Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: A Dục Vương »»
(s: Vārāṇasī, Vāraṇasī, Varāṇasī, Varaṇasī, p: Bārāṇasī, 波羅奈): tên của một vương quốc cổ ngày xưa của Ấn Độ, còn gọi là Ba La Nại Tư Quốc (波羅奈斯國), Ba La Nại Quốc (波羅捺國), Ba La Nại Tả Quốc (波羅捺寫國); xưa kia gọi là Già Thi Quốc (s: Kāśī, 伽尸國), hiện tại là Benares. Theo Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記) quyển 7, vương quốc này có thành quách kéo dài đến tận sông Tây Khắc Già (西殑伽), dài 18, 19 dặm, rộng 5-6 dặm. Dân cư trong thành đông đúc, tính người hiền lương, phần lớn tin vào ngoại đạo, ít người kính trọng Phật pháp. Tăng chúng phần lớn học pháp Chánh Lượng Bộ của Tiểu Thừa. Về phía đông bắc của thành có dòng sông Varaṇā; phía tây sông có tháp A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王); phía đông bắc sông khoảng 10 dặm có di tích cũ nơi Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), Bồ Tát Hộ Minh (護明) từng thọ ký. Bên cạnh đó, phía tây bắc thành có vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), nơi xưa kia sau khi thành đạo, đức Phật lần đầu tiên giáo hóa cho 5 vị Tỳ Kheo. Từ đó về sau, Ngài thường đến thành này hóa độ chúng sanh và Ba La Nại trở thành một trong 6 trung tâm thuyết pháp lớn đương thời. Hiện tại trong thành có cả ngàn ngôi đền thờ Ấn Độ Giáo. Nơi này xưa kia rất thịnh hành về học thuật, cùng với vùng Takṣasilā là hai trung tâm của Bà La Môn giáo học. Khi cao tăng Huyền Trang (玄奘, 602-664) đến địa phương này, Phái Thấp Bà (s: Śiva, 濕婆) rất hưng thịnh. Sau khi tín đồ Hồi Giáo xâm nhập vào năm 1194, Phật Giáo tiến đến tuyệt tích. Hiện tại nơi đây không chỉ là thánh địa của Ấn Độ Giáo, mà còn là thánh địa của Phật Giáo và Kỳ Na Giáo (耆那敎, Jainism).
(s: Vakkula, Bakkula, Bakula, Vakula, p: Bakkula, Bākula, 薄拘羅): còn gọi là Bạc Cự La (薄炬羅), Bạc Câu La (薄俱羅), Ba Cưu Lãi (波鳩蠡), Bà Câu La (婆拘羅), Ba Câu Lô (波拘盧), Phược Củ La (縛矩羅), v.v. Hán dịch là Thiện Dung (善容), Vĩ Hình (偉形), Trùng Tánh (重姓). Pháp Hoa Văn Cú (法華文句, tức Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句, Taishō No. 1718]) quyển 2 cho biết rằng: “Bạc Câu La giả, thử phiên Thiện Dung, hoặc Vĩ Hình, hoặc Đại Phì Thịnh, hoặc Lăng Đặng, hoặc Mại Tánh; nhiên nhi sắc mạo đoan chánh cố ngôn Thiện Dung dã; niên nhất bách lục thập tuế vô bệnh vô yểu, hữu ngũ bất tử báo (薄拘羅者、此翻善容、或偉形、或大肥盛、或楞鄧、或賣性、然而色貌端正故言善容也、年一百六十歲無病無夭、有五不死報, Bạc Câu La, Tàu dịch là Thiện Dung, hoặc Vĩ Hình, hoặc Đại Phì Thịnh, hoặc Lăng Đặng, hoặc Mại Tánh; tuy nhiên vì có sắc mạo đoan chánh nên gọi là Thiện Dung; sống đến 160 tuổi, không bệnh, không chết yểu, nhờ quả báo của 5 điều bất tử).” Huyền Ứng Âm Nghĩa (玄應音義) quyển 22 lại giải thích rằng: “Bạc Câu La, Trung Quốc dịch là Thiện Dung, do trì giới không sát sanh mà được 5 điều bất tử.” Kinh Bạc Câu La (薄拘羅經) của Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō No. 26) quyển 8 cho hay rằng: “Ngã ư thử chánh pháp, Luật trung học đạo dĩ lai bát thập niên, vị tằng hữu bệnh, nãi chí đàn chỉ đầu thống giả, vị tằng ức phục dược, nãi chí nhất phiến Ha Lê Lặc (我於此正法、律中學道已來八十年、未曾有病、乃至彈指頃頭痛者、未曾憶服藥、乃至一片訶梨勒, ta ở trong chánh pháp, Luật, học đạo đến nay đã 80 năm, mà chưa từng có bệnh, cho dù là đau đầu trong khoảng thời gian một cái khảy móng tay; chưa từng uống thuốc dù là một miếng Ha Lê Lặc).” Vì trong thời quá khứ của Tỳ Bà Thi Phật (s: Vipaśyin-buddha, p: Vipassin-buddha, 毘婆尸佛), Tôn Giả đã từng lấy thuốc Ha Lê Lặc dâng cúng cho một vị tăng chứng quả Bích Chi Phật. Từ đó đến nay, trãi qua 91 kiếp, ông đều được phước báo không bệnh tật, và không chết yểu. Hơn nữa, nhân hành trì giới không sát sanh, ông được quả báo 5 điều bất tử (không bị lửa thiêu đốt cháy chết, nước sôi không làm cho phỏng chín thân, không bị chết chìm trong nước, không bị cá cắn, không bị đao chém thây). Tương truyền lúc nhỏ, bà kế mẫu đã từng rắp tâm sát hại ông 5 lần mà không thành (tức 5 điều bất tử), do vì đời trước ông đã từng tinh tấn hành trì giới không sát sanh. Sau khi lớn lên xuất gia, chỉ trong 3 ngày, ông chứng quả A La Hán. Ông không bị quả báo khổ đau vì bệnh tật, thọ 160 tuổi, được xưng tụng là Trường Thọ Đệ Nhất. Theo A Dục Vương Kinh (阿育王經), A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王) là người thâm tín Phật pháp, thi hành nhân chính, thống nhất thiên hạ, kiến lập vương triều Khổng Tước (孔雀). Có hôm nọ, nhà vua cùng với Tôn Giả Ưu Ba Cấp Đa (s: Upagupta, 優波笈多) tham bái các ngôi tháp, tiến hành bố thí cúng dường. Khi đến bên tháp của Bạc Câu La, Tôn Giả Ưu Ba Cấp Đa thưa nhà vua rằng đây là tháp của Bạc Câu La, nhà vua nên cúng dường. A Dục Vương bèn hỏi rằng vị Tôn Giả này có công đức thù thắng nào mà đáng cúng dường như vậy ? Ưu Ba Cấp Đa trả lời rằng vị Tôn Giả này là người không có bệnh tật số một trong các đệ tử của Phật, yên lặng tu hành, thiểu dục tri túc. Nghe vậy, nhà vua lấy một đồng tiền cúng dường nơi tháp. Tuy nhiên, đồng tiền kia lại bay đi, trở lại bên chân của A Dục Vương. Khi ấy, nhà vua bảo rằng: “Vị A La Hán này có năng lực công đức thiểu dục, cho đến khi chứng quả Niết Bàn mà vẫn không thọ nhận một đồng tiền.”
(迦惟衛): từ gọi tắt của Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), âm dịch là Ca Duy La Duyệt (迦維羅閲), Ca Duy La Việt (迦維羅越), Ca Duy La Vệ (迦維羅衛), Ca Tỳ La Bà Tô Đô (迦毘羅婆蘇都), Ca Tỷ La Bà Tốt Đổ (迦比羅皤窣堵), Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đổ (劫比羅伐窣堵), Bà Đâu Thích Xí Sưu (婆兜釋翅搜), Ca Duy La (迦維羅), Ca Di La (迦夷羅), Ca Tỳ La (迦毘羅); ý dịch là Thương Thành (蒼城, thành màu xanh), Hoàng Xích Thành (黃赤城, thành màu vàng đỏ), Diệu Đức Thành (妙德城, thành có uy đức diệu kỳ), Hoàng Đầu Tiên Nhân Trú Xứ (黃頭仙人住處, chỗ ở của vị tiên nhân đầu vàng), Hoàng Phát Tiên Nhân Trú Xứ (黃髪仙人住處, chỗ ở của vị tiên nhân tóc vàng), v.v. Đây là tên của thành đô do dòng họ Thích Ca cai quản, hay tên một quốc gia. Tương truyền Ca Tỳ La Tiên Nhân (迦毘羅仙人), vị tổ của Phái Số Luận (s: Sāṅkhya, p: Saṅkhyā, 數論), đã từng sống tại thành đô này, nên có tên gọi như vậy. Hiện tại nó ở tại vùng Đề La Lạp Khấu Đặc (s: Tilorakoṭ, 提羅拉寇特) thuộc địa phương Ta-rai của vương quốc Nepal, là nơi đức Phật đản sanh. Quốc vương của thành này là vua Tịnh Phạn (s: Śuddhodana, p: Suddhodana, 淨飯), hoàng thân của đức Thích Ca; vườn Lâm Tỳ Ni (s, p: Lumbinī, 藍毘尼), nơi đức Phật đản sanh, là biệt trang của nhà vua, nằm về phía Tây thành. Sau khi dòng họ Thích Ca bị vua Tỳ Lưu Ly (s: Virūḍhaka, 毘瑠璃) của nước Kiều Tát La (s: Kauśala, Kośalā, p: Kosala, 憍薩羅) thảm sát, thành Ca Tỳ La Vệ đi đến tình trạng suy vong, vùng đất này dần dần bị hoang phế. Khi cao tăng Pháp Hiển (法顯, 340?-?) nhà Tấn của Trung Quốc sang chiêm bái, thành quách nơi đây đã hoàn toàn lụi tàn và dân chúng chỉ còn lại mấy mươi người mà thôi. Đến khi Huyền Trang (玄奘, 602-664) thời nhà Đường sang Tây du, ông vẫn còn thấy các ngôi già lam, tháp và trụ đá lớn do A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王) kiến lập nên. Trụ đá ấy được khai quật vào năm 1897. Trong Phật Quốc Ký (佛國記) của cao tăng Pháp Hiển (法顯, 340?-?) nhà Tấn có giải thích về Thành Ca Tỳ La Vệ rằng: “Tùng thử đông hành giảm nhất do diên, đáo Ca Duy La Vệ Thành, thành trung đô vô vương dân, thậm như khâu hoang, chỉ hữu chúng tăng dân hộ số thập gia nhi dĩ (從此東行減一由延、到迦維羅衛城、城中都無王民、甚如坵荒、只有眾僧民戶數十家而已, từ đây đi về hướng đông, chưa đầy một do tuần, đến Thành Ca Duy La Vệ, trong thành đều không có vua và dân, thậm chí như đất hoang, chỉ có chúng tăng, hộ dân vài chục nhà mà thôi).” Trong Thủy Kinh Chú (水經註), phần Hà Thủy (河水) của Lịch Đạo Nguyên (酈道元, 466 hay 472-527) nhà Bắc Ngụy (北魏, 386-534) có đoạn rằng: “Hằng thủy hựu đông nam, kinh Ca Duy La Vệ Thành bắc, cố Bạch Tịnh vương cung dã (恆水又東南、逕迦維羅衛城北、故白淨王宮也, sông Hằng lại chảy về hướng đông nam, đi thẳng về phía bắc Thành Ca Duy La Vệ, là vương cung của vua Tịnh Phạn).” Hay như trong Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh (七佛父母姓字經, Taishō No. 4) lại có câu: “Kim ngã tác Thích Ca Văn Ni Phật, phụ tự Duyệt Đầu Đàn Sát Lợi Vương, mẹ tự Ma Ha Ma Da, sở trị quốc danh Ca Duy La Vệ (今我作釋迦文尼佛、父字閱頭檀剎利王、母字摩訶摩耶、所治國名迦維羅衛, ta nay làm Thích Ca Văn Ni Phật, cha tên là Duyệt Đầu Đàn Sát Lợi Vương, mẹ là Ma Ha Ma Da, trị vì nước tên là Ca Duy La Vệ).”
(震旦, Shintan): tên gọi khác của Trung Quốc, người Ấn Độ cổ đại thường gọi người Trung Quốc là Cīna-sthāna. Từ này đôi khi cũng được viết là Chấn Đán (振旦) hay Chân Đan (眞丹). Như trong Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, CBETA No. 1594) quyển 20 có câu: “A Dục Vương tàng Như Lai Xá Lợi ư thiên hạ, phàm bát vạn tứ thiên sở, kim Chấn Đán cảnh trung, thập hữu cửu xứ (阿育王藏如來舍利於天下、凡八萬四千所、今震旦境中、十有九處, A Dục Vương lưu giữ xá lợi của đức Như Lai khắp thiên hạ, có tám vạn bốn ngàn nơi; nay trong nước Trung Quốc, có mười chín chỗ).” Hay như trong Bài Tặng Nhật Quốc Huyền Quang Thiền Sư (贈日國玄光禪師) của Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Hoàn Sơn Lục (爲霖道霈禪師還山錄, CBETA No. 1440) quyển 3 có đoạn: “Hào tướng phóng quang lai Chấn Đán, độc am độc ngữ biến tùng lâm, hà đảm đại pháp thi toàn lực, tông thuyết viên minh quán cổ kim (毫相放光來震旦、獨菴獨語遍叢林、荷擔大法施全力、宗說圓明貫古今, tướng tốt phóng quang về Chấn Đán, một am thuyết khắp chốn tùng lâm, nặng mang pháp lớn dốc toàn lực, truyền bá tông phong thấu cổ kim).”
(眞竭清了, Shinketsu Seiryō, 1088-1151): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, hiệu là Chơn Hiết (眞竭), xuất thân vùng Tả Tuyến An Xương (左線安昌, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Ung (雍). Năm lên 11 tuổi, ông xuất gia với Thanh Tuấn (清俊) ở Thánh Quả Tự (聖果寺) và học Kinh Pháp Hoa. Đến năm 18 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, đến sống ở Đại Từ Tự (大慈寺) vùng Thành Đô (成都, Tỉnh Tứ Xuyên), học Kinh Viên Giác và Kinh Kim Cang. Sau đó, ông lên Nga Mi Sơn (峨嵋山), tham bái đức Phổ Hiền (普賢), và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Tử Thuần (子淳) ở Đơn Hà Sơn (丹霞山, Tỉnh Hà Nam). Kế đến, ông lên Ngũ Đài Sơn (五台山), tham bái đức Văn Thù (文殊), và làm thị giả cho Trường Lô Tổ Chiếu (長蘆祖照). Vào năm thứ 3 (1121) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), Tổ Chiếu bị bệnh, nên thỉnh ông làm trú trì nơi đây. Vào tháng 6 năm thứ 2 (1128) niên hiệu Kiến Viêm (建炎), ông lui về ẩn cư, đến tháng 8 thì lên Bổ Đát Lạc Già Sơn (補怛洛迦山) lễ bái đức Quan Âm (觀音). Vào tháng 11 năm thứ 4 (1130) cùng niên hiệu trên, ông đến trú trì Tuyết Phong Tự (雪峰寺). Đến năm thứ 5 (1135) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), ông lại lui về ẩn cư, rồi vào tháng 7 năm sau, ông đến trú tại A Dục Vương Sơn Quảng Lợi Tự (阿育王山廣利寺) thuộc vùng Tứ Minh (四明, Tỉnh Triết Giang) và bắt đầu khai đường bố giáo tại đây. Hai năm sau đó (1137), cũng có lời thỉnh cầu ông đến Tương Sơn (蔣山) thuộc Phủ Kiến Khang (建康府, Tỉnh Giang Tô), nhưng ông cáo bệnh từ chối. Vào năm thứ 8 (1138) cùng niên hiệu trên, ông đến trú trì hai ngôi Long Tường Tự (龍翔寺) và Hưng Khánh Tự (興慶寺). Vào tháng 5 năm thứ 15 cũng niên hiệu trên, ông chuyển đến Năng Nhân Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền Tự (能仁興聖萬壽禪寺). Rồi đến năm thứ 21 thì đến trú trì Sùng Tiên Hiển Hiếu Thiền Viện (崇先顯孝禪院) và khai mở đạo tràng thuyết pháp cho Từ Ninh Thái Hậu (慈寧太后). Vào tháng 10 cũng năm này (1151), ông thị tịch, hưởng thọ 64 tuổi đời và 45 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu là Ngộ Không Thiền Sư (悟空禪師). Môn nhân biên tập cuốn Trường Lô Liễu Hòa Thượng Kiếp Ngoại Lục (長蘆了和尚劫外錄) 1 quyển. Trước tác của ông có Tín Tâm Minh Niêm Cổ (信心銘拈古) 1 quyển.
(s: Maurya, 孔雀, 322-185 trước công nguyên): do vương triều Khổng Tước cai trị, là đế quốc lớn và hùng mạnh nhất về chính trị lẫn quân sự thời cổ Ấn Độ. Bắt đầu từ vương quốc Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀) ở bình nguyên Ấn-Hằng (Indo-Gangetic) thuộc phía đông của tiểu lục địa Ấn Độ, đế quốc này có thủ đô ở Pāṭaliputra (tức Hoa Thị Thành [華氏城], gần Patna ngày nay). Đế quốc Khổng Tước do Chandragupta Maurya sáng lập vào năm 322 trước công nguyên. Ông lật đỗ triều đại Nanda và bắt đầu bành trướng thế lực về phía Tây qua miền Trung và Tây Ấn, lợi dụng cơ hội tình trạng đỗ vỡ thế lực địa phương và quân đội Macedonia, Ba Tư của Alexander Đại Đế rút lui về phương Tây. Cho đến năm 316 trước công nguyên, đế quốc này đã hoàn toàn chiếm cứ Tây Bắc Ấn Độ, đánh bại các vị thống đốc của Alexander. Ở tột đỉnh vinh quang nhất, đế quốc Khổng Tước bành trướng về phương Bắc dọc theo biên giới tự nhiên của dãy Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya), về phương Đông trãi dài đến tận địa phương ngày nay gọi là Assam. Về phương Tây, đế quốc này vượt qua Pakistan, gồm cả Baluchistan ở Ba Tư và những phần quan trọng của Afghanistan ngày nay. Ngoài ra, nhờ Hoàng đế Tân Đầu Sa La (s: Bindusāra, 賓頭沙羅), đế quốc này bành trướng vào các miền Trung và Nam Ấn. Đế quốc Khổng Tước có lẽ là đế quốc vĩ đại nhất cai trị tiểu lục địa Ấn Độ cho đến khi người Anh đặt chân đến. Đế quốc này bắt đầu suy tàn 50 năm sau khi vương triều A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王) chấm dứt. Đến năm 185 trước công nguyên, đế quốc này đã sụp đỗ với sự hình thành của triều đại Sunga ở Ma Kiệt Đà.
(斷橋妙倫, Donkyō Myōrin, 1201-1261): vị tăng của Phái Dương Kì và Phái Phá Am thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Đoạn Kiều (斷橋), hay còn gọi là Tùng Sơn Tử (松山子), người Hoàng Nham Tùng Sơn (黃巖松山), Đài Châu (台州, Tỉnh Triết Giang), họ là Từ (徐). Năm lên 18 tuổi, ông xuất gia ở Quảng Huệ Viện (廣慧院) vùng Vĩnh Gia (永嘉, Tỉnh Triết Giang), rồi sau đó du phương hành cước. Đầu tiên ông đến tham vấn Cốc Nguyên Nguyên Đạo (谷源源道), có chỗ sở ngộ, sau đó gặp được Vô Chuẩn Sư Phạm (無準師範) ở Tuyết Đậu Sơn (雪竇山) và cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Khi Sư Phạm chuyển đến Kính Sơn (徑山) và Dục Vương Sơn (育王山) thì ông đi theo hầu. Vào tháng 3 năm đầu (1242) niên hiệu Thuần Hựu (淳祐), ông đến trú trì Thoại Phong Kỳ Viên Tự (瑞峰祇園寺) ở Đài Châu, rồi sống qua một số chùa khác như Thoại Nham Tịnh Độ Thiền Tự (瑞巖淨土禪寺), Quốc Thanh Tự (國清寺) ở Thiên Thai Sơn (天台山, Tỉnh Triết Giang), Tịnh Từ Tự (淨慈寺) ở Phủ Lâm An (臨安府, Tỉnh Triết Giang). Vào ngày 25 tháng 4 năm thứ 2 (1261) niên hiệu Cảnh Định (景定), ông thị tịch, hưởng thọ 61 tuổi đời và 44 hạ lạp. Hai vị thị giả của ông là Văn Bảo (文寳) và Thiện Tĩnh (善靖) biên tập bộ Đoạn Kiều Hòa Thượng Ngữ Lục (斷橋和尚語錄) 2 quyển.
(東谷妙光, Tōkoku Myōkō, ?-1253): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, còn gọi là Minh Quang (明光), hiệu Đông Cốc (東谷), pháp từ của Minh Cực Huệ Tộ (明極慧祚). Ông đã từng sống qua các chùa như Bản Giác Tự (本覺寺) ở Gia Hòa (嘉禾, Phủ Gia Hưng, Tỉnh Triết Giang), Linh Nham Tự (靈巖寺) ở Tô Châu (蘇州, Tỉnh Giang Tô) và Hoa Tạng Tự (華藏寺) ở Thường Châu (常州, Tỉnh Giang Tô). Ông xiển dương giáo pháp ở Vạn Thọ Tự (萬壽寺), Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang) và nhận sắc phong trú trì A Dục Vương Tự (阿育王寺) ở Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang) cũng như Linh Ẩn Tự (靈隱寺) ở Hàng Châu. Ông thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 12 năm đầu niên hiệu Bảo Hựu (寶祐).
(s, p: Magadha, 摩掲陀): tên gọi của 1 trong 16 nước thời Ấn Độ cổ đại, là quốc gia có mối quan hệ rất sâu xa với Phật Giáo, là vùng đất nơi đức Thế Tôn thành đạo và truyền đạo. Các vị vua Tần Bà Sa La (s, p: Bimbisāra, 頻婆娑羅), A Xà Thế (s: Ajātaśatru, p: Ajātasattu, 阿闍世) đã từng lấy Vương Xá Thành của nước này để làm kinh đô, A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王) lấy Thành Hoa Thị làm kinh đô và cai trị toàn Ấn Độ, lấy quốc gia này làm trung tâm.
(s: Mahendra, p: Mahinda, 摩哂陀): còn gọi là Ma Hê Nhân Đà La (摩酼因陀羅), Mã Hân Đạt (馬欣達), vị khai tổ của Phật Giáo Tích Lan, thường được gọi là tổ truyền Luật thứ 6, con của A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王) thuộc vương triều Khổng Tước (s: Maurya, 孔雀), sanh tại Ujayana (鄔闍衍那, Ổ Xà Diễn Na, thuộc Ma Kiệt Đà [s, p: Magadha, 摩掲陀], tiểu bang Bihar ngày nay), miền tây bắc Ấn Độ; mẹ là Devī (戴蜚, Đới Phi), con gái của nhà phú thương Vedisa (卑地寫, Ty Địa Tả). Năm lên 20 tuổi, ông xuất gia, bái Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (p: Moggaliputta Tissa, 目犍連子帝須) làm thầy, thọ Sa Di giới với Ma Ha Đề Bà (摩訶提婆), Cụ Túc giới với Mạt Xiển Đề (末闡提) và chứng đắc quả A La Hán. Vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, ông vâng mệnh cha đến Tích Lan truyền bá Phật Giáo. Tại đây, ông được vua Tích Lan đương thời là Devānaṃpiyatissa (天愛帝須, Thiên Ái Đế Tu) sùng kính và bảo hộ, xây dựng Đại Tự (p: Mahāvihāra, 大寺) ở thủ đô Anurādhapura để phổ biến Bình Đẳng Tâm Kinh (p: Samacitta-suttanta, 平等心經), và tạo hang đá để an cư kiết hạ, từ đó thành lập cơ sở cho Phật Giáo Tích Lan. Kế tiếp, tu viện Cetiyavihāra được thành lập ở Mihintale. Về sau, em gái Ma Sẩn Đà là Tỳ Kheo Ni Tăng Già Mật Đa (s: Saṃghamitrā, p: Saṅghamittā, 僧伽密多) mang nhánh cây Bồ Đề từ nơi đức Phật thành đạo sang trồng tại Tích Lan và truyền thọ giới pháp Tỳ Kheo Ni. Ông còn triệu tập Đại Hội Tỳ Kheo tại tháp Đỗ Ba La Mi (睹波羅糜), chính thức sáng lập tăng đoàn Phật Giáo đầu tiên của nước này do trưởng lão A Lợi Đa (p: Arittha, 阿利多) lãnh đạo, dùng ngôn ngữ địa phương để giảng giải Tam Tạng Thánh Điển Tiếng Pāli. Cả ông và em gái đều tận lực cống hiến cho Phật Giáo Tích Lan trong vòng hơn 30 năm, và cuối cùng qua đời ở độ tuổi 80, thọ hơn cả vua Devānaṃpiyatissa. Vua Uttiya, người kế thừa ngôi vị của anh mình, đã tổ chức tang lễ long trọng cho Ma Sẩn Đà và cho xây dựng một ngôi tháp tại Mihintale để an trí xá lợi của ông. Wapola Rahula, tu sĩ nổi tiếng của Tích Lan ở thế kỷ 20, có miêu tả Ma Sẩn Đà là “cha đẻ của nền văn học Tích Lan”, vì ông đã chuyển dịch và viết luận thư Tam Tạng bằng tiếng Tích Lan, chuyển ngôn ngữ kinh điển thành ngôn ngữ văn học. Ông còn được công nhận là người đưa văn hóa của đế quốc Khổng Tước vào quần đảo này.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.239 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập