Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 7: Triệu Châu rửa bát (Triệu Châu tẩy bát)[1].

趙州洗鉢

Bản tắc:

Một người đến học thiền sư Triệu Châu, ngỏ với ông rằng:

-Tôi là kẻ lưu lạc mới nhập môn ở đạo tràng. Dám xin lão sư chỉ dạy.

Ông mới hỏi:

-Thế ngươi đã ăn xong cháo sáng chưa?

Người ấy trả lời:

-Thưa đã.

Thiền sư bèn nói:

-Thế thì đem bát[2]rửa đi!

Người ấy bèn hiểu ra.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Triệu Châu mở mồm ra là túi mật đã lộ, tim gan cũng phơi bày ra đấy cả. Tuy phơi ra tất cả, không dấu diếm điều gì mà chắc chi anh học trò này hiểu trọn chân ý của ông. Truyện chép “Người ấy bèn hiểu ra” nhưng biết đâu người ấy mới nhận thức hay chỉ hiểu chút đỉnh, nghe lời thầy như thấy cái chuông lại tưởng nó là cái chum.   

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Chỉ vị phân minh cực,
Phiên lệnh sở đắc trì.
Tảo tri đăng thị hỏa,
Phạn thục dĩ đa thì.

只 為     
翻 令     
早 知     
飯 熟     

(Muốn phân chia rành rẽ,
Thu lượm mới chậm rì
Nếu biết đèn là lửa
[3],
Cơm đã chín từ khuya).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Mỗi buổi sáng, ở đạo tràng thường dọn cháo. Ý ông thầy hỏi học trò : Ngươi đã ăn uống xong xuôi chưa? Khi người học trò chân thực trả lời là ăn đã xong, ông thầy dạy phải đem bát ăn mà rửa sạch đi.

Công án chỉ ngắn có chừng đó. Thế nhưng nó chan chứa thiền vị, múc mãi không hết đấy. Trước lòng cầu đạo của người học trò mới nhập môn, câu hỏi của ông thầy giống như mũi tên bắn ra. Tựa như con sư tử khi vồ lấy một chú thỏ nhỏ phải dốc toàn lực, người tu thiền dù đứng trước bất kỳ câu hỏi nào của kẻ nhập môn, cũng không thể coi nhẹ. Thường họ phải tận lực, đem toàn thân toàn linh ra để trả lời để có một tác dụng toàn thể. Thiền phong của thiền sư Triệu Châu là “khẩu thần bì thượng phóng quang” (phóng ánh sáng từ trên da thịt môi miệng), ông không đem hèo gậy đánh đập hay quát tháo dữ dội như các vị tôn sư khác mà chỉ dùng lời lẽ trong sáng, trong đó có thiền vị uyển chuyển và thiền cơ bén nhọn, vừa nói lên được sự thật vừa để người ta tự do tìm hiểu. Cho nên người đời (trong đó có cả Vô Môn, LND) mới phê bình ông có cái lưỡi không xương.  

Chuông và chum hình thức từa tựa nhưng thực tế khác nhau xa. Kết hợp nó ngay là nguy lắm. Tuy nhiên kết luận ở đây không có mục đích đánh giá khách quan xem sự hiểu biết của người học trò này là đúng hay sai, mà chỉ là lời nhắc nhỡ chúng ta, những người đọc công án rằng chớ nên xem công án là vấn đề đặt ra cho người xưa mà phải xem nó như vấn đề hiện tại trước mắt (chỉ kim, tức kim). Như vậy, nhận thức đúng đắn hay sai lầm (chân ngụy) của chính chúng ta mới là điều cần chú ý.  

Công án muốn nói Phật pháp vốn đã có trong những chuyện cơm nước bình thường mỗi ngày (nhật thường trà phạn sự). Do đó nhà thiền chủ trương việc ăn cơm, rửa bát tức là sinh hoạt hàng ngày của mình đã có đạo trong ấy rồi. Mã Tổ cũng từng dạy: “Bình thường tâm thị đạo”. 

Chuyện khác:

Có người đến hỏi thiền sư Triệu Châu:

- Kẻ đã ngộ rồi thì còn phải làm gì?

Sư mới trả lời:

- Người như thế cần tu tập nhiều hơn nữa!

Tăng hỏi:

- Như thầy mà còn phải tu hành sao?

Triệu Châu đáp:

- Trước y khiết phạn (Ăn cơm mặc áo)

Tăng mới bảo:

- Ăn cơm mặc áo là chuyện thường tình. Thế thì cách tu hành mà thầy dạy là gì cơ ạ?

Trước anh học trò đần độn đến mức này, Triệu Châu bắt buộc phải nói:

- Này nhà ngươi. Xem thử mỗi ngày ta làm những gì nào?

Theo Dôgen (tăng Đạo Nguyên), đó là “Bản chứng diệu tu”. Đó cũng là “Uy nghi tức phật pháp. Tác pháp thị tôn chỉ”.

Thiền sư Lâm Tế thì nói:

- Chỉ cần sống bình thường vô sự, đi ỉa đi đái, mặc áo ăn cơm, khi mệt nằm nghỉ. Kẻ ngu ngốc sẽ cười ta nhưng người trí cho ta là hiểu biết.

Như vậy, Phật pháp không có gì lạ lùng, đặc biệt cả. Thế nhưng, chân ý của hai chữ “bình thường” coi vậy mà không dễ nắm. Cần phải học hỏi (tu) và giác ngộ (chứng).

Lại kể thêm chuyện có ông tăng giới luật đến hỏi đạo thiền sư Đại Châu:

- Thầy tu thiền có dùng công phu không?

- Thưa có ạ!

- Những công phu nào?

- Khi đói, tôi ăn. Khi mệt, tôi ngủ.

- Những chuyện đó ai mà chẳng làm. Như vậy có thể nói công phu của thầy với của chúng tôi cũng chỉ là một thứ thôi.

- Người thường, dù có ăn cơm, thực ra chưa chắc đã ăn.Lý do là khi đang ăn, họ lo lắng nghĩ ngợi lung tung. Ngủ cũng vậy. Mãi tính trăm mưu ngàn kế, hết mộng đến mị. Do đó, làm sao có thể giống y cách ăn, cách ngủ của tôi được.

Sách có chữ “Tri Kiến Giải”. Đó là phương pháp đúng đắn để đọc công án. Nếu chỉ dùng cái đầu (tri) để có thể nói “Hiểu rồi!” thì chân lý chưa đến với mình (thể đắc).Kết cuộc, nếu muốn cùng nó hòa nhập làm một, phải có cái “kiến giải chân chính” bởi vì bên cạnh nó còn có một kiến giải khác nhưng sai lệch gọi là “tà kiến” nữa. 

Chuyên tâm vào “sinh hoạt thiền” hay “vô sự thiền” mà không cần tu hành gì khác sẽ đưa đến cảnh “gọi chuông là chum”. Ấy là cái khó. Nói là nói vậy chứ rời ra khỏi chuyện bình thường ăn cơm mặc áo, chẳng thấy Thiền đạo Phật pháp nằm ở đâu cả.


 


[1] Truyện này có chép trong Triệu Châu Lục.

[2] Bát-đa-la chỉ vật chứa đựng. Nay nói chung chỉ thực khí như chén bát. Nguyên văn tiếng Phạn là patra.

[3] Ý nói lửa của cái đèn mình cầm trong tay để đi kiếm lửa cũng đã là lửa rồi. Việc gì tìm kiếm đâu xa nữa cho mất thời giờ (cơm chín đã lâu).

 

 

 

Trở về



Trở về

VÔ MÔN QUAN  -  無門関

Chữ Vô của Phương Đông

Nguyên tác Vô Môn Quan: Vô Môn Huệ Khai
Dẫn nhập và chú giải: Nishimura Eshin
Bình luận: Giáo sư Akizuki Ryômin

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

 

Tắc số 7: Triệu Châu rửa bát (Triệu Châu tẩy bát)[1].

趙州洗鉢

Bản tắc:

Một người đến học thiền sư Triệu Châu, ngỏ với ông rằng:

-Tôi là kẻ lưu lạc mới nhập môn ở đạo tràng. Dám xin lão sư chỉ dạy.

Ông mới hỏi:

-Thế ngươi đã ăn xong cháo sáng chưa?

Người ấy trả lời:

-Thưa đã.

Thiền sư bèn nói:

-Thế thì đem bát[2]rửa đi!

Người ấy bèn hiểu ra.

 

Bình Xướng:

Vô Môn nói rằng:

Triệu Châu mở mồm ra là túi mật đã lộ, tim gan cũng phơi bày ra đấy cả. Tuy phơi ra tất cả, không dấu diếm điều gì mà chắc chi anh học trò này hiểu trọn chân ý của ông. Truyện chép “Người ấy bèn hiểu ra” nhưng biết đâu người ấy mới nhận thức hay chỉ hiểu chút đỉnh, nghe lời thầy như thấy cái chuông lại tưởng nó là cái chum.   

 

Tụng:

Bèn có bài tụng:

Chỉ vị phân minh cực,
Phiên lệnh sở đắc trì.
Tảo tri đăng thị hỏa,
Phạn thục dĩ đa thì.

只 為     
翻 令     
早 知     
飯 熟     

(Muốn phân chia rành rẽ,
Thu lượm mới chậm rì
Nếu biết đèn là lửa
[3],
Cơm đã chín từ khuya).

 

Lược dịch lời bàn của Giáo sư Akizuki Ryômin:

Mỗi buổi sáng, ở đạo tràng thường dọn cháo. Ý ông thầy hỏi học trò : Ngươi đã ăn uống xong xuôi chưa? Khi người học trò chân thực trả lời là ăn đã xong, ông thầy dạy phải đem bát ăn mà rửa sạch đi.

Công án chỉ ngắn có chừng đó. Thế nhưng nó chan chứa thiền vị, múc mãi không hết đấy. Trước lòng cầu đạo của người học trò mới nhập môn, câu hỏi của ông thầy giống như mũi tên bắn ra. Tựa như con sư tử khi vồ lấy một chú thỏ nhỏ phải dốc toàn lực, người tu thiền dù đứng trước bất kỳ câu hỏi nào của kẻ nhập môn, cũng không thể coi nhẹ. Thường họ phải tận lực, đem toàn thân toàn linh ra để trả lời để có một tác dụng toàn thể. Thiền phong của thiền sư Triệu Châu là “khẩu thần bì thượng phóng quang” (phóng ánh sáng từ trên da thịt môi miệng), ông không đem hèo gậy đánh đập hay quát tháo dữ dội như các vị tôn sư khác mà chỉ dùng lời lẽ trong sáng, trong đó có thiền vị uyển chuyển và thiền cơ bén nhọn, vừa nói lên được sự thật vừa để người ta tự do tìm hiểu. Cho nên người đời (trong đó có cả Vô Môn, LND) mới phê bình ông có cái lưỡi không xương.  

Chuông và chum hình thức từa tựa nhưng thực tế khác nhau xa. Kết hợp nó ngay là nguy lắm. Tuy nhiên kết luận ở đây không có mục đích đánh giá khách quan xem sự hiểu biết của người học trò này là đúng hay sai, mà chỉ là lời nhắc nhỡ chúng ta, những người đọc công án rằng chớ nên xem công án là vấn đề đặt ra cho người xưa mà phải xem nó như vấn đề hiện tại trước mắt (chỉ kim, tức kim). Như vậy, nhận thức đúng đắn hay sai lầm (chân ngụy) của chính chúng ta mới là điều cần chú ý.  

Công án muốn nói Phật pháp vốn đã có trong những chuyện cơm nước bình thường mỗi ngày (nhật thường trà phạn sự). Do đó nhà thiền chủ trương việc ăn cơm, rửa bát tức là sinh hoạt hàng ngày của mình đã có đạo trong ấy rồi. Mã Tổ cũng từng dạy: “Bình thường tâm thị đạo”. 

Chuyện khác:

Có người đến hỏi thiền sư Triệu Châu:

- Kẻ đã ngộ rồi thì còn phải làm gì?

Sư mới trả lời:

- Người như thế cần tu tập nhiều hơn nữa!

Tăng hỏi:

- Như thầy mà còn phải tu hành sao?

Triệu Châu đáp:

- Trước y khiết phạn (Ăn cơm mặc áo)

Tăng mới bảo:

- Ăn cơm mặc áo là chuyện thường tình. Thế thì cách tu hành mà thầy dạy là gì cơ ạ?

Trước anh học trò đần độn đến mức này, Triệu Châu bắt buộc phải nói:

- Này nhà ngươi. Xem thử mỗi ngày ta làm những gì nào?

Theo Dôgen (tăng Đạo Nguyên), đó là “Bản chứng diệu tu”. Đó cũng là “Uy nghi tức phật pháp. Tác pháp thị tôn chỉ”.

Thiền sư Lâm Tế thì nói:

- Chỉ cần sống bình thường vô sự, đi ỉa đi đái, mặc áo ăn cơm, khi mệt nằm nghỉ. Kẻ ngu ngốc sẽ cười ta nhưng người trí cho ta là hiểu biết.

Như vậy, Phật pháp không có gì lạ lùng, đặc biệt cả. Thế nhưng, chân ý của hai chữ “bình thường” coi vậy mà không dễ nắm. Cần phải học hỏi (tu) và giác ngộ (chứng).

Lại kể thêm chuyện có ông tăng giới luật đến hỏi đạo thiền sư Đại Châu:

- Thầy tu thiền có dùng công phu không?

- Thưa có ạ!

- Những công phu nào?

- Khi đói, tôi ăn. Khi mệt, tôi ngủ.

- Những chuyện đó ai mà chẳng làm. Như vậy có thể nói công phu của thầy với của chúng tôi cũng chỉ là một thứ thôi.

- Người thường, dù có ăn cơm, thực ra chưa chắc đã ăn.Lý do là khi đang ăn, họ lo lắng nghĩ ngợi lung tung. Ngủ cũng vậy. Mãi tính trăm mưu ngàn kế, hết mộng đến mị. Do đó, làm sao có thể giống y cách ăn, cách ngủ của tôi được.

Sách có chữ “Tri Kiến Giải”. Đó là phương pháp đúng đắn để đọc công án. Nếu chỉ dùng cái đầu (tri) để có thể nói “Hiểu rồi!” thì chân lý chưa đến với mình (thể đắc).Kết cuộc, nếu muốn cùng nó hòa nhập làm một, phải có cái “kiến giải chân chính” bởi vì bên cạnh nó còn có một kiến giải khác nhưng sai lệch gọi là “tà kiến” nữa. 

Chuyên tâm vào “sinh hoạt thiền” hay “vô sự thiền” mà không cần tu hành gì khác sẽ đưa đến cảnh “gọi chuông là chum”. Ấy là cái khó. Nói là nói vậy chứ rời ra khỏi chuyện bình thường ăn cơm mặc áo, chẳng thấy Thiền đạo Phật pháp nằm ở đâu cả.


 


[1] Truyện này có chép trong Triệu Châu Lục.

[2] Bát-đa-la chỉ vật chứa đựng. Nay nói chung chỉ thực khí như chén bát. Nguyên văn tiếng Phạn là patra.

[3] Ý nói lửa của cái đèn mình cầm trong tay để đi kiếm lửa cũng đã là lửa rồi. Việc gì tìm kiếm đâu xa nữa cho mất thời giờ (cơm chín đã lâu).

 

 

 

Trở về