Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng.
(Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp.
(Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn.
(Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta.
(It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Đại từ điển Phật Quang »» Đang xem mục từ: thánh giáo lượng
KẾT QUẢ TRA TỪ
thánh giáo lượng:
(聖教量) Phạm: Àgama hoặc Àgamapramaịa. Cũng gọi Chính giáo lượng, Phật ngôn lượng, Chí giáo lượng (Phạm:Àpt-àgama), Thanh lượng (Phạm: Zabda, cũng gọi là Thánh ngôn lượng). Hàm ý là lấy sách Thánh mà phái mình tôn thờ hoặc lời chỉ dạy của Thánh nhân làm cội nguồn, tiêu chuẩn cho tri thức chính xác. Phật giáo thông thường sử dụng từ ngữ Àgama, còn các phái triết học Bà la môn Phệ đà thì dùng từZabda, đều có nghĩa là lời chỉ dạy của người đáng tin cậy (Phạm:Àpta-nirdeza). Cái gọi là người đáng tin cậy thì trong Phật giáo là chỉ cho đức Phật, Bồ tát và các bậc Hiền Thánh, trong triết học Bà la môn thì chỉ cho các vị Thần tiên nói kinh Phệ đà, hoặc chỉ cho những người Hiện chứng pháp nói trong Phệ đà. Trong các phái triết học ở Ấn độ, trừ phái Thuận thế ngoại đạo, phái Thắng luận, phái luận lí học Phật giáo, còn các phái khác đều chủ trương Thánh giáo lượng là lượng độc lập. Ngoài Hiện lượng và Tỉ lượng ra, Cổ nhân minh trong Phật giáo còn thừa nhận Thánh giáo lượng đem đến sự bảo chứng cho tính xác thực của Hiện lượng và Tỉ lượng. Luận Du già sư địa quyển 15 cho rằng ngôn giáo do bậc Nhất thiết trí nói ra gọi là Thánh giáo lượng. Có 3 điều kiện để được gọi là Thánh giáo lượng,đó là: 1. Không trái với Thánh ngôn. 2. Có khả năng đối trị tạp nhiễm. 3. Không trái với pháp tướng. Nhưng phái luận lí học Phật giáo thuộc Tân nhân minh từ ngài Trần na về sau thì phủ nhận tính độc lập của Thánh giáo lượng, chỉ lập Hiện lượng và Tỉ lượng làm nguồn gốc hoặc tiêu chuẩn chính xác của tri thức. Trong Tập lượng luận, ngài Trần na cho rằng Thánh giáo lượng có thể so sánh biết được từ âm thanh (lời nói) của người đáng tin cậy, cho nên người đáng tin cậy là Tỉ lượng, còn nghe lời nói của người ấy thì là Hiện lượng. Cho nên biết mối quan hệ giữa Thánh giáo lượng và Hiện lượng, Tỉ lượng mà ngài Trần na chủ trương tương phản hẳn với chủ trương của Cổ nhân minh, cho rằng tính chất Thánh giáo của Thánh giáo là do Hiện lượng và Tỉ lượng mà được bảo chứng. Nói cách khác, Thánh giáo lượng đã bao hàm trong Hiện lượng và Tỉ lượng rồi, cho nên không cần phải lập riêng Thánh giáo lượng nữa. [X. luận A tì đạt ma tập Q.7; luận A tì đạt ma tạp tập Q.16; Quán li phẩm trong Tập lượng luận; luận Nhân minh chính lí môn; Nhân minh nhập chính lí luận sớ Q.thượng; Đại thừa nghĩa chương Q.10; Thiền nguyên chư thuyên tập đô tự Q.thượng; History of Indian Logic, 1921 by S.C. Vidyabhùsana; Indian Logic in the Early School, 1930, by H.N. Randle; Phật giáo luận lí học (Vũ tỉnh Bá thọ)].
Nếu muốn duyệt qua từng vần trong từ điển, xin nhập vào ô dưới đây vần tương ứng. Ví dụ: A, B, C...
Để giới hạn kết quả tìm kiếm chính xác hơn, quý vị có thể nhập 2 hoặc 3 chữ cái đầu vần. Ví dụ, để tìm những chữ như thiền, thiện... quý vị nên nhập thi thay vì t... sẽ cho một kết quả gần với yêu cầu của quý vị hơn.
_______________
MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Chắp tay lạy người
An Sĩ toàn thư - Khuyên người bỏ sự tham dục
Tôi đọc Đại Tạng Kinh
Có và Không
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần...
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đang online: Viên Hiếu Thành Huệ Lộc 1959 Bữu Phước Chúc Huy Minh Pháp Tự minh hung thich Diệu Âm Phúc Thành Phan Huy Triều Phạm Thiên Trương Quang Quý Johny Dinhvinh1964 Pascal Bui Vạn Phúc Giác Quý Trần Thị Huyền Chanhniem Forever NGUYỄN TRỌNG TÀI KỲ Dương Ngọc Cường Mr. Device Tri Huynh Thích Nguyên Mạnh Thích Quảng Ba T TH Tam Thien Tam Nguyễn Sĩ Long caokiem hoangquycong Lãn Tử Ton That Nguyen ngtieudao Lê Quốc Việt Du Miên Quang-Tu Vu phamthanh210 An Khang 63 zeus7777 Trương Ngọc Trân Diệu Tiến ... ...