Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Anh linh »»
(s: vārṣika, p: vassa, j: ango, 安居): nghĩa là mùa mưa, tiếng gọi tắt của Vũ An Cư (雨安居, An Cư mùa mưa), còn được gọi là Hạ Hành (夏行), Tọa Hạ (坐夏), Tọa Lạp (坐臘), Hạ Lung (夏籠), Hạ Thư (夏書), Hạ Kinh (夏經), Hạ Đoạn (夏斷), Hạ (夏). An nghĩa là làm cho thân tâm ở trạng thái tĩnh chỉ, cư là định trú trong một thời gian nhất định. Trong thời gian ba tháng mùa mưa ở Ấn Độ thì chư tăng không được đi hành hóa các nơi, hơn nữa do vì trong thời gian nầy các loại cây cỏ, côn trùng phát sanh, nên để đừng sát thương các vật đó, hàng đệ tử Phật thường tập trung lại một nơi, cấm túc, đặt ra quy chế tọa Thiền tu học. Do đó mới có tên gọi Nhất Hạ Cửu Tuần (一夏九旬), Cửu Tuần Cấm Túc (九旬禁足), Kiết Chế An Cư (結制安居), Kiết Chế (結制), v.v. Bắt đầu kết chế an cư thì gọi là Kiết Hạ (結夏), khi kết thúc An Cư là Giải Hạ (解夏). Bên cạnh đó, theo quy chế nầy người ta định ra thứ lớp Giới Lạp (戒臘, tức Pháp Lạp hay Hạ Lạp) của tu sĩ. Hạ thứ nhất được gọi là Nhập Chúng (入眾), 5 hạ trở lên là Xà Lê (闍梨), 10 hạ trở lên là Hòa Thượng (和尚). Về thời kỳ kiết hạ thì căn cứ vào sự tình tập trung của các đệ tử mà lập ra 3 thời trước, giữa và sau. Theo luật chế bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 là Trước An Cư, từ ngày 17 đến ngày 15 tháng 5 là Giữa An Cư, và bắt đầu từ ngày 16 tháng 5 trở đi là Sau An Cư (theo Hành Sự Sao [行事秒], An Cư Sách Tu Thiên [安居策修篇] II). Tuy nhiên, theo thuyết của Huyền Trang (玄奘) thì có sai lệch 1 tháng với quy định trên, nghĩa là lấy ngày 16 tháng 5 làm Trước An Cư, ngày 16 tháng 6 là Sau An Cư, còn Giữa An Cư thì không có (theo Đại Đường Tây Vức Ký [大唐西域記]). Ngoài ra còn có quy chế về An Cư mùa đông. Việc nầy do vì mối quan hệ về khí hậu, phong thổ ở các địa phương Tây Vực, nên người ta tiến hành An Cư mùa đông từ ngày 16 tháng 12 cho đến ngày 15 tháng 3 (theo Đại Đường Tây Vức Ký [大唐西域記], Đỗ Hóa La Quốc [覩貨邏國]). Ở Trung Quốc, các vị tăng tu hành tại hai vùng Giang Tây (江西), Hồ Nam (湖南) thường tập trung lại Kiết Chế An Cư, nên có tên gọi là Giang Hồ Hội (江湖會). Hơn nữa hai thời kỳ an cư Hạ và Đông được áp dụng cũng phát xuất từ Trung Quốc. Ở Nhật, người ta xem lần An Cư của 15 ngôi chùa lớn được tiến hành vào tháng 7 năm thứ 12 (684) thời Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō) như là lần đầu tiên, từ đó hình thức càng lúc càng thay đổi và quy chế An Cư vẫn còn nghiêm khắc cho đến ngày nay. Đặc biệt trong Thiền Tông lại rất coi trọng về An Cư, thời gian từ ngày 15 tháng 4 đến 15 tháng 7 là Hạ An Cư, và từ ngày 15 tháng 10 cho đến 15 tháng 1 năm sau là Đông An Cư. Hai thời kiết chế an cư mùa đông và mùa hạ vẫn còn duy trì cho đến ngày nay. Như trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (古尊宿語錄, CBETA No. 1315) quyển 21 có đoạn: “Thánh chế dĩ lâm, thời đương sơ Hạ, u thúy chi nham loan thương thúy, Tất Bát vô sai, sàn viên chi khê cốc thAnh linh, Tào Khê phảng phất, xưng nạp tử An Cư chi địa, thật ngô gia cấm túc chi phương, đại sưởng Thiền quan, cự diên trù lữ (聖制已臨、時當初夏、幽邃之巖巒蒼翠、畢缽無差、潺湲之溪谷清泠、曹溪彷彿、稱衲子安居之地、實吾家禁足之方、大敞禪關、巨延儔侶, Phật chế đến kỳ, gặp lúc đầu Hạ, thâm u ấy núi non xanh biếc, linh địa chẳng sai, róc rách kìa suối hang trầm lắng, Tào Khê phảng phất, đúng tu sĩ An Cư thánh địa, thật nhà ta dừng chân quê hương, rộng mở Thiền môn, đón mời bạn lữ).”
(辯顯密二敎論, Bengemmitsunikyōron): 2 quyển, do Không Hải soạn, là bộ luận thư tuyên ngôn lập tông, làm sáng tỏ sự phân biệt giữa Hiển Giáo và Mật Giáo, nêu lên điển cứ của 6 bộ kinh và 3 bộ luận, rồi dàn luận trận ngang dọc. Sáu bộ kinh gồm:
(1) Ngũ Bí Mật Kinh (五秘密經),
(2) Du Kỳ Kinh (瑜祇經),
(3) Lược Thuật Kim Cang Du Già Phân Biệt Thánh Vị Tu Chứng Pháp Môn (略術金剛瑜伽分別聖位修証法門),
(4) Đại Nhật Kinh (大日經),
(5) Lăng Già Kinh (楞伽經),
(6) Tam Quyển Giáo Vương Kinh (三巻敎王經).
Ba bộ luận là:
(1) Bồ Đề Tâm Luận (菩提心論),
(2) Đại Trí Độ Luận (大智度論),
(3) Thích Ma Ha Diễn Luận (釋摩訶衍論).
Ngoài ra còn có một số kinh điển khác được trích dẫn như Lục Ba La Mật Kinh (六波羅蜜經), Thủ Hộ Kinh (守護經), v.v. Về niên đại thành lập luận thư này, có một vào thuyết khác nhau.
(1) Vào năm 813 (niên hiệu Hoằng Nhân [弘仁] thứ 4), nhân dịp Trai Hội trong cung nội, chư tôn thạc đức của 8 tông phái hoạt động mạnh mẽ, nên tác phẩm này ra đời như là động cơ để xác lập tông phái mình.
(2) Có thuyết cho là tác phẩm này hình thành vào năm 815 (niên hiệu Hoằng Nhân thứ 6), đồng thời với bộ Tánh Linh Tập (性靈集), v.v. Như vậy chúng ta có thể tưởng tượng được luận thư này ra đời trong khoảng thời gian này. Một số sách chú thích về bộ luận này gồm Huyền Kính Sao (懸鏡鈔, 6 quyển) của Tế Xiêm (濟暹), Cương Yếu Sao (綱要鈔, 2 quyển) của Tĩnh Biến (靜遍), Thính Văn Sao (聽聞鈔) của Giác Noan (覺鑁), Thủ Kính Sao (手鏡鈔, 3 quyển) của Đạo Phạm (道範), Chỉ Quang Sao (指光鈔, 5 quyển) của Lại Du (賴瑜), v.v.
(s: kalaviṅka, p: karavika, 迦陵頻伽): còn gọi là Ca La Tần Già (歌羅頻伽), Ca Lan Già (加蘭伽), Ca Lan Tần Già (迦蘭頻伽), Yết La Tần Già (羯羅頻迦), Ca Lăng Tần Già (迦楞頻伽), Ca Lăng Tỳ Già (迦陵毘伽), Ca Lăng Già (迦陵伽), Yết Lăng Già (羯陵伽), Yết Tỳ Già La (羯毘伽羅), Yết Lăng Già La (羯陵伽羅), Ca Tỳ Già La (迦毘伽羅), Hạt Thất Già La (鶡鵯伽羅), Ca Vĩ La (迦尾羅), v.v.; ý dịch là hảo thanh điểu (好聲鳥, chim có tiếng hót hay), mỹ dung điểu (美容鳥, chim có hình dáng đẹp), diệu thanh điểu (妙聲鳥, chim có âm thanh tuyệt diệu). Đây là tên của một loài chim, thường thấy chủ yếu ở Ấn Độ, xuất xứ từ trên Tuyết Sơn (s, p: Himālaya, 雪山); nó sắc màu đen mượt giống như chim sẻ, bộ lông rất đẹp, ở phần cổ có màu đỏ. Khi còn trong trứng, chim đã có thể cất tiếng hót, âm thanh trong trẻo, hòa nhã, vi diệu, so với tiếng của Trời, người, Khẩn Na La (s: kiṃnara, 緊那羅) cũng như tất cả những loài chim khác đều thua xa. Như trong A Di Đà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao (阿彌陀經要解便蒙鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 430) quyển Trung có giải thích rằng: “Sơn cốc khoáng dã, kỳ trung đa hữu Ca Lăng Tần Già, xuất diệu âm thanh, nhược thiên nhược nhân, Khẩn Na La đẳng, vô năng cập giả (山谷曠野、其中多有迦陵頻伽、出妙音聲、若天若人、緊那羅等、無能及者, nơi hang núi đồng rộng, trong đó có nhiều chim Ca Lăng Tần Già, phát ra tiếng hót vi diệu, dẫu Trời dẫu người, Khẩn Na La vân vân, không thể sánh bằng).” Trong kinh điển Phật Giáo, thường lấy âm thanh của loài chim này để ví cho tiếng vi diệu của chư Phật, Bồ Tát; hoặc xem Ca Lăng Tần Già như là loài chim của thế giới Cực Lạc. Trong đồ hình Mạn Trà La Tịnh Độ, Ca Lăng Tần Già được vẽ dưới hình dạng đầu người thân chim. Trong Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận (大乘集菩薩學論, Taishō Vol. 32, No. 1636) quyển 23 có câu: “Mâu Ni Tam Nghiệp siêu Tam Hữu, thí nhược phù cừ bất trước thủy, Ca Lăng Tần Già tịnh diệu thanh, thị cố ngã kim khể cụ lễ (牟尼三業超三有、譬若芙蕖不著水、迦陵頻伽淨妙聲、是故我今稽具禮, Mâu Ni Ba Nghiệp vượt Ba Cõi, giống như hoa sen chẳng thấm nước, Ca Lăng Tần Già tiếng vi diệu, vì vậy con nay cúi đầu lạy).” Hay trong Phật Thuyết Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Đại Thừa Kinh (佛說護國尊者所問大乘經, Taishō Vol. 12, No. 321) quyển 3 có đoạn: “Phước Quang Thái Tử viên uyển chi nội, hữu chủng chủng phi điểu, Anh Vũ, Cù Dục, Uyên Ương, Nga Áp, Khổng Tước Xá Lợi, Câu Chỉ La Điểu, Câu Nỗ La Điểu, Ca Lăng Tần Già, Mạng Mạng Điểu đẳng (福光太子園苑之內、有種種飛鳥、鸚鵡、鴝鵒、鴛鴦、鵝鴨、孔雀舍利、俱枳羅鳥、俱拏羅鳥、迦陵頻伽、命命鳥等, trong vườn của Thái Tử Phước Quang có nhiều loại chim bay, như chim vẹt, sáo, uyên ương, vịt trời, chim sẻ Xá Lợi, chim Câu Chỉ La, chim Câu Nỗ La, chim Ca Lăng Tần Già, chim Mạng Mạng, vân vân).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Nghi Quỹ (三時繫念儀範, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1465) lại có đoạn: “Lục thời hành đạo bảo lâm gian, Cửu Phẩm tiêu danh kim chiểu nội, thủy điểu thọ lâm năng thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già cọng đàm Thiền, bảo lan bảo can ảnh linh lung, bảo tọa bảo tràng quang xán lạn (六時行道寶林間、九品標名金沼內、水鳥樹林能說法、迦陵頻伽共談禪、寶欄寶網影玲瓏、寶座寶幢光燦爛, sáu thời hành đạo nơi rừng báu, Chín Phẩm đề danh trong hồ vàng, chim nước rừng cây còn thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già thảy bàn Thiền, lan can quý báu ảnh lung linh, tòa báu tràng phan sáng rực rỡ).”
(眞濟, Shinzei, 800-860): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời Bình An, Tự Trưởng đời thứ 3 của Đông Tự (東寺, Tō-ji), một trong 10 vị đại đệ tử của Không Hải, húy là Chơn Tế (眞濟), thông xưng là Cao Hùng Tăng Chánh (高雄僧正), Kỷ Tăng Chánh (紀僧正), Thị Bổn Tăng Chánh (柿本僧正), xuất thân kinh đô Kyoto; con của Tuần Sát Đàn Chánh Đại Bậc Kỷ Ngự Viên (巡察彈正大弼紀御園). Lúc nhỏ, ông theo học Nho Giáo, sau đầu sư với Không Hải, rồi đến năm 824 thì thọ phép Quán Đảnh và trở thành Truyền Pháp A Xà Lê. Đến năm 832, khi Không Hải lên ẩn cư trên Cao Dã Sơn, ông được phó chúc quản lý Cao Hùng Sơn Tự (高雄山寺, tức Thần Hộ Tự [神護寺, Jingo-ji]). Vào năm 836, ông định sang nhà Đường với Chơn Nhiên (眞然), nhưng vì phong ba bão táp nên không thành, và đến năm 840 thì làm Biệt Đương của Thần Hộ Tự. Năm 843, ông làm Tự Trưởng của Đông Tự, rồi đến năm 855 thì được bổ nhiệm làm Tăng Chánh của Chơn Ngôn Tông, nhưng ông nhường chức lại cho Không Hải. Vào năm 858, ông làm lễ cầu nguyện cho bệnh tình của Văn Đức Thiên Hoàng (文德天皇, Montoku Tennō, tại vị 850-858), nhưng sau đó thì Thiên Hoàng băng hà; từ đó, ông lui về ẩn cư ở Thần Hộ Tự. Và tận lực làm cho chùa này hưng thịnh. Ông rất giỏi về thi văn, từng biên tập bộ Hán Thi của Không Hải là Tánh Linh Tập (性靈集). Trước tác của ông để lại có Thai Tạng Giới Niệm Tụng Tư Ký (胎藏界念誦私記) 1 quyển, Phật Bộ Phật Cúng Dường Pháp (佛部佛供養法) 1 quyển, Cao Hùng Khẩu Quyết (高雄口決) 1 quyển, v.v.
(九幽): chín tầng địa ngục tối tăm. Theo Thượng ThAnh linh Bảo Tế Độ Đại Thành Kim Thư (上清靈寶濟度大成金書) có giải thích rằng: “Cửu U giả, nãi Bắc Đẩu chi sở hóa dã; đông viết U Minh, nam viết U Âm, tây viết U Dạ, bắc viết U Phong, đông bắc viết U Đô, đông nam viết U Trị, tây nam viết U Quan, tây bắc viết U Phủ, trung ương viết U Ngục (九幽者、乃北斗之所化也、東曰幽冥、南曰幽陰、西曰幽夜、北曰幽酆、東北曰幽都、東南曰幽治、西南曰幽關、西北曰幽府、中央曰幽獄, Cửu U là do Bắc Đẩu hóa thành; phương đông có U Minh, phương nam có U Âm, phương tây có U Dạ, phương bắc là U Phong, phương đông là U Đô, phương đông bắc là U Đô, phương đông nam là U Trị, phương tây nam là U Quan, phương tây bắc là U Phủ, ở trung ương là U Ngục).” Cho nên, trong nghi thức phá địa ngục của Đạo Giáo có “Cửu U Đăng Nghi (九幽燈儀).” Như trong bài kệ nguyện chuông buổi sáng được dùng trong các tự viện Phật Giáo có câu: “Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao ngâm, thượng triệt Thiên Đường, hạ thông Địa Phủ, thượng chúc chư Phật Bồ Tát quang chiếu càn khôn, hạ tư pháp giới chúng sanh đồng nhập Nhất Thừa, Tam Giới Tứ Sanh chi nội, các miễn luân hồi, Cửu U Thập Loại chi trung, tất ly khổ hải, ngũ phong thập vũ, miễn tao cơ cẩn chi niên, nam mạch đông giao, câu chiêm Nghiêu Thuấn chi nhật, can qua vĩnh tức, giáp mã hưu chinh, trận bại thương vong, câu sanh Tịnh Độ, phi cầm tẩu thú, la võng bất phùng, lãng tử cô thương, tảo hoàn hương tỉnh, vô biên thế giới, địa cửu thiên trường, viễn cận đàn na, tăng diên phước thọ (洪鐘初叩、寶偈高吟、上徹天堂、下通地府、上祝諸佛菩薩光照乾坤、下資法界眾生同入一乘、三界四生之內、各免輪回、九幽十類之中、悉離苦海、五風十雨、免遭飢饉之年、南陌東郊、俱瞻堯舜之日、干戈永息、甲馬休征、陣敗傷亡、俱生淨土、飛禽走獸、羅網不逢、浪子孤商、早還鄉井、無邊世界、地久天長、遠近檀那、增延福壽, chuông vừa mới đánh, kệ báu ngâm cao, trên thấu Thiên Đường, dưới thông Địa Phủ, trên chúc chư Phật Bồ Tát chiếu sáng càn khôn, dưới ban pháp giới chúng sanh cùng vào Nhất Thừa, trong chốn Ba Cõi Bốn Loài, đều miễn luân hồi; Mười Loại Cửu U Địa Ngục, tất rời biển khổ, năm gió mười mưa, miễn gặp nghèo đói hằng năm, bờ nam cõi đông, đều hưởng trọn ngày Nghiêu Thuấn, can qua mãi dứt, ngựa chiến dừng chân, bại trận chết thương, thảy sanh Tịnh Độ, chim bay thú chạy, lưới bẫy thôi sa, lãng tử buôn xa, sớm về quê cũ, vô biên thế giới, trời đất lâu dài, đàn na xa gần, tăng trưởng phước thọ).”
(曇花): từ gọi tắt của hoa Ưu Đàm Bạt La (s: udumbara, udumbara, p: udumbara, 優曇跋羅), hay Ô Đàm Bát La Hoa (烏曇盋羅花), Ô Đàm Bát La Hoa (鄔曇鉢羅花), Ưu Đàm Ba Hoa (優曇波花), Ưu Đàm Hoa (優曇花), Uất Đàm Hoa (鬱曇花); ý dịch là Linh Thoại Hoa (靈瑞花), Không Khởi Hoa (空起花), Khởi Không Hoa (起空花). Nó là loại thực vật có hoa ẩn tàng thuộc khoa Dâu, tên khoa học là Ficus glomerata, sanh sản ven chân núi Hỷ Mã Lạp Nhã Sơn (喜馬拉雅山, Himalaya), cao nguyên Đức Can (德干), Tư Lí Lan Tạp (斯里蘭卡), v.v. Thân cây cao hơn 3 tấc, lá có hai loại: phẳng trơn và thô nhám, đầu nhọn, thon dài, đều có chiều dài từ 10-18 phân. Nó có 2 loại hoa đực và cái, hoa xòe to như đấm tay, hoa búp như ngón tay cái, nở ra từ cành cây hơn 10 bông; tuy có thể ăn được nhưng mùi vị không ngon. Căn cứ vào Huệ Lâm Âm Nghĩa (慧琳音義) quyển 8 cho biết rằng: “Ưu Đàm Hoa, Phạn ngữ cổ dịch ngoa lược dã; Phạn ngữ chánh vân Ô Đàm Bạt La, thử vân Tường Thoại Linh Dị, thiên hoa dã; thế gian vô tỉ hoa; nhược Như Lai hạ sanh, Kim Luân Vương xuất hiện thế gian, dĩ đại phước đức lực cố, cảm đắc thử hoa xuất hiện (優曇花、梵語古譯訛略也、梵語正云烏曇跋羅、此云祥瑞靈異、天花也、世間無此花、若如來下生、金輪王出現世間、以大福德力故、感得此花出現, Hoa Ưu Đàm là từ dịch tắt sai lầm ngày xưa của tiếng Phạn, tiếng Phạn đúng là Ô Đàm Bạt La, Tàu gọi là Tường Thoại Linh Dị [loại hoa mang lại điềm lành linh dị], là hoa Trời, loại hoa trên đời không gì sánh bằng; nếu Như Lai hạ sanh, bậc Kim Luân Vương [Chuyển Luân Thánh Vương] sẽ xuất hiện trên thế gian; vì Ngài có oai lực phước đức to lớn, nên có thể cảm ứng loài hoa này xuất hiện).” Hơn nữa, do vì nó hiếm có và khó gặp, trong kinh điển Phật Giáo thường ví hoa Ưu Đàm với việc khó gặp được đức Phật xuất hiện giữa đời. Như Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經, Taishō 12, 266) quyển thượng có giải thích rằng: “Vô lượng ức kiếp nan trị nan kiến, do linh thoại hoa thời thời nãi xuất (無量億劫難值難見、猶靈瑞華時時乃出, vô lượng ức kiếp khó gặp, khó thấy, giống như hoa Linh Thoại thỉnh thoảng mới xuất hiện)”. Hay như Pháp Hoa Văn Cú (法華文句, Taishō No. 1718) cũng cho rằng: “Ưu Đàm Hoa giả, thử ngôn Linh Thoại, tam thiên niên nhất hiện, hiện tắc Kim Luân Vương xuất (優曇花者、此言靈瑞、三千年一現、現則金輪王出, Hoa Ưu Đàm, Tàu gọi là Linh Thoại, ba ngàn năm mới xuất hiện một lần, hiện tất Kim Luân Vương ra đời).” Tại Ấn Độ, từ thời đại Phệ Đà (s: Veda, 吠陀) cho đến ngày nay, lá của nó được dùng làm cây bảo vệ trừ tà ma, hay làm củi đốt trong lúc tế tự. Trong Phật Giáo, cây Bồ Đề thành đạo của 7 đức Phật thời quá khứ đều khác nhau, riêng cây Ưu Đàm Bạt La là cây Bồ Đề thành đạo của vị Phật thứ 5, Câu Na Hàm Mâu Ni (s: Kanakamuni, p: Konāgamana, 拘那含牟尼). Hoa Ưu Đàm là loại hoa ngàn năm mới nở một lần; cho nên nó có mùi thơm tuyệt diệu hơn tất cả loài hoa khác. Cũng vậy, giáo Pháp của Đức Phật luôn tỏa sáng và thơm ngát đến mọi người. Những ai lắng nghe và thực hành giáo pháp ấy thì sẽ có được an lạc, giải thoát nhờ hương thơm đó. Và từ đó vị ấy có thể đem hương thơm ấy ban phát, chia xẻ với mọi người chung quanh. Như trong Phẩm Phương Tiện (方便品) của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka,妙法蓮華經) có câu: “Phật cáo Xá Lợi Phất, như thị diệu pháp, chư Phật Như Lai, thời nãi thuyết chi, như Ưu Đàm Bát Hoa, thời nhất hiện nhĩ (佛告舍利佛、如是妙法、諸佛如來、時乃說之、如優曇缽花、時一現耳, Phật bảo Xá Lợi Phất rằng pháp mầu như vậy, chư Phật Như Lai, chỉ thuyết một lần; như Hoa Ưu Đàm, chỉ xuất hiện một lần thôi).” Hoặc như trong Đại Trí Độ Luận (大知度論) cũng khẳng định rõ rằng: “Phật thế nan trị, như Ưu Đàm Ba La thọ hoa, thời thời hữu nhất, kỳ nhân bất kiến (佛世難值、如優曇波羅樹華、時時一有、其人不見, trên đời khó gặp được Phật, như hoa cây Ưu Đàm Ba La, thỉnh thoảng mới có một lần, người thường không thấy được).” Vì vậy trong dân gian cũng như văn học xuất hiện thuật ngữ “Đàm Hoa Nhất Hiện (曇花一現, Hoa Ưu Đàm chỉ xuất hiện một lần).” Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (大般若波羅蜜多經, Taishō No. 220) cho chúng ta biết rõ thêm rằng: “Nhân thân vô thường, phú quý như mộng, chư căn bất khuyết, chánh tín thượng nan, huống trị Như Lai đắc văn diệu pháp, bất vi hy hữu như Ưu Đàm Hoa (人身無常、富貴如夢、諸根不缺、正信尚難、況值如來得聞妙法、不爲稀有如優曇花, thân người vô thường, giàu sang như mộng, các căn đầy đủ, chánh tín lại khó, huống chi gặp Như Lai được nghe pháp mầu, không phải hy hữu như Hoa Ưu Đàm sao ?).” Trong bài thơ Na Tra (那吒), Tô Triệt (蘇轍, 1039-1112) nhà Tống có nêu rõ giá trị tối thượng của loại hoa này: “Phật như Ưu Đàm nan trị ngộ, kiến giả văn đạo xuất sanh tử (佛如優曇難值遇、見者聞道出生死, Phật như Ưu Đàm khó gặp được, người thấy nghe đạo thoát sanh tử).” Hay như trong bài thơ Kỷ Hợi Tạp Thi (己亥雜詩) của Củng Tự Trân (龔自珍, 1792-1841) nhà Thanh cũng có câu rằng: “Nan bằng nhục nhãn thức thiên nhân, khủng thị Ưu Đàm thị hiện thân (難憑肉眼識天人、恐是優曇示現身, khó nương mắt thịt biết trời người, e chính Ưu Đàm thị hiện thân).” Trong dân gian Trung Quốc, vẫn có những truyền thuyết về giấc mộng thấy Hoa Ưu Đàm, như trường hợp Tề Võ Đế Tiêu Trách (齊武帝蕭賾, tại vị 482-493) bị bệnh, nằm mộng thấy Hoa Ưu Đàm và được lành bệnh; cho nên, trong chiêm tinh bói toán, người ta thường xem giấc mộng Hoa Ưu Đàm là có điềm lành. Như trong Uyên Giám Loại Hàm (淵鑑類函) do nhóm Trương Thanh (張英, ?-1708) nhà Thanh biên soạn có đoạn: “Tề Cảnh Lăng Vương Tử Lương, đốc tín Thích thị, Võ Đế bất dự, Tử Lương khải tấn Sa Môn ư điện tiền tụng kinh, Võ Đế cảm mộng, kiến Ưu Đàm Bát Hoa ư Tử Lương án (齊竟陵王子良、篤信釋氏、武帝不豫、子良啟進沙門於殿前誦經、武帝感夢、見優曇缽花於子良案, vua Cảnh Lăng Vương nhà Tề tên Tử Lương, thâm tín Phật pháp, Võ Đế chẳng vui lòng; Tử Lương cung thỉnh Sa Môn tụng kinh trước điện; Võ Đế cảm ứng mộng thấy Hoa Ưu Đàm nơi án của Tử Lương).”
(地府): còn gọi là Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), chỉ dưới lòng đất, tên gọi khác của Địa Ngục. Tại Trung Quốc, phần lớn các điển tịch thần thoại cổ đại cũng như của Phật Giáo đều có đề cập đến tên gọi Âm Tào Địa Phủ. Người dân Trung Quốc chia thế giới vạn vật làm hai cực: đó là học thuyết âm dương, là thành phần quan trọng của học thuyết cổ đại Trung Quốc; như Trời (dương) và Đất (âm), nam (dương) và nữ (âm), mặt trời (dương) và mặt trăng (âm). Hơn nữa, tại Trung Quốc còn có học thuyết Ba Cõi: trên trời, con người và địa ngục. Họ cho rằng mỗi con người đều có linh hồn, 3 hồn hay 7 hồn. Sau khi con người chết đi, trước hết sẽ đọa xuống cõi Âm Tào Địa Phủ để chịu sự xét xử, thọ nhận quả báo, hình phạt; được vị phán quan cõi âm là Diêm La Vương (閻羅王) phán xét. Nếu ai trên dương gian làm việc thiện, tu nhân tích đức, sẽ đắc đạo thành tiên, sanh về cõi trời, được trường sanh bất tử. Nếu người chuyên làm việc ác, sẽ bị trừng phạt trong 18 tầng Địa Ngục dưới Âm Phủ. Người trung quốc xưa cho rằng trên trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế chưởng quản, ở phương Tây có Phật Tổ Như Lai, trên đời có Hoàng Đế cai trị; còn cõi âm thì có Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) cũng như các vua khác chủ quản. Theo truyền thuyết, người chưởng quan tối cao cõi Địa Phủ là Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế (天齊仁聖大帝), cai quản toàn thể sAnh linh vạn vật. Kế đến là Bắc Âm Phong Đô Đại Đế (北陰酆都大帝). Sau đó có các Quỷ Đế (鬼帝, vua quỷ) ở 5 phương: Đông Phương Quỷ Đế Thái Uất Lũy (東方鬼帝蔡鬱壘), còn gọi là Thần Trà (神荼), cai quản Quỷ Môn Quan (鬼門關) ở Đào Chỉ Sơn (桃止山); Tây Phương Quỷ Đế Triệu Văn Hòa (西方鬼帝趙文和), còn gọi là Vương Chân Nhân (王真人), cai quản Ba Trủng Sơn (嶓塚山); Bắc Phương Quỷ Đế Trương Hành (北方鬼帝張衡), còn gọi là Dương Vân (楊雲), cai quản La Phong Sơn (羅酆山); Nam Phương Quỷ Đế Đỗ Tử Nhân (南方鬼帝杜子仁), cai quản La Phù Sơn (羅浮山); Trung Ương Quỷ Đế Chu Khất (中央鬼帝週乞), còn gọi là Khể Khang (稽康), cai quản Bão Độc Sơn (抱犢山). Bên dưới là 6 vị trời La Phong (羅酆), tức là những vị Thủ Cung Thần (守宮神), gồm: Trụ Tuyệt Âm Thiên Cung (紂絕陰天宮), Thái Sát Lượng Sự Tông Thiên Cung (泰煞諒事宗天宮), Minh Thần Nại Phạm Võ Thành Thiên Cung (明晨耐犯武城天宮), Điềm Chiêu Tội Khí Thiên Cung (恬昭罪氣天宮), Tông Linh Thất Phi Thiên Cung (宗靈七非天宮), Cảm Ty Liên Uyển Lũ Thiên Cung (敢司連宛屢天宮). Tuy nhiên, truyền thuyết cho rằng chốn Âm Tào Địa Phủ là do Thập Điện Diêm La Vương (十殿閻羅王) thống quản: Tần Quảng Vương (秦廣王), Sở Giang Vương (楚江王), Tống Đế Vương (宋帝王), Ngũ Quan Vương (五官王), Diêm La Vương (閻羅王), Bình Đẳng Vương (平等王), Thái Sơn Vương (泰山王), Đô Thị Vương (都市王), Biện Thành Vương (卞城王), Chuyển Luân Vương (轉輪王). Dưới Thập Điện Diêm La Vương còn có các vị thần khác như Thủ Tịch Phán Quan Thôi Phủ Quân (首席判官崔府君), Chung Khôi (鍾魁), Hắc Bạch Vô Thường (黑白無常), Ngưu Đầu Mã Diện (牛頭馬面), Mạnh Bà Thần (孟婆神), v.v.
(地官): tên gọi của 6 chức quan dưới thời nhà Chu, tương đương với chức Tư Đồ (司徒), chuyên giám sát những việc liên quan đến giáo dục, đất đai và nhân sự. Đây cũng là tên vị quan dưới âm ty địa ngục. Địa Quancòn là tên gọi của một trong 3 vị của Tam Quan Đại Đế (三官大帝), chính danh là Địa Quan Đại Đế (地官大帝), Trung Nguyên Nhị Phẩm Xá Tội Địa Quan (中元二品赦罪地官), Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Nhị Phẩm Thanh Hư Đại Đế (中元赦罪地官二品清虛大帝), lệ thuộc Thượng Thanh Cảnh (上清境), do khí của Nguyên Động Hỗn Linh (地官由元洞混靈) và tinh màu vàng hỗn hợp lại thành, tổng chủ quản Ngũ Đế (五帝), Ngũ Nhạc (五嶽), các thần tiên. Ông phụng sắc chỉ của Ngọc Hoàng Thượng Đế (玉皇上帝), quản chưởng việc tội ác của con người và đến ngày rằm tháng 7 thường hạ phàm, chỉnh đốn việc tội phước cũng như xá tội cho con người. Giống như Thiên Quan, Địa Quan cũng có vài truyền thuyết khác nhau. Có truyền thuyết cho rằng ông là vua Thuấn, do vì ông có công lao to lớn trong việc khai khẩn đất đai, người dân tưởng nhớ và tôn thờ ông như là vị thần. Vua Thuấn họ Diêu (姚), tên là Trọng Hoa (重華), con cháu đời thứ 8 của Hoàng Đế (黃帝); cha tên Cổ Tẩu (瞽叟), mẹ là Ác Đăng (握登), hạ sanh Thuấn ở vùng đất Diêu Hư (姚虛). Ông để tang mẹ lúc còn nhỏ, cha lại tái giá, sanh được một con tên là Tượng (象). Cậu bé này tánh tình ngạo mạn, thường cùng với mẹ ghẻ hành hạ Thuấn. Tuy nhiên, Thuấn bẩm tính nhân từ, lại rất hiếu thảo và có tài hoa hơn người, thường cày ruộng ở Lịch Sơn (歷山), bắt cá ở Lôi Trạch (雷澤), săn bắn ở Phụ Hạ (負夏), làm đồ gốm ở Hà Tân (河濱); cho nên, người dân dẫn cả gia đình dòng họ đi theo ông để học tập các kỷ năng thao tác. Chỉ trong 2 năm, ông đã hình thành nên thôn ấp, rồi 3 năm thì phát triển thành đô thị; từ đó, uy đức và tiếng tăm của ông vang xa. Vua Nghiêu bèn tuyển người hiền và nhường ngôi cho Thuấn. Sau khi vua Thuấn băng hà, Đạo Giáo tôn sùng ông như là vị thần, chuyên xá tội cho con người vào dịp Tiết Trung Nguyên. Do vì ông chí hiếu với song thân, cho nên Tiết Trung Nguyên còn được gọi là Hiếu Tử Tiết (孝子節). Lại có thuyết cho rằng dưới thời Chu U Vương (周幽王) có 3 vị quan liêm chính là Cát Ung (葛雍), Đường Hoằng (唐宏) và Chu Thật (周實). Cả ba đều từ quan, sống cuộc đời tự tại với thiên nhiên. Đến thời vua Chơn Tông nhà Tống, họ được phong làm Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Ngoài ra, có thuyết cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái đều gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người hạ sanh được một trai, bẩm tánh khác người; nhân đó, Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho cả ba làm Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan, sắc mệnh chuyên cai quản Ba Cõi, được gọi là Tam Quan Đại Đế. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Địa Quan Bảo Cáo (地官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn về Địa Quan rằng: “Chí tâm quy mạng lễ, ThAnh linh Động Dương, Bắc Đô Cung trung, bộ Tứ Thập Nhị Tào, giai cửu thiên vạn chúng, chủ quản Tam Giới Thập Phương Cửu Địa, chưởng ác Ngũ Nhạc Bát Cực Tứ Duy, thổ nạp âm dương, khiếu nam nữ thiện ác thanh hắc chi tịch, từ dục thiên địa, khảo chúng sanh lục tịch phước họa chi danh, pháp nguyên hạo đại, nhi năng ly Cửu U hạo kiếp, thùy quang nhi năng tiêu vạn tội, quần sanh phụ mẫu, tồn một triêm ân, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Trung Nguyên thất khí, xá tội Địa Quan, Động Linh Thanh Hư Đại Đế, ThAnh linh Đế Quân (志心皈命禮、青靈洞陽、北都宮中、部四十二曹、偕九千萬眾、主管三界十方九地、掌握五嶽八極四維、吐納陰陽、竅男女善惡青黑之籍、慈育天地、考眾生錄籍禍福之名、法源浩大、而能離九幽浩劫、垂光而能消萬罪、群生父母、存沒沾恩、大悲大願、大聖太慈、中元七氣、赦罪地官、洞靈清虛大帝、青靈帝君, Một lòng quy mạng lễ: ThAnh linh Động Dương, trong Bắc Đô Cung, cai quản 42 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, chủ quản Ba Cõi, Mười Phương, Chín Xứ, chấp chưởng Năm Núi, Tám Cực, Bốn Phương, nhổ thâu âm dương, xét hồ sơ thiện ác, trắng đen của nam nữ, từ bi nuôi dưỡng trời đất, kiểm tra từng tên họa phước của hồ sơ chúng sanh, pháp vốn lớn không cùng, mà có thể lìa kiếp nạn của chốn Cửu U, nương ánh sáng mà có thể tiêu vạn tội, bậc cha mẹ của quần sanh, người còn kẻ mất đều được thấm nhuần ơn, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, bảy khí Trung Nguyên, xá tội Địa Quan, Động Linh Thanh Hư Đại Đế, ThAnh linh Đế Quân).”
(東極青華大帝): còn gọi là Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (青玄九陽上帝), là hóa thân của Đông Hoa Đế Quân (東華帝君), tức Mộc Công (木公) hay Đoàn Hoa Mộc Công, ngự tại Đông Cực (東極). Hậu thế thường cho là Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế và Đông Hoa Đế Quân có cùng nguyên khí hóa hợp; nhưng thực thế thì Đông Hoa Đế Quân có liên quan đến Đông Vương Công (東王公). Vương Công tức là Mộc Công, hay Đông Hoàng Thái Ất (東皇太乙), cùng với Tây Vương Mẫu (西王母) quản lý hai khí, phân thành âm dương, định ra càn khôn; về sau hóa thành Đông Hoa Đại Đế (東華大帝) và Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙救苦天尊). Khí của Thanh Hoa Đại Đế hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, thệ nguyện cứu độ chúng sanh, nên được tôn xưng là “Vạn Vị Đế Chúa Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế (萬彙帝主東極青華大帝)”, thuộc vào một trong Tứ Ngự của Đạo Giáo. Ngài Cứu Khổ Thiên Tôn cùng với Chu Lăng Thiên Tôn (朱陵天尊) và Độ Mạng Thiên Tôn (度命天尊) được gọi là Thái Ất Tam Cứu Khổ, là vị thần chủ tể tối cao cứu độ vạn loại. Sau khi biến hóa thành Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Đông Cực Thanh Hoa Đại Đế lại ứng hóa khắp mười phương, nên có hiệu là “Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (十方救苦天尊).” Chư vị Thiên Tôn trong 10 phương có hiệu là: Đông Phương Bảo Hoàng Thượng Thiên Tôn (東方寶皇上天尊), Nam Phương Huyền Chơn Vạn Phước Thiên Tôn (南方玄眞萬福天尊), Tây Phương Thái Diệu Chí Cực Thiên Tôn (西方太妙至極天尊), Bắc Phương Huyền Thượng Ngọc Thần Thiên Tôn (北方玄上玉宸天尊), Đông Nam Phương Hiếu Sanh Độ Thiên Tôn (東南方好生度天尊), Đông Bắc Phương Độ Tiên Thượng Thánh Thiên Tôn (東北方度仙上聖天尊), Tây Nam Phương Thái Linh Hư Hoàng Thiên Tôn (西南方太靈虛皇天尊), Tây Bắc Phương Vô Lượng Thái Hoa Thiên Tôn (西北方無量太華天尊), Thượng Phương Ngọc Hư Minh Hoàng Thiên Tôn (上方玉虛明皇天尊) và Hạ Phương Chơn Hoàng Động Thần Thiên Tôn (下方眞皇洞神天尊); được gọi chung là Linh Bảo Thập Phương Cứu Khổ Thiên Tôn (靈寶十方救苦天尊). Vị Thiên Tôn này còn quản lý luôn cả việc thần quỷ dưới Minh Phủ, hóa thành Thập Điện Minh Vương (十殿冥王) như: Đông Phương Thiên Tôn hóa thành Tần Quảng Vương (秦廣王) của điện thứ nhất, cư trú ở Huyền Minh Cung (玄冥宮); Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Sở Giang Vương (楚江王) của điện thứ hai, cư tại Phổ Minh Cung (普明宮); Tây Phương Thiên Tôn hóa thành Tống Đế Vương (宋帝王) của điện thứ ba, cư tại Củ Tuyệt Cung (糾絕宮); Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Ngũ Quan Vương (五官王) của điện thứ tư, cư tại Thái Hòa Cung (太和宮); Đông Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Diêm La Vương (閻羅王) của điện thứ năm, cư tại Củ Luân Cung (糾倫宮); Đông Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Biện Thành Vương (卞城王) của điện thứ sáu, cư tại Minh Thần Cung (明晨宮); Tây Nam Phương Thiên Tôn hóa thành Thái Sơn Vương (泰山王) của điện thứ bảy, cư tại Thần Hoa Cung (神華宮); Tây Bắc Phương Thiên Tôn hóa thành Bình Đẳng Vương (平等王) của điện thứ tám, cư tại Thất Phi Cung (七非宮); Thượng Phương Thiên Tôn hóa thành Đô Thị Vương (都市王) của điện thứ chín, cư tại Bích Chơn Cung (碧眞宮); và Hạ Phương Thiên Tôn hóa thành Chuyển Luân Vương (轉輪王) của điện thứ mười, cư tại Túc Anh Cung (肅英宮). Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn có đầy đủ thần lực tự tại, sức trí tuệ lớn vô lượng, thường giải ách nạn, phá tà, hàng ma, cũng như giải trừ hết thảy bệnh tật cho con người; cho nên cũng có tên là Thái Ất Y Vương (太乙醫王). Ngài có đủ sức thần thông nên có thể ngao du khắp nơi như lên trời, xuống cõi người, Địa Phủ, v.v. Vì vậy, trên Trời Ngài có tên là Thái Nhất Phước Thần (太一福神), trên đời gọi là Đại Từ Nhân Giả (大慈仁者), dưới lòng đất là Nhật Diệu Địa Quân (日耀地君), nơi chỗ ngoại đạo là Sư Tử Minh Vương (獅子明王), dưới Thủy Phủ là Động Uyên Đế Quân (洞淵帝君). Ngài thường hóa hiện các thân hình, theo âm thanh để cứu độ chúng sanh, nên cũng được gọi là Thái Ất Tầm Thanh Cứu Khổ Thiên Tôn (太乙尋聲救苦天尊). Trong Tống Sử (宋史), phần Phương Kỷ Truyện Hạ (方技傳下), Lâm Linh Tố (林靈素) có câu: “Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương giả, Thượng Đế chi trưởng tử, kỳ đệ hiệu Thanh Hoa Đế Quân giả, chủ Đông phương (神霄玉清王者、上帝之長子、其弟號青華帝君者、主東方, Thần Tiêu Ngọc Thanh Vương là trưởng tử của Thượng Đế, em trai ông hiệu Thanh Hoa Đế Quân, chủ quản phương Đông).” Hay như trong bài thơ Bộ Hư (步虛) của Lục Du (陸游, 1125-1210) nhà Tống có câu: “Bán túy kỵ nhất hạc, khứ yết Thanh Hoa Quân (半醉騎一鶴、去謁青華君, nữa say cỡi con hạc, đến yết Thanh Hoa Quân).” Trong Thái Thượng Vô Cực Đại Đạo Tam Thập Lục Bộ Tôn Kinh (太上無極大道三十六部尊經) có câu kính lễ rằng: “Chí tâm quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, Thất Bảo phương khiên lâm, Cửu Sắc Liên Hoa tòa, vạn chơn hoàn củng nội, bách ức thoại quang trung, Ngọc ThAnh linh Bảo Tôn, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Thập Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Ức Ức Kiếp Trung, Độ Nhân Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế (志心皈命禮、青華長樂界、東極妙嚴宮、七寶芳騫林、九色蓮花座、萬真環拱內、百億瑞光中、玉清靈寶尊、應化玄元始、號劫垂慈濟、大千甘露門、妙道眞身、紫金瑞相、隨機赴感、誓願無邊、大聖大慈、大悲大願、十方化號、普度眾生、億億劫中、度人無量、尋聲赴感、太乙救苦天尊、青玄九陽上帝, Một lòng quy mạng lễ, Thanh Hoa Trường Lạc Giới, Đông Cực Diệu Nghiêm Cung, rừng hương thơm Bảy Báu, tòa Hoa Sen Chín Sắc, vạn loài đều củng phục, trong trăm ức hào quang, Đấng Ngọc ThAnh linh Bảo, Ứng Hóa Huyền Nguyên Thỉ, hiệu Kiếp Thùy Từ Tế, Đại Thiên Cam Lồ Môn, Diệu Đạo Chơn Thân, Tử Kim Thoại Tướng, Tùy Cơ Phó Cảm, Thệ Nguyện Vô Biên, Đại Thánh Đại Từ, Đại Bi Đại Nguyện, Mười Phương Hóa Hiệu, Phổ Độ Chúng Sanh, Trong Muôn Ức Kiếp, Độ Người Vô Lượng, Tầm Thanh Phó Cảm, Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn, Thanh Huyền Cửu Dương Thượng Đế).” Ngày thánh đản của Thái Ất Cứu Khổ Thiên Tôn là 11 tháng 11 Âm Lịch.
(軒馭): chỉ cho loại xe có màn che, là phương tiện chỉ có quan bậc Đại Phu trở lên mới dùng; từ đó nó ám chỉ cho bậc đáng tôn kính như đức vua, v.v. Như trong bài thơ Hỗ Tùng Ôn Tuyền Đồng Tử Vi Hoàng Môn Quần Công Phiếm Vị Xuyên Đắc Tề Tự (扈從溫泉同紫微黃門群公泛渭川得齊字) của Tô Đĩnh (蘇頲, 670-727) nhà Đường có câu: “Phó chu lai thị dụng, hiên ngự vãng ưng mê (傅舟來是用、軒馭往應迷, thuyền con đến sử dụng, xe ngự đi mê man).” Hay trong Vạn Linh Đăng Nghi (萬靈燈儀) quyển 1 lại có câu: “Cẩn y khoa cách, kiến lập đàn tràng, khiết bị hương đăng, dụng diên hiên ngự (謹依科格、建立壇塲、潔僃香燈、用延軒馭, kính nương khoa lễ, kiến lập đàn tràng, chuẩn bị hương đèn, cầu mong trường thọ).” Cho nên câu “hiên ngự tiêu dao, diệu chứng chơn như chi vức; Thánh linh bạn hoán, tề đăng Cực Lạc chi thiên (軒馭逍遙、妙證眞如之域、聖靈伴奐、齊登極樂之天)” có nghĩa là “đức vua tiêu dao, chứng đạt chơn như cõi tịnh; linh Thánh tự tại, cùng lên Cực Lạc cung trời.”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập