Kính Đài xong, tội nhân sẽ được phê giải xuống ngôi điện thứ hai để chịu ngục hình thọ khổ tùy theo tội nặng hay nhẹ.
(2) Sở Giang Vương (楚江王, Chŭ-jiāng, hay Sở Giang Vương Lệ [楚江王厲]), còn gọi là Âm Đức Định Hưu Chơn Quân (陰德定休眞君), cai quản ngôi điện thứ hai, do Nam Phương Thiên Tôn (南方天尊) hóa thành, sống tại Phổ Minh Cung (普明宮) dưới đáy biển sâu, chịu trách nhiệm trông coi Hoạt Đại Địa Ngục (活大地獄, địa ngục sống lâu), Hàn Băng Địa Ngục (寒冰地獄, địa ngục băng lạnh) và Bác Y Đình (剥衣亭, nhà cởi áo) và 16 địa ngục bên dưới như Hắc Vân Sa (黑雲沙), Phẩn Niệu Nê (糞尿泥), Ngũ Xoa (五叉), Cơ Ngạ (飢餓), Khát (渴), Nùng Huyết (膿血), Đồng Phủ (銅斧), Đa Đồng Phủ (多銅斧), Thiết Khải (鐵鎧), U Lượng (幽量), Kê (雞), Hôi Hà (灰河), Chước Tiệt (斫截), Kiếm Diệp (劍葉), Hồ Lang (狐狼), Hàn Băng (寒冰). Ngày sinh của ông là mồng 3 tháng 3 âm lịch.
(3) Tống Đế Vương (宋帝王, Sòng-dì, hay Tống Đế Vương [宋帝王餘]), còn gọi là Động Minh Phổ Tĩnh Chơn Quân (洞明普靜眞君), cai quản ngôi điện thứ ba, do Tây Phương Thiên Tôn (西方天尊) hóa thành, sống ở Trụ Tuyệt Cung (紂絕宮), chịu trách nhiệm trông coi Hắc Thằng Địa Ngục (s: Kālasūtra-naraka, 黒繩地獄, địa ngục có sợi dây thừng đen), những ai bị kiện tụng, không vâng lời các bậc trưởng thượng, không thương mạng dân, sĩ thứ thấy lợi mà quên nghĩa, chồng bất nghĩa, vợ không thuận, từng thọ ân huệ mà phụ bạc, nô bộc phản gia chủ, hay phạm tội vượt ngục, trốn quân dịch, v.v., sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục này. Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 2 âm lịch;
(4) Ngũ Quan Vương (五官王, Wŭ-guān, hay Ngũ Quan Vương Lữ [五官王呂]), còn gọi là Huyền Đức Ngũ Linh Chơn Quân (玄德五靈眞君), cai quản ngôi điện thứ tư, do Bắc Phương Thiên Tôn (北方天尊) hóa thành, sống ở Thái Hòa Cung (太和宮), chịu trách nhiệm trông coi Hợp Đại Địa Ngục (s: Saṅgāta-naraka, 合大地獄, địa ngục hợp lại thành to lớn) và Huyết Trì Địa Ngục (血池地獄, địa ngục có hồ máu) cùng với 16 địa ngục nhỏ như Trì (池), Mâu Liên Trúc Thiêm (蝥鏈竹籤), Phí Thang Kiêu Thủ (沸湯澆手), Chưởng Bạn Lưu Dịch (掌畔流液), Đoạn Cân Dịch Cốt (斷筋剔骨), Yển Kiên Loát Bì (堰肩), Tỏa Phu (鎖膚), Tồn Phong (蹲峰), Thiết Y (鐵衣), Mộc Thạch Thổ Ngõa (木石土瓦), Kiếm Nhãn (劍眼), Phi Hôi Tắc Khẩu (飛灰塞口), Quán Dược (灌藥), Du Hoạt Điệt (油滑跌), Thích Chủy (剌嘴), Toái Thạch Mai Thân (碎石埋身). Những ai thường hay lừa dối sẽ bị đọa xuống địa ngục này; ngày sinh của ông là 18 tháng 2 âm lịch.
(5) Diêm Ma Vương (閻魔王, Yama-rāja, Yán-mó, còn gọi là Diêm La Vương [閻羅王], Diêm Ma Vương Thiên Tử Bao [閻魔王天子包]), còn gọi là Tối Thánh Diệu Linh Chơn Quân (最聖耀靈眞君), cai quản ngôi điện thứ năm, nguyên trước kia trông coi ngôi điện thứ nhất, nhưng vì đồng tình với tội nhân ở đây, nên bị chuyển xuống đây, do Đông Bắc Phương Thiên Tôn (東北方天尊) hóa thành, sống ở Củ Luân Cung (糾倫宮), chịu trách nhiệm trông coi Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Raurava-naraka, 叫喚地獄, địa ngục la hét) và 16 địa ngục nhỏ khác; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng giêng âm lịch.
(6) Biện Thành Vương (卞城王, Biàn-chéng, hay Biện Thành Vương Tất [卞城王畢]), còn gọi là Bảo Túc Chiêu Thành Chơn Quân (寶肅昭成眞君), cai quản ngôi điện thứ sáu, do Đông Nam Phương Thiên Tôn (東南方天尊) hóa thành, sống ở Minh Thần Cung (明晨宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Khiếu Hoán Địa Ngục (s: Mahāraurava-naraka, 大叫喚地獄, địa ngục la hét lớn) và Uổng Tử Thành (枉死城, thành chết oan uổng) cũng như 16 địa ngục nhỏ khác như Thường Quỵ Thiết Sa (常跪鐵砂), Thỉ Nê Tẩm Thân (屎泥浸身), Ma Tồi Lưu Huyết (磨摧流血), Kiềm Chủy (鉗嘴), Cát Thận Thử Giảo (割腎鼠咬), Cức Cương Hoàng Toản (棘綱蝗鑽), Đối Đảo Nhục Tương (碓搗肉漿), Liệt Bì Kỵ Lôi (裂皮曁擂), Hàm Hỏa Bế Hầu (銜火閉喉), Tang Hỏa Hồng (桑火烘), Phẩn Ô (糞污), Ngưu Điêu Mã Táo (牛雕馬躁), Phi Khiếu (緋竅), Đầu Thoát Xác (頭脫殼), Yêu Trảm (腰斬), Bác Bì Tuyên Thảo (剝皮揎草). Những ai đã từng chửi mắng trời và hướng về phương Bắc mà tiểu tiện sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 3 âm lịch.
(7) Thái Sơn Vương (泰山王, Tài-shān, hay Thái Sơn Vương Đổng [泰山王董]), còn gọi là Thái Sơn Huyền Diệu Chơn Quân (泰山玄妙眞君), cai quản ngôi điện thứ bảy, do Tây Nam Phương Thiên Tôn (西南方天尊) hóa thành, sống ở Thần Hoa Cung (神華宮), chịu trách nhiệm trông coi Nhiệt Não Địa Ngục (s: Tapana-naraka, 熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng) và 16 địa ngục nhỏ khác như Tuất Tự Thôn (卹自吞), Liệt Hung (冽胸), Địch Thối Hỏa Bức (笛腿火逼), Quyền Kháng Phát (權抗發), Khuyển Giảo Hĩnh Cốt (犬咬脛骨), Úc Thống Khốc Cẩu (燠痛哭狗), Tắc Đảnh Khai Ngạch (則頂開額), Đảnh Thạch Tồn Thân (頂石蹲身), Đoan Bảo Thượng Hạ Trác Giảo (端鴇上下啄咬), Vụ Bì Trư Tha (務皮豬拖), Điếu Giáp Túc (吊甲足), Bạt Thiệt Xuyên Tai (拔舌穿腮), Trừu Tràng (抽膓), Loa Đạp Miêu Tước (騾踏貓嚼), Lạc Thủ Chỉ (烙手指), Du Phủ Cổn Phanh (油釜滾烹). Những ai chế thuốc từ xương người chết và xa lánh người thân sẽ bị đọa xuống nơi này; ngày sinh của ông là 27 tháng 3 âm lịch.
(8) Đô Thị Vương (都市王, Dōu-shì, hay Đô Chủ Vương Hoàng [都主王黃]), còn gọi là Phi Ma Diễn Hóa Chơn Quân (飛魔演化眞君), cai quản ngôi điện thứ tám, do Thượng Phương Thiên Tôn (上方天尊) hóa thành, sống ở Bích Chơn Cung (碧眞宮), chịu trách nhiệm trông coi Đại Nhiệt Não Địa Ngục (s: Mahātapana-naraka, 大熱惱地獄, địa ngục đau khổ vì nóng lớn) và 16 địa ngục nhỏ như Xa Băng (車崩), Muộn Oa (悶鍋), Toái Quả (碎剮), Khổng Tiểu (孔小), Tiễn Chu (翦朱), Thường Thanh (常圊), Đoạn Chi (斷肢), Chích Tủy (炙髓), Ba Tràng (爬膓), Phần (焚), Khai Sanh (開瞠), Quả Hung (剮胸), Phá Đảnh Khiêu Xỉ (破頂撬齒), Cát (割), Cương Xoa (鋼叉). Ngày sinh của ông là mồng 1 tháng 4 âm lịch.
(9) Bình Đẳng Vương (平等王, Píng-dĕng, hay Đối Đẳng Vương Lục [對等王陸]), còn gọi là Vô Thượng Chánh Độ Chơn Quân (無上正度眞君), cai quản ngôi điện thứ chín, do Tây Bắc Phương Thiên Tôn (西北方天尊) hóa thành, sống ở Thất Phi Cung (七非宮), chịu trách nhiệm trông coi A Tỳ Địa Ngục (s: Avīci-naraka, 阿鼻地獄, tức Địa Ngục Vô Gián) và 16 địa ngục nhỏ khác như Sao Cốt Chước Thân (敲骨灼身), Trừu Cân Lôi Cốt (抽筋擂骨), Nha Thực Tâm Can (鴉食心肝), Cẩu Thực Tràng Phế (狗食膓肺), Thân Tiễn Nhiệt Du (身濺熱油), Não Cô Bạt Thiệt Bạt Xỉ (腦箍拔舌拔齒), Thủ Não Điền (取腦填), Chưng Đầu Quát Não (蒸頭刮腦), Dương Súc Thành Diêm (羊搐成鹽), Mộc Giáp Đảnh (木夾頂), Ma Tâm (磨心), Phí Thang Lâm Thân (沸湯淋身), Hoàng Phong (黃蜂), Hiết Câu (蠍鉤), Nghĩ Chú Ngao Đam (蟻蛀熬眈), Tử Xích Độc Xà Toản (紫赤毒蛇鑽). Ngày sinh của ông là mồng 8 tháng 4 âm lịch.
(10) Chuyển Luân Vương (轉輪王, Zhuàn-lún, hay Chuyển Luân Vương Tiết [轉輪王薛]), còn gọi là Ngũ Linh Uy Đức Chơn Quân (五靈威德眞君), cai quản ngôi điện thứ mười, do Hạ Phương Thiên Tôn (下方天尊) hóa thành, sống ở Túc Anh Cung (肅英宮); ngày sinh của ông là 17 tháng 4 âm lịch. Ông chuyên trông coi các hồn quỷ được áp giải đến từ các điện khác, phân biệt, quyết định tôi phước nặng nhẹ của tội nhân, phân phát đi khắc các bộ châu, tìm đất và loại để cho vong hồn đầu thai. Ông còn có nhiệm vụ xem xét việc thiện ác của tội nhân để thông tri cho cấp trên, thẩm định thọ mạng ngắn dài cũng như tội phước thay đổi của tội nhân. Quá trình khảo tra rất nghiêm mật, cuối cùng mới cho tội nhân cầu vàng, cầu ngọc, cầu đá, cầu gỗ hay Cầu Nại Hà (奈河橋, Nại Hà Kiều) và tống lên cho đầu thai vào 6 đường. Nếu như ở trên đời làm các việc thiện, khi sanh ra sẽ được trời người kính ngưỡng; sau khi chết đi cũng được quỷ thần cung kính; lúc ấy tự thân Chuyển Luân Vương cũng thân hành dẫn các sứ thần đến nghinh đón. Cho nên dân gian có câu rằng: “Tích thiện chi gia hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia hữu dư ương (積善之家有餘慶、積不善之家有餘殃, Nhà tích lũy việc thiện thì có nhiều điều tốt đẹp, nhà không tích lũy việc thiện thì có nhiều tai ương).”
Từ cuối thời nhà Đường trở đi, tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương trở nên thịnh hành. Thông thường, trong Miếu Thành Hoàng ở các địa phương có thiết lập Diêm Vương Điện (閻王殿) để thờ Thập Điện Diêm Vương. Tại các tự viện Phật Giáo, hai bên phải trái của bàn thờ Địa Tạng Bồ Tát cũng có thờ Thập Điện Diêm Vương. Tín ngưỡng Thập Điện Diêm Vương cũng được du nhập vào Việt Nam và vẫn còn lưu hành cho đến ngày hôm nay. Như trong các lòng văn sớ dâng cúng cầu siêu, thường có đề cập đến Minh Vương (冥王, tức Diêm Vương), Diêm Ma Thập Điện như: “Tư lâm Đại Tường chi trai tuần, chánh trị khôn phủ đệ thập điện, Chuyển Luân Minh Vương án tiền trình quá (茲臨大祥之齋旬、正値坤府第十殿、轉輪冥王案前呈過, Nay gặp lúc tuần chay dịp Đại Tường, đúng vào điện thứ mười, xin trình trước án Chuyển Luân Minh Vương)”, hay “Cung phụng: Diện Nhiên Đại Sĩ, uy quang khắc đáo ư kim tiêu; Địa Tạng từ tôn, thần lực đại chương ư thử dạ; Diêm Ma Thập Điện, chiếu khai Thập Bát Địa Ngục chi môn; Tả Hữu Phán Quan, thiêu tận ức kiếp luân hồi chi tịch; tỷ Lục Đạo Tứ Sanh chi vi mạng, khô mộc phùng xuân; sử cửu huyền thất tổ chi sảng linh, đồng đăng giác ngạn (恭奉、面燃大士、威光刻到於今霄。地藏慈尊、神力大彰於此夜。閻魔十殿、照開十八地獄之門。左右判官、燒盡億刼輪廻之籍。俾六道四生之微命、枯木逢春。使九玄七祖之爽靈、同登覺岸, Cúi xin: Diện Nhiên Đại Sĩ, ánh sáng oai lực đến đêm nay; Địa Tạng từ bi, thần lực hiển bày vào tối này. Diêm Ma Mười Điện, mở Mười Tám địa ngục cửa tung; Phán Quan phải trái, đốt sạch hồ sơ luân hồi muôn kiếp; cho mạng nhỏ của Bốn Loài Sáu Đường, cây khô gặp xuân; khiến hương linh của cửu huyền thất tổ, cùng lên bờ giác)”, v.v.
(河伯): tên gọi của vị Thủy Thần ở Hoàng Hà (黃河) trong truyền thuyết thần thoại Trung Quốc. Về lịch sử, tên ban đầu của Hà Bá là Băng Di (冰夷), Bằng Di (馮夷), Hà Thần (河神), Vô Di (無夷). Tên gọi Hà Bá phát xuất từ thời Chiến Quốc (戰國, 403 hay 453-221 ttl.), truyền thuyết không thống nhất với nhau. Vì Hoàng Hà thường lũ lụt, gây tai họa khôn xiết, cho nên người ta cho rằng tính tình của Hà Bá cũng hung bạo. Thần thoại kể rằng Hậu Nghệ (后羿) đã từng dùng tên bắn vào mắt trái Hà Bá. Do vì ông có uy lực không thể lường, nên từ xưa đã có tập tục xấu “Hà Bá Thú Phụ (河伯娶婦, Hà Bá Cưới Vợ)”, lấy đó để cầu được bình an, không hoạn nạn. Về truyền thuyết “Hà Bá Thú Phụ (河伯娶婦, Hà Bá Cưới Vợ)”, dưới thời đại Chiến Quốc, Tây Môn Báo được phái đến Nghiệp Thành (鄴城, nay thuộc Huyện Lâm Chương [臨漳縣], Tỉnh Hà Bắc [河北省]) làm quan huyện. Khi đến nơi thì không bóng người qua lại, cả ngày hoang vắng, bèn hỏi xem thử nguyên do vì sao. Có một lão già tóc bạc phơ bảo rằng đó là do vì chuyện Hà Bá cưới vợ gây nên náo loạn như vậy. Hà Bá là thần của sông Chương, hằng năm đều phải cưới một cô nương xinh đẹp. Nếu như không đem cống nạp, tất sông Chương sẽ phát sinh lũ lớn, làm cho ruộng đất, nhà cửa đều ngập trong biển nước. Nghe vậy, Tây Môn Báo biết rằng đây là câu chuyện bịa đặt của tên tham quan nào đó để xách nhiễu lòng dân. Đợi đến ngày Hà Bá Cưới Vợ năm sau, ông đến ngay tại hiện trường quan sát. Ông phát hiện con quan lớn nhỏ cùng với mấy bà đồng bóng đội lốt thần quỷ cũng có mặt. Về sau, Tây Môn Báo (西門豹) nhà Ngụy không tin vào truyền thuyết đó, cấm tuyệt không cho thờ cúng, kêu gọi dân chúng làm cầu, ngăn đê, cuối cùng dứt được sự lo âu về thủy tai. Về truyền thuyết, Hà Bá có thân người đuôi cá, tóc trên đầu màu trắng bạc, tròng mắt có màu sắc rực rỡ như ngọc Lưu Ly. Tuy nhiên, ông là người nam, có vẻ đẹp dị thường, trên thân có mùi hương thơm ngát, mới nhìn thoáng qua khoảng không quá 20 tuổi. Trong Bão Phác Tử (抱朴子), Thiên Thích Quỷ (釋鬼篇), có giải thích rằng Băng Di đi qua sông, bị chết đuối, được Thiên Đế giao cho làm Hà Bá để quản lý sông hồ. Hay như trong Sưu Thần Ký (搜神記) quyển 4 có đoạn giải thích sự việc trên rằng: “Tống thời Hoằng Nông Bằng Di, Hoa Âm, Đồng Hương, Đê Thủ nhân dã, dĩ bát nguyệt thượng Canh nhật độ hà, nịch tử; Thiên Đế thự vi Hà Bá (宋時弘農馮夷、華陰潼鄉隄首人也、以八月上庚日渡河、溺死、天帝署爲河伯, vào niên hiệu Hoằng Nông nhà Tống, có Bằng Di, người Đê Thủ, Đồng Hương, vùng Hoa Âm, nhân qua sông vào ngày Canh đầu tháng 8, bị chết đuối; Thiên Đế phong cho làm Hà Bá).” Trong tác phẩm Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō No. 2122) quyển 75 của Phật Giáo cũng có cùng nội dung tương tự như vậy. Cũng có thuyết cho rằng Hà Bá dùng 8 thứ đá (xưa kia các Đạo gia dùng 8 loại nguyên liệu bằng đá để luyện đơn, gồm Chu Sa [硃砂], Hùng Hoàng [雄黃], Thử Hoàng [雌黃], Không Thanh [空青], Vân Mẫu [雲母], Lưu Huỳnh [硫黃], Nhung Diêm [戎鹽], và Tiêu Thạch [硝石]) và thành thần, như trong Sơn Hải Kinh Hải Kinh Tân Thích (山海經海經新釋) quyển 7 có giải thích: “Bằng Di, Hoa Âm, Đồng Hương, Đê Thủ nhân dã, phục bát thạch, đắc Thủy Tiên, thị vi Hà Bá (馮夷華陰潼鄉隄首人也、服八石、得水仙、是爲河伯, Bằng Di, người Đê Thủ, Đồng Hương, vùng Hoa Âm, dùng tám loại đá, thành Thủy Tiên, đó là Hà Bá).” Vị thần này còn có tên gọi khác là Hà Bá Sứ Giả (河伯使者), như trong Thần Dị Kinh (神异經), phần Tây Hoang Kinh (西荒經) có câu: “Tây hải thủy thượng hữu nhân, thừa bạch mã chu liệp, bạch y huyền quan, tùng thập nhị đồng tử, sử mã Tây hải thủy thượng, như phi như phong, danh viết Hà Bá Sứ Giả (西海水上有人、乘白馬朱鬣、白衣玄冠、從十二童子、駛馬西海水上、如飛如風、名曰河伯使者, trên mặt nước biển Tây có người cỡi con ngựa trắng, bờm đỏ, mặc áo trắng, đội mũ đen, cùng với mười hai đồng tử, cỡi ngựa trên mặt nước biển Tây, bay nhanh như gió, tên là Hà Bá Sứ Giả).” Tên gọi Kappa ở Nhật cũng xuất phát từ nguyên ngữ này. Nó đồng nghĩa với Hà Tông (河宗). Tín ngưỡng Hà Bá cũng rất thịnh hành ở Việt Nam; cho nên tục ngữ Việt Nam thường có câu: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá.” Truyền thuyết của Hà Đồng (河童) vốn phát xuất rất sớm từ vùng thượng du của lưu vực Hoàng Hà; xưa kia gọi là Thủy Hổ (水虎), hay Hà Bá. Về truyền thuyết của Hà Đồ, khi vua Đại Vũ (大禹) quản lý Hoàng Hà, có 3 báu vật là Hà Đồ (河圖, Bản Đồ Sông Nước), Khai Sơn Phủ (開山斧, Búa Mở Núi) và Tỵ Thủy Kiếm (避水劍, Kiếm Tránh Nước). Truyền thuyết cho rằng Hà Đồ do vị Thủy Thần là Hà Bá trao cho vua Đại Vũ. Vua phục nghi (伏羲) quan sát rất kỹ lưỡng đối với sự hưng suy của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, thời tiết, khí hầu, cây cỏ, v.v. Có hôm nọ, bỗng nhiên giữa Hoàng Hà xuất hiện một con Long Mã (龍馬), ông thấy chấn động tâm thần, tự thân cảm xúc được sự linh thiêng của trời đất, tự nhiên. Nhà vua phát hiện trên thân con ngựa có đồ hình, rất tâm đầu ý hợp với ý tưởng về quá trình quán sát vạn vật. Phục nghi đi qua thân con ngựa, quan sát thật kỹ, vẽ ra đồ hình Bát Quái (八卦). Từ đó, đò hình trên thân con ngựa kia được gọi là Hà Đồ. Trong Sơn Hải Kinh (山海經) có giải thích rằng: “Phục Nghi đắc Hà Đồ, Hạ nhân nhân chi, viết Liên Sơn (伏羲得河圖、夏人因之、曰連山, Phục Nghi có được Hà Đồ, người Hạ nhân đó gọi là Liên Sơn).” Ngay như Kinh Quái (經卦) của Phục Nghi cũng xuất phát từ nguồn gốc hiện tượng thiên văn, có căn nguyên từ Hà Đồ. Trong bài Cửu Ca (九歌) của Khuất Nguyên (屈原, 340-278 ttl.) cũng có thiên viết về Hà Bá.
(開光): có nhiều loại Khai Quang khác nhau. Căn cứ vào tôn giáo mà có Khai Quang của Phật Giáo, Khai Quang của Đạo Giáo, Khai Quang của Âm Dương Sư (陰陽師), v.v.; như ở các đền thờ Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君) thường tiến hành nghi thức Quan Công Khai Quang (關公開光). Khai Quang của Phật Giáo lại chia thành Quần Khai Quang (群開光, Khai Quang cho nhiều hình tượng) và Đơn Độc Khai Quang (單獨開光, Khai Quang chỉ cho một tượng). Mỗi khi có tự viện nào lạc thành hay trùng tu, sau khi điêu khắc tượng Phật Bồ Tát xong, thường cung thỉnh chư tôn Thiền đức đến để tiến hành lễ Khai Quang Điểm Nhãn (開光點眼) cho các pho tượng đó. Đối với các tôn giáo, Khai Quang được xem như là một loại nghi thức vô cùng linh thiêng, quan trọng, tiếp dẫn linh tánh cũng như tiên khí vào trong tôn tượng. Nguồn gốc của nghi thức này phát xuất từ Đạo Giáo; lấy cái vô hình trong vũ trụ, có đủ linh tánh với pháp lực vô biên đem nhập vào trong thần tượng; cho nên sau khi đem thờ phụng thì tôn tượng ấy trở thành linh hiển. Nguyên lai, Phật Giáo không có nghi thức này, mà chỉ có nghi thức gia trì tượng Phật, so với nghi Khai Quang có khác nhiều. Nếu xét về phương pháp Khai Quang thần tượng theo Đạo Giáo, mọi việc đều thông qua vị Cao Công Pháp Sư (高功法師), chọn ngày giờ tốt để tiến hành nghi Khai Quang Điểm Nhãn. Nghi thức ấy gồm 12 loại khoa nghi: Thanh Tịnh (清淨), Thỉnh Thần (請神), Phát Chỉ (發旨), Phát Lịnh (發令), Thất Tinh (七星), Bát Quái (八卦), Nhập Thần (入神), Sắc Bút (敕筆), Sắc Kính (敕鏡), Sắc Kê (敕雞), Khai Quang (開光), Phát Hào (發毫). Khai Quang còn gọi là Khai Nhãn (開眼), Khai Minh (開明), Khai Quang Minh (開光明), Khai Nhãn Cúng Dường (開眼供養), Khai Nhãn Giới (開眼界), Khai Nhãn Căn (開眼根). Thiền Lâm Tượng Khí (禪林象器) quyển Thượng có ghi rằng: “Phàm tân tạo Phật Tổ Thần Thiên tượng giả, chư tông sư gia, lập địa sổ ngữ, tác bút điểm thế, trực điểm khai tha Kim Cang chánh nhãn, thử vi Khai Nhãn Phật sự, hựu danh Khai Thủy Minh (凡新造佛祖神天像者、諸宗師家、立地數語、作筆點勢、直點開他金剛正眼、此爲開眼佛事、又名開水明, phàm các tượng Phật, Tổ, Thần, chư Thiên mới tạo nên, các nhà Tông sư, đứng trên mặt đất nói vài lời, cầm cây bút theo tư thế điểm, điểm thẳng khai mở chánh nhãn Kim Cang của tượng; đây là Phật sự Khai Nhãn, còn gọi là Khai Thủy Minh).” Phật Giáo cho rằng chúng sanh từ vô thỉ kiếp cho đến nay, đã chịu biết bao nhiêu ô nhiễm của trần cấu, vô minh, nên không thể nào thấy rõ chân lý của các pháp, vì vậy cần phải khai mở trí tuệ bên trong mỗi chúng ta. Khai Quang cũng là một hình thức để tu chứng đạt đến tương ứng với Phật tâm, cầu thỉnh chư Phật Bồ Tát giáng lâm, ấn chứng cho Ứng Thân của tôn tượng, rót vào đó năng lượng đại từ đại bi, đại trí đại tuệ, Ngũ Nhãn Lục Thông, thông qua người tiến hành lễ Khai Quang. Do đó, hiệu quả của việc Khai Quang hoàn toàn liên quan đến vị Đạo Sư hành lễ, chứ không phải do nghi thức hay hình thức gì cả. Về tiến trình lễ Khai Quang, trước khi hành lễ, phải an trí tôn tượng một nơi cố định, trước tụng kinh và thần chú để cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát an tọa; sau đó mới thỉnh chư vị cao tăng vì tôn tượng mà tiến hành Khai Quang, thuyết pháp. Hắc Cốc Đăng Ngữ Lục (黑谷燈語錄) quyển Trung có giải thích rằng: “Khai Nhãn giả, bổn thị Phật tượng điêu khai nhãn, thị sự Khai Nhãn, thứ tăng gia tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, nhi thành tựu Phật nhất thiết công đức, thử vị Khai Nhãn dã (開眼者、本是佛匠雕開眼、是事開眼、次僧家誦佛眼真言、誦大日真言、而成就佛一切功德、此謂開眼也, Khai Nhãn vốn là khai mở con mắt của tượng điêu khắc, việc đó là Khai Nhãn; kế đến chư tăng tụng Phật Nhãn Chơn Ngôn, tụng Đại Nhật Chơn Ngôn, để thành tựu hết thảy công đức, đây được gọi là Khai Nhãn vậy).” Thật ra, Khai Quang là một loại nghi thức thuyết pháp cử hành cho tượng Phật. Nghi thức cụ thể như sau: Trước hết vị chủ lễ cầm một cái khăn lông hướng về tượng Phật làm động tác lau chùi tôn tượng, rồi nói một câu kệ, tán tụng công đức của chư Phật Bồ Tát, như vậy được gọi là Khai Nhãn. Tiếp theo, vị ấy dùng cái kính hướng đối chiếu ngay chánh diện của tượng Phật, nói vài lời về ngôi tự viện hiện tại, nhân duyên hoàn thành tôn tượng. Sau đó, vị chủ lễ cầm cây bút Chu Sa (硃砂), lại nói một câu kệ ngữ khác, rồi cầm cây bút hướng về tôn tượng làm động tác “điểm”, hô vang một tiếng “khai (開, mở ra)”; khi nghi thức ấy đã xong, như vậy việc Khai Quang được xem như là hoàn tất. Khi Khai Quang, do vì công đức của chư Phật Bồ Tát không giống nhau, nên vị chủ lễ nói pháp ngữ cũng không thống nhất. Tại Trung Quốc, Pháp Hội Khai Quang được tiến hành đầu tiên vào năm thứ 5 (980) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國) nhà Bắc Tống. Truyền Pháp Đại Sư Thí Hộ (傳法大師施護), người nước Ô Điền Nẵng (烏塡曩) ở Bắc Ấn Độ, đã dịch bản Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh (佛說一切如來安像三昧儀軌經, Taishō Vol. 21, No. 1418) tại Dịch Kinh Viện (譯經院) của Thái Bình Hưng Quốc Tự (太平興國寺) thuộc Phủ Khai Phong. Dịch bản này ghi rõ toàn bộ quy trình tiến hành nghi thức Khai Quang Điểm Nhãn một cách chi tiết. Tại Nhật Bản, trong Điều Thiên Trí Thiên Hoàng Thập Niên Thập Nguyệt (天智天皇十年十月條, tháng 10 năm thứ 10 [671] đời Thiên Trí Thiên Hoàng [天智天皇, Tenji Tennō, tại vị 661-671]) của bộ Nhật Bản Thư Kỷ (日本書紀, Nihonshōki) có ghi lại Lễ Khai Nhãn cho trăm tượng Phật trong cung nội; rồi trong Điều Trì Thống Thiên Hoàng Thập Nhất Niên Thất Nguyệt (持統天皇十一年七月條, tháng 7 năm thứ 11 [697] đời Trì Thống Thiên Hoàng [持統天皇, Jitō Tennō, tại vị 690-697]) có ký lục cho biết rằng tại Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji) ở vùng Phi Điểu (飛鳥, Asuka) có tiến hành Hội Khai Nhãn. Vào ngày mồng 8 tháng 4 năm thứ 4 (752) niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寶), lễ Hội Khai Nhãn Tượng Đại Phật (大佛開眼會) được diễn ra tại Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), thành phố Nại Lương (奈良, Nara). Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758), Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749), Hoàng Thái Hậu và phi tần nội cung, cùng toàn thể quần thần bá quan văn võ đồng đến tham dự với khoảng hơn 1 vạn tăng sĩ hành lễ. Đặc biệt, lễ hội này do Bồ Đề Tiên Na (s: Bodhisena, 菩提僊那) chủ lễ, và điều khiển nhạc lễ thì do Phật Triết (佛哲, Buttetsu, ?-?, hay Phật Triệt [佛徹]), vị tăng sang Nhật Bản dưới thời đại Nại Lương (奈良, Nara), xuất thân vùng Lâm Ấp (林邑, Nam bộ Việt Nam, Huế-Phan Rang). Trong khoảng thời gian niên hiệu Khai Nguyên (開元, 713-741) nhà Đường, ông theo Bồ Đề Tiên Na sang Trung Quốc. Đến năm thứ 8 (736) niên hiệu Thiên Bình (天平), thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường là Lý Kính (理鏡) và vị Chánh Sứ Đa Trị Tỉ Quảng Thành (多治比廣成), ông cùng với thầy sang Nhật, đến trú tại Đại An Tự (大安寺, Daian-ji). Bồ Đề Tiên Na dạy Phật pháp, còn Phật Triệt chuyên tâm truyền dạy Nhã Nhạc Lâm Ấp cho nội cung triều đình Nhật, cùng là dạy các điệu múa Bồ Tát, Bạt Đầu, v.v., để cúng dường trong các lễ hội Phật Giáo. Trong lễ Hội Khai Nhãn năm 752 này, Phật Triệt điều khiển dàn nhạc gồm hơn 400 nhạc công và vũ công của Nhã Nhạc Viện (雅樂院) trong nội cung, diễn tấu Nhạc Lâm Ấp để cúng dường Tượng Đại Phật Tỳ Lô Giá Na (s: Vairocana, 毘盧遮那); lễ Hội kéo dài trong 3 tháng. Trong Chuẩn Đề Phần Tu Tất Địa Sám Hối Huyền Văn (准提焚修悉地懺悔玄文, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1482) có ghi lại sự huyền nhiệm của lễ Khai Nhãn như sau: “Hựu như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, vi cư sĩ thời, tằng vi dư y Bất Không dịch, tả Chuẩn Đề tượng ư Dược Sơn viên trung; Khai Quang chi nhật, hốt hữu cốt đổng gia, dĩ Chuẩn Đề Chơn Ngôn Phạn thư cựu hồng nha trục, Phạn thư cổ từ lư, đồng hương hạp, lai trợ trang diễn cúng dường giả, tinh cảm chiêu trung bất tư nghì sự (又如丁元公淨伊禪師、爲居士時、曾爲余依不空譯、寫准提像於藥山園中、開光之日、忽有骨董家、以准提眞言梵書舊紅牙軸、梵書古瓷罏、銅香盒、來助裝演供養者、幷感召中不思議事, lại như Đinh Nguyên Công Tịnh Y Thiền Sư, khi còn làm cư sĩ, từng theo bản dịch của Bất Không, vẽ tượng Chuẩn Đề trong vườn Dược Sơn; ngày lễ Khai Quang, chợt có một người chơi đồ cổ, lấy cuộn sách cũ kỹ ghi Chuẩn Đề Chơn Ngôn bằng tiếng Phạn, bình sứ có ghi tiếng Phạn, hộp đốt hương bằng đồng, đến giúp trang trí cúng dường, bèn cảm biết trong ấy việc không nghĩ bàn).” Trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 1, có lòng văn Sớ về Tạo Tượng Khai Quang (造像開光) như: “Tướng hảo trang nghiêm, dĩ tận quỳ khuynh chi khẩn; trai tu túc liệt, viên thân bộc hiến chi cung; ngung nhược hữu phu, nghiễm nhiên như tại. Thiết niệm: [Mỗ] thọ hạ liệt thân phạp đại nhân tướng, đổ Tử Ma chi sắc, hạt thắng kỳ thừa; vọng bạch hào chi quang, đồ thiết bi ngưỡng; thị dĩ kính vu [mỗ] tự thí tạo [mỗ] tượng nhất tôn, tạo công ký tất nhưng diên tăng kiến Khai Quang thực phước đạo tràng, [nhập Phật sự] phủ tu vi thiện, ngưỡng đáp hồng hưu. Phục nguyện: Ngộ chơn không tướng, hoạch pháp tánh thân; bị nhị nghiêm chi tư, biến du giác uyển; tiêu Ngũ Trược chi uế, hằng xử Tịnh Bang (相好莊嚴、已盡葵傾之懇、齋饈肅列、爰申曝獻之恭、顒若有孚、儼然如在、竊念[某]受下劣身乏大人相、睹紫磨之色、曷勝祇承、望白毫之光、徒切悲仰、是以敬于[某]寺施造[某]像一尊、造功既畢仍延僧建開光植福道塲、[入佛事]俯修微善、仰答洪休、伏願悟眞空相、獲法性身。備二嚴之資、遍遊覺苑、消五濁之穢、恆處淨邦, tướng tốt trang nghiêm, bày tận tấc lòng khẩn thiết; cỗ chay thiết đủ, chí thành dâng hiến cúng dường; vĩ đại đức tin, nghiễm nhiên hiện hữu. Thiết nghĩ: [Con…] thọ thân hạ liệt thiếu tướng đại nhân [bậc giác ngộ], thấy vàng ròng sắc tướng, sao khỏi ước mong; ngắm mày trắng hào quang, không sao buồn tủi; do vậy kính ngưỡng chùa …, tạo dựng tượng một pho, công trình hoàn tất, lại thỉnh chư tăng lập đạo tràng Khai Nhãn gieo phước; [phần Phật sự], cúi tu chút thiện, ngưỡng đáp hồng ân. Cúi mong: Ngộ chơn không tướng, đạt pháp tánh thân; đủ phước trí dáng hình, chơi khắp vườn giác; tiêu Năm Trược ô uế, thường trú Tịnh Bang).” Trong Phật Thuyết Nhất Thiết Như Lai An Tượng Tam Muội Nghi Quỹ Kinh có nêu một số câu Thần Chú dùng cho lễ Khai Quang như Chơn Ngôn Hiến Ứ Già Cúng Dường (眞言獻閼伽供養, cúng dường nước) là “Án, tát rị phạ bá ba ta phổ tra na hạ nẵng phạ nhật ra dã tát phạ hạ (唵薩哩嚩播波娑普吒那賀曩嚩日囉野薩嚩賀)”; Hương Du Chơn Ngôn (香油眞言, Chơn Ngôn cúng dường hương dầu) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa ca dã vĩ thú đà nhĩ ta phạ hạ (唵薩哩嚩怛他誐多迦野尾戍馱你娑嚩賀)”; Phật Nhãn Bồ Tát Chơn Ngôn Năng Trừ Nhất Thiết Cấu (佛眼菩薩眞言能除一切垢, Chơn Ngôn của Phật Nhãn Bồ Tát có thể trừ tất cả những dơ bẩn) là “Án, tát rị phạ ra tổ ba hạ ra noa ta phạ hạ (唵薩哩嚩囉祖波賀囉拏娑嚩賀)”; Quán Đảnh Chơn Ngôn (灌頂眞言) là “Án, tát rị phạ đát tha nga đa tỷ sân ca tam ma dã thất rị duệ hồng (唵薩哩嚩怛他誐哆鼻詵迦三摩野室哩曳吽)”; Trước Y Chơn Ngôn (著衣眞言, Chơn Ngôn mặc áo) là “Án, phạ nhật ra phạ ta tế ta phạ hạ (唵嚩日囉嚩娑細娑嚩賀)”; An Nhĩ Chơn Ngôn (安耳眞言, Chơn Ngôn an vị lỗ tai) là “Án, ca ra noa ma lộ đà ra noa hồng (唵迦囉拏摩路馱囉拏吽)”; An Phát Kế Chơn Ngôn (安髮髻眞言, Chơn Ngôn an vị tóc và búi tóc) là “Án, tát rị phạ chỉ ta a phạ đa ra noa hồng ta phạ hạ (唵薩哩嚩枳娑阿嚩哆囉拏吽娑嚩賀)”; An Chỉ Giáp Chơn Ngôn (安指甲眞言, Chơn Ngôn an vị ngón tay) là “Án, tát rị phạ thâu nẵng khư thế na nẵng ra nhã ta phạ hạ (唵薩哩嚩輸曩佉砌那曩囉惹娑嚩賀)”; An Tì Tu Chơn Ngôn (安髭鬚眞言, Chơn Ngôn an vị râu ria) là “Án, tát rị phạ ta ma tô rô đà ra noa hồng hồng hứ lăng (唵薩哩嚩娑摩酥嚕馱囉拏吽吽呬凌)”; Hiến Đồ Hương Chơn Ngôn (獻塗香眞言, Chơn Ngôn dâng cúng dầu hương) là “Án, phạ nhật ra hiến đệ ta phạ hạ (唵嚩日囉巘弟娑嚩賀)”; An Trang Nghiêm Chơn Ngôn (安莊嚴眞言) là “Án, phạ nhật ra bà ra noa vĩ bộ sắt ni ta phạ hạ (唵嚩日囉婆囉拏尾部瑟尼娑嚩賀)”; Bổn Tôn Tam Muội Chơn Ngôn (本尊三昧眞言) là “Án, hồng đát lạc ngật rị ác (唵吽怛落仡哩惡)”; Hiến Hoa Chơn Ngôn (獻花眞言) là “Án, phạ nhật ra bổ sắt bế hồng (唵嚩日囉補瑟閉吽)”; Hiến Hương Chơn Ngôn (獻香眞言) là “Án, phạ nhật ra độ bế (唵嚩日囉度閉)”; Đăng Chơn Ngôn (燈眞言) là “Án, phạ nhật ra nễ bế ta phạ hạ (唵嚩日囉禰閉娑嚩賀)”; Thực Chơn Ngôn (食眞言) là “Án, tân nỗ ba đán bát ra để ngật rị hận nẵng ta phạ hạ (唵賓努波旦缽囉底仡哩恨曩娑嚩賀)”; Khai Nhãn Quang Chơn Ngôn (開眼光眞言) là “Án, tác sô tác sô tam mãn đa tác sô vĩ thú đà nễ ta phạ hạ (唵作芻作芻三滿哆作芻尾戍馱你娑嚩賀)” và “Án, nễ đát ra Ba tra lộ ba hạ ra noa hứ lăng (唵你怛囉波吒路波賀囉拏呬凌)”; Hộ Ma Chơn Ngôn (護摩眞言) là “Án, phạ nhật ra dụ thế ta phạ hạ (唵嚩日囉喻世娑嚩賀)”; Tức Tai Tăng Ích Chơn Ngôn (息災增益眞言) là “Án, phạ nhật ra bố sắt tra duệ ta phạ hạ (唵嚩日囉布瑟吒曳娑嚩賀)”; Hộ Thế Chơn Ngôn (護世眞言) là “Ấn, nại ra dã ta phạ hạ (印捺囉野娑嚩賀)”, v.v.
(元霄): lễ hội truyền thống rất quan trọng, vốn phát xuất từ Trung Quốc, được tiến hành vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch, sau dịp tiết xuân; còn gọi là Tiểu Chánh Nguyệt (小正月), Nguyên Tịch (元夕), Đăng Tiết (燈節), Thượng Nguyên Tiết (上元節). Như trong bài Song Đầu Mẫu Đơn Đăng Ký (雙頭牡丹燈記) của Cù Hựu (瞿佑, 1341-1427) người vùng Tiền Đường (錢塘, nay thuộc Hàng Châu [杭州], Triết Giang [浙江]) có câu: “Mỗi tuế Nguyên Tịch, ư Minh Châu trương đăng ngũ dạ, khuynh thành sĩ nữ, giai đắc túng quan (每歲元夕、於明州張燈五夜、傾城士女、皆得縱觀, mỗi năm vào dịp Nguyên Tịch, tại Minh Châu giăng đèn năm đêm, nam nữ khuynh thành đều được xem thoải mái).” Chánh nguyệt (正月, tháng Giêng) là tháng đầu tiên trong một năm, người xưa gọi là tiêu (霄); vì vậy, ngày rằm tháng Giêng được gọi là Nguyên Tiêu Tiết (元霄節, Tết Nguyên Tiêu). Đây cũng là ngày lễ hội tình nhân của người Trung Quốc. Nguồn gốc truyền thuyết về lễ hội này vốn có từ xa xưa. Có thuyết cho rằng nó được thiết lập từ thời Hán Văn Đế (漢文帝, tại vị 180-157 tcn). Tương truyền sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang (漢高祖劉邦, tại vị 202-195 tcn) qua đời, Lữ Hậu (呂后, 241-180 tcn) soán quyền, cả dòng tộc nhà họ Lữ lên năm quyền bính; sau khi ba qua đời, nhóm người Châu Bột (周勃), Trần Bình (陳平), v.v., dẹp trừ thế lực của Lữ Hậu, lập Lưu Hằng (劉恆) lên làm Hán Văn Đế. Nhân ngày bình định thế lực nhà họ Lữ và thống nhất quốc gia vào ngày rằm tháng Giêng, từ đó hằng năm vào ngày này, nhà vua thường mặc áo mỏng, ra ngoài cung nội cùng với dân chúng vui chơi thái bình, và cũng lấy ngày này làm Tết Nguyên Tiêu. Dưới thời Hán Võ Đế, hoạt động tế tự Thái Nhất Thần (太一神, các vị thần chủ tể của vũ trụ) cũng được quy định đúng ngày rằm tháng Giêng; cho nên khi Tư Mã Thiên (司馬遷, 135-90 tcn) sáng kiến ra Thái Sơ Lịch (太初歷), xác định Tết Nguyên Tiêu là lễ hội vô cùng trọng đại đối với quốc gia và dân tộc. Về truyền thống thắp đèn vào dịp Nguyên Tiêu này, nguồn gốc của nó phát xuất từ thuyết Tam Nguyên (三元) của Đạo Giáo: rằm tháng Giêng là Thượng Nguyên Tiết, rằm tháng 7 là Trung Nguyên Tiết (中元節) và rằm tháng 10 là Hạ Nguyên Tiết (下元節). Người chủ quản ba lễ hội này là 3 vị quan tên Thiên, Địa, Thủy. Thiên Quan (天官), thường được gọi là Thiên Quan Tứ Phước (天官賜福, Quan Trời Ban Phước), là người thường vui vẻ, hoan hỷ, nên vào dịp Thượng Nguyên, kỷ niệm sinh nhật của ông thì cần phải đốt đèn chúc mừng. Lại có thuyết cho rằng tục lệ giăng đèn vào dịp này vốn phát xuất từ thời đại của Minh Đế (明帝, tại vị 57-75) nhà Đông Hán. Nhà vua rất tin sùng Phật pháp, nghe rằng vào ngày rằm tháng Giêng, chúng tăng thường chiêm ngưỡng xá lợi Phật, thắp đèn cúng dường chư Phật, bèn ra lịnh cho thắp đèn cúng dường chư Phật suốt một ngày đêm tại Hoàng Cung cũng như các chùa chiền, miếu vũ và cho mọi người rước đèn đi khắp nơi. Từ đó, trở đi, nghi thức Phật Giáo này đã trở thành lễ hội truyền thống trọng đại của dân gian, phá triển từ trong cung đình ra đến ngoài dân chúng. Có thuyết khác cho rằng Lễ Thượng Nguyên là để kỷ niệm Đông Phương Sóc (東方朔, 154-93 tcn) và Nguyên Tiêu Cô Nương (元宵姑娘). Tương truyền Hán Võ Đế có một vị thần rất sủng ái tên Đông Phương Sóc, nhân vật rất hiền lương và phong lưu. Có hôm nọ vào dịp tiết đông, sau mấy ngày tuyết rơi nhiều, Đông Phương Sóc bèn đến Ngự Hoa Viên để ngắm hoa mai cùng với nhà vua, khi vừa đến cổng vườn hoa, chợt phát hiện có một người cung nữ đang khóc thảm thiết, chuẩn bị gieo mình xuống giếng tự sát. Ông hoang mang vội vàng chạy đến cứu và hỏi rõ nguyên nhân vì sao tự sát. Nguyên lai cung nữ ấy tên là Nguyên Tiêu (元宵), gia đình có song thân và một người em gái. Từ ngày vào cung nội đến nay, chưa có cơ duyên gặp người thân; cho nên cứ mỗi năm vào tháp chạp cho đến đầu xuân, thường nhớ đến gia đình, song thân, muốn báo hiếu cũng không thực hiện được; vì vậy quyết định tự sát cho xong. Nghe vậy, Đông Phương Sóc rất thông cảm cho hiếu tình cao cả của nàng cung nữ, bèn hứa sẽ tìm cách giúp nàng đoàn tụ cùng gia đình. Có hôm nọ, ông ra ngoài thành, thấy trên đường Trường An có một gian bói toán, nhiều người tranh nhau xem bói. Ai cũng bốc trúng quẻ “chánh nguyệt thập lục hỏa phần thân (正月十六火焚身, mười sáu tháng Giêng lửa thiêu thân).” Nhất thời, kinh đô Trường An sinh hỗn loạn vì quẻ bói xấu kia; mọi người đều tìm biện pháp giải quyết khỏi ách nạn ấy. Thấy vậy, Đông Phương Sóc bảo rằng: “Vào đêm 13 tháng Giêng, Thần Lửa có phái một vị Thần Nữ Áo Đỏ hạ phàm thẩm tra, vị ấy là người phụng chỉ đốt cháy Trường An. Ta sẽ thảo đôi dòng này đưa các ngươi tâu lên Thiên Tử, có thể giúp người tìm ra biện pháp.” Nói xong, ông viết lên một phong thiếp hồng, giao mọi người rồi quay về nhà. Dân chúng cầm thiếp hồng đến Hoàng Cung, tâu lên Hoàng Thượng. Hán Võ Đế xem qua, thấy có dòng chữ: “Trường An tại kiếp, hỏa phần đế khuyết, thập ngũ thiên hỏa, diệm hồng tiêu dạ (長安在劫、火焚帝闕、十五天火、焰紅宵夜, Trường An kiếp nạn, lửa thiêu cung vua, ngày rằm lửa bốc, đỏ rực đêm rằm).” Nhà vua kinh sợ, cho triệu Đông Phương Sóc đa mưu túc kế đến để tìm biện pháp giải quyết. Ông giả bộ thưa rằng: “Thần thường nghe rằng Thần Lửa rất thích bánh nếp tròn, trong cung nội có Nguyên Tiêu chẳng phải là người làm bánh nếp tròn ngon lắm sao ? Vào đêm rằm, bảo cung nữ đó làm bánh, Hoàng Thượng đích thân dâng hương cúng dường, truyền lệnh cho mỗi nhà trong kinh đô đều phải làm bánh nếp tròn để cùng nhau dâng cúng cho Thần Lửa. Rồi ra lịnh cho khắp thần dân đều cầm đèn vào đêm rằm, đốt pháo, phóng lửa khói, như thể cả thành đang bị đốt cháy. Ngoài ra, còn thông báo cho bá tánh ngoài thành, vào đêm rằm được vào thành ngắm đèn hoa; nhờ vậy mới có thể tiêu trừ tai họa và giải nạn được.” Hoàng Đế nghe xong rất cao hứng, lập tức truyền lệnh cho thực hiện phương pháp của Đông Phương Sóc. Vào đêm rằm tháng Giêng, khắp thành Trường An náo nhiệt, vui nhộn hơn bao giờ. Cả song thân và em gái Nguyên Tiêu cũng được vào thành xem hoa đăng, nhờ vậy cả gia đình nàng được đoàn tụ. Từ đó, tương truyền Hán Võ Đế hạ lịnh dâng cúng bánh nếp tròn nhân ngày rằm tháng Giêng hằng năm. Tục lệ này vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày hôm nay. Từ “thang viên (湯圓, bánh nếp tròn, bánh trôi nước)” có nghĩa là “tròn nóng”, có âm đọc cùng với từ “đoàn viên (團圓, đoàn tụ, sum họp)”, tức chỉ cho sự đoàn tụ, hòa hợp, hạnh phúc của gia đình; cũng là hình thức thể hiện sự tưởng nhớ đến thân nhân ở xa, mong ngày hội ngộ, và nói lên nguyện vọng muốn có cuộc sống an bình, đoàn tụ trong tương lai. Ngoài ra, cũng có thuyết cho rằng nguồn gốc của Tết Nguyên Tiêu là Tết Trạng Nguyên. Nhân dịp này, nhà vua triệu tập các Trạng Nguyên đến để thết đãi và mời vào vườn Thượng Uyển ngắm hoa, làm thi phú. Hoạt động của lễ hội này phát triển theo thời gian và diễn biến của lịch sử. Như dưới thời nhà Hán, Tết Nguyên Tiêu được tiến hành trong 1 ngày, đến thời nhà Đường thì kéo dài 3 ngày, nhà Tống là 5 ngày; sang đến nhà Minh thì vào ngày mồng 8, người ta đã bắt đầu thắp đèn cho đến ngày 17. Trong ngày Tết Nguyên Tiêu, ngoài ngắm đèn, ăn bánh trôi, còn có rất nhiều hoạt động vui chơi giải trí, tỷ dụ như đi cà kheo, múa ương ca, múa sư tử, v.v. Đối với Việt Nam, rằm tháng Giêng cũng là một ngày rất quan trọng đối với người dân. Họ thường đến chùa lễ Phật, dâng hương tụng kinh, sám hối, cầu an để nguyện cầu cho một năm mới được an bình, hanh thông, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý. Bên cạnh đó, cũng nhân ngày này, tín đồ Phật tử Việt Nam thường hành lễ dâng sao giải nạn hạnh ách của một năm. Cho nên dân gian Việt Nam vẫn có câu rằng: “Lễ Phật quanh năm, không bằng rằm tháng Giêng.” Lễ hội này đã lưu lại khá nhiều dấu ấn trong các văn chương, thi phú như trong Cựu Đường Thư (舊唐書), phần Trung Tông Kỷ (中宗紀) có đoạn: “Cảnh Long tứ niên Thượng Nguyên dạ, đế dữ Hoàng Hậu vi hành quán đăng (景龍四年上元夜、帝與皇后微行觀燈, vào đêm Thượng Nguyên năm Cảnh Long thứ 4 [710], nhà vua [Đường Trung Tông] cùng với Hoàng Hậu thân hành đi xem hoa đăng).” Hay trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 66 có kể rằng: “Thứ nhật, chánh thị chánh nguyệt thập ngũ nhật, Thượng Nguyên giai tiết, hảo sanh tình minh, hoàng hôn nguyệt thướng, lục nhai tam thị, các xứ phường ngung hạng mạch, điểm phóng hoa đăng (次日、正是正月十五日、上元佳節、好生晴明、黃昏月上、六街三市、各處坊隅巷陌、點放花燈, hôm sau, đúng vào ngày rằm tháng Giêng, tiết đẹp Thượng Nguyên, trời đất trong sáng, hoàng hôn trăng lên, sáu phố ba chợ, các nơi phố phường, hẽm ngách, đều thắp sáng thả hoa đăng).” Đặc biệt thi ca đã ca ngợi nhiều về lễ hội linh thiêng này. Tùy Dương Đế (隋煬帝, tại vị 604-618) có để lại bài Nguyên Tịch Ư Thông Cù Kiến Đăng Dạ Thăng Nam Lâu (元夕於通衢建燈夜升南樓, Ngày Nguyên Tiêu Lập Hoa Đăng Nơi Đường Lộ, Đêm Lên Lầu Nam) như sau: “Pháp luân thiên thượng chuyển, Phạm thanh thiên thượng lai, đăng thọ thiên quang chiếu, hoa diệm thất chi khai, nguyệt ảnh nghi lưu thủy, xuan phong hàm dạ lai, phần động hoàng kim địa, chung phát Lưu Ly đài (法輪天上轉、梵聲天上來、燈樹千光照、花焰七枝開、月影疑流水、春風含夜梅、燔動黃金地、鐘發琉璃台, xe pháp trên trời chuyển, tiếng Phạm vẳng trời bay, đèn cây ngàn ánh chiếu, hoa rực bảy nhánh khai, ánh trăng như nước chảy, gió xuân ngậm đêm mai, xoay động vàng ròng đất, chuông vọng Lưu Ly đài).” Thi sĩ Thôi Dịch (崔液, ?-713) nhà Đường có làm bài Thượng Nguyên Dạ (上元夜): “Ngọc lậu đồng hồ thả mạc tồi, thiết quan kim tỏa triệt dạ khai, thùy gia kiến nguyệt năng nhàn tọa, hà xứ văn đăng bất khán lai (玉漏銅壺且莫催、鐵關金鎖徹夜開、誰家見月能閒坐、何處聞燈不看來, thời gian vàng ngọc chớ giục thôi, khóa vàng cửa thiết suốt đêm khai, nhà ai trăng ngắm ngồi nhàn hạ, nào chốn nghe đèn chẳng đến xem).” Trong khi đó, Trương Hỗ (張祜, khoảng 785-849?) nhà Đường cũng có làm bài Chánh Nguyệt Thập Ngũ Dạ Đăng (正月十五夜燈) như sau: “Thiên môn khai tỏa vạn đăng minh, chánh nguyệt trung tuần động địa kinh, tam bách nội nhân liên tụ vũ, nhất tấn thiên thượng trước từ thinh (千門開鎖萬燈明、正月中旬動地京、三百內人連袖舞、一進天上著詞聲, mở tung ngàn cửa đèn sáng trong, tuần giữa tháng giêng động thần kinh, ba trăm người cùng nối áo múa, vọng đến trời cao khúc thái bình).” Thi hào Lý Thương Ẩn (李商隱, khoảng 813-858) nhà Đường có bài thơ diễn tả về phong cảnh Tết Nguyên Tiêu rằng: “Nguyệt sắc đăng sơn mãn đế đô, xa hương bảo cái ải thông cù, thân nhàn bất đổ trung hưng thịnh, tu trục hương nhân tái Tử Cô (月色燈山滿帝都、香車寶蓋隘通衢、身閒不睹中興盛、羞逐鄉人賽紫姑, trăng tỏ đèn đêm khắp đế đô, xe hương lọng báu rợp đường xa, nhàn hạ chẳng màng đời suy thịnh, dân làng dâng cúng đáp Tử Cô [theo truyền thuyết dân gian trung quốc là một cô nương bần cùng nhưng hiền lương]).” Hay như thi hào Âu Dương Tu (歐陽修, 1007-1072) nhà Tống có để lại bài Sanh Tra Tử Nguyên Tịch (生查子元夕) rằng: “Khứ niên Nguyên Dạ thời, hoa thị đăng như trú, nguyệt đáo liễu tiêu đầu, nhân ước hoàng hôn hậu, kim niên Nguyên Dạ thời, nguyệt dữ đăng y cựu, bất kiến khứ niên nhân, lệ thấp xuân sam tụ (去年元夜時、花市燈如晝、月到柳梢頭、人約黃昏後、今年元夜時、月與燈依舊、不見去年人、淚濕春衫袖, năm ngoái đêm Nguyên Tiêu, hoa đèn như ngày sáng, trăng đến trên đầu liễu, người về sau hoàng hôn, năm nay đêm Nguyên Tiêu, nguyệt cùng trăng như cũ, chẳng thấy người cũ đâu, lệ ướt tay áo mỏng).” Thi nhân Nguyên Hảo Vấn (元好問, 1190-1257) nhà Nguyên cũng có bài Kinh Đô Nguyên Tịch (京都元夕) như sau: “Huyền phục hoa trang trước xử phùng, lục nhai đăng hỏa náo nhi đồng, trường sam ngã diệc hà vi giả, dã tại du nhân tiếu ngữ trung (袨服華妝著處逢、六街燈火鬧兒童、長衫我亦何爲者、也在遊人笑語中, áo thâm hoa kết mặc theo cùng, phố phường đèn sáng rộn nhi đồng, áo rộng ta cũng là ai nhỉ, vẫn với du nhân cười nói vang).” Sau này, Kheo Phùng Giáp (丘逢甲, 1864-1912) nhà Thanh có làm bài Nguyên Tịch Vô Nguyệt (元夕無月) rằng: “Tam niên thử tịch vô nguyệt quang, minh nguyệt đa ưng tại cố hương, dục hướng hải thiên tầm nguyệt khứ, ngũ canh phi mộng độ côn dương (三年此夕無月光、明月多應在故鄉、欲向海天尋月去、五更飛夢渡鯤洋, ba năm đêm ấy chẳng sáng trăng, trăng tỏ phần nhiều tại cố hương, muốn hướng chân trời tìm trăng lặn, năm canh cỡi mộng vượt ngàn trùng).” Ngoài ra, còn một số câu đối liễn được dùng để treo nhân dịp Tết Nguyên Tiêu, như: “phong thanh nguyệt lãng, đăng thái tinh huy (風清月朗、燈彩星輝, gió mát trăng thanh, đèn rực sao tỏ)”, “vô biên xuân sắc, hữu khánh niên đầu (無邊春色、有慶年頭, vô biên sắc xuân, tốt đẹp đầu năm)”, “nguyệt quang kiểu khiết, nhân chúc huy hoàng (月光皎潔、銀燭輝煌, ánh trăng sáng tỏ, đèn hoa huy hoàng)”, “vạn gia Nguyên Tịch yến, nhất lộ thái bình ca (萬家元夕宴、一路太平歌, vạn nhà đón Nguyên Tịch, một cõi thái bình ca)”, “minh nguyệt thiên môn tuyết, ngân đăng vạn thọ hoa (明月千門雪、銀燈萬樹花, trăng tỏ ngàn nhà tuyết, đèn trong vạn cây hoa)”, “phóng thủ kình minh nguyệt, khai tâm lạc Nguyên Tiêu (放手擎明月、開心樂元宵, buông tay nâng trăng sáng, mở lòng vui Nguyên Tiêu)”, “vạn hộ quản huyền ca thạnh thế, mãn thiên diệm hỏa diệu xuân quang (萬戶管弦歌盛世、滿天焰火耀春光, vạn nhà gãy đàn ca đời thịnh, khắp trời lửa rực tỏa ánh xuân)”, “thiên không minh nguyệt tam thiên giới, nhân túy xuân phong thập nhị lâu (天空明月三千界、人醉春風十二樓, trời cao trăng tỏ ba ngàn cõi, người say xuân gió mười hai lầu)”, “Ngũ dạ tinh kiều liên Nguyệt Điện, lục nhai đăng hỏa bộ Thiên Thai (五夜星橋連月殿、六街燈火步天台, năm đêm sao cầu nối Cung Nguyệt, sáu đường đèn rực bước Thiên Thai)”, “ngọc vũ vô trần thiên khoảnh bích, ngân hoa hữu diệm vạn gia xuân (玉宇無塵千頃碧、銀花有焰萬家春, nhà ngọc không bụi ngàn dặm sáng, hoa đồng tỏa rạng vạn chốn xuân)”, v.v.
(倐忽): trong chớp nhoáng, trong thoáng chốt, chỉ thời gian biến chuyển nhanh đến nỗi không thể lường được. Như trong Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách (潙山大圓禪師警策) của Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐, 771-853) có đoạn: “Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô, ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu (譬如春霜曉露、倐忽卽無、岸樹、井藤、豈能長久, ví như sương mùa xuân, móc buổi sáng, cây bên bờ, dây leo ở giếng, làm sao bền lâu ?).” Hay như trong Khổng Triều Bá Ca (孔廟柏歌) của Hồ Kỳ Nghị (胡其毅, ?-?) nhà Minh có câu: “Lễ nhạc sơ truyền tam bách tải, phong trần thúc hốt câu thiên cải (禮樂初傳三百載、風塵倐忽俱遷改, lễ nhạc mới truyền ba trăm năm, gió bụi thoáng chốt đều biến đổi).” Câu “lão niên thúc hốt (老年倐忽)” có nghĩa là trong thoáng chốc tuổi già lại đến.
(祥光): ánh sáng, hào quang tốt lành, tượng trưng cho điềm lành. Như trong bài Tuyên Đức Hoàng Hậu Đôn Khuyến Lương Vương Lịnh (宣德皇后敦勸梁王令) của Nhiệm Phưởng (任昉, 460-508) nhà Lương thời Nam Triều có đoạn: “Phong công hậu lợi, vô đắc nhi xưng, thị dĩ tường quang tổng chí, hưu khí tứ tắc (豐功厚利、無得而稱、是以祥光總至、休氣四塞, công lợi to lớn, không có mà thổi phồng lên, vì vậy điềm lành thảy đến, khí tốt bốn phương).” Trong Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1594) quyển 11, phần Thập Tổ Hiếp Tôn Giả Truyền Pháp Phú Na Dạ Xà (十祖脅尊者傳法富那夜奢), có đoạn: “Hiếp Tôn Giả, trung Ấn Độ nhân, bổn danh Nan Sanh, xử thai lục thập nguyệt, tương đản chi tịch, mẫu mộng bạch tượng tải nhất bảo tòa, tòa trí nhất minh châu, tùng môn nhi nhập, ký giác toại sanh, sanh nhi tường quang chúc thất, thể hữu kỳ hương (脅尊者、中印度人、本名難生、處胎六十年、將誕之夕、母夢白象載一寶座、座置一明珠、從門而入、既覺遂生、生而祥光燭室、體有奇香, Hiếp Tôn Giả, người miền trung Ấn Độ, tên là Nan Sanh, ở trong bào thai mẹ mười sáu tháng; vào đêm sắp sanh, mẹ ông mộng thấy con voi trắng chở một tòa báu, trên tòa ấy có đặt một viên ngọc sáng, con voi từ cửa đi vào; khi tỉnh dậy thì sanh ra ông, khi sanh thì hào quang tỏa sáng căn phòng, thân có mùi hương thơm lạ).” Hay trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1524) quyển 19, phần Nhị Tiêu Sư Truyện (二蕭師傳), lại có đoạn: “Sư chí Tống Gia Hy gian, thỉ nhập diệt, trụ thế tam bách dư tuế, hỏa hóa ư Phụng Quan nham, tường quang chúc thiên, dị hương phổ văn (師至宋嘉熙間、始入滅、住世三百餘歲、火化於鳳冠巖、祥光燭天、異香普聞, đến trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Hy [1237-1240] nhà Tống, sư mới bắt đầu nhập diệt, sống ở đời được hơn ba trăm tuổi, hỏa táng tại núi Phụng Quan, hào quang rực trời, hương lạ ngát khắp).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập