Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Kinh nghiệm quá khứ và hy vọng tương lai là những phương tiện giúp ta sống tốt hơn, nhưng bản thân cuộc sống lại chính là hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Án Sát Sứ »»
(百顔明哲, Hakugan Myōtetsu, ?-?): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, môn hạ dòng Thanh Nguyên, không rõ xuất xứ thế nào. Sau khi xuất gia, ông đến tham vấn Dược Sơn Duy Nghiễm (藥山惟儼) và đắc pháp với vị này. Từ đó ông đến trú tại Bách Nhan (百顔), Ngạc Châu (鄂州, Tỉnh Hồ Bắc). Ông đã từng vấn pháp với Dược Sơn về việc xem kinh như thế nào và cuộc đối thoại của ông với Động Sơn (洞山) về vị Quan Sát Sứ (觀察使) thì rất nổi tiếng. Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) 7 cho rằng có đệ tử của Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) là Bách Nham Bôn (百[栢]巖奔) ở Định Châu (定州, Tỉnh Hà Bắc), tại đó có vị Thiền tăng rất giống Minh Triết. Tuy nhiên, tác phẩm này phủ nhận cuộc vấn đáp giữa Minh Triết và Động Sơn liên quan đến việc xem kinh.
(放生): Phóng Sanh là một hành vi có tâm thương yêu, nhân từ, biết thông cảm cho nỗi khổ bị giam cầm, bắt bớ của các loài động vật; có nghĩa là nhìn thấy các loại chúng sinh có mạng sống đang bị bắt nhốt, giam cầm, sắp sửa bị giết hại, kinh hoàng lúng túng, mạng sống trong phút giây nguy ngập, liền phát lòng từ bi tìm cách cứu chuộc. Như vậy tức là hành vi giải thoát, phóng thích, cứu lấy mạng sống của sinh vật khác. Nguyên lai, Trung Quốc đã có quan niệm truyền thống cho rằng Trời có đức háo sinh (muốn sống, ham sống). Lập cước trên tinh thần từ bi, cứu nhân độ thế, Phật Giáo lại càng nêu cao và tôn trọng tinh thần Phóng Sanh. Trong Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 13 có nhấn mạnh rằng: “Chư dư tội trung, sát tội tối trọng; chư công đức trung, bất sát đệ nhất (諸餘罪中、殺罪最重、諸功德中、不殺第一, trong các tội lỗi, tội giết là nặng nhất; trong các công đức, không giết là số một).” Cho nên, không sát sanh cũng như Phóng Sanh là phương pháp hữu hiệu để nuôi dưỡng và làm tăng trưởng tâm từ bi. Phạm Võng Kinh (梵網經, Taishō Vol. 24, No. 1484) quyển 2 nhấn mạnh rằng: “Nhược Phật tử, dĩ từ tâm cố hành phóng sanh nghiệp, nhất thiết nam tử thị ngã phụ, nhất thiết nữ nhân thị ngã mẫu; ngã sanh sanh vô bất tùng chi thọ sanh; cố Lục Đạo chúng sanh giai thị ngã ngã phụ mẫu, nhi sát nhi thực giả, tức sát ngã phụ mẫu diệc sát ngã cố thân; nhất thiết địa thủy thị ngã tiên thân, nhất thiết hỏa phong thị ngã bản thể; cố thường hành phóng sanh, sanh sanh thọ sanh thường trú chi pháp, giáo nhân phóng sanh; nhược kiến thế nhân sát súc sanh thời, ưng phương tiện cứu hộ giải kỳ khổ nạn (若佛子、以慈心故行放生業、一切男子是我父、一切女人是我母、我生生無不從之受生、故六道眾生皆是我父母、而殺而食者、卽殺我父母亦殺我故身、一切地水是我先身、一切火風是我本體、故常行放生、生生受生常住之法、敎人放生、若見世人殺畜生時、應方便救護解其苦難, nếu Phật tử, vì lấy từ tâm mà thực hành nghiệp phóng sanh, hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta; ta đời đời không theo đó mà thọ sanh; cho nên sáu đường chúng sanh đều là cha mẹ của ta; nếu giết nếu ăn thịt họ, tức là giết cha mẹ ta cũng như giết thân trước kia của ta; hết thảy đất nước là thân trước kia của ta, hết thảy gió lửa là bản thể của ta; cho nên thường thực hành phóng sanh, đời đời thọ sanh pháp thường trú, chỉ cho người phóng sanh; nếu khi thấy người đời giết sinh vật nuôi, nên phương tiện cứu giúp để giải mở khổ nạn của con vật ấy).” Đại Thừa Đại Tập Đia Tạng Thập Luân Kinh (大乘大集地藏十輪經, Taishō Vol. 13, No. 411) có nêu một số công đức của việc Phóng Sanh như:
(1) Được sống lâu,
(2) Tâm từ bi tự nhiên sanh khởi,
(3) Chư thiện thần là bạn,
(4) Các động vật đều nhận là thân thuộc,
(5) Có vô lượng công đức,
(6) Mọi người cung kính,
(7) Không bệnh hoạn, không nguy hại,
(8) Vui vẻ và mãi được hạnh phúc,
(9) Đời đời kiếp kiếp thường kính tin công hạnh của chư Phật,
(10) Không rời Tam Bảo,
(11) Cuối cùng chứng quả vô thượng bồ đề,
(12) Vãng sanh về cõi Tịnh Độ.
Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục Tục Biên (淨土聖賢錄續編, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1550) quyển 4, phần Vãng Sanh Nữ Nhân Đệ Lục (往生女人第六) có kể câu chuyện Điền Bà (田婆): “Điền Bà, Thái Châu dã điền trang nhân, phu phụ câu tín Tam Bảo, tạo tượng phóng sanh, trai tăng bố thí; kỳ phu nhật tụng Pháp Hoa Kinh, bà độc niệm Phật, như thị nhị thập dư niên (田婆、泰州野田莊人、夫婦俱信三寶、造像放生、齋僧布施、其夫日誦法華經、婆獨念佛、如是二十餘年, Điền Bà, người nhà nông quê ở Thái Châu, cả chồng vợ đều tin vào Tam Bảo, làm tượng, phóng sanh, trai tăng và bố thí; chồng bà hằng ngày tụng Kinh Pháp Hoa, riêng bà chỉ có niệm Phật, như vậy hơn hai mươi năm).” Hay như trong Cư Sĩ Truyện (居士傳, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 88, No. 1646) quyển 16, Truyện Nhan Thanh Thần Vi Thành Võ (顏清臣韋城武傳) có đoạn: “Thời Túc Tông chiếu thiên hạ lập Phóng Sanh Trì, Thanh Thần vi lập bi, ca tụng chúa đức, trợ tuyên Phật hóa (時肅宗詔天下立放生池、清臣爲立碑、歌誦主德、助宣佛化, lúc bấy giờ vua Túc Tông [tại vị 756-762] nhà Đường hạ chiếu khắp thiên hạ cho lập Hồ Phóng Sanh, Nhan Thanh Thần vì vậy lập bia, ca tụng đức của nhà vua, giúp tuyên diễn Phật pháp).” Trong Tịnh Độ Tư Lượng Toàn Tập (淨土資糧全集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 61, No. 1162) quyển 4 có đề cập câu chuyện nhờ thực hành hạnh phóng sanh mà sau khi chết được sanh lên cõi Trời: “Trương Đề Hình thường nghệ đồ gia dĩ tiền thục vật phóng chi; hậu lâm chung, ngữ gia nhân vân, ngô dĩ phóng sanh cố, Thiên Cung lai nghênh, đương thượng sanh hĩ, an nhiên nhi thệ (張提刑常詣屠家以錢贖物放之、後臨終、語家人云、吾以放生故、天宮來迎、當上生矣、安然而逝, Trương Đề Hình thường đến nhà đồ tể lấy tiền mua chuộc con vật rồi thả chúng đi; về sau khi lâm chung, ông bảo với người nhà rằng ta nhờ có phóng sanh, nên cung Trời đến đón đi, sẽ sanh lên cõi trên, rồi an nhiên mà ra đi).”
(最澄, Saichō, 767-822): vị tăng sống dưới thời Bình An (平安, Heian), vị tổ sư khai sáng ra Thiên Thai Tông Nhật Bản, tục danh là Tam Tân Thủ (三津首), tên hồi nhỏ là Quảng Dã (廣野), húy là Tối Trừng (最澄), thông xưng là Căn Bổn Đại Sư (根本大師), Sơn Gia Đại Sư (山家大師), Duệ Sơn Đại Sư (叡山大師), người vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]), cha là Tam Tân Thủ Bách Chi (三津首百枝), mẹ không rõ họ tên. Dòng họ Tam Tân Thủ là dòng họ di cư sang Nhật, tương truyền là hậu duệ của Hiếu Hiến Đế nhà Hậu Hán. Năm 7 tuổi, ông đến trường làng học các môn âm dương, y phương, công xảo. Đến năm 12 tuổi, ông theo làm đệ tử của Đại Quốc Sư Hành Biểu (行表, Gyōhyō) ở Quốc Phận Tự (國分寺, Kokubun-ji), chuyên tu học về Duy Thức cũng như Thiền pháp. Năm 15 tuổi, ông xuất gia, chính thức trở thành vị tăng của Quốc Phận Tự và lấy hiệu là Tối Trừng. Vào mùa xuân năm thứ 4 (785) niên hiệu Diên Lịch (延曆), ông tham gia giới đàn ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), thọ Cụ Túc giới; rồi vào trung tuần tháng 7 năm này, ông quán sát sự vô thường của cuộc đời, nên vào trong núi Nhật Chi Sơn (日枝山) dựng thảo am ở trong vòng 7 năm trường, biến thảo am ấy thành chùa và lấy tên là Nhất Thừa Chỉ Quán Viện (一乘止觀院). Đến năm thứ 23 (804) niên hiệu Diên Lịch, ông được ban sắc chỉ cho nhập Đường cầu pháp và năm sau thì trở về nước. Từ đó ông bắt đầu nỗ lực xiển dương giáo pháp Thiên Thai Tông. Vào năm 806, ông dâng biểu lên triều đình để xin chấp nhận cho Thiên Thai Tông là một trong những tông phái chính đương thời, và cuối cùng được hứa khả. Rồi đến năm thứ 10 (819) niên hiệu Hoằng Nhân (弘仁), ông cũng dâng biểu xin thành lập giới đàn Đại Thừa trên Tỷ Duệ Sơn. Nhưng vì các tông phái khác phản đối kịch liệt, nên trong khi còn sinh tiền thì cái mộng kiến lập giới đàn của ông vẫn không trở thành sự thật. Tuy nhiên, sau khi ông thị tịch được 7 ngày thì nhận được chiếu chỉ chấp thuận cho thành lập giới đàn. Vào năm thứ 13 (822) niên hiệu Hoằng Nhân, ông thị tịch, hưởng thọ 56 tuổi. Vào năm thứ 8 (866) niên hiệu Trinh Quán (貞觀), ông được ban cho thụy hiệu là Truyền Giáo Đại Sư (傳敎大師, Denkyō Daishi). Về mối quan hệ với Thiền, vào năm thứ 20 (804) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông thọ nhận từ Tiêu Nhiên (翛然) dòng huyết mạch phú pháp của hai nước Đại Đường và Thiên Trúc và pháp môn của Ngưu Đầu Sơn (牛頭山); cho nên sau khi trở về nước, vào năm thứ 10 (819) niên hiệu Hoằng Nhân, ông viết cuốn Nội Chứng Phật Pháp Tương Thừa Huyết Mạch Phổ (內證佛法相承血脈譜). Tông phong của ông là sự dung hợp của 4 tông Viên Mật Giới Thiền, đã đem lại ảnh hưởng to lớn cho sự hưng khởi của Thiền Tông dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) sau này. Trước tác của ông có Thủ Hộ Quốc Giới Chương (守護國界章) 3 quyển, Chiếu Quyền Thật Kính (照權實鏡) 1 quyển, Sơn Gia Học Sinh Thức (山家學生式), Hiển Giới Luận (顯戒論) 3 quyển, Pháp Hoa Tú Cú (法華秀句) 3 quyển, Truyền Giáo Đại Sư Toàn Tập (傳敎大師全集) 5 quyển, v.v.
(資福): lấy phước, cầu phước. Như trong Cân Sương Thuyết (巾箱說) của Kim Thực (金埴, 1663-1740) nhà Thanh có câu: “Nhiên vãng vãng nghiệm chi, niên phong gia cấp, tương dữ các kỳ dư tài dĩ tư phước (然往往驗之、年豐家給、相與榷其餘財以資福, nhưng thường thường suy nghiệm thấy, năm được mùa, nhà nhà no đủ, bèn đánh thuế tài sản dư để cầu phước).” Hay trong Lịch Triều Thích Thị Tư Giám (歷朝釋氏資鑑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 76, No. 1517) quyển 8 có đoạn: “Giáp Thìn tứ niên, Quán Sát Sứ Vương Trí Hưng, dĩ thượng thập nhị nguyệt sanh nhật, thỉnh ư Tứ Châu trí Giới Đàn độ tăng ni dĩ tư phước (甲辰四年、觀察使王智興、以上十二月生日、請於泗州置戒壇度僧尼以資福, vào năm Giáp Thìn [824], niên hiệu Khánh Trường thứ 4 nhà Đường, Quán Sát Sứ Vương Trí Hưng [758-836], nhân ngày sinh nhật tháng 12, thỉnh đến Tứ Châu thiết lập Giới Đàn độ tăng ni để cầu phước).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập