=> Viết tắt chữ A-la-hán (c: aluohan 阿羅漢), phiên âm chữ Arhat từ tiếng Sanskrit. Chỉ cho những vị đã đạt đến mức độ tâm chứng cao nhất trong pháp tu tập của Tiểu thừa Phật giáo. Khi đạt đến cảnh giới nầy, mọi phiền não đều được tiêu trừ, không còn luân hồi sinh tử nữa. Tuy nhiên, theo Thành Duy thức luận (s: Vijñaptimātratā-siddhi-śāstra; c: Cheng weishi lun 成唯識論), do ngài Huyền Trang soạn năm 659, thì A-la-hán là bậc đã đạt được trí huệ viên mãn, vượt trên các hàng vô học trong Tam thừa: Thanh văn (s: śrāvaka; c: shengwen 聲聞), Bích chi (s: pratyeka; c: pizhijia) hoặc là Duyên giác (c: yuanjue 縁覺), thuộc Tiểu thừa; và Bồ-tát (s: Bodhisattva; c: pusa 菩薩), thuộc Đại thừa. Do vậy A-la-hán là một tên gọi khác của Phật quả cũng như là một trong 10 danh hiệu của Đức Phật (s: tathagata buddha; c: rulaifo ; Như Lai Phật 如來佛). Về chi tiết, xin xem mục từ A-la-hán 阿羅漢. Theo kinh điển nguyên thuỷ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vốn chỉ có bốn vị Đại A-la-hán phát nguyện lưu lại thế gian để hoằng truyền Phật pháp, mỗi vị ở mỗi phương: đông, tây, nam, bắc. Nhưng các kinh điển về sau dần dần thêm vào cho đến 16 vị, phần lớn các vị ấy vẫn không có tên. Mãi cho đến đời Đường, khi ngài Huyền Trang thỉnh kinh ở Ấn Độ về và dịch cuốn Pháp trụ ký (c: Fa zhuji 法住記) vào năm 654, mọi người mới biết đến có 16 vị A-la-hán và danh tánh của từng vị. Từ đó chư tăng Trung Hoa mới bắt đầu thờ phụng 16 vị A-la-hán và tranh tượng vẽ hình các vị với nhiều dáng dấp với nhiều kiểu trang phục của tăng sĩ Trung Hoa xuất hiện khắp nơi. Chẳng hạn, tương truyền Vương Duy (c: Wang Wei ; 701-761) đã vẽ 48 bức tranh về 16 vị A-la-hán, và những bức tranh của Lu Lengjia, sống vào khoảng năm 730-760, đã trở nên nổi tiếng trong suốt đời Đường. Tượng tạc 16 vị A-la-hán ở Động Vân Hà (c: Yanxiadong ; e: Clouds and Mist Grotto), Hàng Châu đã được đánh giá rất cao cho đến ngày nay. Bắt đầu đời Tống, biểu tượng 16 vị A-la-hán dần dần không còn được ưa chuộng như hình tượng Phật, nhưng các hoạ sĩ vẫn còn vẽ tượng La-hán mãi cho đến cuối đời Minh, như các hoạ sĩ Li Gonglin (1049-1106), Liang Kai (trước thế kỷ thứ XIII), Zhao Mengfu (1254-1322), và Chiu Ying (khoảng từ 1494-1552). Bắt đầu thời Ngũ đại, sự thờ phụng tượng A-la-hán lại thịnh hành, việc minh hoạ lại gia tăng đến 18 vị A-la-hán. Khi n nhạc sĩ Su Shi (1037-1101) bị lưu đày ra đảo Hải Nam, lần đầu ông ta thấy tượng A-la-hán Shiba (tượng 18 vị A-la-hán) của hoạ sĩ Zhang Xuan sống khoảng chừng vào năm (890-930) thuộc đời tiền Chu (Former Shu kingdom, 907-925), thời Ngũ đại, đã tạo cảm hứng cho ông sáng tác khúc tán ca về 18 vị A-la-hán. Sau đó, tại chùa Bảo Lâm, ông ta lại thấy một bức tranh khác giống như vậy, đã thúc đẩy ông soạn một ca khúc khác (Từ Hải Nam trở về, tôi dừng chân ở chùa Bảo Lâm ở núi Qingyuan để đảnh lễ tượng 18 vị Đại A-la-hán của sư Chanyue), Cả hai ca khúc của Su Shi đều mô tả hành dáng và nêu ra danh tánh của các vị, có thêm vào 2 vị Khánh Hữu (Qingyou 慶友) và Tân Đầu Lư (Bintoulu 賓頭盧) thành 18 vị. Sau đó, 18 vị A-la-hán trở nên được yêu thích hơn trong điêu khắc và hội hoạ. Trong các chùa, tượng các vị được đặt phía đông và phía tây của Đại hùng bửu điện, nơi mà các vị được thể hiện làm người hộ pháp cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hoặc là chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Năm trăm A-la-hán (Ngũ bách La-hán 五百羅漢) là một danh xưng tập hợp thường được đề cập trong kinh điển, có khi danh xưng nầy được đồng nhất với Năm trăm tỷ-khưu (Ngũ bách tỷ-khưu 五百比丘) và Năm trăm cư sĩ. Có nhiều truyền thuyết liên quan đến Năm trăm vị vẫn còn lưu truyền. Chẳng hạn, trong kinh Pháp Hoa, phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký, Đức Phật thọ ký cho 500 đệ tử sau khi họ nhập niết-bàn. Ttrong Sheli fo wen jing, có ghi lại rằng sau khi vua Fushamiduolou phá hoại Phật pháp, có 500 vị A-la-hán sẽ kiến lập lại. Cuốn Fa zhuji có ghi lại rằng cứ mỗi nhóm 16 vị A-la-hán sẽ chịu trách nhiệm ở một quốc độ, và mỗi nhóm đều có các đoàn tuỳ tùng, 500 A-la-hán trở nên một chỉnh thể cơ bản. Cũng vậy, tương truyền sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, ngài Ma-ha Ca-diếp cùng với 500 vị A-la-hán tổ chức kết tập lần đầu tại thành Vương Xá (Rājagṛha 王舎城). Vào thời vua A-dục (Aśoka), 500 vị tăng đã chứng A-la-hán và 500 vị tăng chưa chứng quả đã họp lại để trùng tuyên lại giáo lý của Đức Phật. Lần kết tập thứ tư vào thời Vua Kaniṣka để kết tập Đại Tỳ-bà-sa Luận (c: Da piposha lun 大毘婆沙論). Con số 'năm trăm' trong những chuyện như vậy chắc chắn là biểu tượng cho con số 'vài trăm' và không biểu thị cho con số nhất định. Cũng thế, không có chi tiết nào trong những câu chuyện trên đưa ra được tên của từng vị A-la-hán. Chúng ta biết rằng chính vào đời Đường, Năm trăm A-la-hán lần đầu tiên được đề cập đến ở Trung Hoa. Theo Ngũ đại danh hoạ bổ ký (c: Wudai minghua buyi; e: Supplement to Famous Paintings of the Five Dynasties Era), điêu khắc gia nổi tiếng đời Đường là Yang Huizhi đã tạc tượng 500 vị A-la-hán cho chùa Guang'ai si ở Hồ Nam, đó là sự kiện điêu khắc được biết sớm nhất về tượng 500 vị A-la-hán ở Trung Hoa. Đến thời Ngũ đại, sự thờ phụng 500 vị A-la-hán trở nên phổ biến. Chẳng hạn, vua Qian Liu của nước Wu-Yue (907-978), đã thếp vàng tượng 500 vị A-la-hán cúng dường cho chùa Fangguang si trên núi Thiên Thai, và vào năm đầu tiên của triều đại Xiande (954), Thiền sư Daoqian nhận sắc chỉ của Qian Zhongyi, lúc ấy là vua nước Wu-Yue, dời 16 tượng các vị đệ tử của Đức Phật từ chùa Lôi Đảnh (Thunder Peak Pagoda) đến chùa Jingci và cho xây xây dựng Ngũ bách La hán điện ở đó- cả hai ngôi chùa nầy đều ở Hàng Châu, kinh đô của triều đại Wu-Yue. Vào năm thứ hai triều đại Yongxi của Bắc Tống (985?), tượng 500 vị A-la-hán được tạc xong và an trí ở chùa Shouchang trên núi Thiên Thai. Thật vậy, vào thời Bắc Tống, sự thờ phụng 500 vị A-la-hán trở nên phổ biến, khắp lãnh thổ Trung Hoa nhiều chùa và sảnh đường đã được kiến trúc để thờ tượng. Các hang động dùng để cất giữ quần tượng 500 vị A-la-hán bắt đầu phát sinh, chẳng hạn, 168 động tại Dazu, Sichuan bao gồm cả tượng Đại Phật Ấn (Dafo an). Nơi đây, các bức tường trung tâm và hai bên đều có khắc hình tượng của 500 vị A-la-hán. Tuy vậy, những nơi trưng bày 500 tượng A-la-hán đều không biết được danh tánh của từng vị. Theo một đề mục trong Baoke congbian, juan 15, vào năm (933?) niên hiệu Dahe, có bia 500 vị A-la-hán tại chùa Longxing, chi nhánh của chùa Chongfu, ở Wu [Xuanzhou], mỗi bia đều có ghi rõ tên của từng vị, nhưng nay bia này không còn nữa. Vào ít lâu sau, thời kỳ Jinshixubian, juan 17, có được bản sao của một tấm bia khắc vào năm thứ 14 niên hiệu Shaoxing của triều đại Nam Tống (1134), trong đó, Gao Daosu, đã soạn ra bằng cách tập hợp lại những bản kinh Phật thông dụng và tóm tắt lại thành tên 500 vị A-la-hán. Bia nầy được dựng tại chùa Qianming ở Jiangyin. Mặc dù đây là ghi chép sớm nhất về tên của 500 vị A-la-hán ở Trung Hoa, nhưng đó chỉ là 'tôn hiệu' (zunhao)—chưa phải là sự minh hoạ theo hình dáng của chính từng vị như đã được khắc vẽ. Tuy vậy, từ đó trở đi, khi các chùa kiến trúc điện thờ tượng 500 vị A-la-hán, thì các hoạ sĩ đều khắc tên các vị theo danh sách trong bia nầy. Qua thơì kỳ Chongzhen của nhà Minh, Gao Chengyan lại thuê khắc bia ghi tên 500 vị A-la-hán dựng tại chùa Qianming ở Jiangyin, rồi Gao Youji, con trai ông ta, lại nhờ người khắc bia ấy lần thứ hai và chép sang Jiaxing zang, nơi đây bia còn giữ được nguyên trạng. Tuy nhiên, nay chỉ còn tên của các vị A-la-hán. Mãi cho đến thời Nam Tống, có vài người sưu tập các minh hoạ và cho ra đời bản in gỗ Bộ tranh tượng A-la-hán—đây là bộ minh hoạ các vị A-la-hán đầu tiên được biết đến. Công trình nầy được in lại từ bản gỗ mới vào thế kỷ thứ 16 thời kỳ Chongzhen (1643). Mặc dù nay không còn bản sao các tác phẩm nầy, nhưng nó lại được in lại vào năm thứ 52 thời Càn Long (Qianlong; 1787)–Bộ minh hoạ 518 vị A-la-hán chùa Qianming, dưới sự trông coi của sư trú trì Dache, một vị cao tăng vào thời Càn Long. La-hán tự hay là Qianming yuan được dựng lên ở Shifang, Chongqing, Siquan vẫn còn đến ngày nay. Chùa đầu tiên được xây vào đời Tống, bị đổ nát vào thời Nguyên và Minh rồi được trùng tu vào năm thứ 17 thời Càn Long (1752), và một thời gian sau, 518 tượng A-la-hán được tạc xong, và sau đó là Bộ minh hoạ vào đời Minh. Ngôi chùa bị phá huỷ vì bom của máy bay Nhật trong thời chiến tranh, sau đó lại được trùng tu năm 1945, các tượng A-la-hán mới một lần nữa lại hiện diện đầy đủ trong La-hán đường. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."> => Viết tắt chữ A-la-hán (c: aluohan 阿羅漢), phiên âm chữ Arhat từ tiếng Sanskrit. Chỉ cho những vị đã đạt đến mức độ tâm chứng cao nhất trong pháp tu tập của Tiểu thừa Phật giáo. Khi đạt đến cảnh giới nầy, mọi phiền não đều được tiêu trừ, không còn luân hồi sinh tử nữa. Tuy nhiên, theo Thành Duy thức luận (s: Vijñaptimātratā-siddhi-śāstra; c: Cheng weishi lun 成唯識論), do ngài Huyền Trang soạn năm 659, thì A-la-hán là bậc đã đạt được trí huệ viên mãn, vượt trên các hàng vô học trong Tam thừa: Thanh văn (s: śrāvaka; c: shengwen 聲聞), Bích chi (s: pratyeka; c: pizhijia) hoặc là Duyên giác (c: yuanjue 縁覺), thuộc Tiểu thừa; và Bồ-tát (s: Bodhisattva; c: pusa 菩薩), thuộc Đại thừa. Do vậy A-la-hán là một tên gọi khác của Phật quả cũng như là một trong 10 danh hiệu của Đức Phật (s: tathagata buddha; c: rulaifo ; Như Lai Phật 如來佛). Về chi tiết, xin xem mục từ A-la-hán 阿羅漢. Theo kinh điển nguyên thuỷ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vốn chỉ có bốn vị Đại A-la-hán phát nguyện lưu lại thế gian để hoằng truyền Phật pháp, mỗi vị ở mỗi phương: đông, tây, nam, bắc. Nhưng các kinh điển về sau dần dần thêm vào cho đến 16 vị, phần lớn các vị ấy vẫn không có tên. Mãi cho đến đời Đường, khi ngài Huyền Trang thỉnh kinh ở Ấn Độ về và dịch cuốn Pháp trụ ký (c: Fa zhuji 法住記) vào năm 654, mọi người mới biết đến có 16 vị A-la-hán và danh tánh của từng vị. Từ đó chư tăng Trung Hoa mới bắt đầu thờ phụng 16 vị A-la-hán và tranh tượng vẽ hình các vị với nhiều dáng dấp với nhiều kiểu trang phục của tăng sĩ Trung Hoa xuất hiện khắp nơi. Chẳng hạn, tương truyền Vương Duy (c: Wang Wei ; 701-761) đã vẽ 48 bức tranh về 16 vị A-la-hán, và những bức tranh của Lu Lengjia, sống vào khoảng năm 730-760, đã trở nên nổi tiếng trong suốt đời Đường. Tượng tạc 16 vị A-la-hán ở Động Vân Hà (c: Yanxiadong ; e: Clouds and Mist Grotto), Hàng Châu đã được đánh giá rất cao cho đến ngày nay. Bắt đầu đời Tống, biểu tượng 16 vị A-la-hán dần dần không còn được ưa chuộng như hình tượng Phật, nhưng các hoạ sĩ vẫn còn vẽ tượng La-hán mãi cho đến cuối đời Minh, như các hoạ sĩ Li Gonglin (1049-1106), Liang Kai (trước thế kỷ thứ XIII), Zhao Mengfu (1254-1322), và Chiu Ying (khoảng từ 1494-1552). Bắt đầu thời Ngũ đại, sự thờ phụng tượng A-la-hán lại thịnh hành, việc minh hoạ lại gia tăng đến 18 vị A-la-hán. Khi n nhạc sĩ Su Shi (1037-1101) bị lưu đày ra đảo Hải Nam, lần đầu ông ta thấy tượng A-la-hán Shiba (tượng 18 vị A-la-hán) của hoạ sĩ Zhang Xuan sống khoảng chừng vào năm (890-930) thuộc đời tiền Chu (Former Shu kingdom, 907-925), thời Ngũ đại, đã tạo cảm hứng cho ông sáng tác khúc tán ca về 18 vị A-la-hán. Sau đó, tại chùa Bảo Lâm, ông ta lại thấy một bức tranh khác giống như vậy, đã thúc đẩy ông soạn một ca khúc khác (Từ Hải Nam trở về, tôi dừng chân ở chùa Bảo Lâm ở núi Qingyuan để đảnh lễ tượng 18 vị Đại A-la-hán của sư Chanyue), Cả hai ca khúc của Su Shi đều mô tả hành dáng và nêu ra danh tánh của các vị, có thêm vào 2 vị Khánh Hữu (Qingyou 慶友) và Tân Đầu Lư (Bintoulu 賓頭盧) thành 18 vị. Sau đó, 18 vị A-la-hán trở nên được yêu thích hơn trong điêu khắc và hội hoạ. Trong các chùa, tượng các vị được đặt phía đông và phía tây của Đại hùng bửu điện, nơi mà các vị được thể hiện làm người hộ pháp cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hoặc là chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Năm trăm A-la-hán (Ngũ bách La-hán 五百羅漢) là một danh xưng tập hợp thường được đề cập trong kinh điển, có khi danh xưng nầy được đồng nhất với Năm trăm tỷ-khưu (Ngũ bách tỷ-khưu 五百比丘) và Năm trăm cư sĩ. Có nhiều truyền thuyết liên quan đến Năm trăm vị vẫn còn lưu truyền. Chẳng hạn, trong kinh Pháp Hoa, phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký, Đức Phật thọ ký cho 500 đệ tử sau khi họ nhập niết-bàn. Ttrong Sheli fo wen jing, có ghi lại rằng sau khi vua Fushamiduolou phá hoại Phật pháp, có 500 vị A-la-hán sẽ kiến lập lại. Cuốn Fa zhuji có ghi lại rằng cứ mỗi nhóm 16 vị A-la-hán sẽ chịu trách nhiệm ở một quốc độ, và mỗi nhóm đều có các đoàn tuỳ tùng, 500 A-la-hán trở nên một chỉnh thể cơ bản. Cũng vậy, tương truyền sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, ngài Ma-ha Ca-diếp cùng với 500 vị A-la-hán tổ chức kết tập lần đầu tại thành Vương Xá (Rājagṛha 王舎城). Vào thời vua A-dục (Aśoka), 500 vị tăng đã chứng A-la-hán và 500 vị tăng chưa chứng quả đã họp lại để trùng tuyên lại giáo lý của Đức Phật. Lần kết tập thứ tư vào thời Vua Kaniṣka để kết tập Đại Tỳ-bà-sa Luận (c: Da piposha lun 大毘婆沙論). Con số 'năm trăm' trong những chuyện như vậy chắc chắn là biểu tượng cho con số 'vài trăm' và không biểu thị cho con số nhất định. Cũng thế, không có chi tiết nào trong những câu chuyện trên đưa ra được tên của từng vị A-la-hán. Chúng ta biết rằng chính vào đời Đường, Năm trăm A-la-hán lần đầu tiên được đề cập đến ở Trung Hoa. Theo Ngũ đại danh hoạ bổ ký (c: Wudai minghua buyi; e: Supplement to Famous Paintings of the Five Dynasties Era), điêu khắc gia nổi tiếng đời Đường là Yang Huizhi đã tạc tượng 500 vị A-la-hán cho chùa Guang'ai si ở Hồ Nam, đó là sự kiện điêu khắc được biết sớm nhất về tượng 500 vị A-la-hán ở Trung Hoa. Đến thời Ngũ đại, sự thờ phụng 500 vị A-la-hán trở nên phổ biến. Chẳng hạn, vua Qian Liu của nước Wu-Yue (907-978), đã thếp vàng tượng 500 vị A-la-hán cúng dường cho chùa Fangguang si trên núi Thiên Thai, và vào năm đầu tiên của triều đại Xiande (954), Thiền sư Daoqian nhận sắc chỉ của Qian Zhongyi, lúc ấy là vua nước Wu-Yue, dời 16 tượng các vị đệ tử của Đức Phật từ chùa Lôi Đảnh (Thunder Peak Pagoda) đến chùa Jingci và cho xây xây dựng Ngũ bách La hán điện ở đó- cả hai ngôi chùa nầy đều ở Hàng Châu, kinh đô của triều đại Wu-Yue. Vào năm thứ hai triều đại Yongxi của Bắc Tống (985?), tượng 500 vị A-la-hán được tạc xong và an trí ở chùa Shouchang trên núi Thiên Thai. Thật vậy, vào thời Bắc Tống, sự thờ phụng 500 vị A-la-hán trở nên phổ biến, khắp lãnh thổ Trung Hoa nhiều chùa và sảnh đường đã được kiến trúc để thờ tượng. Các hang động dùng để cất giữ quần tượng 500 vị A-la-hán bắt đầu phát sinh, chẳng hạn, 168 động tại Dazu, Sichuan bao gồm cả tượng Đại Phật Ấn (Dafo an). Nơi đây, các bức tường trung tâm và hai bên đều có khắc hình tượng của 500 vị A-la-hán. Tuy vậy, những nơi trưng bày 500 tượng A-la-hán đều không biết được danh tánh của từng vị. Theo một đề mục trong Baoke congbian, juan 15, vào năm (933?) niên hiệu Dahe, có bia 500 vị A-la-hán tại chùa Longxing, chi nhánh của chùa Chongfu, ở Wu [Xuanzhou], mỗi bia đều có ghi rõ tên của từng vị, nhưng nay bia này không còn nữa. Vào ít lâu sau, thời kỳ Jinshixubian, juan 17, có được bản sao của một tấm bia khắc vào năm thứ 14 niên hiệu Shaoxing của triều đại Nam Tống (1134), trong đó, Gao Daosu, đã soạn ra bằng cách tập hợp lại những bản kinh Phật thông dụng và tóm tắt lại thành tên 500 vị A-la-hán. Bia nầy được dựng tại chùa Qianming ở Jiangyin. Mặc dù đây là ghi chép sớm nhất về tên của 500 vị A-la-hán ở Trung Hoa, nhưng đó chỉ là 'tôn hiệu' (zunhao)—chưa phải là sự minh hoạ theo hình dáng của chính từng vị như đã được khắc vẽ. Tuy vậy, từ đó trở đi, khi các chùa kiến trúc điện thờ tượng 500 vị A-la-hán, thì các hoạ sĩ đều khắc tên các vị theo danh sách trong bia nầy. Qua thơì kỳ Chongzhen của nhà Minh, Gao Chengyan lại thuê khắc bia ghi tên 500 vị A-la-hán dựng tại chùa Qianming ở Jiangyin, rồi Gao Youji, con trai ông ta, lại nhờ người khắc bia ấy lần thứ hai và chép sang Jiaxing zang, nơi đây bia còn giữ được nguyên trạng. Tuy nhiên, nay chỉ còn tên của các vị A-la-hán. Mãi cho đến thời Nam Tống, có vài người sưu tập các minh hoạ và cho ra đời bản in gỗ Bộ tranh tượng A-la-hán—đây là bộ minh hoạ các vị A-la-hán đầu tiên được biết đến. Công trình nầy được in lại từ bản gỗ mới vào thế kỷ thứ 16 thời kỳ Chongzhen (1643). Mặc dù nay không còn bản sao các tác phẩm nầy, nhưng nó lại được in lại vào năm thứ 52 thời Càn Long (Qianlong; 1787)–Bộ minh hoạ 518 vị A-la-hán chùa Qianming, dưới sự trông coi của sư trú trì Dache, một vị cao tăng vào thời Càn Long. La-hán tự hay là Qianming yuan được dựng lên ở Shifang, Chongqing, Siquan vẫn còn đến ngày nay. Chùa đầu tiên được xây vào đời Tống, bị đổ nát vào thời Nguyên và Minh rồi được trùng tu vào năm thứ 17 thời Càn Long (1752), và một thời gian sau, 518 tượng A-la-hán được tạc xong, và sau đó là Bộ minh hoạ vào đời Minh. Ngôi chùa bị phá huỷ vì bom của máy bay Nhật trong thời chiến tranh, sau đó lại được trùng tu năm 1945, các tượng A-la-hán mới một lần nữa lại hiện diện đầy đủ trong La-hán đường. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện." /> => Viết tắt chữ A-la-hán (c: aluohan 阿羅漢), phiên âm chữ Arhat từ tiếng Sanskrit. Chỉ cho những vị đã đạt đến mức độ tâm chứng cao nhất trong pháp tu tập của Tiểu thừa Phật giáo. Khi đạt đến cảnh giới nầy, mọi phiền não đều được tiêu trừ, không còn luân hồi sinh tử nữa. Tuy nhiên, theo Thành Duy thức luận (s: Vijñaptimātratā-siddhi-śāstra; c: Cheng weishi lun 成唯識論), do ngài Huyền Trang soạn năm 659, thì A-la-hán là bậc đã đạt được trí huệ viên mãn, vượt trên các hàng vô học trong Tam thừa: Thanh văn (s: śrāvaka; c: shengwen 聲聞), Bích chi (s: pratyeka; c: pizhijia) hoặc là Duyên giác (c: yuanjue 縁覺), thuộc Tiểu thừa; và Bồ-tát (s: Bodhisattva; c: pusa 菩薩), thuộc Đại thừa. Do vậy A-la-hán là một tên gọi khác của Phật quả cũng như là một trong 10 danh hiệu của Đức Phật (s: tathagata buddha; c: rulaifo ; Như Lai Phật 如來佛). Về chi tiết, xin xem mục từ A-la-hán 阿羅漢. Theo kinh điển nguyên thuỷ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vốn chỉ có bốn vị Đại A-la-hán phát nguyện lưu lại thế gian để hoằng truyền Phật pháp, mỗi vị ở mỗi phương: đông, tây, nam, bắc. Nhưng các kinh điển về sau dần dần thêm vào cho đến 16 vị, phần lớn các vị ấy vẫn không có tên. Mãi cho đến đời Đường, khi ngài Huyền Trang thỉnh kinh ở Ấn Độ về và dịch cuốn Pháp trụ ký (c: Fa zhuji 法住記) vào năm 654, mọi người mới biết đến có 16 vị A-la-hán và danh tánh của từng vị. Từ đó chư tăng Trung Hoa mới bắt đầu thờ phụng 16 vị A-la-hán và tranh tượng vẽ hình các vị với nhiều dáng dấp với nhiều kiểu trang phục của tăng sĩ Trung Hoa xuất hiện khắp nơi. Chẳng hạn, tương truyền Vương Duy (c: Wang Wei ; 701-761) đã vẽ 48 bức tranh về 16 vị A-la-hán, và những bức tranh của Lu Lengjia, sống vào khoảng năm 730-760, đã trở nên nổi tiếng trong suốt đời Đường. Tượng tạc 16 vị A-la-hán ở Động Vân Hà (c: Yanxiadong ; e: Clouds and Mist Grotto), Hàng Châu đã được đánh giá rất cao cho đến ngày nay. Bắt đầu đời Tống, biểu tượng 16 vị A-la-hán dần dần không còn được ưa chuộng như hình tượng Phật, nhưng các hoạ sĩ vẫn còn vẽ tượng La-hán mãi cho đến cuối đời Minh, như các hoạ sĩ Li Gonglin (1049-1106), Liang Kai (trước thế kỷ thứ XIII), Zhao Mengfu (1254-1322), và Chiu Ying (khoảng từ 1494-1552). Bắt đầu thời Ngũ đại, sự thờ phụng tượng A-la-hán lại thịnh hành, việc minh hoạ lại gia tăng đến 18 vị A-la-hán. Khi n nhạc sĩ Su Shi (1037-1101) bị lưu đày ra đảo Hải Nam, lần đầu ông ta thấy tượng A-la-hán Shiba (tượng 18 vị A-la-hán) của hoạ sĩ Zhang Xuan sống khoảng chừng vào năm (890-930) thuộc đời tiền Chu (Former Shu kingdom, 907-925), thời Ngũ đại, đã tạo cảm hứng cho ông sáng tác khúc tán ca về 18 vị A-la-hán. Sau đó, tại chùa Bảo Lâm, ông ta lại thấy một bức tranh khác giống như vậy, đã thúc đẩy ông soạn một ca khúc khác (Từ Hải Nam trở về, tôi dừng chân ở chùa Bảo Lâm ở núi Qingyuan để đảnh lễ tượng 18 vị Đại A-la-hán của sư Chanyue), Cả hai ca khúc của Su Shi đều mô tả hành dáng và nêu ra danh tánh của các vị, có thêm vào 2 vị Khánh Hữu (Qingyou 慶友) và Tân Đầu Lư (Bintoulu 賓頭盧) thành 18 vị. Sau đó, 18 vị A-la-hán trở nên được yêu thích hơn trong điêu khắc và hội hoạ. Trong các chùa, tượng các vị được đặt phía đông và phía tây của Đại hùng bửu điện, nơi mà các vị được thể hiện làm người hộ pháp cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hoặc là chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai. Năm trăm A-la-hán (Ngũ bách La-hán 五百羅漢) là một danh xưng tập hợp thường được đề cập trong kinh điển, có khi danh xưng nầy được đồng nhất với Năm trăm tỷ-khưu (Ngũ bách tỷ-khưu 五百比丘) và Năm trăm cư sĩ. Có nhiều truyền thuyết liên quan đến Năm trăm vị vẫn còn lưu truyền. Chẳng hạn, trong kinh Pháp Hoa, phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký, Đức Phật thọ ký cho 500 đệ tử sau khi họ nhập niết-bàn. Ttrong Sheli fo wen jing, có ghi lại rằng sau khi vua Fushamiduolou phá hoại Phật pháp, có 500 vị A-la-hán sẽ kiến lập lại. Cuốn Fa zhuji có ghi lại rằng cứ mỗi nhóm 16 vị A-la-hán sẽ chịu trách nhiệm ở một quốc độ, và mỗi nhóm đều có các đoàn tuỳ tùng, 500 A-la-hán trở nên một chỉnh thể cơ bản. Cũng vậy, tương truyền sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, ngài Ma-ha Ca-diếp cùng với 500 vị A-la-hán tổ chức kết tập lần đầu tại thành Vương Xá (Rājagṛha 王舎城). Vào thời vua A-dục (Aśoka), 500 vị tăng đã chứng A-la-hán và 500 vị tăng chưa chứng quả đã họp lại để trùng tuyên lại giáo lý của Đức Phật. Lần kết tập thứ tư vào thời Vua Kaniṣka để kết tập Đại Tỳ-bà-sa Luận (c: Da piposha lun 大毘婆沙論). Con số 'năm trăm' trong những chuyện như vậy chắc chắn là biểu tượng cho con số 'vài trăm' và không biểu thị cho con số nhất định. Cũng thế, không có chi tiết nào trong những câu chuyện trên đưa ra được tên của từng vị A-la-hán. Chúng ta biết rằng chính vào đời Đường, Năm trăm A-la-hán lần đầu tiên được đề cập đến ở Trung Hoa. Theo Ngũ đại danh hoạ bổ ký (c: Wudai minghua buyi; e: Supplement to Famous Paintings of the Five Dynasties Era), điêu khắc gia nổi tiếng đời Đường là Yang Huizhi đã tạc tượng 500 vị A-la-hán cho chùa Guang'ai si ở Hồ Nam, đó là sự kiện điêu khắc được biết sớm nhất về tượng 500 vị A-la-hán ở Trung Hoa. Đến thời Ngũ đại, sự thờ phụng 500 vị A-la-hán trở nên phổ biến. Chẳng hạn, vua Qian Liu của nước Wu-Yue (907-978), đã thếp vàng tượng 500 vị A-la-hán cúng dường cho chùa Fangguang si trên núi Thiên Thai, và vào năm đầu tiên của triều đại Xiande (954), Thiền sư Daoqian nhận sắc chỉ của Qian Zhongyi, lúc ấy là vua nước Wu-Yue, dời 16 tượng các vị đệ tử của Đức Phật từ chùa Lôi Đảnh (Thunder Peak Pagoda) đến chùa Jingci và cho xây xây dựng Ngũ bách La hán điện ở đó- cả hai ngôi chùa nầy đều ở Hàng Châu, kinh đô của triều đại Wu-Yue. Vào năm thứ hai triều đại Yongxi của Bắc Tống (985?), tượng 500 vị A-la-hán được tạc xong và an trí ở chùa Shouchang trên núi Thiên Thai. Thật vậy, vào thời Bắc Tống, sự thờ phụng 500 vị A-la-hán trở nên phổ biến, khắp lãnh thổ Trung Hoa nhiều chùa và sảnh đường đã được kiến trúc để thờ tượng. Các hang động dùng để cất giữ quần tượng 500 vị A-la-hán bắt đầu phát sinh, chẳng hạn, 168 động tại Dazu, Sichuan bao gồm cả tượng Đại Phật Ấn (Dafo an). Nơi đây, các bức tường trung tâm và hai bên đều có khắc hình tượng của 500 vị A-la-hán. Tuy vậy, những nơi trưng bày 500 tượng A-la-hán đều không biết được danh tánh của từng vị. Theo một đề mục trong Baoke congbian, juan 15, vào năm (933?) niên hiệu Dahe, có bia 500 vị A-la-hán tại chùa Longxing, chi nhánh của chùa Chongfu, ở Wu [Xuanzhou], mỗi bia đều có ghi rõ tên của từng vị, nhưng nay bia này không còn nữa. Vào ít lâu sau, thời kỳ Jinshixubian, juan 17, có được bản sao của một tấm bia khắc vào năm thứ 14 niên hiệu Shaoxing của triều đại Nam Tống (1134), trong đó, Gao Daosu, đã soạn ra bằng cách tập hợp lại những bản kinh Phật thông dụng và tóm tắt lại thành tên 500 vị A-la-hán. Bia nầy được dựng tại chùa Qianming ở Jiangyin. Mặc dù đây là ghi chép sớm nhất về tên của 500 vị A-la-hán ở Trung Hoa, nhưng đó chỉ là 'tôn hiệu' (zunhao)—chưa phải là sự minh hoạ theo hình dáng của chính từng vị như đã được khắc vẽ. Tuy vậy, từ đó trở đi, khi các chùa kiến trúc điện thờ tượng 500 vị A-la-hán, thì các hoạ sĩ đều khắc tên các vị theo danh sách trong bia nầy. Qua thơì kỳ Chongzhen của nhà Minh, Gao Chengyan lại thuê khắc bia ghi tên 500 vị A-la-hán dựng tại chùa Qianming ở Jiangyin, rồi Gao Youji, con trai ông ta, lại nhờ người khắc bia ấy lần thứ hai và chép sang Jiaxing zang, nơi đây bia còn giữ được nguyên trạng. Tuy nhiên, nay chỉ còn tên của các vị A-la-hán. Mãi cho đến thời Nam Tống, có vài người sưu tập các minh hoạ và cho ra đời bản in gỗ Bộ tranh tượng A-la-hán—đây là bộ minh hoạ các vị A-la-hán đầu tiên được biết đến. Công trình nầy được in lại từ bản gỗ mới vào thế kỷ thứ 16 thời kỳ Chongzhen (1643). Mặc dù nay không còn bản sao các tác phẩm nầy, nhưng nó lại được in lại vào năm thứ 52 thời Càn Long (Qianlong; 1787)–Bộ minh hoạ 518 vị A-la-hán chùa Qianming, dưới sự trông coi của sư trú trì Dache, một vị cao tăng vào thời Càn Long. La-hán tự hay là Qianming yuan được dựng lên ở Shifang, Chongqing, Siquan vẫn còn đến ngày nay. Chùa đầu tiên được xây vào đời Tống, bị đổ nát vào thời Nguyên và Minh rồi được trùng tu vào năm thứ 17 thời Càn Long (1752), và một thời gian sau, 518 tượng A-la-hán được tạc xong, và sau đó là Bộ minh hoạ vào đời Minh. Ngôi chùa bị phá huỷ vì bom của máy bay Nhật trong thời chiến tranh, sau đó lại được trùng tu năm 1945, các tượng A-la-hán mới một lần nữa lại hiện diện đầy đủ trong La-hán đường. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."/>
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển thuật ngữ Phật học »» Đang xem mục từ: La-hán 羅漢 »»
Hướng dẫn: Quý vị có thể nhập nguyên một từ để tìm xem tất cả những từ ngữ bắt đầu bằng từ đó. Ví dụ, nhập quyết để xem Quyết định tâm, Quyết định tạng luận, Quyết định tín v.v...
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.37 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập