Bức Thành Biên Giới Phần 1: Chương Một. Minh Đức Hoài Trinh Tin Vinh vừa thi đỗ tú tài phần thứ nhì làm cho bà Hải mừng phát run người, bà đang pha trà cho chồng uống buổi chiều, tay cầm cái ấm nước sôi mà run rẩy làm đổ cả nước ra ngoài bàn.

- Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật...

Bà Hải chỉ biết niệm Phật lúc nào cảm thấy mình quá vui cũng như quá buồn, hình như sau khi đã phải trải qua nhiều biến cố, con người đâm ra ngờ vực tất cả, chỉ có Trời Phật là nguyên vẹn trong sự tin tưởng mà thôi.

Nghe giọng Vinh reo hò từ ngoài cửa ngõ reo vào:

- “Ha-ri-cô” rồi mạ ơi, tưới mau tưới mau, trưa ni mạ có chi khao tụi con không mạ, phải khao liền cho nóng!

Sự dồn dập tíu tít của thằng con trai làm cho bà Hải không còn biết trả lời vào lúc nào được. Ông Hải điềm tĩnh hơn, chậm rãi cất tiếng khen đứa con, đôi mắt lim dim nhìn trần nhà qua làn khói nước trà chứ không nhìn thẳng mặt con:

- Thằng Vinh học như rứa là giỏi đó, chừ con muốn cậu thưởng cái chi?

- Xe bành bạch, cậu mạ hùn nhau mua cho con cái xe bành bạch, rồi khi mô cậu cần đi đây đi đó con sẽ làm “sốp phơ” cho cậu, khỏi lóc cóc cái xích lô có phải là tiện biết mấy không?

- Thôi con ơi, đi thứ xe nớ nguy hiểm, mạ sợ...

Vinh nhăn nhó quay sang mẹ với đôi mắt van vỉ:

- Mạ thì khi mô cũng sợ, tụi hắn đi cùng đường, có răng mô mà mạ sợ. Nếu con không lén mạ đi học cái ni cái khác, thì chắc tới chừ con cũng chưa dám ra đường một mình.

- E chưa biết đi nữa, mạ mi thì khi mô cũng rứa!

Ông Hải phụ họa với con, sau cuộc cách mạng, sau những ngày tản cư tù đày, ông trở nên trẻ lại, có lẽ vì thấy cuộc sống chớp nhoáng, cái gì rồi cũng qua nhanh, chẳng nên bo bíu đóng khung lấy con người làm chi cho khổ.

Được cha đồng ý, Vinh mừng rỡ nghĩ đến chiếc xe máy dầu rồi đây mình sẽ được cưỡi lên trên cho máy tha hồ phóng nhanh, tha hồ muốn đi đâu cũng tới, lên dốc xuống dốc không phải vất vả như với chiếc xe đạp cũ kỹ của Vinh từ mấy năm nay. Nhất là mỗi khi gặp một đoàn nữ sinh trường Đồng Khánh mà mình phóng rất nhanh thì các cô sẽ e lệ nép vào bên lề, kéo nón che mặt. Tuy che mặt nhưng cũng đưa mắt liếc một cái, rồi sau đấy thế nào cũng có mấy chữ trách ngầm “anh ni chi lạ rứa!” Chữ “chi lạ rứa” của con gái Huế thường vẫn mang nhiều ý nghĩa đậm đà, vừa trách móc giận dỗi, vừa nũng nịu đón mời, Vinh và các bạn đã ngồi với nhau bàn bạc phân tích kỹ như thế.

- Mừng anh Vinh thi đậu...

Giọng nói quen thuộc của Cửu Hà từ bếp vọng lên, Vinh vội vã rời cha mẹ đi thẳng xuống bếp để còn bắt cả nhà chia vui với mình.

Không vui sao được, người ta mới có mười tám tuổi mà đã đỗ xong cả hai phần tú tài, đấy là vì có một năm trễ nải để tản cư về làng, để nhà cho quân đội Nhật Bản đóng. Ông bà Hải nhất định thà bỏ học chứ không cho Vinh ở lại Huế học tiếp, chỉ sợ có chuyện gì bom rơi, đạn lạc rồi cha mẹ không gặp con.

Nếu không mất một năm oan uổng ấy thì Vinh đã là cậu tú từ năm ngoái. Nhưng không sao, sớm muộn một năm biết đâu chẳng là một sự hay, người mẹ vẫn tin như thế.

Một năm ở làng Vinh chẳng học hành gì cả, suốt ngày ra đồi hái sim, nhổ nấm, chặt măng về giúp mẹ để khỏi đi chợ, tốn thêm tiền. Thế mà trở lại trường, thằng bé đã đuổi kịp anh em ngay.

Đợi cho con trai đi khuất, hai vợ chồng ông Hải mới nhìn nhau hân hoan, ban nãy có mặt Vinh, tuy vui mừng mà chẳng ai dám nói lên, sợ thằng bé đắc chí rồi đâm ra kiêu hãnh tự phụ. Bà Hải vẫn theo đuổi dạy đứa con trai từng tí một. Theo ý của người mẹ ấy, nếu con có học mà thiếu phần đức hạnh thì những mảnh bằng cấp kia rồi cũng chẳng ra gì.

Nghe tiếng Vinh rộn ràng dưới bếp rồi, hai vợ chồng mới dám cho phép sự vui mừng được tràn ra khắp nụ cười, ánh mắt. Lâu lắm mới gặp lại những giây phút vui vàng ngọc hiếm có như thế.

- Mình định cho hắn học ngành chi chừ đây?

Người vợ thắc mắc hỏi chồng, đặt tất cả niềm tin vào sự hiểu biết của chồng, tuy rằng mình cũng có ý kiến riêng nhưng không dám đưa ra trước.

- Tui thấy nên cho hắn học Luật, học ngành nớ thì sau ni hắn có thể làm trạng sư, làm quan tòa hay về ngoại giao cũng được. Nước mình rồi răng cũng đi tới độc lập. Tụi Tây hắn sẽ phải nhượng bộ. Độc lập thì cần cán bộ ở nhiều ngành lắm. Nếu có phước có phần, hắn sẽ làm rạng rỡ cho gia đình mà khỏi xấu hổ với đồng bào, với dân tộc. Không phải lo thức đêm thức ngày giở sách ra học thêm, hoặc cuống quýt lên mà dựng đầu mấy ông cố vấn cố vít dậy nửa đêm mỗi khi có chuyện chi thắc mắc.

Nghe chồng giảng dạy một hồi, người vợ có vẻ hiểu rõ hơn: nhưng sau mấy chục năm kinh nghiệm sống bên chồng trong cuộc đời quan lại, bà Hải hầu như đã chán chường với những thứ danh vọng hão huyền bên ngoài. Người đàn bà nhận thấy rằng chính cái triết lý của cha mình ngày xưa thế mà có lẽ đúng nhất, tuy phục sự giảng giải của chồng nhưng bà vẫn đưa ý kiến của mình ra để góp thêm.

- Tùy mình, tui chỉ sợ mấy việc nớ thì rồi không tránh khỏi sự ganh đua, sự chà đạp lên nhau, kinh nghiệm của đời mình còn có đó...

- Rứa mình muốn cho hắn học nghề chi?

Ông Hải trầm ngâm hỏi lại vợ.

- Nghề bác sĩ, họ nhà mình chưa có ai làm thầy thuốc, nghề nớ phúc đức nhứt.

- Mình tưởng nghề nớ không có sự ganh đua à, hai lão bán thịt heo cũng ganh đua như thường, nghề chi mà tránh cho khỏi sự ganh đua kèn cựa, ra đời thì phải chịu như rứa. Mà mình đừng tưởng nghề nớ phúc đức, trong sách kinh của Hồi giáo có nói: mấy ông quan tòa, ông bác sĩ và ông thơ ký biên chép sổ sách, khi chết đều xuống thẳng địa ngục. Vì lúc sống mà làm việc quan tòa xét xử răng cũng có sự lầm lẫn oan ức, thầy thuốc răng cũng có sự lộn thuốc giết chết con người ta và mấy ông biên chép, răng cũng có ít nhứt là vài lần biên bậy cho người ta chịu sự lỗ lã thua thiệt.

Người vợ cúi đầu thở dài khuất phục, chồng đã lý luận thì mình không còn cãi vào đâu được nữa.

Dưới nhà bếp, giọng ba anh em thằng Vinh và thằng Minh, thằng Thi chí chóe cãi nhau.

- Anh Vinh thi đậu rồi, chừ anh Vinh phải khao cho Minh với Thi.

- Ơ hay anh thi đậu thì hai đứa phải xin mạ tiền khao anh, răng lại bắt anh khao?

- Không được, anh phải khao.

- Lý do tại răng nói nghe coi, đồ hai thằng gàn nhà bay.

Thằng Minh lớn hơn em, lên giọng giảng giải:

- Cả tháng ni anh Vinh học thi, khi mô mạ cũng không cho Minh với Thi cãi nhau, la hét ồn sợ làm anh Vinh học không vô, đó là một chuyện. Thứ hai là Minh với Thi đang tự nhiên không vui không buồn, rứa mà anh Vinh thi đậu, buộc Minh với Thi vui tức là hai đứa phải mệt rồi, anh Vinh không khao đền răng được.

- Lý luận chi của tụi bay mà lạ lùng dữ rứa, anh Vinh chưa hề nghe ai có những thứ lý luận nớ cả.

- Thì chừ anh Vinh nghe đó, thôi anh Vinh liệu khao cho rồi.

- Được, chiều ni anh chở cả hai đứa ra mụ Cai ăn cháo lòng. Mà hai đứa phải xin tiền mạ để trả chớ anh Vinh không có tiền mô mà trả, chịu chưa? Công trình anh Vinh thi đậu thì tụi bay mới có lý do mà đòi khao, nếu anh Vinh thi trượt vỏ chuối thì đời mô mà được ăn cháo lòng chiều ni, có phải không?

Hai đứa im lặng, ông bà Hải ở nhà trên nghe những lý luận của ba anh em, đoán chắc rằng hai thằng em đã thua đòn thằng anh. Bà Hải nhìn chồng lắc đầu mỉm cười:

- Đúng là kẻ cắp gặp bà già, tụi hắn anh em với nhau thiệt không còn chối ngõ mô được, chịu khao mà bắt điều kiện hai em phải xin tiền mạ thì cũng vô đó cả.

Nhưng tin Vinh thi đậu như một luồng nắng mới rực rỡ tuôn tràn trên khắp ánh mắt, nét mặt của mọi người, có gì đi nữa rồi cũng sẽ được chấp thuận, đồng ý cả.

Từ ngày hồi cư, quân đội Pháp trở về chiếm đóng lại các đô thị lớn, gia đình ông Hải như lập một nếp sống mới, từ bỏ hẳn cuộc đời quan liêu cũ. Nếp sống ngày nay thân mật hơn, giản dị hơn, và cũng trẻ trung hơn.

Ông Hải ra làm việc lại, mục đích chỉ để tránh khỏi sự dòm ngó của mấy chú mật thám và cho đỡ buồn. Tuy vậy thỉnh thoảng cũng nhận được những bức thư dọa nạt từ bên kia gửi về, bảo phải thôi ngay, nếu không thì sẽ bị chuyện này chuyện khác.

Biết thế nào bây giờ, cuộc sống của mọi người hầu hết như con cá nằm trên thớt, lúc nào sẽ bị chặt ra năm bảy khúc tùy sự bận hay rỗi của chú đầu bếp. Không ra làm thì bị dò la điều tra nghi kỵ, ra làm thì phải chịu mang tiếng Việt gian bán nước. Hoàn cảnh này là hoàn cảnh chung của tất cả những người không chịu đi tản cư, chẳng ai có cách gì khác hơn là dùng cái triết lý “tới đâu hay đó”. Nếu có bị cắt đầu cưa cổ thì chịu chết, đời ai chẳng phải một lần chết, ở đấy mà lo sợ làm chi cho mệt...

Số lương nhỏ của ông Hải mang về chỉ đủ cho ông mua sách báo, hút thuốc lá, thỉnh thoảng đưa các con đi ăn tiệm, đi xem chiếu bóng, còn dư đồng nào thì cất đấy, khi có cần sắm thêm sách vở gì cho các con, khỏi xin vợ.

Tất cả mọi sự ăn tiêu khác trong gia đình đều do một tay bà Hải lo liệu, vì bà đã học được một nghề buôn bán các thứ đồ cổ. Xứ Huế vẫn nổi tiếng là nơi có lắm đồ cổ từ bao nhiêu đời vua này chúa khác dồn dập lại. Nhờ ở sự hiểu biết truyền thống, bà có con mắt nhìn rất tài tình, ước lượng được ngay cái nào vào thời đại nào, sau đấy xem xét kỹ dấu vết không mấy khi lầm.

Những chiếc sập chạm cẩn bằng gỗ trắc, gỗ mun xưa dành cho các bà phi tần ngồi đánh bài với nhau, hoặc những chiếc ống nhổ của đời vua này vua nọ, khi nghe ai mách bán thì bà đến mua cất đấy. Gặp khách sang trọng ở Sài Gòn ra, hoặc những ông bà nhà giàu mới mọc, muốn tạo cho mình cái tác phong quý tộc, mục đích để tẩy xóa nhanh cái quá khứ khố rách áo ôm của mình, đấy là những vị khách sộp nhất, dễ mua bán nhất. Số tiền lời những món đồ đã từng mang dấu vết của bao nhiêu thế hệ ấy là số tiền nuôi sống cả gia đình, không đến nỗi chật vật lắm.

Cuộc cách mạng và tiếp đến cuộc nội chiến đã làm xáo trộn tất cả những nền nếp cũ, mấy năm qua rồi mà chưa có một dấu hiệu nào báo tin ngừng chiến tranh.

Có những đứa trẻ như tụi thằng Minh, thằng Thi con dì Ba, sinh ra từ trong lòng cuộc chiến tranh, đêm nào tai cũng nghe tiếng bom, tiếng súng, tiếng máy bay. Chúng nó hầu như đã quá quen thuộc nên không còn biết đến những lối chơi gì khác hơn là chơi chiến tranh với nhau. Nếu có ai dạy cho chúng một trò chơi thanh bình hơn thì có lẽ chúng sẽ ngạc nhiên bỡ ngỡ và không mấy khi chịu chấp thuận.

Người lớn, cỡ ông bà Hải đã từng biết thế nào là những năm tháng thanh bình, thế mà rồi cũng hầu như chai sạn. Con người, nhất là những dân tộc sinh ra trong một nước bé nhỏ, cũng như những con vật bé nhỏ, có một sức chịu đựng rất kiên nhẫn, rất dẻo dai. Như kẻ cúi đầu đi trong mưa bão, mưa gió quất từng hồi vào mặt, vào thân mình, mà vẫn đều chân bước, chỉ có mím môi và thỉnh thoảng đưa tay lên vuốt mặt cho nước chảy xuống mà thôi.

Người dân một nước bé nhỏ chỉ biết thở dài, cố rèn sức chịu đựng, mặc dầu cuộc sống khó khăn vẫn phải bám chặt lấy. Ở ngoài kia, mỗi lần máy bay đến dội bom cháy hết rồi nhưng chỉ độ một tháng sau, hàng quán lại mọc lên. Những chiếc quán lá do những chủ nhân còn sống sót, với chút tiền được dắt trong lưng, đã tìm đến mua ít thanh tre, dựng lại cái quán khác. Rồi cũng lại bán cháo, bán chè hoặc vài món ăn thanh đạm cho khách qua đường khi dừng chân nghỉ.

Ở trong này, mặc dầu có những lời dọa nạt, mặc dầu có những sự bố ráp hoặc lựu đạn ám sát, người dân cũng vẫn đi tìm cái sống cho mình.

Quân đội Pháp trở lại, nhưng uy tín đã mất đi khá nhiều. Quốc trưởng Bảo Đại được mời từ Hồng Kông về, miền Nam có Thủ Tướng nhưng hết ông này lên ông khác xuống, làm cho người dân cảm thấy mệt mỏi.

Ông Bảo Đại vẫn phàn nàn với các bạn của mình rằng: “Tôi có hai mươi lăm triệu dân, thế mà không lập được một cái chính phủ cho vững chắc chỉ vì trong số hai mươi lăm triệu người dân ấy, người nào cũng muốn làm Thủ Tướng chứ không chịu xuống chức Bộ Trưởng nữa. Như thế bảo làm sao tôi không gặp sự khó khăn.”

Lời nói tuy cốt để biện bạch cho sự bất lực của ngài, nhưng cũng chứng minh cái tính nhiều tham vọng và không chịu đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi cá nhân của một số đông người dân Việt.

Sự lựa chọn cho Vinh học luật đã định đoạt cả một tương lai của thằng con trai. Hai vợ chồng ngập ngừng không biết nên gửi Vinh vào Sài Gòn hay xin cho con sang Pháp; Vinh còn ít tuổi, xin đi không khó nhưng đi xa quá, những mấy năm trời, liệu gia đình có chịu nổi sự nhớ thương cách biệt đó không.

Trong nhà hiện tại chỉ còn mỗi Vinh là lớn nhất, các con khác đã lạc loài mỗi đứa một nơi cả rồi. Thiếu Vinh ai là người đàm đạo với cha mẹ, giúp cha trong các thứ mua bán sách vở, giúp mẹ lo làm các thứ giấy tờ hóa đơn khi có một món hàng bán ra.

Sau một tuần lễ cân nhắc, đêm nào cũng thức đến hai, ba giờ sáng để bàn bạc, cả ông Hải và vợ đều đồng ý phải để cho Vinh xuất dương. Xin xăm ra ngài cũng dạy như thế. Hiện tại còn có phong trào rủ thanh niên lên chiến khu, ông Hải và vợ không muốn mất đứa con quý nhất của mình. Đi ra ngoại quốc, ngoài sự học được nhiều điều mới lạ, còn tránh khỏi cái nạn bị lùa lên khu. Vinh dại dột có thể theo lời chúng bạn tuyên truyền mà quên cả cha mẹ đi chăng.

Nghe cha mẹ nhất định xin cho mình đi học ở Pháp, Vinh không đòi xe máy dầu nữa. Thằng con trai nào lại chẳng có cái mộng xuất ngoại, nhất là khi biết tin mấy thằng bạn vừa thi đỗ cùng khóa cũng được cha mẹ lo sợ gửi đi cả. Đứa định học thuốc, đứa học kỹ sư, học văn chương, đi như thế này không những khỏi bơ vơ mà còn vui. Vì vẫn được gần lũ quỷ sứ từ trước đến nay, nghĩa là từ năm thứ nhất ban trung học chúng nó đã không lìa nhau.

Chỉ còn có ba tháng nữa thì nhập học ở Pháp, thời gian vừa đủ cho các cậu chạy giấy tờ ở trường, giấy thông hành và mua sắm các thứ hành trang.

Nghe mọi người dọa Paris lạnh lắm, mỗi năm chỉ vẻn vẹn có ba tháng là được cởi áo khoác, còn thì lúc nào cũng ru rú trùm từ đầu xuống chân. Bà Hải cũng như các bà mẹ khác, tíu tít lo sắm những bộ áo trong, áo ngoài cho thằng con, bỏ bê cả công việc buôn bán.

Mấy tuần cuối, tha hồ Vinh được mời đi ăn, hết ông chú tiễn chân đến bà o mời về nhà. Sợ Vinh sang Pháp nhớ quà Huế nên không hẹn nhau mà mọi người cùng đãi Vinh ăn món Huế. Nào bún bò, giấm nuốc, nào cơm hến, bánh bèo tùy sức của mỗi người.

Những tô bún bò lừng lựng thơm mùi sả tươi, mùi ớt bột, mùi giò heo nấu lẫn với thịt bò quyện lấy nhau tỏa ra khắp xóm, bắt ai ngửi thấy cũng phải hít mũi và nuốt nước miếng. Nhìn màu nước bún đỏ sẫm ngả ánh vàng của những đốm mỡ hòa trong ớt, bật lên những sợi bún trắng nuột nà lấm tấm màu xanh của mấy lá hành ngò non tươi, Vinh vừa bưng tô bún lên ăn vừa xuýt xoa: “Chưa ăn đã ngon rồi, làng xóm ơi!”

Càng cay chảy nước mắt bao nhiêu lại càng quyến rũ bấy nhiêu, qua xứ người dẫu có bọc theo cả trăm nghìn quan trong túi cũng không mua được một tô bún ngon lành như thế. Chỉ có người Huế, mang nặng chất núi Ngự sông Hương trong tâm hồn mới có thể tạo nên những tác phẩm đặc biệt ấy. Dầu có lấy đủ thứ nguyên liệu đưa sang dạy cho một người dân miền Nam hay miền Bắc nấu là đã thấy đổi cái mùi vị khác biệt rồi, chứ đừng nói đến sự dạy cho một cô đầm hay cô người Đức biết nấu.

Ăn chán bún bò lại được đổi món bánh bèo, bà chị họ mua cả gánh, bảo quẩy vào nhà Vinh rồi mình với các con đi xe theo để đãi Vinh ăn cho nóng.

Những đĩa bánh bèo trắng mỏng manh nở hoa tôm vàng rực, từ bàn tay dịu dàng của cô hàng mang tới. Mùi nước mắm ngọt ngào hòa chung với mỡ rán và hành lá, cũng khiêu khích cái dạ dày không kém tô bún bò.

- Tiếc quá trời không sinh ra người có cái dạ dày của con lạc đà để ăn cho nhiều, ăn rồi cất một chỗ khi mô đói ăn nữa.

- Anh Vinh đừng thèm làm con lạc đà, đi mô cũng bị người ta bắt chở đầy một lưng, khổ chết!

Thằng Minh nghe anh than thở vội tiếp lời ngay, tỏ cho mọi người biết rằng nó đã từng thấy con lạc đà.

- Anh Vinh dại chi mà làm con lạc đà, làm con lạc đà mô có bánh bèo mà ăn?

- Con lạc đà không ăn bánh bèo, rứa hắn ăn chi anh Vinh hè?

Thằng Thi hỏi anh.

- Suốt đời ăn cỏ khô với uống nước lạnh, chưa khi mô hắn được ăn một miếng bánh bèo cả.

Thằng Minh dành phần anh để trả lời câu hỏi của thằng Thi, nó tỏ ra hiểu biết hơn em vì đã mấy lần được đi xem chiếu bóng ở trong trường. Sau đấy về nhà nó còn hỏi cha, bắt cha giảng giải rất tỉ mỉ về con vật to lớn có cái cục bướu ở trên lưng ấy.

- Cậu Vinh ăn thêm vài đĩa nữa đi, qua bên Tây rồi tha hồ nhớ món Huế đó!

Chị Thiện, người chị họ, cháu gọi ông Hải bằng chú, thấy Vinh mải nói chuyện lạc đà với các em nên giục Vinh ăn thêm. Bà làm chủ một hiệu tơ lụa lớn, lúc nào có hàng đẹp về cũng không quên xé mấy thước mang cho Vinh may sơ mi, trong gia đình, chỉ Vinh là người được bà thương nhất.

- Phải chi mình có được cái bụng như con lạc đà, thì mình nuốt cả gánh bánh bèo vô trong bụng Minh, Thi hè!

- Anh Vinh nhớ nuốt cả cô hàng, không thì vô trong bụng ai chấy hành mỡ cho anh Vinh ăn?

Cô hàng nghe nói, che nón e thẹn mỉm cười, đôi má hơi hồng, hẳn đang nghĩ đến sự bị cậu Vinh nuốt vô bụng.

Nghe tin Vinh đi Pháp, những người trong họ từ trước đến giờ vẫn thương Vinh đã tỏ vẻ rất vui mừng vì thấy giòng họ nhà mình cũng có bà con đi học bên tây như ai. Tuy biết rằng thiếu Vinh thì từ nay không có ai liên lạc, không còn ai để thỉnh thoảng kéo đi ăn, đi chơi.

Nhất là bà Hải, đêm nào người mẹ cũng không quên cầu nguyện ở trước bàn thờ Phật rất lâu, xong rồi bà ra nằm trên chiếc sập ngoài hiên, gọi Vinh đến dặn dò cách ăn cách ở.

- Con nhớ lo học mau thành tài để về mà giúp nhà giúp nước, cần nhứt là đừng lấy vợ đầm, về đây ngôn ngữ bất đồng khó sống cho mình mà cũng khó sống cho người ta nghe con!

Những ý kiến này, từ hôm mới quyết định gửi đơn xin cho Vinh đi Pháp, người mẹ đã lo nhồi vào đầu óc thằng con trai. Để làm vui lòng mẹ, lần nào Vinh cũng nhắc lại câu trả lời của mình.

- Con đã nói mạ đừng lo, con chờ học rồi trở về xứ mới cưới vợ, cho mạ tự ý lựa cô mô cũng được, miễn cô nớ biết bóp chân cho mạ, biết nấu cháo cho mạ ăn, biết tưới mấy cây bầu, cây bí của mạ và biết bỏ lư trầm cho mạ khi mạ lên tụng kinh, mà đừng có Chung Vô Diệm quá là con chịu liền.

Bà Hải cảm động ứa nước mắt khi nghe con mình chỉ nghĩ toàn những sự hiếu thuận, không hề đòi vợ đẹp, vợ giàu gì cả. Nếu quả thật quan niệm của Vinh giản dị như thế thì bà tin chắc rằng Vinh sẽ không bị khổ vì vợ. Bà vẫn khuyên con nên tránh những cô gái con nhà sống bằng nghề vay lãi cầm đồ, nghề ấy theo ý bà sợ kém sự phúc đức cho con cháu ngày sau chăng.

- “Hành thuyền kỵ mã tam phân mạng” đó nghe con, liệu mà đi đứng cho cẩn thận, đi tàu bay lại còn nguy hiểm biết mấy!

- Có chi mô mà mạ sợ, cả trăm người đi chớ mô phải một mình con, tụi thằng Hiệp, thằng Hùng cũng đi một chuyến nớ!

Và người mẹ ấy nguyện ăn chay nằm đất suốt một tháng để cầu cho thằng con trai đi tới nơi về tới chốn.

···

Vinh và lũ bạn tới Paris vào đầu mùa thu, thực ra thì cũng chưa hẳn đã phải là đầu mùa thu nhưng trời Paris chỉ được có hai tháng thật nóng, còn thì hắt hiu như mùa thu. Ba ngày ngủ gà ngủ gật trên máy bay với hai đêm ngủ lại ở Ấn Độ và Ai Cập để làm quen thêm cái khí nóng còn gay gắt hơn cả cái nóng của Sài Gòn, trông mặt mọi người xuống máy bay ai cũng phờ phạc, ngoài sự thiếu ăn, thiếu ngủ còn thêm vào sự lệch lạc của thời gian và không gian.

Chỉ có thể gọi là chớm thu nên ngày vẫn còn dài hơn đêm, cành lá đã chuyển hết sang màu vàng thắm, thắm như màu những chiếc lá vừa được bác thợ vàng gắp ở trong lò lửa ra. Cũng có những thứ cây không đổi lá vàng mà đổi sang màu nâu nhạt hoặc đỏ thẫm, thành phố Paris là một cô gái duyên dáng đang thay áo mới, thi sĩ bảo thế và sự thực là như thế.

Mùa thu ở Âu châu được gọi là mùa rực rỡ nhất, tươi đẹp nhất, trời hắt hiu không nóng không lạnh. Tiếng lá xào xạc rơi, gieo vào không gian một nhạc điệu êm dịu. Thỉnh thoảng nghe hơi gió, lá rơi nhiều hơn như những nhạc công khi nhận được lệnh của bàn tay nhạc trưởng bảo mình phải tấu mạnh hơn, mỗi gốc cây là một nhạc công và gió là nhạc trưởng.

Đường sá, nếu không được xe vệ sinh đi quét dọn mỗi ngày hai lần thì chắc sẽ bị ngập lụt vì lá vàng, cả đến không khí thở cũng ngập mùi lá chết.

May nhờ ông Hải có viết thư mượn người bạn đi thuê phòng từ hai tháng trước, nên Vinh khỏi cái nạn vất vả, vác va ly đi kiếm phòng trọ. Paris vẫn nổi tiếng là khan phòng trọ cho sinh viên và du khách ít tiền.

Gian phòng của Vinh chỉ bé vào quãng độ năm thước vuông, bằng cái phòng kho chứa đồ cũ ở quê nhà, nhưng ở đây phải trả giá những đến tám nghìn quan. Qua mùa đông lạnh có sưởi còn phải tăng thêm hơn hai nghìn quan nữa, tuy vậy vẫn được gọi là giá rẻ vì nó thuộc loại phòng thuê tháng, có thể nấu ăn và giặt ủi, mỗi sáng chủ nhật bà chủ nhà còn nấu nước nóng cho mà tắm giặt.

Chỉ mỗi một vấn đề cấm tiệt là không được mang đầm về phòng sau 9 giờ tối. Bà chủ có giọng nói nghiêm nghị, cái trán thấp lè tè mặc dầu cố chải tóc vênh vang để đánh lừa mọi người. Đôi môi mỏng dánh, đánh son đỏ như ai lấy bút lông chấm vào máu quẹt lên một đường. Đôi má tô hồng như được hai cái tát của ai vừa tặng cho. Cả khuôn mặt trát hết cũng phải cần nửa ký phấn. Tất cả những thứ ấy cắm trên một tấm thân phì nộn thừa mỡ, thừa thịt. Nhìn cái bố cục của con người bà ta, Vinh chỉ muốn phì cười, nó có gì lỏng bỏng như đang chực để chảy dài ra.

- Cậu còn trẻ, nên lo học đi đã.

Giá ở vào lúc khác thì Vinh sẽ tỏ ra cho bà biết rằng Vinh từ chối không nhận một câu luân lý của người đàn bà nào khác ngoài mẹ mình ra nhưng sợ mất thì giờ. Biết chắc là bà ta sẽ không hiểu, rồi sẽ nổi cơn tự ái lên thì lại thêm phiền nên Vinh ngừng, không nói gì, chỉ khẽ nhếch mép cười rồi quay gót đi lên sau khi nhận tấm giấy biên lai để còn mang ra khai với quận cảnh sát.

Công việc dọn phòng chẳng lấy gì làm khó nhọc vì chỉ được mang theo có 20 cân nên cả giang sơn thu gọn trong một chiếc va-li. Ngoài mấy bộ quần áo rét, mấy bộ áo ngủ với vài quyển sách để đọc mỗi khi nhớ nhà, Vinh còn một tập ảnh gia đình và ảnh các cô gái Huế mà Vinh đã lần hồi ăn cắp được trong mấy hiệu ảnh quen thuộc.

Mang theo để nhớ quê hương chứ thực ra Vinh không có ý định phá phách gì, chỉ trừ mỗi một tấm ảnh của Bội Ngọc là người lý tưởng của Vinh thì Vinh mới định đi mua cái khung đặt ở bàn học để giúp thêm ý chí.

Theo câu nói của thánh hiền “trong sách có cô gái đẹp” (thư trung hữu nữ nhan như ngọc), nên Vinh cũng muốn có một tấm ảnh kẹp vào sách hoặc để trên bàn cho đúng với ý của thánh hiền.

Bội Ngọc thì quả thật cả mấy thằng bạn, đứa nào cũng phải công nhận là đẹp, người đẹp của sông Hương, chẳng thế mà trong trường từ thầy đến trò đều thổn thức.

Bội Ngọc có mái tóc hơi quăn, buông dài quá lưng, cái mũi thẳng và đôi mắt to, mới trông như một cô gái lai. Đối với người dân Âu thì cái thứ nhan sắc ấy chẳng có gì quý hóa, nhưng với những chàng trai xứ Huế chất phác thì là một kỳ công đặc biệt của ông Phán, bà Phán, cha mẹ của người thiếu nữ.

Trước nhà người đẹp lúc nào cũng thấy hai, ba chiếc xe gắn máy đậu nghiêng ngửa ở bên này bên kia đường. Lắm khi còn có cả xe hơi, chỉ mình Vinh là dân cưỡi xe đạp mà dám sắp hàng vào đám ấy. Cố nhiên, con gái, những cô con gái trẻ tuổi bao giờ cũng chỉ tìm đến những người đàn ông đã đỗ đạt, đã có sự nghiệp chức tước chứ yêu cậu học trò dài lưng tốn vải thì lấy gì mà ăn.

Vinh không bao giờ dám vào tận nhà mà chỉ lượn qua lượn lại trước đường, nếu không may gặp ông hay bà Phán thì phải vội vàng dông thẳng.

Gia đình Vinh không giàu, có tiếng chẳng có miếng, những nhà đông con gái đã mở cuộc điều tra kỹ, “năm thằng con trai mà có chín mẫu ruộng với hai ngôi nhà thì chia được bao nhiêu”. Sau cuộc cách mạng và chiến tranh, sự giàu sang chỉ đến với những ai biết chụp thời cơ, biết dùng mưu trí, biết sang đoạt, tức là những kẻ gian hùng. Gia đình ông Hải trông cậy vào sự buôn bán lương thiện của một người đàn bà thì giàu làm sao được.

Có mỗi một lần cơ hội đến, Vinh gặp Bội Ngọc trên chuyến đò đi qua sông Hương, tiếc rằng gặp người đẹp vào một lúc mà Vinh đang cởi trần giúp cô lái chèo cho nhanh qua sông vì sắp trễ giờ học. Thấy Bội Ngọc đấy mà chẳng lẽ lại vứt mái chèo trả cho cô lái để theo gót người thiếu nữ. Đằng nào nàng cũng đã thấy cái thân hình trần trùng trục của mình rồi, và Vinh đành cúi chào Bội Ngọc rồi tiếp tục chèo nốt.

Sau buổi học, Vinh luôn luôn thắc mắc về cái nhìn và nụ cười của Ngọc, không biết cô gái nghĩ gì về mình, chỉ có một lần ấy.

Mối tình câm điếc và một chiều của Vinh vẫn tiếp tục một chiều, Bội Ngọc biết có nhiều chàng chạy theo mình nhưng nàng vẫn làm bộ không thèm để ý đến ai, càng ngày nàng càng đẹp thêm và càng xa với tầm tay của Vinh thêm.

Tấm ảnh Vinh đang nắm trong tay là vật ăn cắp, Vinh biết các cô nữ sinh Đồng Khánh hay chụp ảnh ở hiệu ấy nên cũng mang phim đến rửa rồi lân la làm quen với bà chủ. Đợi một hôm bà bận việc và người thợ rửa ảnh vắng mặt, Vinh xin vào rửa hộ và rửa luôn cho mình một tấm ảnh của Bội Ngọc vừa mang phim đến bảo rửa.

Bị gái chê là một yếu tố thúc đẩy những thằng con trai ra du học ngoại quốc chứ Sài Gòn cũng có đủ thứ trường Đại Học kém gì ai. Ngày về mà trong túi có xếp mảnh bằng cấp vỗ vào kêu nghe đôm đốp, tức thì người đẹp sẽ hiện đến cuộc đời mình như những nàng tiên trong mấy câu chuyện cổ tích xưa, khỏi cần mất công, mòn giày, đi kiếm từ làng trên đến xóm dưới.

Nhưng ngày về của Vinh thì chắc Bội Ngọc sẽ không còn nữa, nàng sẽ sang ngang mất rồi, ai thèm nghĩ đến thằng học trò nghèo khổ. Để an ủi Vinh, mấy đứa bạn vẫn có một câu triết lý:

- Tre già thì măng mọc, mi đừng lo chi cho mau bạc tóc, xứ Huế khi mô cũng còn sức để sản xuất ra những thứ Bội Ngọc như rứa cả.

Thằng Hiệp muốn tỏ ra mình hay chữ còn giảng thêm:

- Bội Ngọc là một thứ ngọc bội bạc, mi mà gặp thứ nớ thì rồi mi khổ cả đời, tau có con gái không khi mô tau đặt cái tên nớ.

************
 

Chiều xuống dần, thành phố Paris thẫm như vừa được ai quét lên một lớp sơn màu xám đậm. Vinh dọn xong cái tủ, ra đừng tì tay vào cửa sổ nhìn xuống đường, đèn hai bên đường đã bật lên từ lâu. Có từng đoàn người đứng nối đuôi nhau đợi mua hàng, đấy là những người đàn bà đi làm ở sở ra, ghé lại mấy hiệu bán thức ăn nấu sẵn mua về nhà ăn ngay, khỏi mất công nấu.

Hôm nay nhằm vào ngày thứ hai, tất cả mọi hàng quán, chợ búa đều nghỉ buôn bán, chỉ còn một số cửa hiệu đóng thuế riêng nên được phép mở cửa. Mấy ngày đầu chưa sắm đủ lọ cồn với xoong chảo, Vinh cũng đã phải đi làm đuôi mua thức ăn như thế. Vì chưa tựu trường nên chưa làm thẻ ăn, mà chắc có thẻ rồi Vinh cũng chỉ ăn những hôm nào quá bận chứ ăn cơm Tây, Vinh không bao giờ thấy đủ no.

Nhìn hoàng hôn đang chậm chạp phủ xuống mái nhà, xuống bóng cây, Vinh bắt đầu cảm thấy thấm thía thế nào là sự nhớ nước nhớ nhà. Ai cũng hiểu lầm Vinh khi thấy Vinh vừa bước lên máy bay vừa cười vui vẻ, tưởng rằng tuổi trẻ chưa biết nhớ thương.

Vinh nhớ gia đình, nhớ mẹ, nhớ hai thằng em nhỏ; cảm thấy hối hận, lúc ở nhà Vinh hay trêu thằng Thi, thằng bé rất nhiều tình cảm, không thích đùa, thế mà Vinh thì lại hay đùa. Ngay cả cái hôm sắp lên máy bay, thằng Thi đến ngồi bên cạnh Vinh nũng nịu hỏi:

- Anh Vinh đi tây có nhớ Thi không?

- Nhớ chớ răng không nhớ, rứa Thi ở nhà có nhớ anh không?

- Nhớ lắm, anh Vinh đi không ai chở xe đạp đi chơi phố.

- Thi nhớ anh to bằng chừng mô?

- To bằng cái phủ Thủ Hiến, anh chịu không, còn anh Vinh nhớ Thi to bằng chừng mô?

- To bằng cái cầu tiêu của phủ Thủ Hiến.

Thằng Thi không bằng lòng hét lên, nài nỉ mãi Vinh mới chịu sửa lại:

- Thì thôi, to bằng cái chuồng heo của phủ Thủ Hiến.

Bây giờ nghĩ lại Vinh cảm thấy hối hận, tối nay Vinh sẽ viết thư về thăm gia đình, viết riêng cho thằng em một bức thư. Vinh sẽ mở đầu bằng câu chữ thật to vì thằng bé mới tập đọc “Thi ơi, anh Vinh nhớ Thi to bằng ba trăm cái phủ Thủ Hiến cộng lại, Thi chịu không”, chắc thằng bé sẽ vui lòng lắm.

Vinh lẩm nhẩm tính giờ và thấy giờ này bên nhà đang ngủ say, nghĩ đến sự thần giao cách cảm, biết đâu giờ này có người đang ngủ và đang nằm mơ thấy Vinh. Vinh muốn người ấy sẽ là Bội Ngọc, nếu quả thật có sự thần giao cách cảm thì Vinh sẽ chờ đêm đến, Vinh sẽ nghĩ rất nhiều đến Bội Ngọc, gọi tên Bội Ngọc, bắt buộc Bội Ngọc phải ngủ mơ thấy mình.

Đấy cũng là một cách trả thù mấy thằng tình địch có chức vị và có xe hơi nhà lầu, biết chắc rằng là bà Phán, mẹ của Bội Ngọc chỉ nhắm có mấy điểm ấy.

Ai mới lìa quê hương lần thứ nhất hẳn cũng đã có những phút sợ buổi chiều, sợ hoàng hôn, sợ những đêm nằm thao thức vì ngược chiều thời gian, con mắt và trí óc chưa quen thuộc với nhịp đêm ngày của hai xứ như Vinh chăng?

Gia đình, nhất là mẹ Vinh với người chị họ rất sợ Vinh “na về một mụ đầm”, nhưng Vinh tin rằng mình sẽ không “na mụ đầm” về. Mắt còn quen nhìn những tấm thân tha thướt dài như mấy cây lau cây sậy, những đôi mắt đen ướt át, những mái tóc thề phủ chấm lưng, Vinh chưa thấy lòng mình rung cảm với một nét đẹp khác, mặc dầu có hai thằng bạn sang từ năm ngoái đã thách thức trước.

- Cuộc mi đó, mi mà không mê đầm thì chặt cái đầu tau đi, đầm hắn có cái tài quyến rũ lắm, con gái Việt mình thấm chi!

Vinh chưa biết nhưng cũng đành vòng tay chờ đợi vậy, chờ xem bao giờ thì sự hấp dẫn sẽ đến với mình.

Các bạn còn nói cho Vinh rõ lý do vì sao các cậu trai Việt sang đây mê đầm, chỉ vì chơi với các cô gái Việt mới bữa hôm bữa sáng là các cô nằng nặc bắt cưới. “Bao giờ anh cưới em”, hoặc là “em đã nói với ở nhà, má biểu anh cứ viết thư về xin ăn hỏi trước đi”.

- Các cô làm mình chưng hửng, mình chơi là chơi cho qua ngày tháng, chớ mình mô có ý định làm chồng làm cha chi cho gấp. Rứa mà các cô cứ gầm ghè giăng cái tròng ra bắt mình chui cổ vô, không trốn đi răng được.

Đấy là kinh nghiệm của thằng Sĩ sang Pháp trước anh em một năm, thằng Ích còn tưới thêm:

- Tụi bay đừng đứa mô dại mà chun vô tròng cho sớm, đầm hắn vừa đẹp vừa dễ thương, đi chơi chán khi mô về xứ thì kiếm một cô con gái thiệt trẻ, thiệt hiền, tha hồ mình uốn nắn ra răng thì uốn. Cưới mấy bà khoặm ở bên ni về cho mấy bà cưỡi lên đầu, bắt mình pha cà phê mỗi sáng, học theo cái lối văn minh Âu Tây thì chịu chi nổi.

Nhờ sự xúi dục khôn dại của các bạn nên mới có mấy tháng mà Vinh đã hoàn toàn lột xác. Hình ảnh cậu học trò ngây thơ lúng túng trong bộ quần áo cắt chật, mặc dầu mới may ở quê nhà, ngày nay không còn nữa.

Một cuộc sống khác hẳn, ngoài sự học hành ở nhà trường, Paris đã dạy thêm cho Vinh rất nhiều về cuộc đời, về tình cảm, về đàn bà.

Hình ảnh Bội Ngọc cũng không còn thắm thiết như ngày mới sang, nhất là sau tin Bội Ngọc đính hôn với một vị kỹ sư, Vinh buồn mất ba ngày, cứ ngâm nga mãi hai câu thơ của Xuân Diệu:

Và nàng Bội Ngọc lấy Tiêu Lang
Cưỡi hạc một đêm bay lên trời...

Đối với Vinh thì tuy Bội Ngọc vẫn còn đấy, chưa bay lên trời, ngày trở về sẽ có dịp gặp nhưng gặp để làm gì nữa. Mặc dầu khi ra đi, Vinh đã tự lý luận với mình là Bội Ngọc không bao giờ chờ đợi nhưng trong thâm tâm cũng hy vọng rằng những cô gái đẹp thường cao số. Biết đâu rồi với đám nào cũng sẽ trật ra cả cho tới ngày Vinh về, lắm khi Vinh còn muốn cho Bội Ngọc thật khổ, gặp bao nhiêu người tình nhân đày đọa, bao nhiêu lần đổ vỡ để rồi ngày Vinh về, Vinh sẽ ra tay tế độ, Vinh sẽ nói với Bội Ngọc rằng “Chúng ta xóa bỏ hết và xây lại cuộc đời”.

Nhưng Bội Ngọc đã có chồng, thế là hết, người mang tên Tiêu Lang không phải là Vinh.

Vinh ngồi nhìn từng giọt cà phê nhỏ xuống cốc. Vinh vẫn nghiện cà phê từ thuở bé nhưng bà Hải sợ nóng trong người, không mấy khi cho con trai được uống nhiều. Sang đây sống một mình không có sự kiềm chế của mẹ, tha hồ cho Vinh uống cà phê. Vinh phải mua thứ cà phê hạt vừa rang xong chưa xay, mỗi khi uống mới lấy ra mấy thìa xay riêng. Hộp đựng cà phê phải kín như hộp đựng nữ trang của bà chúa dưới thủy cung, có thế thì mùi thơm mới không tản mác đi. Cốc cà phê tự mình pha lấy, lọc lấy bao giờ cũng đậm đà gấp mấy lần cả những cốc “express” ở hiệu.

Vinh biết rất nhiều lối pha cà phê khác, của Thụy Điển, của Ý, của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng biết để đấy chứ bao giờ rồi cũng phải quay lại với cái lối pha cà phê cổ điển của mình. Tách cà phê phải vừa đen, vừa đậm đà, tỏa mùi thơm ngào ngạt, chỉ cần thêm một thìa cà phê vun đường bột, hoặc một viên rưỡi đường miếng là đủ, ngọt quá sẽ thành xi rô mà thiếu đường sẽ hóa ra thuốc bắc.

Các cô gái Pháp có dạy Vinh một công thức để áp dụng, cốc cà phê phải đen như quỷ sứ, nóng như hỏa ngục và ngọt ngào như tình yêu. Vinh chữa lại, đen như mắt cô gái Huế, nóng như nằm trong vòng tay người yêu, ngọt như câu tỏ tình lần thứ nhất. Một tách cà phê lý tưởng phải có đủ ba yếu tố ấy thì mới nên uống, không thì ra suối uống nước lạnh còn hơn.

Đang ngồi nghĩ vơ vẩn trong lúc đợi cà phê từ trên lọc nhỏ giọt xuống thì có tiếng rõ cửa rụt rè, ba tiếng rồi hai tiếng nhanh. Tiếng gõ cửa đã dặn dò từ trước, Vinh biết ngay là cô bé Jeannine đến tìm mình.

- Sao hôm nay không hẹn mà em đến, ngộ anh đi vắng thì sao?

Jeannine cởi áo khoác, cởi đôi bao tay bằng da để ở giường rồi đến bên Vinh nũng nịu đòi hôn trước khi trả lời.

- Em cứ đến, không có anh thì về, ở nhà buồn quá, biết chắc có anh thì em đến sớm một tý nữa để pha cà phê cho anh.

- Em đi ngang qua, con mẹ chủ nhà nó có trông thấy không?

- Phòng tắt đèn, em đi rất nhẹ, chẳng nghe tiếng ai cả, chắc là đi vắng hết rồi chăng?

- Hay quá, thế thì đêm nay em có thể ở lại đây với anh.

Jeannine mỉm cười, đến ngả đầu vào vai Vinh âu yếm và tin tưởng, tim Vinh đập mạnh hơn. Trong một lúc, chàng trai quên cả cốc cà phê đang đợi mình.

Jeannine là một cô gái bán bánh mì ở đầu phố, mới có 15 tuổi nhưng to xác không ai ngờ. Ngay cả Vinh lúc mới nhìn qua cũng tưởng cô bé ít nhất là phải gần hai mươi. Nếu biết tuổi thật của Jeannine chắc không bao giờ Vinh dám mở cuộc tấn công một cách dại dột như thế. Sợ mang tiếng dụ dỗ gái vị thành niên, nhưng ở vào thời đại này thì lắm khi chính các cô gái vị thành niên lại đi tìm các cậu trai để dụ dỗ.

- Em lên giường ngủ trước đi, anh còn phải học, sắp thi đến nơi rồi, nếu gia đình biết tin anh không lên lớp chắc sẽ khổ lắm. Nhất là mẹ anh, tha hồ cho bà cụ khóc với cầu nguyện.

- Em chờ anh.

Nói xong Jeannine lẳng lặng đến mở tủ lục tìm những quần áo của Vinh, nhặt ra cái nào thiếu khuy, thiếu cúc cần mạng vá lại.

- Quần áo trong của anh đã thủng rồi, mai em mua đồ mới mang đến cho anh, vứt bỏ những cái này bớt đi, chật cả tủ!

Nghe Jeannine nói, Vinh chỉ cúi đầu xuống sách hơi mỉm cười, có cảm tưởng cô bé đang xếp tủ áo cho búp bê, chắc giỏi lắm cô bé cũng chỉ mới lìa búp bê độ hai năm là cùng. Trong lòng chàng trai dâng lên một niềm vui nhẹ nhàng, Jeannine đã chinh phục được Vinh bằng những cử chỉ nhỏ nhặt ấy.

- Mấy thằng bạn nói cũng đúng...

- Nói gì mà đúng hả anh?

- Ngày anh mới đến, chúng nó bảo rằng con gái Pháp có cả một nghệ thuật chinh phục đàn ông rất đặc biệt. Anh gặp cô nào cũng đặc biệt cả.

Jeannine bĩu môi nũng nịu:

- Em không có nghệ thuật, em chỉ yêu anh thôi, yêu không cần ngày mai và không tính toán.

- Có lẽ đấy cũng là một nghệ thuật rồi chăng?

Đêm ấy Jeannine ngủ lại phòng Vinh và sáng hôm sau Vinh dậy đưa cô bé ra hiệu bán sớm, may bà chủ nhà chẳng biết gì cả. Nhưng không phải lần nào cũng được trót lọt như thế. Mối tình của Jeannine và Vinh không kéo dài được một năm, cha mẹ cô bé biết con gái mình hư hỏng, hay trốn nhà đi ngủ lang, đã vội vàng gọi anh chàng con ông chủ bán thịt bên cạnh gả ngay. Như thế là chắc ăn nhất, người Âu châu không cần bằng cấp, chức vị như người Á châu, họ cần cuộc sống đảm bảo nghề nghiệp trước hết. Nghề bán thịt bây giờ cũng phải có học ba năm mới được ra mở hàng thịt, đấy là chưa kể mấy năm tập sự. Khi đã nên cơ nghiệp rồi thì chàng bán thịt hay chàng luật sư cũng lái xe hơi bằng nhau, ở hai ngôi nhà giống nhau, có lẽ chàng bán thịt còn an nhàn hơn, không bị thúc đẩy cạnh tranh những những nghề khác.

Trước ngày cưới mấy hôm, Vinh đưa Jeannine vào rừng Fontainebleau ở lại một đêm. Cô bé nói với cha mẹ xin đi Paris sắm đồ cưới vì cha mẹ cô bé ở tỉnh. Lên Paris thì phải ở nhà bà dì nhưng trước khi đến nhà dì, Jeannine đã khôn ngoan gọi điện thoại báo tin cho Vinh.

Hai người sửa soạn mua thức ăn nguội, nước uống, rồi lấy vé xe lửa đi thẳng đến rừng Fontainebleau. Chọn khu rừng này vì trước kia, ngày lễ và chủ nhật hai người vẫn đi từ Paris ra đây chơi suốt ngày để thay đổi không khí. Tìm thấy những chỗ có cây, có đá rất kín đáo, Vinh nẩy ra ý định một đêm nào đó sẽ mang bị với thức ăn ra ngủ lại, đợi mùa hè đẹp trời. Nói thế mà rồi mãi chưa có dịp nào để thực hiện, hôm nay muốn đánh dấu cái đêm cuối cùng, đêm không ngủ để dành cho nhau, gọi là chút kỷ niệm đặc biệt.

- Em làm sao quên anh được?

- Rồi em sẽ có nhiều bổn phận, làm mẹ, làm vợ, em có thể quên chứ sao lại không?

- Anh nên nhớ đây là một cuộc tình duyên có tính toán.

Vinh thừa biết như thế, biết cả sự đồng ý của Jeannine vì anh chàng bán thịt rất giàu, có xe D-S thượng hạng, làm vợ anh chàng này thì mỗi năm Jeannine được đi nghỉ hè ở ngoại quốc hoặc ở vùng bể sang trọng ấm áp, Jeannine sẽ được mặc những chiếc áo ngủ, áo lót rất đắt tiền mua ở các hiệu lớn, mùa đông sẽ có áo lông của những con vật khó săn bắt. Nói chung lại, lấy chồng giàu là một sự chuột sa chĩnh gạo, cô gái nào không ước ao ngày đêm, dầu cho tính ông có gắt bẳn, có già nua, hoặc có cái bụng phệ to tướng.

- Anh cầu chúc cho em hưởng nhiều hạnh phúc.

- Trời không cho chúng mình được gần nhau mãi, có phải vì chúng ta trót sinh ra làm dân của hai xứ không anh? Giá em là người Việt...

Jeannine nũng nịu hỏi người yêu.

- Em là người Việt thì anh đã bảo mẹ anh mang các thứ lễ đến nhà em để cưới em.

Nói xong câu ấy Vinh cảm thấy hơi ngượng, biết mình nói những lời dối trá vì Vinh đã hứa với mẹ để mẹ trọn quyền chọn vợ cho mình.

Sương chiều xuống mỗi lúc một lạnh hơn, hai người nằm sát vào nhau, may mắn là cả hai đều khôn ngoan lo đủ các thứ áo ấm. Vinh còn đem theo một cái túi ngủ bằng lông tơ ngỗng rất nhẹ, mở ra nằm thì ấm mà lúc không cần dùng, cuộn lại chỉ còn bằng nắm tay. Thêm hơi thở của hai người dồn vào nên không thấy lạnh mấy, Vinh rất thích thú cái ý nghĩ ngông cuồng của mình hôm nay.

Tiếng thở đều đều của Jeannine kề sát bên má cho Vinh cái cảm giác nhột ngạt khó chịu như ai đùa dai lấy cái ống bơm, bơm hơi nóng vào mặt. Vinh khẽ trở mình tránh cái ống bơm ấy, nhưng Jeannine đã đưa tay giữ chặt lại. Vinh không thể nào ngủ được dễ dàng như thế, ở quê nhà thì ngủ ngoài trời nhìn sao là chuyện rất thường, nhưng ở một xứ lạnh là một sự ngông cuồng mà ai biết chắc sẽ ngạc nhiên không ít. Cái cảm giác trần truồng, thiếu sự che chở vì nằm lồng lộng giữa trời, không có mái nhà, không có tường vách bao quanh làm cho Vinh càng thêm khó ngủ. Độ còn ở Huế, mỗi mùa hè Vinh thường trốn mẹ ra ngoài sân nằm cho mát nhưng không thấy có những cảm giác ấy. Hẳn vì nơi đây lạnh lẽo, trời ít sao, nói cho đúng thì ngủ ở ngoài sân với ngủ ở trong một góc rừng như đêm nay cũng khác nhau rất nhiều.

Mặc dầu Vinh đã cố ý chọn một chỗ kín đáo nhất, thế mà cái cảm giác lồng lộng trống trải thiếu tường thiếu mái vẫn cứ ám ảnh chập chờn. Những tiếng kêu của lũ côn trùng từ trong lòng đất vọng ra, hợp thành một khúc hòa tấu hỗn độn.

Vinh không có tài phân biệt các loại côn trùng nhưng mỗi âm thanh lọc ra vẫn khác nhau. Có tiếng kéo dài rền rĩ, có giọng trầm, giọng thanh chát chúa, tuy hỗn độn mà vẫn không chói tai như thứ nhạc xoong chảo của loài người. Hình như tất cả lũ côn trùng đêm nay trong khắp khu rừng đều hẹn nhau ca hát để an ủi thằng con trai sắp mất người yêu.

Thỉnh thoảng Vinh lại giật mình, tưởng có người nào đến cạnh, thì ra chỉ là tiếng đập cánh của lũ chim đi tìm mồi ăn đêm.

Vinh chợt nghĩ đến câu chuyện “Những vì sao” của Alphone Daudet, so sánh mình với người chăn cừu và Jeannine với con gái chủ trại. Vinh hơi xấu hổ vì anh chàng chăn cừu ấy trong sạch quá, tình của anh ấy tinh khiết quá, có đâu như thứ tình của Vinh. Sự đưa nhau vào khu rừng không phải chỉ có mỗi mục đích nghe sao thầm thì trên trời hay nghe côn trùng tấu nhạc trong lòng đất, mà còn một mục đích khác... Dầu sao đêm nay đối với Vinh cũng là một trong những đêm đặc biệt khó quên, không phải tình cờ mà đến, cố nhiên. Nhưng ở đời có nhiều người chẳng bao giờ biết đánh dấu những cái gì đặc biệt, mặc dầu họ có đầy đủ hoàn cảnh để làm.

Trong tâm hồn Vinh như còn tiềm tàng ẩn giấu một nhân vật man rợ, chất phác của thời đại nào xa xôi lắm. Được hòa mình với thiên nhiên, với cây cỏ là một niềm thích thú nhất mỗi khi có dịp và thế nào Vinh cũng phải tìm đến. Lìa thành phố, lìa những nơi tụ họp đông đúc để được ngồi một mình hàng giờ nhìn ra bể cả, hoặc một ngọn núi sừng sững trước mặt, rồi sau đấy có làm gì thì làm. Như anh nghiện sau khi hút qua vài điếu mới đủ ý chí, Vinh nghiện núi, nghiện sông, nghiện bể, hoặc những quãng đồng bao la. Nơi nào tầm mắt có thể phóng được ra thật xa, không bị những mái nhà, những cánh cửa sổ làm vướng víu, thế là đủ làm cho Vinh sung sướng gợi hứng, không cần gì hơn nữa.

Jeannine ngủ khá ngoan, không ồn ào, nhờ thế Vinh tha hồ thả tâm tư chơi vơi nghĩ đến rất nhiều vấn đề mà không bị những tiếng ngáy, những cái đạp chân, cái đấm tay đến quấy rầy. Nhìn cô con gái mê mệt sau những phút thỏa mãn vật chất, giống hệt như con vật sau khi được ăn no tìm một góc nhà nằm ngủ cho tiêu thức ăn. Vinh cảm thấy mình hơi ác đối với Jeannine, như thế sao có thể gọi là tình yêu, hay là tình yêu đi từ lúc nào, nhẹ nhàng không báo cho ai biết.

Vinh không đồng ý với mấy thằng bạn đó nữa, các cô gái Pháp có một nghệ thuật chinh phục rất cao độ thật, nhưng còn bao nhiêu tình tiết khác tế nhị hơn, bé nhỏ hơn, mà phải là những kẻ chịu chung một nền giáo dục, một nền văn hóa mới cảm thông với nhau được chăng?

Jeannine đi lấy chồng thật đã hợp lý và đúng lúc, giúp cho Vinh khỏi phải thắc mắc mà vẫn không mang tiếng là phụ phàng. Chàng trai thầm cảm ơn sự tính toán của những bậc cha mẹ.

Suốt mấy tháng trời theo dõi tình hình biến chuyển của quê hương với mặt trận Điện Biên Phủ, với hội nghị Genève, người dân Việt Nam yêu nước không ai là không bị dằn vặt đau khổ. Một lần nữa đất nước bị cắt đôi, không phải là con sông Gianh mà là con sông Bến Hải, một quyết định to tát như thế mà người dân không được thăm dò ý kiến, chỉ có ngơ ngác và phục tùng vâng theo, dọn dẹp hành lý để lên đường rời nơi chôn nhau cắt rốn.

Ngoài sự an ủi rằng cuộc chiến tranh giữa anh em một nhà, một xứ sẽ nhờ đấy mà chấm dứt, có những kẻ phải bỏ hết cơ nghiệp tài sản để lên đường di cư vào Nam.

Người dân Việt Nam, những người vừa ghét Cộng Sản vừa không chịu nổi sự ngoan cố của chính phủ Pháp đã vui mừng có lẽ hơi vội vàng, tưởng tìm được ở đây một giải pháp hòa bình. Họ tin tưởng ở sự thanh bạch của ông Ngô Đình Diệm, vị Tổng thống tu hành và không có vợ con. Để bênh vực cái lập luận ấy, họ đưa ra những lời giảng dạy của đức Phật khi Ngài chấp nhận cho đàn bà được đi tu, Ngài đã chua xót mà báo trước rằng một tôn giáo nào có chen phái nữ vào thì sự tồn tại của tôn giáo ấy chỉ còn lại nửa phần mà thôi.

Những chính phủ trước, ông nào cũng đùm đề nào vợ cả, vợ lẽ, nào nhân tình, bạn gái, bà con bên vợ v.v... Khi các bà nhúng mũi vào công việc của chồng thì không bao giờ ngoài hai yếu tố, tình cảm hoặc lợi lộc. Nước Việt Nam do đấy mà điêu đứng hàng nghìn năm chưa cất được đầu lên.

Nhưng sự kiện này không phải lỗi ở người đàn bà Việt Nam tham lam mù quáng, mà lý do chính đáng là vì sự mù quáng của tổ tiên ông cha ngày trước. Người đàn bà Việt Nam vốn khôn ngoan, tháo vát, chăm chỉ và rất thông minh. Với những đức tính vàng ngọc ấy, nếu được rèn luyện, học hành đầy đủ như con trai thì sẽ là những yếu tố xây dựng xã hội rất vững chắc. Đáng tiếc người xưa không hiểu như thế, lại đưa cái giáo dục và luân lý của Trung quốc, cái luân lý trọng nam khinh nữ chỉ có thể áp dụng với người đàn bà Trung Hoa hoặc người đàn bà của những xứ khác, mà không thể mang áp dụng với người đàn bà Việt Nam. Đấy là một sự lầm lẫn rất lớn, có ảnh hưởng không ít cho vấn đề tiến triển của một dân tộc, một quốc gia.

Thử nhìn lại lịch sử Đông Tây, đã mấy nước có được những vị nữ tướng anh hùng đứng lên khởi nghĩa đánh giặc như bà Trưng, bà Triệu, mặc dầu xã hội ở thời đại ấy, cuộc sống của người đàn bà còn bị gò bó thắt chặt biết bao nhiêu.

Cái tiếng tu hành đạo đức lại không vợ của một vị lãnh tụ đã mang lại cho người dân Việt Nam nhiều tin tưởng mới. Cuộc tổng tuyển cử tuy có sự gian dối, nhưng ứng cử viên thứ hai chưa hề làm được một sự gì từ trước đến nay cho dân chúng nhận thấy ai xứng đáng hơn ai, nên mọi người cũng nhắm mắt chấp nhận luôn sự gian dối ấy. Không chấp nhận cũng chẳng được nào, những nhà tù trại giam sẽ sẵn sàng lên tiếng.

Mặc dầu trong nước còn một số những kẻ sống với quan niệm Khổng Mạnh cũ “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”, nhưng trong lúc nước nhà lao đao, “thần” ngồi nhà ngóng “quân”, thì “quân” sang bên Cannes cho khỏe tâm khỏe xác. Con ốm nặng mà mẹ bỏ đi khiêu vũ mỗi đêm thì con nào không buồn giận. Quốc trưởng Bảo Đại đã tỏ ra hờ hững với nước nhà, hờ hững hay là bất lực thì cũng thế.

Người dân Việt Nam không đòi hỏi gì ngoài sự được yên thân để làm ăn, cần một chính phủ lành mạnh, có uy tín để bảo vệ cho đất nước.

Chính phủ Ngô Đình Diệm hứa hẹn như thế, theo hiệp định Genève, quân đội Pháp và công chức Pháp phải lui dần. Mặc dầu có kẻ bảo ông Diệm là người của phái Thiên Chúa giáo Pháp nhưng không phải vì thế mà người Pháp được ở lại, được làm mưa làm gió như thời trước.

Tội nghiệp cho những người Pháp quen sống ở xứ thuộc địa, đang sung sướng với bao quyền hành trong tay mà bỗng dưng bị mời đi, bảo họ không tức giận sao được. Đường lối chính trị của chính phủ Pháp ra sao họ không cần biết, chỉ biết rằng phải dọn dẹp để trả chỗ cho người Việt trong một thời gian ngắn. Họ đành uất ức tính chuyện hồi hương, về lại nơi quê hương lạnh lẽo xa lạ và khó làm ăn vì dân tình quá khôn ngoan chứ không chất phác tình cảm như những chú nông phu Việt Nam mà họ đã từng quen sai khiến.

Để bớt tức giận, người Pháp thường kể cho nhau nghe câu chuyện đùa làm quà, được hoan nghênh nhất là câu chuyện “buổi tiệc của Thượng Đế”. Một hôm Thượng Đế có ý muốn gặp tất cả mấy vị quốc trưởng vua chúa ở hạ giới, ngài gởi giấy mời quý vị ấy lên trời xơi tiệc. Nhận được giấy mời cố nhiên là quý vị đều lục tục kéo nhau lên. Thượng Đế muốn tỏ lòng ưu ái đối với quý vị quốc trưởng quốc vương nên khi Nam Tào khai tên vị quốc trưởng nào đến cửa, ngài cũng đứng dậy chào. Đến lượt Nam Tào báo tin có ông Ngô Đình Diệm quốc trưởng nước Việt Nam, Thượng đế ngồi yên không hề nhấc chân. Nam Tào ngạc nhiên đến ghé sát tai trách thầm:

- Muôn tâu Thượng Đế, tại sao ông Ngô Đình Diệm cũng là quốc trưởng, mặc dầu nước Việt Nam tuy bé nhỏ chỉ có hai mươi lăm triệu dân, nhưng còn nhiều nước bé hơn. Tại sao ngài đứng dậy khi những vị quốc trưởng khác đến mà với vị quốc trưởng này ngài cứ ngồi lì, như thế hạ thần nghĩ rằng ngài sẽ làm buồn cho dân chúng Việt Nam chăng?

- Chú mày chẳng biết gì cả, ta mà đứng lên thì ông Diệm sẽ dành mất chỗ ngồi của ta.

Lúc bấy giờ Nam Tào mới vỡ lẽ ra...

Câu chuyện được kể đi kể lại, thêm bớt rất nhiều, chứng tỏ sự uất ức của mấy ông thực dân tiếc của.

Đối với dân chúng Việt Nam thì miễn ai mang lại sự no cơm ấm áo, sự yên tĩnh là được chấp nhận ngay. Người dân quê không đòi hỏi những gì cao xa mà chỉ cần những gì đơn giản cụ thể.

Những năm tháng này tạm gọi là bình yên hơn trước, người dân quê khi gieo mạ mà dám hy vọng đến ngày gặt được lúa, cũng như khi trồng ngô khoai mà không thắc mắc đặt câu hỏi, rồi liệu có thể được trông thấy củ khoai, liệu những củ khoai, những thúng lúa này có đổi mang lại thành những tấm áo, những quyển sách cho con đi học.

Như thế không phải là đã sung sướng rồi hay sao? Nhờ trời sẽ có một ngày con sông Bến Hải không còn là con sông căm hờn cách chia đôi lứa, mẹ con nữa. Ai sẽ được về xứ ấy, ai sẽ được về nhà nấy, vận nước không lẽ cứ còn xui xẻo mãi.

Gia đình ông Hải mặc dầu bao nhiêu đời làm quan, cuộc sống đóng khung trong mấy bộ tứ thư ngũ kinh của Khổng Mạnh, nhưng hiện tại cũng đã hoàn toàn đổi khác. Từ ngày quân đội Pháp chặt mất hai gốc cây ở Kỳ Ngộ Trang, cả hai vợ chồng đều nghĩ rằng giòng họ nhà mình thế là tan vỡ, không còn mong gì cất đầu lên nổi. Nhưng rồi dần dần cuộc sống cũng tạm yên ổn. Các con đã lớn, tuy mỗi đứa lạc loài một nơi nhưng tin về vẫn lành, vẫn còn đủ mặt trên cõi trần, không phải như những gia đình khác. Sơn đã có gia đình riêng với vợ con, Vinh, đứa con trai chờ đợi đã tỏ ra xứng đáng với sự chờ đợi của cha mẹ. Mỗi năm lên một lớp đều, sức khỏe và vấn đề học hành thi cử là hai điều mà người mẹ ấy luôn luôn cầu xin.

Hình như lời cầu xin đã đến tai Trời Phật, bà Hải không còn mong gì hơn là ngày hồi hương của thằng con trai.

- Mình ơi, có thơ thằng Vinh.

Mỗi lần nghe tiếng gọi của chồng từ ngoài cửa với ba chữ “thơ thằng Vinh” là dẫu tiên có xuống múa bà Hải cũng bỏ đấy để chạy ra đón bức thư của thằng con quý.

Lần này Vinh báo tin thi đỗ, xin phép cha mẹ cho đi chơi một vòng Âu Châu nữa rồi sẽ lên máy bay về xứ, bà Hải mừng quá, không biết nói gì, trong đầu óc bao nhiêu là hy vọng. Thư Vinh còn chua thêm mấy dòng riêng viết riêng gửi mẹ và câu cuối cùng là “Mạ đừng lo, con không na mụ đầm mô về xứ cả, mấy thằng bạn con hắn đã na về nhiều lắm rồi”.

Người đàn bà đưa vạt áo lên chấm hai giọt nước mắt khóc vì quá cảm động, nếu ví cuộc đời của vợ chồng ông Hải như hai gốc cây đã bị chặt đi thì Vinh là một hạt giống nhỏ được lũ chim tha vào rừng. Hạt rơi xuống đất và được bàn tay Thượng Đế trông nom cho mọc lên lại.

Công việc trước nhất của người mẹ sau khi nghe con thi đỗ và sắp trở về nước là đi thẳng lên bàn thờ Phật thắp mấy cây hương để cảm tạ và cầu xin cho chuyến trở về của thằng con trai cũng bình yên như chuyến đi cách mấy năm trước.



********************



Sau khi Jeannine lấy chồng, Vinh gặp thêm một số các cô gái ngoại quốc nữa, nhưng rồi cô nào cũng chỉ ở có vài tháng, lâu lắm là một năm. Cảm tình đến và đi nhẹ nhàng không mấy khi báo trước. Một vài câu nói giận hờn, một lần lỗi hẹn là đủ để cắt đứt.

Cuối cùng Vinh có dịp làm quen với một cô gái Việt. Không bao giờ thằng con trai làm quen với một cô gái mà có ý định ngay rằng sẽ cưới cô này về làm vợ, trái lại rất nhiều cô con gái mới gặp cậu con trai là đã có sự nhắm bắt làm chồng mình rồi.

Nam Trân, cô bạn mới của Vinh cũng ở vào hoàn cảnh ấy, mặc dầu mới có ngoài hai mươi tuổi mà cô gái đã lo lắng chỉ sợ nhỡ tàu. Gặp Vinh, thấy Vinh chưa mang nhẫn, học hành cũng sắp xong và mặt mày lịch sự, Nam Trân có ngay ý nghĩ bắt cho được thằng bé.

Nam Trân là người Nam nên cử chỉ bạo dạn, vóc người to lớn lại thêm sống mấy năm bên Pháp, thuở bé được cha mẹ cho đi học trường Pháp, nên nàng có đủ những nét bắt chước của những cô gái Âu. Níu được Vinh rồi Nam Trân nhất định không bao giờ chịu rời Vinh một bước.

Mỗi lần mấy thằng bạn trong nhóm Bún Bò gặp Vinh là chúng nó nhao nhao lên phản đối. Vinh và các bạn đã chia ra miền Nam là hủ tiếu, Bắc là phở tái và miền Trung là bún bò. Không phải có ý muốn chia rẽ ba miền nhưng nhận thấy dân mỗi miền có một sở thích riêng, quan niệm về cuộc đời cũng có nhiều điểm khác nhau. Dân miền Nam mà cho ăn bún bò thì xuýt xoa trợn lên trợn xuống, cũng như dân Trung đói mà cho ăn hủ tiếu cũng chỉ ăn cho qua bữa chứ không lấy gì làm thích thú. Có món phở tái là dễ tiêu nhất nhưng người Nam sẽ buồn nếu không được thêm vào đấy mấy cọng giá sống.

Không biết những người khác có chấp nhận sự phân chia ấy không, nhưng đối với Vinh và lũ bạn thì đứa nào cũng đồng ý rằng đấy là một sự kiện “bất khả kháng”.

- Chị Hai mi đi mô bữa ni mà không lẽo đẽo theo giữ mi, Vinh?

Một đứa khác tiếp lời:

- Răng bữa ni chị Hai mi can đảm rứa, dám thả cho mi đi một mình, không sợ đầm hắn tha đi hả?

- Thôi mi ơi, thà mi kiếm con đầm thiệt, tóc vàng mắt xanh coi còn dễ thương, chứ cái thứ mít không ra mít, tây không ra tây nớ, về nhà mạ mi ngửi răng cho nổi.

Thằng Sĩ ác mồm ác miệng nhất, nó đến bắt Vinh cúi cổ xuống chỉ cho các bạn xem:

- Coi cái kiềng tròng làm trầy cổ thằng Vinh hết đây tụi bây ơi!

Chúng nó ác như thế mà Vinh chỉ cười, vì biết rằng chẳng thằng nào ưa Nam Trân, thấy cô nàng cứ giữ riết lấy không chịu thả cho Vinh thỉnh thoảng được đi họp mặt riêng với bạn bè. Có những buổi đi chơi, đi ăn mà mấy thằng bạn trai chỉ muốn được riêng biệt với nhau chứ không thích có chen thêm vào một cô bạn gái. Thêm một cô bạn gái, nhất là loại bạn gái như Nam Trân thì câu chuyện sẽ bị xoay chiều, khác hẳn với khi chỉ có riêng tụi con trai. Đối với phái nữ chắc cũng như thế, nhưng Nam Trân nhất định không chịu hiểu.

Mặc những lời chế giễu của các bạn Vinh, Nam Trân nghe mà cứ lờ đi, không thèm để ý, chỉ cần đạt được mục đích là bắt Vinh phải cưới mình trước đã.

Sự tấn công ồ ạt của Nam Trân làm cho Vinh sợ, các cô gái Pháp cũng tấn công nhưng có nghệ thuật hơn, nghệ thuật ở chỗ không đề cập đến chuyện cưới xin một cách quá vội vàng. Có nhiều cô gái Pháp khi tìm đến các cậu cũng chỉ để cho có người bạn trai, khỏi cô đơn những chiều thứ bảy chủ nhật, lúc cần đi nhảy hoặc đi chơi đâu thì có người đưa đi mà thôi. Sự cưới xin lắm khi đối với các cô cũng là một cái vạ, vì cưới nhau rồi sẽ còn bao nhiêu vấn đề phức tạp khác ồ ạt kéo theo, nào nhà cửa, nào con cái v.v...

Các cô gái Pháp gặp người yêu thì âu yếm dịu dàng, ngả ngay vào lòng nói chuyện nhớ thương, yêu đương, đủ thứ để làm say mê con người, nhất là những chàng trai xa xứ. Các cô gái Việt không thế, gặp là phải mặc cả xong xuôi đã rồi muốn gì mới được sau, những phút đến sau ấy dầu có êm dịu đến bao nhiêu cũng mất đi rất nhiều thi vị.

Nam Trân gặp Vinh không hỏi thăm sức khỏe, sự học vấn gì cả, câu hỏi thứ nhất là:

- Anh đã viết thơ về nhà chưa?

- Anh chưa có thì giờ.

Vinh không biết nói dối nên lúc nào cũng thẳng thắn trả lời, hoặc có khi Vinh còn ngây thơ bảo viết rồi thì Nam Trân sẽ hỏi ngay câu tiếp theo:

- Anh nói thế nào?

- Chẳng thế nào cả, thư thì bao giờ cũng thăm viếng và hỏi chuyện học hành chứ còn gì nữa đâu.

Thế là cô nàng xìu xuống như cái bánh đa phải mưa, mãi sau Vinh mới tìm ra được lý do. Giá người con gái ấy khôn hơn, cứ để cho Vinh yêu mình mà không đòi hỏi, không mặc cả thì có lẽ sau đấy khi học hành xong, Vinh sẽ viết thư nói khó với mẹ, xin lại mẹ lời hứa cũ, rồi sẽ đưa Nam Trân về quê cùng một lần với mình.

Yếu tố ưu tiên của Nam Trân là không phải người ngoại quốc, mặc dầu những món thịt kho, cá kho lẫn với trứng vịt đối với Vinh là một sự hơi khó nuốt; hoặc những miếng thịt mỡ cắt bằng nửa bàn tay mà Nam Trân hay gắp bỏ vào bát cơm của Vinh làm cho Vinh cụt hứng hết muốn tiếp tục, dầu sao hai người cùng nói chung một thứ tiếng. Mẹ Vinh sẽ hiểu con dâu mình nói gì, thế là đủ lắm rồi. Nhưng Nam Trân nóng tính, cái gì cũng muốn nắm chắc, ăn ngay, do đó mà hay có sự giận hờn cãi cọ. Mỗi lần nhìn Nam Trân ngủ, đôi môi dày lúc ngủ không có sự kiểm soát và son phấn được cạo sạch nên trông đôi môi lại càng dày hơn, chứng tỏ sự vật chất của con người đang độ rất cao làm cho Vinh hơi lo ngại. Tầm mắt vẫn quen nhìn từ thuở bé những đường nét thanh thanh dịu dàng, Nam Trân cũng như một số cô gái khác ra ngoại quốc đã để cho mình bị ngoại hóa mà không biết.

Những chi tiết vụn vặt trong lúc ăn, lúc ngủ ấy đã dồn dập lại như những lớp vôi đóng dưới đáy cốc lâu ngày không được chùi, lớp vôi đã ngăn chắn nẻo đường của tình cảm. Vinh chưa khi nào nhận thấy mình yêu Nam Trân, cũng như Nam Trân yêu mình, hai người chỉ cần dùng nhau, đúng hơn nữa là chỉ có Nam Trân cần dùng Vinh.

So với Bội Ngọc, với cả Jeannine, Vinh cũng thấy tim mình còn có nhiều lần thổn thức hơn.

Nam Trân càng lo sợ lại càng xa cách người yêu, Vinh nhất định sẽ có một hôm nào nói dứt khoát với Nam Trân vì tuổi trẻ và nhan sắc của người con gái rất ngắn ngủi. Nam Trân cần ngay một tấm chồng, Vinh phải để cho nàng rỗi tay mà đi tìm nơi khác, sự có mặt của Vinh sẽ trở thành một thứ chướng ngại vật chăng?

Ý định như thế nhưng Vinh vẫn cứ khất lần, thằng con trai hay sợ cảnh khóc lóc của người yêu.

****************


Chiều nay trời lạnh hơn mọi hôm, mười hai độ dưới không, giữa mùa đông trời vẫn lạnh, cây cảnh khẳng khiu như những đốt xương ai mang từ tha ma về ghép lại để dọa nhau chơi. Những đốt xương cây vẽ từng nét thẫm lên nền trời tái xám, mỗi nét lại được viền thêm bên dưới một đường tuyết trắng tinh khiết, thứ tuyết chưa kịp tan khi rơi xuống thì gặp một làn gió buốt thổi về, tuyết bắt buộc phải ngủ đỗ lại với cây.

Trời nặng nề và hạ trĩu xuống thấp như được bàn tay nào đổ một lớp chì dày ở bên trên, người đi đường rảo bước, ai cũng trùm đầu trùm tai cho khí lạnh khỏi vào tai vào mũi. Từng lớp khói xám đậm nhạt từ những lò sưởi trên mái nhà bốc lên không ngừng, góp thêm màu xám nặng nề với không gian. Paris run rẩy cúi mình dưới màu xám của trời, của mái nhà, của khói bụi, không có gì khoác nên lại càng lạnh lẽo hơn.

Nếu không nhờ những lỗ thông hơi từ dưới mấy con đường hầm xe lửa thổi lên phì phà, chắc Paris còn lạnh lẽo hơn biết mấy.

Vinh đang cúi đầu bước từ miệng hầm xe lửa lên, ra khỏi hầm bao giờ cũng run vì dưới hầm ấm quá.

- Anh Vinh.

Nghe tiếng gọi, nhận ra được giọng Nam Trân, Vinh giật mình ngơ ngác nhìn ra chung quanh nhưng Nam Trân đã đứng gần sát bên cạnh.

- Sao Nam Trân làm gì mà đứng vậy?

- Chờ anh, em biết thế nào anh cũng lên lối này.

- Chờ sao không vào cà phê Clunny mà chờ, có phải khỏi bị lạnh không, đứng chi ngoài cho Ả-rập nó phá.

- Vào quán cà phê không nhìn thấy anh đi qua thì sao? Anh ăn cơm chưa? Xuống quán cụ Hồ ăn với em đi, em bao anh hôm nay đó!

- Anh vừa ở Foyer ra ăn gì được nữa, hôm nay có mấy đứa nó kêu mệt không ăn, dồn thịt qua phần anh, bắt anh phải chở hết, bây giờ thì chỉ có về làm cà phê uống rồi học và ngủ thôi.

Nam Trân phụng phịu nghe Vinh từ chối, nàng chỉ muốn đi cùng với Vinh đến những nơi nào có mặt nhiều người Việt, cho đó là một sự ràng buộc tinh thần gián tiếp. Trái lại Vinh muốn tránh những cái quán cụ Hồ, quán ông Diệm, vào những nơi ấy hay có sự dòm ngó của cả hai bên, Vinh cũng không thích quen với nhiều người, cho rằng đấy chỉ là một sự mất thì giờ vô ích. Vinh có thằng bạn thân, nó vẫn tuyên bố: “Tao chỉ chơi với những đứa nào có tài có đức, còn thì loại ra cả vì tao không có dư thì giờ để dành cho những đứa thiếu đức thiếu tài.” Câu nói mới nghe qua có vẻ tự phụ, nhưng nghĩ kỹ lại thì thằng bạn ấy không hẳn đã hoàn toàn vô lý.

Biết không thay đổi được ý định của Vinh, Nam Trân đành phải đi ăn một mình. Vinh chỉ tiễn đến trước cửa rồi từ giã nàng trở về phòng trọ, viện cớ cần học thi. Thực tình Vinh không thích những chàng sinh viên cộng sản, quan niệm tư tưởng chẳng giống nhau thì gò ép chào hỏi hoặc chuyện trò với nhau làm gì. Nam Trân không hiểu như thế, đã bảo rằng thương yêu nhau mà không hiểu nổi những tình tiết riêng của nhau thì cảm tình ấy đâu có thể gọi là thứ cảm tình có gốc rễ.

Thấy Nam Trân chỉ vào hiệu ăn có một mình, mọi người hơi ngạc nhiên. Hoa, bạn thân của Nam Trân, vội vàng chạy đến ngồi cùng bàn để nói chuyện:

- Bồ đâu, sao đi có một mình buồn quá vậy?

- Bồ gì mà tính lì như gấu, bảo vào đây ăn cũng không, bảo ngồi chơi chờ người ta ăn rồi đưa người ta về cũng không, ghét thả cho về mất rồi. Con trai Huế dễ ghét lắm.

- Vậy chứ đầm gọi bảo chạy đâu thì chạy đó, mình cũng phát tức với mấy thằng cha ấy.

Hoa kém nhan sắc thua Nam Trân, từ độ sang Pháp không hiểu vì khí hậu hay vì sự ăn uống mà Hoa lên mười cân. Thân hình vì thế mà đâm ra mất quân hình, con gái Việt đã thiếu bề cao mà nếu chỉ có ra bề ngang thì chẳng mấy lúc sẽ trở thành một bức tường. Để an ủi số 10 ký thịt thừa ấy, Hoa nhất định đi làm chính trị và trong số phụ nữ ở Paris, Hoa nổi tiếng là một thiếu nữ hoạt động mạnh nhất. Làm chính trị thì không cần lo đến nhan sắc, người ta quý cái thành tích hoạt động của mình chứ ai thèm để ý đến cái vật chất bên ngoài, những thứ ấy chỉ nên để dành cho các cô búp bê.

Hoa thấy Nam Trân sống ở Pháp đã mấy năm mà chẳng tìm ra được cậu nào, nên muốn tổ chức cho Nam Trân hoạt động như mình.

- Nói thật với Trân chứ mình thấy thằng cha đó gàn lắm, gặp mấy lần mà mình không thể nào chịu nổi, bỏ phứt nó đi cho rồi.

- Mình cũng đang định như thế, cho ăn cũng kêu nấu khó ăn, quan niệm tư tưởng cái gì cũng không hợp, đến đi xem chiếu bóng mà bao giờ cũng mỗi đứa thích một phim khác hẳn nhau.

- Thôi giãn đi, sinh viên ở đây thiếu gì, mình sẽ giới thiệu cho Trân hàng tá “cho xe cây chở không hết”.

Hoa nói mà không nghĩ đến mình.

***********
 


Chuyện trong bữa cơm giữa hai thiếu nữ bàn với nhau không ngờ lại thành sự thật, lý do bé nhỏ vì Nam Trân đọc lén được một bức thư của hai đứa em của Vinh ở nhà gửi cho Vinh. Đọc xong thư, Nam Trân hiểu rõ rằng không bao giờ Vinh chịu cưới mình nếu chưa đỗ đạt xong, mà đỗ đạt xong rồi thì gia đình chờ ở nhà, chờ để nhắm những thiếu nữ khác trẻ đẹp hơn, đâu có tới phần của Nam Trân. Mang hỏi ý kiến cô Hoa, cố nhiên là cô bạn đã phê bình gắt gao, giúp cho Nam Trân đủ can đảm để cắt đứt cái thứ tình dằng dai vô vọng ấy.

“ Anh Vinh,

“Nghe anh chưa có đầm mạ mừng lắm, mạ biểu Minh viết thư ni khen anh. Theo sự điều tra bí mật của hai nhà trinh thám đại tài Minh, Thi thì hình như mạ đang nhắm cho anh một cô. Một nói anh hẹn với mạ là khi mô anh về nước mới cưới vợ và anh cho mạ được toàn quyền định đoạt. Cô ni đẹp lắm, học trò Đồng Khánh, đẹp hơn Bội Ngọc của anh nhiều, so cô ni với Bội Ngọc thì cô tê chỉ đáng xách guốc cho cô ni. Anh liệu về mau kẻo mất, mạ đang định viết thơ hỏi anh rồi đi bỏ hàng rào thưa, nếu không thì nguy lắm. Anh đã phục tài của hai nhà trinh thám Minh, Thi chưa, phục thì phải liệu mua đồ thưởng đem về.”

Bức thư được Nam Trân mang ra nghiền ngẫm phân tích mất mấy hôm, cuối cùng nàng nhất định điện thoại mời Vinh đến quán “Les Assassin” ở sau phía Saint Germain des Prés để thảo luận một câu chuyện quan hệ.

Vinh vừa vào quán, thấy Nam Trân đã ngồi chờ sẵn, không đợi Vinh cởi áo khoác ngoài, Nam Trân mở ví ném bức thư ra giữa bàn, cử chỉ lạnh lùng tức giận:

- Anh khốn nạn lắm, lừa dối tôi từ bấy lâu nay, bây giờ tôi mới biết rõ cái thái độ sở khanh của những thằng như anh. Đây tôi trả lại bức thư của gia đình gửi cho anh và yêu cầu từ nay anh đừng tìm gặp mặt tôi nữa.

Vinh ngồi yên lặng nhận xét, trong lòng cảm thấy thích thú, giá có cái máy ghi âm và máy quay phim để chụp và ghi lại mang cho lũ bạn xem để chúng nó lấy đó làm bài học thì hay quá. Vinh nhận xét được một điểm đặc biệt nữa là con gái có rất nhiều tự ái, nhiều đến quên cả sự thật. Chính Nam Trân đến tìm Vinh mỗi ngày, chính Nam Trân một tay gầy dựng và nuôi nấng cái tình, nếu gọi đó là tình. Ngay từ hôm đầu cũng chính Nam Trân đã tìm đến làm quen rồi than thở, rồi kêu buồn, kêu khổ, kêu cô đơn, kêu thèm có một linh hồn bạn.

Dùng tất cả mọi khí giới để túm tóc người ta, thế mà bây giờ đổ ngược lại làm y như Vinh là tên sở khanh vào trong phòng riêng để dụ dỗ nàng Kiều rồi trốn đi không bằng...

Thấy Vinh vẫn yên lặng không nói gì, Nam Trân càng thêm bực tức. Người hầu bàn thấy khách vào nhưng quen thói thường những kẻ yêu nhau vẫn có cả thế kỷ để dành cho nhau nên không gấp, mải đến năm phút sau mới chậm rãi đến hỏi xem khách dùng gì.

- Một cà phê đen và một... cà rốt.

Vinh trả lời người hầu bàn, hơi mỉm cười vì thấy được nhìn mặt một cô gái lúc gắt gỏng. Từ trước đến giờ Vinh ít có dịp thấy, các cô gái, cô nào lúc đứng trước thằng con trai cũng hiền lành ngoan ngoãn, ngay cả với Nam Trân từ trước đến nay chỉ có phụng phịu hoặc khóc lóc chứ chưa có lần nào cho nàng cau có gắt gỏng như hôm nay.

- Sao lại cà rốt, trong hai người ai cần phải điều chỉnh tính nết cho dễ thương mà phải dùng đến cà rốt?

Vinh phì cười thấy người hầu bàn này quả đã nhanh trí và láu lỉnh, các bà mẹ Pháp thường vẫn dỗ các con ăn cà rốt vì đó là thứ làm cho con người dễ thương ra. Anh hầu bàn này khi nghe gọi cà rốt đã hiểu ngay nên mới đùa lại như thế. Nam Trân thấy cả Vinh và người hầu bàn đều muốn trêu mình, nàng giận dữ đứng dậy xô ghế nói ba tiếng ngắn ngủi “Vĩnh biệt anh”, rồi bước mau ra đóng mạnh cửa lại làm giật mình một đôi tình nhân khác đang ngồi hôn nhau trong góc.

- Cô này cần cả mấy tạ cà rốt phải không ông?

Vinh gật đầu đồng ý, chậm rãi nói:

- Bây giờ thì chỉ có một cà phê thật đậm...

Định chạy theo gọi Nam Trân nhưng không hiểu có một sức mạnh gì đã níu Vinh lại, Vinh chỉ ngồi nhìn theo và khẽ thở dài:

- Thôi thế cũng xong, biết đâu lại còn hay hơn...

Người hầu bàn mang cà phê đến, thấy Vinh buồn, biết hai người này giận dỗi nhau nên cố tìm lời an ủi:

- Đừng buồn, việc gì mà buồn, châm ngôn đã bảo rằng không bao giờ nên chạy theo một người đàn bà hay một chiếc xe buýt vì ba phút sau sẽ có một người đàn bà và một chiếc xe buýt khác đến ngay.

Vinh chỉ lắc đầu không nói gì cả, hình như trong mỗi người đều có hai người, Vinh vừa vui thích vì từ lâu vẫn có ý định dứt khoát với Nam Trân, nhưng tại sao lại có một nhân vật thứ hai đang cảm thấy buồn rầu trong lòng. Thật là phức tạp, chính Vinh cũng không hiểu nổi.

Nếu con tim mỗi người là một ngôi nhà rộng để chứa những hình ảnh thì trong tim của Vinh hôm nay có căn phòng đang trống vì một khách trọ vừa ra đi. Tất cả mọi sự đổ vỡ đều chẳng mấy khi vui, dầu cho sự đổ vỡ ấy có cần thiết, có được cả hai bên tính toán để cố tình gây ra.

Nam Trân khi ngoan thì ít cô nào theo kịp, mỗi ngày nàng tự tay làm một món chả giò hoặc gỏi cuốn, cơm bì đến bắt Vinh phải ăn, nàng ngồi nhìn Vinh ăn, săn sóc như mẹ già sinh được đứa con muộn. Gặp Vinh là con cưng nên những sự săn sóc ấy thật đã hợp tình hợp cảnh...

Thế mà hết, hết rất bất ngờ, hết một cách mau chóng, giá Nam Trân kiên nhẫn hơn, mới có hai mươi bốn tuổi sao nàng lại quá vội vàng. Tại sao người con gái chỉ nằng nặc đòi đổi cuộc đời, cho sự được đổi tên người khác là một điều đáng kiêu hãnh. Tại sao lại không kiêu hãnh tự tạo lấy cho mình một tên tuổi riêng, một cuộc sống tự lập không cần nhờ cậy đến ai, để dành cảnh núp bóng tùng quân cho những tâm hồn yếu đuối ỷ lại?

Cuộc sống của một người đàn bà mà thoát được những xiềng xích của lễ giáo phong tục thì dễ chịu biết mấy. Muốn làm một việc gì mà thấy lương tâm không thắc mắc, không cho sự ấy là bôi nhọ quê hương dân tộc, không bị tù tội vì trái luật pháp, tức thị mình có thể làm một cách đàng hoàng. Nam Trân đã sống ở ngoại quốc từ mấy năm nay, đã được tiêm nhiễm văn minh của người Pháp, có chút học thức để đọc các thứ sách triết lý đạo đức mà so sánh. Gia đình gửi đủ tiền cho xài mỗi tháng và thả cho sống tự do. Thế mà cũng không thoát khỏi những điểm thường tình, sợ già sợ ế của đàn bà từ trước nay.

Vinh chậm rãi uống cốc cà phê, không biết nên buồn hay vui, cốc cà phê cạn từ lâu, khách vào uống rượu khai vị mỗi lúc một đông hơn ban nãy nên người hầu bàn cũng bận rộn, không rỗi mà đến an ủi Vinh nữa. Vinh lặng lẽ để tiền trên bàn rồi đứng dậy ra về.

Trời đổ tuyết xuống từ nãy đến giờ nên bớt lạnh, thế mà ngồi trong quán Vinh không biết gì cả, những hoa tuyết trắng xóa nhẹ nhàng phất phới bay trước mặt, rụng xuống áo, xuống mũ, rụng cả xuống mặt vì Vinh hơi ngửa mặt lên để hứng tuyết. Vinh đưa lưỡi ra liếm tuyết, nhớ đến ngày còn bé ở Kontum, mỗi khi trời mưa đá, Vinh và mấy chị thường tranh nhau chạy ra sân nhặt vội vàng những viên đá mang cất vào bình thủy lạnh.

Nhớ nhất là bé Trúc, lớn hơn Vinh có một tuổi; Trúc là chị nhưng khờ khạo kém Vinh nhiều. Trúc vẫn hỏi sao trời không vắt chanh pha đường vào trước khi mưa xuống, có phải đá ấy sẽ ngon hơn biết bao nhiêu! Một hôm khác nghe mẹ bảo thứ nước mắm Nam Ô ngon và đắt tiền lắm. Trúc đặt ngay câu hỏi “Rứa thì nhà ai giàu họ sẽ mua thứ nước mắm ấy về để rửa chân phải không mạ?” Mạ phải kêu trời lên rằng con bé ăn chi mà đần độn lạ lùng.

Hình ảnh mấy chị em lon ton đi nhặt vội vàng những hạt mưa đá, nhặt được hạt nào thì nắm chặt trong tay, hình ảnh ấy hôm nay đang trở vể ẩn hiện trong màu tuyết trắng.

- Mười mấy năm qua rồi...

Vinh chép miệng thở dài tiếc thời gian quá khứ vô tư, trong một phút Vinh quên buồn vì mất Nam Trân, nhưng chỉ một phút thôi rồi cảm giác trống trải chua xót lại về rõ rệt hơn.

Thọc cả hai tay vô túi áo sau khi đã kéo chiếc khăn quàng cổ lên che kín tai, Vinh băn khoăn không biết nên quay về phòng trọ, hay nên đến nhà lũ bạn Bún Bò của mình báo cái tin không buồn không vui này cho chúng nó biết.

Về phòng trọ để nghiền ngẫm sự trống trải mênh mông trong tâm hồn đêm nay cũng không hẳn đã là một đểm đáng trách. Vinh vẫn thích nhìn vào bên trong của tâm tư mình những lúc vui cũng như buồn, nằm nhìn lên trần nhà nghiền ngẫm hay gặp nhiều ý nghĩ kỳ quái, nhưng lắm khi cũng khá đặc biệt.

Cuối cùng Vinh đi thẳng đến nhà mấy thằng bạn. Để đánh lừa sự cô đơn, Vinh cúi đầu đi bộ dưới trời tuyết, nhìn tuyết đang phủ khăn tang lên mối tình của mình với Nam Trân trên khắp ngọn cây.

Cửa vừa mở, thấy đầu Vinh ló vào trắng xóa cả tuyết lên chiếc mũ, cả bọn mừng hét lên:

- A thằng Vinh, sau ni chết mi thiêng lắm đó, tụi tao vừa mới mặc niệm tới mi, ma quỷ mô xui khiến đưa đường dẫn lối cho mi tới đây giờ ni?

- Tụi tao đang bàn nhau mai mua ốc với mắm về luộc ăn một trận cho đã đời, mi có hùn không, hai trăm quan mỗi đứa?

- Hùn thì hùn, nhưng tao báo cho tụi bay biết một tin rất đau đớn là tao với chị hai tao rã nhau rồi.

- Việt Nam muôn năm! Thôi rứa thì mi phải đưa tụi tao đi khao mì Lyon cho rồi, mừng mi thoát vòng nô lệ!

Thế là cả bốn đứa, Vinh với Sỹ, Thanh và Hiệp kéo nhau xuống lấy métro đi ăn mì ở ga Lyon.

Thấy Vinh hơi buồn, chúng nó tìm đủ mọi cách để an ủi:

- Mi không phải thi sĩ mà cũng đa cảm đa sầu, có chi nơi bà khoặm nớ mà mi mê được, hay vì mấy cái hột vịt kho chung với cá lóc thịt mỡ đó!

Tiếp lời Sỹ, Thanh cay cú hơn:

- Hủ tiếu với bún bò mà mi đem trộn chung thì làm răng nuốt cho trôi? Mi cũng từng phàn nàn với tụi tao là người chi mô mà ăn miếng mỡ “bự bằng ba ngón cẳng cái”, chừ mi còn buồn làm chi!

Hiệp cũng góp một lời giảng giải cho đủ bộ, chẳng bao giờ chúng nó chịu thua nhau một câu:

- Sang năm mi thi đậu rồi về quê hương xứ sở mà tay chân rảnh rang có phải gia đình mi với mạ mi mừng biết mấy không? Tao như mi thì đêm ni mua pháo bông đốt suốt sáng. Mừng còn hơn lễ phá ngục Bastille của cách mạng Pháp nữa!

Nghe các bạn đùa và khuyên dỗ, lại gợi đến cảnh về xứ làm Vinh bớt buồn, quả như thế, chỉ còn gần một năm nữa là Vinh học xong rồi, Vinh sẽ được gặp mẹ với cha với chị em, ý nghĩ làm Vinh trở lại lạc quan.

- Ăn đi mi, ăn rồi hùn nhau ra mua vé số, thằng Vinh thất tình kỳ ni chắc mua vé số răng cũng trúng to!

Vinh bật cười hỏi vặn:

- Ai dạy cho mi biết là thất tình thì trúng số, tao thấy có nhiều người bị vợ đá cho lông lốc như đá banh mà khi mua số có trúng đồng xu mô, tao không tin.

- Trúng số hay là đánh bạc ăn, đông tây chi cũng nói rứa cả, riêng tao thử mấy lần mà không lần mô trúng, mi thử lại lần ni nữa coi!

- Tụi bây muốn đem tao ra làm con thỏ thí nghiệm hả, tao không dại chi mà bỏ tiền ra mua số, để tiền mai ăn ốc hùn với tụi bây không ngon hơn à!

Câu chuyện đề cập đến nhiều vấn đề khác đã giúp cho Vinh quên hẳn Nam Trân trong đêm đầu tiên tan vỡ ấy.

Mì Lyon nổi tiếng là rẻ, chỉ cần ăn một tô thôi đã đủ no, tất cả sinh viên học sinh ai cũng đều biết. Các chú Tàu sang Pháp đã khôn ngoan chiếm độc quyền cái ý kiến mở hiệu bán độc một thứ mì này. Mì họ tự cán lấy, mua xương heo về nấu nước dùng với ít rau cải và thịt heo mặn như kho. Lúc ăn cho thêm một dĩa bắp cải với ớt thái nhỏ nên không ngấy, có thế thôi mà cửa hàng của các chú Tàu ấy chẳng mấy khi vơi khách.

Các sinh viên và cả những cựu chiến binh người Pháp lúc nào muốn đổi món ăn mà ngại phải nấu nướng vất vả, hôi phòng, ít tốn tiền thì chỉ việc ra lấy cái xe buýt số 63 hoặc xe lửa hầm đi xuống ga Lyon ăn mì, chưa đến một trăm quan mà cái dạ dày đã cho ngừng.

Cố nhiên là Vinh và các bạn lập trụ sở ở đấy, mỗi tháng thế nào cũng phải đến đây đóng thuế cho mấy chú Tàu vài trăm quan.

- Thằng Vinh đêm ni về phòng tao, tụi mình pha cà phê uống thức để thảo luận nghiên cứu và nghiền ngẫm cái tâm trạng của mấy thằng mới mất người yêu.

- Mi muốn lợi dụng tao để viết tiểu thuyết hả, mi có giỏi làm cho mối tình của tao trở thành bất diệt thì tao mới cung cấp tài liệu cho, chứ mà viết bậy bạ bêu diếu tao để sau ni tao ế vợ thì liệu hồn, tao giết mi chết!

Hiệp, Thành và Sỹ đã họp nhau lại giúp cho Vinh quên mối buồn trống trải hôm nay, vì đứa nào cũng hiểu tính Vinh rất nhiều tình cảm, tuy vẫn cười đùa nhưng trong lòng không thoát được những ý nghĩ bi quan.

Các bạn của Vinh không nhiều tình cảm như thế, chơi là chơi mà lúc nào bỏ thì cũng sẵn sàng bỏ ngay không dằng dai và nhất là không buồn. Hiệp còn nêu ra một ý nghĩ mới là phải cho trái tim đi nghỉ hè chứ bắt thổn thức làm việc luôn thì tim sẽ mệt mà chóng yếu sức. Hiệp học về y khoa, sau này anh chàng nhất định trình bày cái luận án “cho tim đi nghỉ hè” của mình và tin rằng sẽ có một tiếng vang thế giới.

Theo Hiệp thì tình cảm là một giống cây cỏ mà trái tim là một thửa đất, tại sao người ta tìm ra sự cho đất nghỉ, mỗi ba năm lại phải bỏ hoang một mùa? Vì muốn cho sau đó đất lấy lại sức và hoa màu năm tới sẽ đầy đủ hơn. Hiệp bảo trái tim người, nếu được nghỉ thì lần tình cảm sau cũng sẽ được dồi dào hơn. Từ vấn đề tình đi qua đến vấn đề vật chất thể xác không cách bao xa, và vạn vật đều có tương quan với nhau cả.

Cả bọn hẹn sẽ bảo vệ trái tim của Vinh từ giờ cho đến ngày Vinh về xứ, như thế thì cô thiếu nữ nào gặp sau này sẽ mang ơn bọn họ suốt đời.

Tất cả cùng đồng ý không có gì quý hơn tình bạn, vì chưa có luật nào đặt ra vấn đề bạn bè bỏ nhau, trái lại vợ chồng tưởng vĩnh viễn mà phải ly dị với ly thân đủ trò, như thế chứng tỏ rằng khi ta tìm được một người bạn thì ta có thể yên chí rằng suốt đời người ấy sẽ mãi mãi là bạn của ta.




Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bức Thành Biên Giới Phần 2: Chương Hai. Minh Đức Hoài Trinh Vinh đứng một lúc, tránh sang bên cho mọi người đi xuống thang máy bay trước, vì muốn ghi lại cái giây phút nghiêm trọng của đời mình. Không nghiêm trọng sao được, hơn tám năm xa cách bây giờ mới được trở về nhìn lại ánh nắng mặt trời, những mái nhà, những con đường quen thuộc cũ.

Sài Gòn rực rỡ nắng, Vinh muốn uống hết vào mình tất cả cả những tia nắng ấm áp ấy, những tia nắng mà người Âu Châu năm nào cũng phải lũ lượt kéo nhau đi hàng nghìn cây số để tìm ra và phải trả một giá thật đắt. Nước Việt Nam của Vinh như một thiếu nữ có đầy đủ các món hồi môn, muốn biển, muốn núi chỉ cần đi bộ một vài trăm cây số là gặp biển gặp núi.

Cách ba tiếng đồng hồ trước, khi máy bay bay qua mấy thửa ruộng ở Thái Lan, nhìn xuống những người dân cày đi theo con trâu, Vinh cảm thấy xúc động nhìn đồng hồ canh từng phút, chỉ còn hai giờ nữa là Vinh sẽ được về với quê hương thân yêu.

- Quê hương, đây là quê hương...

Vinh tự thì thầm với mình, cách xa có gần chín năm trời mà quê hương thay đổi khá nhiều, đấy là chưa hẳn đã thanh bình, rồi đây khi thanh bình trở về, khi tất cả những vết thương của chiến tranh đều được băng bó lại, da thịt liền nhau thì nước Việt Nam tha hồ mà tiến bộ.

Vinh tin chắc như thế, bao nhiêu nhà xã hội học và nhân chủng học đã không công nhận rằng dân tộc Việt Nam thông minh nhất nhì ở Á châu đó sao? Thông minh mà nếu thêm sự đoàn kết và chịu khó thì nhất định sẽ không thua ai.

Trở về sau mấy năm du học, ngày ra đi Vinh chỉ mới là một cậu học sinh nhỏ chưa có gì, nhưng bây giờ Vinh tự nhận thấy mình đã khá lớn, không kể tấm bằng cấp, vì sự thực có lắm người chuyên môn dùng bằng cấp để treo chơi chứ không làm được gì có lợi cho đất nước. Ngoài tấm bằng cấp ấy ra, Vinh đã học thêm được rất nhiều kinh nghiệm ở đời. Vinh đã biết sống, có ý thức về cuộc sống. Phải sống thế nào cho khỏi tủi thân Thượng Đế, sống thế nào cho lúc già không tiếc mà cũng không hận, đó là một thứ triết lý mà Vinh đã thâu nhặt được sau mấy năm lăn lóc ở Âu châu.

Từ đằng xa trên gác của sân bay có mấy người đưa tay vẫy, Vinh nhận ra dáng chị Thiện với hai đứa con trai đứng hai bên, chắc là thằng Hoàng và thằng Linh. Chị Thiện không thay đổi, hình như có béo hơn, còn mấy đứa cháu thì lớn vụt lên, khác hẳn với ngày Vinh ra đi, mặc dầu thằng Hoàng vẫn gửi thư và ảnh cho Vinh luôn.

Biết rằng khó sống ở Huế, gia đình chị Thiện đã dọn hết vào Nam, ở trong một tỉnh lớn ai cũng như ai, không bị chú ý như ở trong một thành phố nhỏ. Tuy các cháu chẳng ai dám gửi thư nhưng có những người đã trốn qua Pháp kể cho Vinh và các bạn nghe cái đường lối chính trị của cậu Cẩn và các tay sai. Nhà chị Thiện thuộc loại khá giả nên nếu không tìm cách dọn đi sớm, chắc thế nào cũng sẽ gặp lắm chuyện lôi thôi phiền phức.

Theo như những bức thư của thằng Minh thì hình như gia đình cũng đợi Vinh về rồi sẽ dọn cả vào Nam ở luôn, càng hay. Tuy xứ Huế thơ mộng và quyến rũ thật, nhưng khi xứ Huế đã bị một thứ sâu độc đang hoành hành thì người dân đành phải lìa bỏ, không thể nào vì mấy ngôi mộ mà phải chịu cuộc sống đàn áp khắc nghiệt.

Người dân châu Mỹ nhờ có cái tính không mọc rễ như người dân châu Âu nên nước Mỹ mới tiến nhanh như thế, có phải nước Việt Nam cũng chỉ vì mấy ngôi mộ với cái nhà thờ hương hỏa mà chậm tiến đó chăng?

Vinh nhất định sẽ cương quyết về thúc đẩy cha mẹ dọn gấp vô Nam, đâu chẳng là quê hương, tuy hay đùa gọi bằng bún bò với hủ tiếu nhưng Vinh không có óc phân chia Nam Bắc như những người khác.

Sài Gòn đang vào cuối thu, cây cỏ vừa được trải qua một mùa mưa ướt át nên xanh hơn, không cằn cỗi như vào độ nắng cháy của trời tháng giêng, tháng hai. Thời tiết mùa màng ở đây khác hẳn với Âu châu, thế mà người Pháp lúc sang đây lại cứ bắt buộc dân tộc Việt Nam phải theo chung một chương trình học tập nên kết quả thu nhặt được lắm khi không nhiều.

Độ này Âu châu đang lo chưng bày các thứ hàng dạ, len, nỉ, áo lông thỏ, lông cừu sửa soạn đón mùa lạnh, và đồng thời những gian hàng cũng sửa soạn chưng bày bán quà Giáng Sinh. Thiên hạ đang đổ xô vào chuyện mua sắm trước để được giá rẻ. Trái lại Sài Gòn vẫn mỏng manh tha thướt trong những tà áo dài, hoặc những chiếc sơ mi trần, xăn tay cho bớt nóng.

Vinh ngượng nghịu cúi nhìn bộ áo dạ thẫm màu của mình, ai trông thấy cũng biết ngay là anh chàng vừa ở một xứ lạnh về.

Chị Thiện gặp Vinh mừng tíu tít, câu thứ nhất của bà chị là bảo thằng con trai lớn dẫn cậu đi may mấy cái quần hàng nhẹ mặc cho mát.

- Xếp cất mấy bộ áo ấm này để dành đi Đà Lạt cậu ơi.

Thằng Hoàng, đang học năm thứ ba ở Văn Khoa, nghe tin Vinh về đã cúp cua đi đón, vì trong họ nó vẫn quý Vinh nhất, cho rằng chỉ mình Vinh mới biết sống. Hoàng tự hứa sau này cũng sẽ theo bước chân của người cậu họ trẻ tuổi ấy, Vinh chỉ hơn Hoàng có sáu tuổi, hai cậu cháu có thể trở thành một đôi bạn thân.

- Con gái xứ mình chừ đẹp lắm nghe cậu, không phải như hồi trước mô!

Vinh cười nói to cho cả mọi người cùng nghe:

- Hoàng liệu mà giới thiệu cho cậu đi, cậu mới về còn quê mùa lắm chưa biết chi mô, ngơ ngác như con nai vàng của Lưu Trọng Lư mà.

- Hai cậu cháu chưa chi đã nói đã nói chuyện gái.

- Con trai có chừng nớ chuyện, nếu mạ là con trai thì mạ cũng xin chạy theo đi chơi với tụi con, ngoài ra còn chi khác nữa mô!

Từ hôm nghe tin Vinh về, Hoàng đã bảo mẹ thu xếp nhà cửa để đón, nhất định mời Vinh ở với gia đình mình, nó còn viết thư về đề nghị với ông bà Hải cho Vinh ở luôn Sài Gòn trong khi chờ đợi ông bà Hải dọn nhà, chứ đừng bắt Vinh phải về Huế.

Hoàng khéo nói, khéo đưa ra những ý nghĩa về sự “hà chính”, tức là lối chính trị hà khắc của lãnh chúa miền Trung, nên ông bà Hải cũng đồng ý, không dám bắt Vinh về Huế.

Theo lời Hoàng thì con gái miền Nam bây giờ đã được “Trung, Bắc hóa” nên bớt những chiếc áo màu chói chang ngũ sắc, tứ sắc với những bông hoa to bằng cái chậu giặt máng trên người. Cái quần ngày trước của các cô gái Nam rộng thùng thình, mỗi ống cỡ hai người chui chân vô cũng còn vừa, nhưng bây giờ đã biết xén bớt. Cộng thêm với thứ nhan sắc mặn mà như muối bể có sẵn của họ nên trông rất ngoạn mục, rất dễ say mê.

- Thằng Hoàng đang chết mê chết mệt mấy cô “ri-cư” đó cậu Vinh biết không, cậu coi chừng chứ thế nào hắn cũng cù rủ cậu vô đảng của hắn.

- Mạ nói lạ, các cô “ri-cư” đẹp thì con phải mê, sau khi mạ có dâu đẹp ăn nói có duyên, có phải sướng hơn là con dắt về cho mạ một mụ dâu họ Chung, đen như cột nhà cháy, mở miệng nói câu mô chỉ muốn bịt tai để khỏi bị nghe nữa, như rứa mạ chịu răng cho được!

- Có cậu Vinh về coi bộ anh Hoàng lên râu quá mạ hí.

Thằng Linh về hùa với mẹ để chỉ trích anh, tuy trong lòng nó cũng thấy vui khi biết cậu Vinh ở bên Tây về và sẽ ở lại trong nhà cho tới khi ông Hải và bà Hải dọn vào Sài Gòn.

- Nói chi thì nói, đêm nay anh Hoàng bắt cóc cậu Vinh rồi đó, vì có dạ vũ lễ sinh nhật của một cô “ri-cư” mời cả Sài Gòn xa hoa. Cậu Vinh phải đi dự cho mọi người được ngửi cái mùi thơm Paris, để lâu quá nó phai đi hết thơm.

- Mùi Paris chắc Hoàng muốn nói mùi fromage Camembert chứ gì, dân Paris khoái thứ nớ lắm, nhất là khi nó đã chảy dài ra.

- Thôi đi cậu, về đây cậu phải nhật gia tùy tục, nhất là phải để cho Hoàng làm “gít” mới được.

Thế là mới về có một buổi mà Vinh đã hòa mình với cuộc sống của quê hương. Vinh ngạc nhiên khi thấy có những người vừa học hành xong mà nhất định không chịu về. Họ viện cớ rằng vợ họ là người Pháp, cưới lỡ rồi không thể sống được ở Việt Nam. Một số người khác thì lại thấy mình học quá cao, về nhà không có chỗ sử dụng mấy tấm bằng cấp ấy. Thế là đành cúi mình làm việc cho người ngoại quốc, từ bỏ cả giống nòi xứ sở, con cháu họ đã sinh ra chỉ nói rặt một tiếng ngoại quốc, không còn biết gì đến quê nhà. Nước bé đi cung cấp cán bộ cho nước lớn là thế, trong khi nước mình đang cần cán bộ. Để an ủi hoặc bào chữa họ có một lập luận chính trị để đưa ra, vì không đồng quan điểm với chính phủ nên họ phải ở nước ngoài. Ngay cả những chị đàn bà chuyên nấu ăn với đẻ con mà cũng dùng cái luận điệu ấy để tự bào chữa cho cái tội vong quốc của mình.

Đến bao giờ nước Việt Nam mới thoát ra được cái tình trạng u tối, nếu tất cả những thanh niên ưu tú khi ra được nước ngoài là trốn luôn không tính chuyện trở về nữa?

Sau khi ngủ trưa dậy tắm rửa xong, Vinh và Hoàng mặc quần áo đi ra phố chọn quà mang đến biếu người đẹp, bạn của Hoàng.

- Hoàng sẽ giới thiệu cậu một thiếu nữ di cư, quê ở miền Phát Diệm, “chắng như ngó cần”, cậu mà gặp cô ấy thì nhất định là cậu phải “dụng dời” tay chân.

Nghe Hoàng giả giọng Bắc để khen người thiếu nữ, Vinh bật cười hỏi lại:

- Ngó cần là cái quái quỷ chi cậu không biết?

- Cậu không biết ngó cần à, ngó cần là ngó cần đó, “chắng chẻo” lắm, nhưng thôi cậu cứ chịu khó chờ tí nữa sẽ thấy, thế nào nàng cũng đến vì người ta có họ với nhau, Hoàng không phải là văn sĩ đại tài nên không thể tả được, chỉ biết rằng Hoàng không ác và không đùa theo lối của ông ngoại đâu.

Vinh mỉm cười khi nghe Hoàng nhắc đến cha mình. Thật thế, ông Hải vẫn hay có cái lối đùa độc ác, đi đâu gặp con gái nhà ai xấu thì về khoe ầm lên là tuyệt thế giai nhân để cho mọi người đều tưởng lầm, kéo nhau đi xem mặt. Xem xong về ai cũng thất vọng và bực tức vì thấy mình bị mắc lừa, xấu hổ hơn nữa là sau đó còn bị ông Hải làm mấy câu hò để châm biếm trêu chọc.

Hai cậu cháu vừa đi vừa nói chuyện nên không thấy đường xa, lâu lắm Vinh mới gặp những cảm giác hân hoan vui như thế này, mà chính Vinh cũng không biết nó phát nguồn từ đâu. Có phải vì được trở về với quê hương, hay vì được gặp những người thân, hay tại những niềm vui trẻ trung của Hoàng đã truyền sang cho mình.

- Con đường này đẹp quá, tên chi rứa Hoàng?

- Duy Tân. Có mấy con đường ở Sài Gòn đẹp lắm, bữa mô hai cậu cháu mình đi xem kỹ một hôm, mới vô Sài Gòn một năm mà cháu được tụi bạn tôn cho cháu chức thổ công rồi đó.

- Mê nhứt là hai hàng cây, tưởng tượng nếu đường không có cây cũng như những người thiếu nữ không có tóc, buồn biết mấy...

- Đồng ý với cậu, Hoàng cũng không thích mấy cái xa lộ của Âu châu, nhìn vào ảnh coi như có gì trần truồng, không thơ mộng chi cả.

Biệt thự của bác sĩ Định ở gần ngay đường Duy Tân nên hai cậu cháu không cần lấy xe. Bác sĩ Định là cha của Thùy Nhung, cô thiếu nữ chủ nhân của buổi lễ sinh nhật hôm nay.

Gian nhà trang hoàng theo lối mới, vì đem nay có khiêu vũ nên phòng khách rộng được dẹp hết, ghế đặt ra chung quanh để dành phần giữa làm vũ trường. Có cả ban nhạc trẻ được mời đến hòa nhạc chứ không nhảy bằng đĩa hát như những buổi dạ vũ tầm thường.

Thùy Nhung là con nhà giàu, tuy di cư nhưng không phải cái thứ di cư lênh đênh mặt bể, theo mấy con tàu của Mỹ với Pháp cho mượn, mà là thứ di cư sang trọng chuyển được hầu hết của cải đi từ trước khi quân đội của miền Bắc vào Hà Nội. Chỉ trừ có những ngôi nhà bán không ai mua mà chở máy bay thì chẳng có máy bay nào chở nổi nên mới phải để lại.

Cha mẹ giàu, chỉ có hai cô con gái nên hai cô được quý như hai viên ngọc, ngày sinh nhật nhắc đến hôm các cô ra đời mang theo bao nhiêu niềm vui cho gia đình, ngày ấy tất nhiên phải là một ngày đại lễ, các cô muốn thức gì cũng được bố mẹ sẵn sàng chiều ý ngay.

Cô chị là Thùy Nhung vừa 20 tuổi, cô em Thùy Dương mới có 18, hôm nay là lễ sinh nhật của cô Nhung, bạn của Hoàng, bạn hay người yêu cũng thế. Tuy rằng chưa chắc Hoàng có thể yêu được lâu vì đối với một viên ngọc quý thì giá cao, không phải ai cũng có thể làm chủ được. Dầu sao tuổi trẻ không hề biết lùi bước, nhất là trong mặt trận tình cảm nên cả hai đều bất chấp tất cả mọi cản trở.

Hôm nay Hoàng muốn khoe với gia đình của người yêu rằng mình cũng có cậu học ở Pháp về như ai nên nhất định bắt Vinh phải đi, mặc dầu Vinh kêu rằng mệt và buồn ngủ mà Hoàng vẫn không tha.

- Ngủ, sao lại ngủ một cách vô lý như rứa, ngày nào chết rồi tha hồ cậu ngủ, chẳng ai kêu cậu dậy nữa đâu!

- Cái thằng Hoàng lớn rồi mà ăn nói vô duyên lạ, bà ngoại nghe được thì mi liệu hồn.

Mẹ Hoàng còn thuộc lối cổ nên hay kiêng cữ, một phần cũng do ở lòng thương mà ra, khi thương người nào thì ta không thích nghĩ đến cái chết của người ấy hay những điều gì không lành có thể xảy ra cho người ấy.

Cuối cùng để chiều ý thằng cháu vui tính tràn đầy nhựa sống, tính vui nhộn của Hoàng đã lây sang cho Vinh tỉnh dậy. Vinh cũng đồng ý là đời người ngắn ngủi, ngày nào chết rồi tha hồ ngủ trong hòm, bây giờ còn sống, còn được nhìn ánh mặt trời, được nhìn những vì sao, ngủ làm chi nhiều cho phí của. Vinh bằng lòng đi với Hoàng sau khi đã uống một tách cà phê thật đậm do tay Hoàng pha cho, vì Hoàng cũng bắt chước mắc cái bệnh ghiền cà phê của cậu.

Hoàng và Vinh vừa vào đến cổng, chưa kịp bấm chuông thì trong nhà đã nghe tiếng reo mừng người ta chờ hai cậu cháu. Nghe Vinh ở Pháp về, cũng nhờ cái tin đưa ra là có một ông tiến sĩ ở Pháp về nên các cô gái đến dự lễ hôm nay có phần đông hơn mọi năm và điểm đáng chú ý nhất là cô nào cũng cố sức trang điểm thật kỹ, thật duyên dáng.

Nhung và em gái lộng lẫy trong hai chiếc áo kim tuyến màu xanh và màu hồng chạy ra đón khách tận cửa.

- Sao các anh đến muộn quá vậy, làm Nhung cứ tưởng có chuyện gì, định quay điện thoại đến hỏi thăm.

- Tại cậu Vinh kêu buồn ngủ không chịu đi, phải thuyết phục, giảng triết lý mãi mới chịu, mà trước khi đi còn hành phải pha cà phê ngon cho uống mới đi. Đã thế lại còn du dương đi bộ để cậu ấy ngắm đường xá làm quen.

Nhung nhìn trách móc làm Vinh phải xin lỗi, trong sân đã đầy những tà áo dài với những bộ quần áo thẫm màu của các cô các cậu.

- Giới thiệu với chủ nhân, đây là cậu Vinh của Hoàng vừa ở Pháp về sáng nay, còn ngáp và còn thơm mùi Paris, một thằng con trai có đi có về chứ không như những phường vong bản, lấy xứ người làm xứ mình, bỏ mặc quê hương cho voi giày ngựa xéo.

Nghe Hoàng nói lưu loát Vinh rất phục cháu, thằng bé sống ở quê nhà giao thiệp nhiều nên mới mạnh dạn như thế, trong khi Vinh sống ở nước ngoài chỉ lo cắm đầu học với thi. Đi đâu chơi cũng chỉ quanh quẩn cạnh mấy thằng bạn thân hoặc vài cô gái quen thuộc, không cần phải giữ gìn ý tứ. Vinh lúng túng chào mọi người, ngượng nhất là biết mình bị làm mục tiêu trong buổi lễ. Đó là về phần các cô, cố nhiên, chứ các cậu đến chỉ vì hai viên ngọc quý con ông bác sĩ, hy vọng được lọt vào mắt xanh của một trong hai cô, nếu được thì quả là một sự may mắn. Đời bây giờ không những người ta chỉ nhắm vợ đẹp, vợ giàu, vợ học thức mà còn nhắm thêm cái địa vị của bố vợ, hy vọng được sự nâng đỡ của bố vợ để trèo lên những nấc thang danh vọng một cách nhanh chóng.

Lễ sinh nhật của Thùy Nhung là một dịp tốt cho tất cả lớp con nhà giàu có cơ hội gặp nhau để đánh giá nhau, thêm sự hiện diện của Vinh lại càng hào hứng. Cũng có vài cậu biết rằng Nhung và Hoàng rất thân nhau nhưng thân là một chuyện mà được sự chấp thuận của gia đình lại là một chuyện khác. Ngày nào cưới rồi mới làm cho họ rút lui, chưa cưới thì vẫn còn là con cá dưới sông, anh nào có phúc anh ấy câu được, chẳng ai dại gì mà nhường lại cho ai.

Hoàng đến trao cho Nhung chiếc hộp nhỏ, bên trong có cái thánh giá bằng bạch kim với sợi dây cũng bằng một thứ bạch kim. Hoàng đã bắt mẹ mua rất đắt hai thứ ấy vì muốn rằng đấy là món quà mà Nhung sẽ phải mang luôn bên mình, kèm với món quà của Hoàng. Vinh chỉ cần mang thêm có một hộp kẹo sô cô la. Nhung vui mừng nhờ Hoàng mang cho vào cổ mình ngay để tỏ lòng cảm ơn theo lối văn minh Âu tây.

- Em sẽ đưa ra nhà thờ xin cha làm phép và sẽ giữ mãi...

- Hoàng chỉ mong có thế...

Các cô gái nhìn cái thánh giá của Nhung bằng đôi mắt thèm khát, ai cũng biết rõ giá tiền của bạch kim còn đắt hơn giá vàng. Nhung tung tăng chạy đi khoe với các bạn rồi chạy luôn vào trong nhà, chắc để khoe với mẹ, với những người bà con đến làm giúp.

Món quà tặng vốn là một thứ rất quan trọng, tùy với cái cường độ tình cảm mà cho nhau. Hoàng biết rõ như thế, biết rằng ngày sinh nhật Nhung sẽ nhận được rất nhiều quà, nếu Hoàng cũng chỉ mua một thứ gì tầm thường thì món quà của mình sẽ bị lạc trong đám rừng quà của những người khách khác. Và thời gian, thời gian sẽ làm phôi pha đi, vì thế nên chọn thứ bạch kim vừa ngạo được với thời gian, vừa nhã nhặn không gợi lòng tham như những món nữ trang bằng vàng hoặc kim cương chói lọi.

Một lần nữa Vinh phải phục thằng cháu khôn ngoan sau khi nghe Hoàng giảng giải. Vinh chịu, không biết gì cả, chẳng thế mà cô nào cũng bỏ đi lấy chồng hết.

Thấy Nhung vừa trở ra, Hoàng đến bên cạnh người bạn gái nói khẽ:

- Cậu Vinh của Hoàng dễ thương nhất, quan niệm rộng rãi, thích lắm, chúng mình phải tìm một cô bạn nào cũng tương đương như thế để giới thiệu cho cậu ấy đi.

- Hoàng có chắc rằng tim cậu ấy chưa bị một cô đầm nào đóng đô không đã, các sinh viên đi du học ở Pháp về Nhung nghi lắm, giới thiệu rồi ngộ nhỡ bên ấy có ai thì nguy.

- Không có đâu, Nhung cứ tin đi, cậu Vinh thẳng thắn không hề biết nói dối ai bao giờ. Hoàng đã hỏi rồi, từ mấy năm nay cậu ấy vẫn viết thư kể cho Hoàng nghe tất cả những mối tình của mình.

- Giới thiệu Liễu cho cậu ấy nhé.

- Liễu nào đó, Liễu học sư phạm ấy à, thôi đi, tìm cô nào thanh thanh hơn, Hoàng biết cái “gu” của cậu ấy lắm, cô Liễu không dính đâu.

- Hay là Khanh, nhưng Khanh nhiều tình cảm, Nhung sợ Khanh sẽ khổ vì cậu ấy thì chúng mình mang tội chết...

Hoàng đã nghĩ đến Khanh ngay từ đầu nhưng không muốn nói trước. Trong số bà con và bạn bè của Nhung, Hoàng vẫn công nhận là Khanh đoan trang và chịu khó nhất, không lấc cấc hoặc “văm” như các cô gái của thời đại bây giờ, loại gái chỉ để làm vui trong một đám tiệc chứ không có bề sâu, không nói được những câu chuyện triết lý thâm trầm mà lắm khi rất cần thiết, dầu chỉ là bạn bè với nhau.

- Ừ Khanh, phải đấy, nhưng cô ấy đâu rồi, sao hôm nay không đến?

- Khanh đang giúp người bếp khuấy bơ để vẽ chữ “Happy Birthday” ở sau bếp, cô ấy làm việc từ chiều đến giờ, không cho Nhung đặt chân xuống bếp.

- Ngoan quá nhỉ, thế Nhung thử vào xem xong chưa, triệu cô ấy ra chứ bắt đóng vai cô bé lọ lem mãi thì oan quá, để mấy cô khác dành mất ông hoàng tử đi thì còn gì nữa.

Nhung mỉm cười nghe Hoàng nói đùa, những kẻ sung sướng mà có lòng bao giờ cũng muốn chia cái sung sướng cho người khác chứ không ích kỷ giữ lấy riêng mình. Hoàng và Nhung đều sung sướng hôm nay và cũng đều là những kẻ có lòng.

Đợi Nhung vào nhà trong, Hoàng chạy lại ngồi cạnh Vinh nói thầm vào tai không muốn cho người bên cạnh nghe được.

- Nhung sẽ giới thiệu cho cậu một cô bé lọ lem.

- Lọ lem hay ngó cần? Hai cái khác nhau lắm đấy nhé.

- Thể chất thì ngó cần mà đức tính của cô lọ lem, như thế mới đáng quý chứ!

Vinh tưởng rằng cô ấy đang lẫn trong đám khách nên đưa mắt nhìn ra chung quanh cố tìm xem, Hoàng biết ý nhưng vẫn để cho Vinh tìm thử, xem Vinh sẽ chấm cô nào.

- Chẳng thấy cô nào có hai yếu tố đó cả, hay là tại vì cậu không có đôi mắt tinh đời. Kể ra cũng nhiều “ngó cần” ở đây nhưng ngó cần mà có thêm đức tính của cô lọ lem thì hình như không thấy.

- Đúng đấy, kể ra cậu cũng tinh mắt, con gái Bắc ăn nhiều đậu phụ với nước rau muống, dễ có cái nước da “ngó cần” lắm, nhất là các cô lại kỵ nắng Sài Gòn, không đi chơi vào buổi trưa. Nhưng Hoàng giới thiệu cô này thì nhất định cậu xỉu liền, đủ hết mọi đức tính.

- Chi mà ghê thế, Hoàng làm như cậu yếu bóng vía lắm, người ta cũng đã lắm phen sinh tử với người đẹp, có phải tù trong khám mới được phóng thích đâu mà gặp ai là nhảy bổ vào mê ngay.

- Cá với cậu đó, một chầu “Arc en ciel”, cậu mà không mê cô ngó cần ni thì Hoàng mất cậu một chầu ở đó.

- Bồ câu nhồi yến bồ câu quay, ăn no chết thôi, Hoàng dám cá không?

- Dám liền! Bồ câu nhồi yến bồ câu quay, cậu liệu mà chuẩn bị cái túi tiền, ngày mai lo gửi đơn vào Bộ xin làm việc đi đã. Hay là tốt hơn về nói mợ Hoàng cho cậu vay trước để còn bao, chứ lâu quá mất thú vị, thua cuộc phải đi ăn liền mới ngon.

Hai cậu cháu đang đùa, đánh cuộc với nhau thì Nhung ở trong nhà bước ra cùng với một cô bạn gái đi sát bên cạnh. Hoàng thúc cùi tay nhẹ vào tay Vinh để bắt Vinh phải chú ý.

- Giới thiệu với các anh đây là Mai Khanh, bạn của Nhung và cũng là chị họ của Nhung, còn đây là anh Hoàng mọi người đều biết rồi và đây là anh Vinh, cậu của Hoàng, anh Vinh vừa ở Pháp về trưa hôm nay.

Mọi người cúi đầu chào nhau, Khanh lúng túng không biết nên đưa tay ra bắt hay chỉ nên cúi đầu như lệ thường. Vinh cũng lúng túng, vừa lúng túng lại vừa buồn cười, nghĩ đến bữa ăn mà mình và Hoàng mới đánh cuộc với nhau vì cô thiếu nữ này.

Theo sự nhận xét thoáng qua, Vinh thấy Khanh không đến nỗi quá đẹp bắt Vinh phải xỉu như lời “tuyên truyền” của Hoàng, nhưng nhìn lâu Khanh có những nét thanh tú đặc biệt của một cô gái miền Bắc. Nhất là màu da ngó cần, đúng là ngó cần hơn cả các cô gái khác ở trong buổi tiệc đêm nay. Khanh giống những thiếu nữ trong tấm tranh lụa mà các họa sĩ Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Gia Trí hay vẽ thời chưa có chiến tranh. Lối trang điểm lại là lối trang điểm của các cô gái Ý, tất cả đều nhợt nhạt, chỉ đôi mắt được đặc biệt chú trọng.

Dáng người Khanh mảnh mai nhưng không thấp nhỏ như phần đông các cô gái Việt khác, khổ mặt trái soan với đôi môi hồng và đôi mắt dài cách xa nhau, thứ mắt trên mấy bức tượng phụ nữ Ai Cập thời cổ, có gì thanh thoát ẩn hiện, như một bông hoa sen trắng. Mỗi phút qua Vinh tìm thêm được ở Khanh một cái gì lưu luyến hơn, đậm đà níu kéo hơn.

Ban nhạc bắt đầu trỗi lên, các cô các cậu vui mừng đứng dậy tìm nhau, từng đôi từng đôi quay cuồng. Vinh ngạc nhiên không ngờ quê nhà tiến bộ quá thế, nhất là Hoàng tha hồ trổ tài, đủ các môn, chẳng có điệu nào ban nhạc trỗi lên mà Hoàng ngồi yên. Chỉ có Vinh và Khanh là ngồi yên không nhảy, chỉ thỉnh thoảng vỗ tay hoặc nhìn nhau khẽ mỉm cười. Lần nào cũng do Vinh nhìn trước, bắt Khanh phải cắn môi rồi cúi đầu xuống để tránh cái nhìn của Vinh.

Nhạc vừa ngừng sau một bản Valse, Hoàng rời cô bạn đi thẳng đến chỗ Vinh với Khanh, nói to cho cả Khanh cùng nghe.

- Cậu Vinh lúc nãy cá chi với Hoàng nhớ không?

- Bồ câu nhồi yến bồ câu quay, ăn no chết thôi...

Thấy Vinh và Hoàng đùa với nhau, Khanh quay sang hỏi góp chuyện. Có Hoàng đến, Khanh bớt ngượng. Khanh ngượng vì biết Vinh đang nhận xét mình. Cảm tưởng đang bị lột hết từ tinh thần đến thể chất đặt dưới ống kính hiển vi của nhà bác học làm cho Khanh ngượng và không dám nói chuyện thân mật với Vinh.

- Các anh cá gì mà sang trọng thế?

- Bí mật quân sự, phái nữ không nên biết tới.

Hoàng nói xong còn đưa ngón tay lên miệng cho tăng thêm phần bí mật, nếu Mai Khanh biết rõ chắc nàng sẽ vui thích lắm.

- Bao giờ đi, tối nay hay ngày mai cho cậu tùy thích.

- Nhưng ai nói với Hoàng rằng người ta chịu thua cuộc đâu mà đòi ăn.

- Thôi thôi cậu đừng gian dối, càng về sau phạt vạ càng to hơn, cậu tưởng Hoàng là trẻ con mới sinh ngày hôm qua đó hả?

Vinh mỉm cười vui thích, thực ra chính Vinh cũng chẳng biết rõ mình đã thua cuộc hay chưa. Lệ thường Vinh không bao giờ thấy mình bị sét đánh vì một cô gái nào. Ngay cả với Bội Ngọc ngày bé, mối tình thứ nhất, cũng phải gặp mấy lần thì cái nhan sắc mới thấm dần vào tim chứ đâu có dễ dàng như thế.

Mang ý nghĩ ấy ra nói với Hoàng nhưng Hoàng đã lên mặt sành sõi dạy đời, rút kinh nghiệm của mình ra, giảng giải bắt Vinh phải công nhận là mình mê Khanh, mình sét đánh khi thấy Khanh.

- Hoàng áp dụng phương pháp tuyên truyền của Cộng Sản phải không?

Vinh nhất định chưa chịu thua cuộc, còn cố cãi cho được mặc dầu cũng đã bắt đầu nhận thấy Hoàng nói có phần đúng, trước sự ngơ ngác của Khanh và Nhung, hai thiếu nữ không biết cậu cháu nhà ấy cãi nhau vì lý do gì mà cãi nhau mãi thế.

Có mấy người khách bạn của Nhung đến muộn, hai thiếu nữ phải đứng lên chào đón, bỏ mặc Vinh và Hoàng cho cãi nhau nốt.

- Kể ra cũng vô duyên Hoàng nhỉ, nếu thật như thế.

- Như thế là như thế nào?

- Là thua Hoàng một chầu Arc En Ciel đấy.

- Sao lại vô duyên, vô duyên thì “đối diện bất tương phùng” chứ, cậu phải cho rằng đây là hữu duyên mới đúng.

- Thôi xin ông đó, đừng có xổ chữ của Thánh hiền với tôi, ai chả biết Hoàng học Văn khoa đại học.

- Sắp ra trường, xin cậu đừng quên.

Hoàng làm bộ trịnh trọng nhắc thêm, rồi hỏi lại:

- Cậu bảo vô duyên là vô duyên làm sao đâu?

- Đi bao nhiêu nước để rồi về đây thua cuộc với Hoàng.

- “Such is life”, cậu không nghe chuyện Vi Cố hay sao, định mệnh đã buộc thì tránh răng cho khỏi, nhưng cậu có công nhận là “ngó cần” không?

- Chữ “ngó cần” nghe vật chất quá, chỉ muốn mang ra nấu canh thịt bò, chữ ấy nên dành cho những cô gái nào da trắng mà dáng điệu “văm” một tí mới đúng. Cô ni phải gọi là người lụa, toàn người như kết bằng lụa với nến. Hoàng không nhận thấy sao?

Hoàng gật gù đồng ý nhưng cho rằng hình ảnh hơi có vẻ liêu trai thần thoại, không hợp với thời đại.

- Đấy là cậu chưa có dịp nói chuyện lâu đấy nhé, phải nghe cái giọng của nàng mới ru hồn. Giọng Bắc cũng có năm bảy thứ Bắc, không phải cái loại “lăm” đồng xích “nô” từ Hà “Lội” “nên” Phủ “Ný” đâu.

Vinh phá lên cười khi nghe Hoàng uốn giọng để bắt chước cho giống người Bắc làm mọi người đều quay lại nhìn. Nhung chạy đến trách Hoàng:

- Các anh có gì vui mà giấu riêng với nhau, anh Hoàng xấu nhé, tí nữa Nhung không cho ăn bánh đâu.

- Bánh sinh nhật chắc ngon lắm cô Nhung nhỉ, thế nào cũng phải đặc biệt hơn bánh của mọi ngày.

- Bánh ngon nhưng cậu Vinh phải nhảy một bản rồi mới được ăn.

Hoàng muốn bắt Vinh phải mời Khanh nhảy cho hai người quen nhau hơn, theo ý Hoàng thì dân Paris về chắc phải nhảy giỏi lắm nhưng Vinh vội vàng cải chính ngay:

- Muốn nhảy giỏi thì phải có nhiều thì giờ đi chơi, mà đi chơi thì cuối năm thi hỏng, Hoàng tính sao?

Hoàng không đồng ý, có học phải có chơi mà ở Việt Nam nếu không cho nhảy thì chẳng còn biết môn gì để giải trí.

- Báo tin này cho cậu biết, hình như sắp có lệnh cấm cả khiêu vũ trong gia đình vì nghe bảo hại cho thuần phong mỹ tục, chúng ta không còn gì để tiêu sầu ngoài sự lò cò với nhau. Nếu cấm nhảy, cấm yêu đương thì chắc dân Việt Nam nên kéo nhau vào núi tu cả đi cho xong.

Nghe Hoàng than thở bằng một giọng chán chường, Vinh chỉ cười, mới về với quê hương tâm hồn còn ấm áp quá, Vinh chưa thấy thắc mắc đến những vấn đề ăn chơi, ngay cả đến những vấn đề chính trị hay gì gì đi nữa, mặc những lời dọa nạt của một số người trốn qua Pháp phàn nàn những điểm bất công của chính phủ, những hành động dã man đối với đảng phái đối lập.

Nhưng Vinh còn nguyên vẹn quá; tâm hồn như hộp kẹp còn có lớp giấy bóng kính dán bọc kín đáo bên ngoài, từ thuở bé đến lớn mới rời ghế nhà trường chưa đầy sáu tháng thì làm gì biết đến những kèn cựa, tranh giành thịt xôi trên sân khấu chính trị.

- Sao cậu Vinh không mời cô Khanh nhảy một bản đi?

- Dân Paris về quê mùa lắm, nhảy sợ người ta cười cho thì xấu hổ! Thà mình đừng nhảy người ta sẽ tưởng mình nhảy giỏi, phải không cô Khanh?

- Tùy đấy, nếu anh nói thật thì là phải, mà nếu anh nói để nhún mình thì không phải.

- Những người không nhảy, không đòi ăn ngon, không uống được rượu thì lúc già vào viện dưỡng lão sẽ nằm mà than thở vì tiếc cái thời xuân trẻ.

- Triết lý của Hoàng học sách nào đó?

- Hiện sinh mà cậu, thứ hiện sinh bán ở chợ Sài Gòn đó, nhưng đúng lắm chứ không phải đùa đâu nhé.

Nói xong Hoàng kéo Vinh đứng lên bắt phải mời Khanh nhảy vì theo lời Hoàng, những người này ích kỷ chỉ muốn kẻ khác ăn chơi, còn mình lo ngồi cầu kinh tức là muốn đẩy người ta xuống địa ngục còn mình lên Thiên đường, như thế là bất công, trái phép.

Nhạc cử bản blue tango, Vinh đành phải đứng lên sửa lại cà vạt cúi mời Khanh vậy, nếu không thì chẳng bao giờ được yên thân với Hoàng.

- Em nhảy tồi lắm, các anh của em mới chỉ cho mấy bản, giẫm vào chân anh tha lỗi trước nhé.

- Bao giờ Khanh cân được tạ rưỡi thì hãy lo chuẩn bị câu ấy.

Bản nhạc đánh xong hồi thứ nhất, hai người chỉ im lặng để nhận xét nhau, chẳng ai nói với ai câu nào, qua đến lúc tái hồi, Vinh mới tìm được một câu hỏi để phá tan sự im lặng:

- Khanh vào Sài Gòn lâu chưa?

- Ngay sau khi hiệp định Genève ký xong.

- Cả gia đình chứ?

- Cả gia đình, có thể gọi là hầu hết cả họ, chỉ trừ mẹ em tiếc mấy ngôi nhà không bán được nên nhất định ở lại giữ. Độ ấy chúng em vẫn hy vọng rằng chỉ đi một thời gian rồi lại quay về nhưng bây giờ mới biết rằng chắc còn lâu lắm.

- Độ mới vào chắc Khanh buồn lắm?

- Buồn chứ anh, nhiều khi chỉ nhớ cái hiu hắt của không gian thôi, thế mà cái nhớ ấy cũng ray rứt làm mình không ngủ được.

- Chắc Khanh thích văn chương?

- Cũng như tất cả mọi người thôi, Sài Gòn không có đủ bốn mùa, chỉ có mưa và nắng, nhưng chắc rồi cũng quen, em đã bắt đầu quen rồi, không bỡ ngỡ như trước nữa.

Trong tất cả câu chuyện, Vinh nhận thấy ở Khanh một đức tính chịu đựng nhẫn nhục của các bà Tú, bà Đồ người miền Bắc, có lẽ đó là đức tính chung của tất cả phụ nữ Việt Nam chân chính, vì mẹ Vinh, bà Hải, người đàn bà Huế cũng có những đức tính ấy. Ngày nào nước Việt Nam còn thì còn có những người đàn bà như thế. Loại con gái như Nam Trân hay như một số thiếu nữ lai căng khác chỉ là lớp da bên ngoài do ảnh hưởng ngoại bang. Lớp người ấy không thể nào xô ngã được cái bức thành kiên cố của quê hương, của dân tộc.

Nhạc ngừng, Vinh đưa Khanh trở lại chỗ cũ sau khi đã nghiêng mình cảm ơn rất lễ phép, thứ lễ phép mà Vinh đã tiêm nhiễm được của người con trai Âu.

Hoàng cũng vừa đưa Thùy Dương, em của Thùy Nhung trở lại chỗ cũ, thấy Vinh và Khanh đã có vẻ đậm chuyện, Hoàng đến bên Vinh hỏi lại:

- Bồ câu nhồi yến, bồ câu quay nhé, nhất định chưa?

- Đồ quỷ, đồ cô hồn đói ăn.

Rồi hai người lại cười vang. Hoàng bí mật hạ giọng:

- Tuyệt trần không cậu, tuyệt cú không cậu? Chỉ phải một điều gay cấn cho cậu nhất là Thiên Chúa Giáo.

- Thật không?

Vinh ngơ ngác không tin.

- “Nạy” chúa tôi “nòng nành” vô cùng, con đâu có “lói náo” với cậu.

Vinh cau mặt không cười mặc dầu Hoàng nói cố bắt chước người miền Bắc ở vùng quê. Đấy là một bức thành kiên cố nhất mà Vinh sẽ phải vượt qua, biết rõ ý mẹ, sự tin sùng đạo Phật của mẹ, nhất định không bao giờ mẹ bằng lòng chấp thuận một người con dâu khác đạo, dẫu cho nàng có tài cán đức hạnh đến thế nào.

Theo Vinh thì không có nhiều Trời và nhiều Thiên đường; tất cả những thứ ấy đều duy nhất chỉ do loài người đặt bày ra để dọa dẫm nhau, bắt nạt nhau, chứ chẳng Chúa nào Phật nào mà bày đặt ra sự chia rẽ như thế. Ngay cả những bài kinh dài cũng do người sau này đặt bày thêm thắt vào. Nói ra thì nhất định sẽ có những người mù quáng đứng lên phản đối, Vinh bỗng cảm thấy như một áng mây đen vừa kéo ngang trước mắt mình, hơi vô lý vì Vinh và Khanh nào đã có gì đâu.

*************
 


Chiếc bánh sinh nhật đặt trong cái mâm bạc lớn được mang ra với con dao và cái xẻng xúc bánh cũng bằng bạc, những thứ chỉ dành riêng cho mỗi năm khi trong nhà có lễ, và sinh nhật mới dùng đến nó.

Trên chiếc bánh thắp hai mươi ngọn nến, tuổi của Thùy Nhung năm nay. Âm nhạc cử bài “Bon Anniversaire”. Người bồi bàn mang ra một khay đầy cốc để uống champagne, tiếp liền sau đó là những tiếng nổ đôm đốp hòa với tiếng vỗ tay và tiếng chúc tụng.

Trước mắt Vinh chỉ có những màu sắc quay cuồng, Thùy Nhung đứng lên thổi nến cắt bánh mang đi mời khắp mọi người. Khanh và Hoàng cũng lại tiếp tay với Nhung đi tiếp khách, chỉ có Vinh vẫn ngồi yên theo dõi những ý nghĩ trong tâm tư.

***********

Khanh và Thùy Nhung là hai gia đình chú bác với nhau, cụ lang Lộc và bác sĩ Định là hai anh em ruột, một người theo về đông y và một người theo tây y. Không phải vì thế mà hai anh em xa cách nhau, trái lại họ thương yêu nhau, bệnh nào em chịu, không chữa được tức là tây y đầu hàng thì gửi sang đông y hoặc dịt thuốc lá hoặc uống thuốc thang. Trái lại, có những bệnh cần mổ xẻ, cần soi điện thì ông anh lại gửi qua cho em trai mình săn sóc.

Sau ngày ký kết hiệp định Genève, bà con giòng họ nhà cụ Lộc đều di cư vào Nam kẻ sau người trước, vì tất cả đều là Thiên Chúa giáo, tất cả đều không chịu sống dưới chế độ Cộng Sản.

Cụ Lộc, bố của Mai Khanh là anh cả trong họ. Cụ nổi tiếng là một ông thầy thuốc hay và một con người đạo đức nhất. Ở nơi cụ, dung hòa cái tốt của Khổng Mạnh và của Thiên Chúa giáo, suốt đời triệt để hành động theo những điều dạy bảo trong kinh sách.

Với những con bệnh nghèo, chẳng những cụ thăm mạch không lấy tiền mà thuốc cắt, cụ cũng không tính một xu kể cả những thứ đắt tiền như sâm, nhung, thục v.v...

Tất cả họ hàng lớn bé di cư, chỉ có mỗi mình cụ bà ở lại vì thương mồ mả, thương mấy ngôi nhà bỏ lại không ai coi sóc mà bán thì chẳng ai thèm trả bằng cái giá tiền xây nửa bức tường.

- Tao già chừng này, không lẽ các ông ấy còn bắt tao ra làm cái gì nữa, họ muốn lấy gì thì cứ lấy, nay mai tới rồi thế nào tao chẳng về với các cụ.

Chỉ có mỗi lý do ấy mà người mẹ nhất định ở lại chứ ngoài ra chẳng còn gì khác. Đằng nào cũng chết, thà chết ở nơi quê quán còn hơn là vào làm ma lạc lõng trong Nam.

Thế là cụ ông đành dắt các con xuống tàu, nhờ có ông Định là bác sĩ gửi gắm nên cả gia đình cụ Lộc được đối đãi tử tế, được chỗ ăn chỗ ở đàng hoàng chứ không bắt chui rút xuống dưới hầm như những người di cư không có sự gửi gắm khác.

Cụ Lộc chỉ có hai con trai Phúc, Thọ và hai con gái Mai Hương và Mai Khanh, các con lớn cả không cần đến sự săn sóc của mẹ nữa, trái lại còn có thể giúp cha trong vấn đề trông coi nhà cửa, ăn uống nên cụ bà cũng yên chí không phải lo lắng gì.

Phúc và Thọ, hai cậu con trai lớn tuổi cách xa hai em gái. Phúc năm nay đã ba mươi tám, Thọ ba mươi lăm, Mai Hương ba mươi và Mai Khanh là con gái cuối lòng mới có mười chín. Mấy đứa con giữa đều không nuôi được, tuy có tài hốt thuốc với thăm bệnh của cha. Người ta vẫn bảo con ông thầy thuốc thường hay bệnh tật, quả như thế, hai vợ chồng cụ sinh những mười hai lần mà rốt cuộc chỉ còn lại có bốn đứa.

Hai thằng con trai, tuy hiếm hoi mà cụ Lộc cũng phải chiều ý để cho chúng nó lăn lóc theo cuộc kháng chiến mất mấy năm. Sau đấy cả hai đều trở về với gia đình, vì cụ Lộc là đạo gốc mà nghe nói Cộng Sản diệt tôn giáo nên cụ nhất định xin các con phải trở về.

Không phải vì sợ lệnh của cha nhưng các cậu cũng chán dần với sự hy sinh không ngừng mà đoàn thể đòi hỏi nơi mình. Nhất là ở đâu rốt cuộc cũng có những sự chia rẽ bè phái, cá lớn nuốt cá bé. Ông cán bộ lớn hút thuốc thơm, tắm xà phòng thơm, xài bút Parker, cưới vợ đẹp, vợ trẻ dẫu cho ông có già khú đế. Trong khi ấy thì ông cán bộ bé vẫn đi chân đất, hút thuốc lào, dùng bút sừng trâu, cũng chưa chắc lắm khi đã sắm nổi cái bút sừng trâu và ở đến bạc tóc cũng không kiếm ra ai chịu làm vợ, và tiền đâu mà cưới vợ, thì giờ đâu mà đi kiếm vợ.

Mấy năm đầu mọi người đều hăng hái vì cái lý tưởng kháng chiến chống Pháp, Phúc và Thọ bỏ cả học hành để gia nhập ban tiếp tế, ban tuyên truyền đi các mặt trận.

Thọ suýt chết ở Mường Xén vì quá hăng hái muốn theo các anh bộ đội đi xáp lá cà với giặc. Phúc thì không biết lây ở đâu được chứng sốt rét rừng, phải bỏ công việc xin đoàn thể về nhà bắt cha săn sóc.

Suốt hàng tháng trời, Cụ Lộc phải ngồi canh thuốc cho con không kể ngày đêm. Khỏi chứng sốt rét thì biến sang chứng mụt nhọt, trong thân mình như bị chất độc rúc rỉa vì sự ăn uống bậy bạ, bất thường.

Cụ Lộc săn sóc con đến gầy tóp cả người, chỉ vì cửa nhà còn có bốn mụn con ấy. Nếu Phúc và Thọ mà có mệnh hệ nào thì ai nối dõi tông đường, lo lắng chuyện mồ mả, ai xin lễ, rửa tội, cầu kinh. Đây là những vấn đề rất quan trọng mà chỉ những kẻ ăn hôm nay biết hôm nay mới không nghĩ ngợi quan tâm đến. Cụ Lộc là giòng trưởng, bảo cụ không lo ngại sao được.

Cụ bà thấy hai thằng con trai hành hạ cha chúng nó nhiều quá, lắm bận cáu kỉnh chẳng biết có cách nào cho bớt cáu, cụ têm một cơi trầu đầy, xong rồi cụ vừa ngồi ăn vừa chửi đổng cho đến bao giờ nhai hết cơi trầu cụ mới ngừng.

- Cha bố chúng bây, kháng chiến với chẳng kháng chiến, bây giờ chỉ hành hạ cha chúng bây chứ có mang về được cái lợi lộc gì cho nhà, cho nước đâu. Đói bỏ xừ, từ trên xuống dưới. Tây nó có bom có súng, mình chỉ có hai bàn tay với mấy cái súng ăn cắp được. Thật là châu chấu đá voi.

Phúc đang nằm trùm chăn mà nghe mẹ nói ngang một lúc, cậu trai tức mình vùng dậy trả lời lại mẹ:

- Bu nói mà bu chẳng biết nghĩ, không có kháng chiến thì làm sao đuổi được cái quân thực dân ra khỏi nước. Hiện giờ chúng ta đang ở vào giai đoạn cầm cự, tất cả mọi người phải chịu hy sinh. Ngày nào Tổng phản công, ba thằng thực dân chạy hết thì nước ta sẽ kiến thiết lại rất nhanh, lúc ấy mới là Thiên đường. Lúc ấy rồi bu mới thấy...

- Hừ, thấy cái gì, thấy ông bà tao chứ thấy cái gì, lúc ấy thì sẽ thấy bà con họ hàng nhà tao nhăn răng ra chứ còn thấy cái gì nữa.

Phúc tức lắm, chẳng lẽ lại vùng dậy kéo mẹ ra ủy ban cho họ trừng trị cái tội hay nói phản động. Muốn làm một lần nhưng nghĩ tội nghiệp cha lại thôi.

Vừa khỏi bệnh, ăn uống tẩm bổ kha khá một chút thì Phúc đã nằng nặc đòi ra đi nữa. Như thế mà bảo người mẹ không cáu sao được. Đẻ con ra không hề được nhờ cậy lấy một đồng một chữ, bao nhiêu sức lực mang đi phung phí, ăn cơm nhà vác ngà voi, đã thế mỗi lần về còn nói giọng sặc mùi chính trị. Không biết đến lễ, đến chầu đến kiệu là gì cả, lắm khi cụ có cảm tưởng là ma quỷ nó đã cám dỗ linh hồn của hai thằng con trai cụ mất rồi. Nó biến ra thành Việt Minh cộng sản để nó cám dỗ linh hồn, như thế đấy chứ còn gì nữa...

Nhưng rồi một hôm ma quỷ nó trả lại linh hồn cho hai thằng con trai của cụ, nó không cám dỗ nữa. Hôm ấy trời mưa, mưa nhiều quá ngập cả đường, cụ thấy thằng con cụ đi về mặt mày phờ phạc, râu ria đầy cằm. Từ mấy tháng nay không tin tức, thì ra cả hai cậu bị tố vì không làm tròn phận sự, vì có gia đình phản động, vì có đạo v.v... vì những gì nữa, cả hai bị đưa đi vào những chỗ rừng rú xa xôi mãi đến hôm nay mới trốn được về. Cũng có thể là còn những vấn đề gì khác hơn mới làm cho các cậu chán nản như thế nhưng chẳng ai muốn nói ra.

Từ đấy không hề bao giờ nghe các cậu đòi ra đi nữa, mỗi người như lãnh thêm của thượng đế hàng chục tuổi, chỉ còn tính chuyện làm ăn buôn bán ở nhà giúp cha mẹ.

Sau trận Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève, chính Phúc và Thọ đã thúc giục họ hàng cha mẹ mình đi vào Nam trước nhất. Lúc ấy lại có những quang cảnh trái ngược với bốn năm về trước, cụ bà đòi ở lại mà các con thì năn nỉ để mời cụ đi.

Rốt cuộc cụ ông và bốn đứa con đành xuống tàu vào Nam chứ không lẽ đa số lại phục tùng thiểu số. Nhất là ngày nay Phúc và Thọ đã có nhiều kinh nghiệm về đảng với Bác, đã biết thế nào là cuộc sống đoàn thể, nếu Phúc và Thọ ở lại thì thế nào cũng có ngày lòi ra cái việc hai cậu đào ngũ vì chán nản, vì thất vọng và sẽ không ăn yên ở yên với các đồng chí.

Có những chuyến chia tay người ta ngỡ rằng ngắn ngủi, người ta xây bao nhiêu hoài vọng vào ngày gặp lại, tin tưởng ở ngày gặp lại không xa, thế mà sự xa cách đã kéo dài lê thê. Dài đến nỗi con người đâm ra quen thuộc, không còn biết đến đâu sẽ chấm dứt và không chờ đợi ngày chấm dứt nữa.

Bà cụ Lộc khi tiễn chồng con xuống tàu đã bám víu vào mấy ngôi nhà, mấy nấm mộ, mấy chục mẫu ruộng hương hỏa để tìm thêm can đảm, nhưng liệu những vật vô tri ấy có thay thế được?

Những ngôi nhà, nấm mồ và mấy thửa ruộng hương hỏa ấy làm sao mà thay thế tiếng ho buổi sáng của người chồng già xấp xỉ tuổi mình. Người chồng đã cùng với mình chia sẻ biết bao nhiêu sự vui buồn của cuộc đời suốt bốn chục năm trời ăn ở với nhau. Những tiếng ho không phải vì bệnh hoạn mà vì tuổi già, đấy cũng là cái đồng hồ báo thức mỗi khi trời chớm sáng để cụ bà dậy gọi con bé ở đong gạo nấu cháo sớm.

Những ngôi nhà, nấm mộ và mấy chục mẫu ruộng hương hỏa ấy không thể nào thay thế giọng hát của Khanh, cô con gái út. Từ thuở lên sáu, lên bảy Khanh đã được chọn để ca giọng kim nữ trong nhà thờ vì cô bé có giọng hát trong trẻo vươn lên, khác hẳn với các trẻ đồng lứa, giọng hát như những cây dương liễu ngoài bờ biển, vun vút mà thanh khiết.

Nhất là làm sao thay thế được giọng cầu nguyện chung của gia đình mỗi đêm trước giờ lên giường.

Bà cụ Lộc vì hối tiếc, vì thương chồng con nơi đất khách quê người và thương luôn sự thui thủi của mình nên càng ngày càng teo tóp lại như miếng mỡ rán bị bỏ quên lâu ngày trong góc bếp. Đã thế lại không có chút thuốc men tẩm bổ, các đồng chí còn đau ốm nhịn đói nhịn khát huống gì ai. Có những buổi chiều không biết từ nhà ai xông lên mùi thuốc bắc, rõ ràng cụ nhận ra mùi sâm, mùi thục, cụ phồng mũi cố sức hít lấy vào mình nhưng chỉ một thoáng thôi rồi cái mùi thơm tho ấy biến đâu mất. Hỏi quanh hàng xóm, chẳng ai ốm đau mà cũng chẳng ai làm gì có thuốc, sao bỗng dưng mùi thuốc lại xông đến mũi bà như thế? Không bao giờ cụ có thể tự giải thích nổi cái hiện trạng lạ lùng ấy. Ngay cả vào những đêm khuya không ngủ được, nằm nhớ chồng nhớ con thì cái mùi thuốc bắc lại quạt về. Lắm khi đang chợp ngủ, cụ nghe như có cả giọng của ông cụ từ dưới bếp vọng lên “Bà nó ơi, dậy mà uống thuốc đi!” Cụ giật mình thức giấc, đưa tay ra quờ quạng nhưng chỉ thấy cái màn rách. Cảm giác chua xót của người vợ trẻ nhớ chồng ra sao cụ chưa hề biết, vì thuở trẻ lúc nào cũng sống cạnh chồng, nhưng cái cảnh vợ già nhớ chồng cũng thê lương không kém và cụ đã biết quá rõ.

- Bà nó ơi, dậy mà uống thuốc đi!

Câu nói mới nghe qua tưởng lạnh lùng nhưng bao hàm một tình thương sâu rộng, không phải chỉ thương riêng người đàn bà ấy, mà còn chứa cả niềm thương gia đình, thương mấy đứa con, nếu mẹ chúng đau yếu hoặc có mệnh hệ nào thì sẽ phải côi cút cô đơn.

Tất cả những nhạc điệu thân yêu đó ngày nay không còn nữa, ngày nay suốt từ sáng đến chiều một mình cụ thui thủi, hôm nào cũng đợi tin may ra có người trở về, nhưng có được bao nhiêu người trở về? Và những người trở về ấy đâu có quen biết gia đình chồng mình.

Đấy là chưa nói đến những sự ép buộc chính trị mà cụ không bao giờ hay biết đến, cụ tiến chậm quá, ngày người ta kháng chiến thì cụ ngồi tiếc ngơ, tiếc ngẩn mấy ông Tây mua bán quá dễ dãi. Ngày mà mọi người như đã thiên hẳn vào cộng sản thì cụ còn ngồi hỏi thăm cuộc kháng chiến chống Pháp của các đồng chí và các anh bộ đội.

Trong xóm thấy cụ ngồi hàng giờ, mặt mày khờ khạo, ai cũng cho rằng cụ bị loạn óc rồi, họ không cần để ý đến nữa. Sự thực cụ không loạn óc, cụ vẫn tỉnh táo, nhưng chỉ buồn vì quá cô độc. Có những hôm không chịu nổi, cụ ngồi gục mặt khóc một mình, vừa khóc vừa gọi “Khanh ơi, Hương ơi, ông nó ơi!” nhưng gọi mà chẳng ai thèm trả lời. Cụ đâm ra hối tiếc tại sao mình không chịu theo chồng theo con di cư vào Nam cho xong. Sách vở nói cái gì là có cái đó, “xuất giá thì phải tòng phu” và cụ oán hận tất cả những ai đã chia đôi đất nước, đã bắt kẻ ở người đi làm cho cụ đến lúc tuổi già mà phải cô quạnh, không con không cháu. Cụ buồn, đâm ra xao lãng cả việc kinh kệ, đáng lẽ buồn thì càng phải nên đi nhà thờ cho chăm may ra sẽ vơi bớt, nhưng cụ hầu như không thiết đến một sự gì nữa, ngay cả việc ăn uống hàng ngày nếu làng xóm không hỏi vọng qua “Cụ Lang ơi, nhà cụ nấu cơm chưa?”, đến lúc ấy cụ mới giật mình đi tìm gạo nấu cơm.

*****
 


Ở trong Nam, cụ ông và gia đình tuy không bị cái nạn chính trị làm khủng hoảng tinh thần, nhưng những năm tháng đầu Nam Bắc ngỡ ngàng không thể nào tránh khỏi một vài sự va chạm. Cụ rất buồn khi nghe những câu nói dầu là chỉ nói đùa “Rau muống và giá sống không bao giờ trộn lẫn được với nhau”.

Cùng là con cháu một tổ tiên, nói chung một thứ tiếng mà sao người ta lại cứ đi chia rẽ Bắc Nam? May mắn cho cụ là số bà con bạn bè di cư cũng khá đông. Họ thường vẫn tìm gặp nhau để nói chuyện, để nhắc đến quê hương, mời mọc nhau ăn những bữa ăn đặc biệt thuần túy của quê hương như bún ốc, gỏi cá, giả cầy... do tay các bà nội trợ tự nấu lấy. Đây cũng là một sự an ủi lớn cho những kẻ cô độc, những món quen thuộc, cái mùi vị quen thuộc, nếu bảo phải từ bỏ xứ Việt mà ra sống ở ngoại quốc thì cụ chắc rằng chẳng ai dám đi. Nhờ có những sự gặp gỡ ấy nên cụ bớt nhớ nhung, chỉ trừ những khi thấy bóng dáng người đàn bà nào gầy gầy, bé nhỏ, vấn chiếc khăn nhung đen, làm nổi bật mái tóc muối tiêu thì đột nhiên cụ đâm ra bâng khuâng nhớ người vợ già đang cô độc nơi quê xa.

Cụ chưa góp đủ vốn để ra cửa hiệu nhưng vẫn có thể tiếp tục hành nghề vì tiếng lành đồn xa. Chỉ cần nói đến cụ Lang Lộc là ai cũng biết danh, không cần phải quảng cáo thêm. Công việc cũng là một liều thuốc tiêu sầu, người nào không có việc làm, để tháng ngày trôi qua một cách vô ích thì người ấy có thể tự xem mình như bị lãnh một thứ án của thượng đế, của xã hội mà không biết.

Các con, Phúc và Thọ đã xin được việc làm. Phúc đi thầu xây cất cho chính phủ, còn Thọ đi dạy học. Cụ không ngờ ngày xưa Thọ có vẻ lười biếng, thi cái tú tài phải canh mãi mới chịu học, thế mà bây giờ trở nên một ông giáo chăm chỉ biết yêu nghề, yêu lũ học trò nhóc của mình. Thọ còn nuôi cái mộng là sau này vay vốn mở riêng một ngôi trường đặc biệt như các ngôi trường ở Hòa Lan. Học trò đến đấy, đứa nào muốn làm gì thì làm, thợ mộc, chẻ củi, nấu ăn, trồng cây, khi họp lại với thầy thì giảng triết lý sống. Chương trình học để thi cử rất nhẹ... Nhưng đấy chỉ là mộng, ngày nào người Việt Nam còn ham chuộng bằng cấp để se sua với nhau thì cái trường ấy mở ra chắc chẳng có ai thèm gửi con đến. Không phải như ở Hòa Lan mà vua chúa cũng gửi con đến để xin học làm người, ăn ở ngay tại trường.

Nếu gia đình cụ Lộc làm ăn được vững chãi như thế, một phần là nhờ cái tài đảm đang tháo vát, thức khuya dậy sớm của Mai Hương, cô con gái lớn. Mai Hương đã thay mẹ lo cho cha, cho các anh và cho cô em gái còn bé vẫn tiếp tục đi học.

Ngay từ khi còn ở ngoài Bắc, cả nhà cũng đã trông cậy vào sự quán xuyến của cô gái lớn ấy, học xong cái bằng tiểu học là Mai Hương về lo công việc nhà, tập đi chợ nấu ăn trông coi giúp mẹ.

Nhờ Mai Hương mà gia đình tuy vắng bóng cụ bà nhưng không thấy thiếu thốn. Gia đình nào cũng thế, muốn làm ăn nên nổi, muốn được bình yên khỏi có những sự khủng hoảng tinh thần thì hãy đi tìm một người đàn bà. Dầu đóng vai mẹ, vợ hay chị, hay em gái, con gái gì cũng được, người đàn bà này cần phải có uy quyền và nhất là phải biết yêu mái nhà của mình chứ không phải ngồi nhà này mà chỉ lo nghĩ đến nhà khác.

Mai Hương là một thiếu nữ còn lại của phương Đông mặc dầu chiến tranh, mặc dầu những trào lưu Âu Mỹ, người con gái ấy vẫn như tảng đá vững chắc ngoài bể, sóng có vỗ mấy cũng vẫn còn đấy không hề thay đổi. Một tay Mai Hương đã xuất phát lo lắng mua bán cần kiệm, nàng lại còn biết chơi họ cùng với bà con để dành tiền làm vốn liếng riêng cho mình và cho em. Nghĩ đến tương lai, nếu có đi lấy chồng sẽ khỏi bị nhà chồng khinh khi.

Mai Hương chỉ có duyên chứ không có thứ nhan sắc lộng lẫy như nhiều cô gái khác. Tuy vậy vẫn có bao nhiêu người đến xin cưới, nhưng đám nào cũng bị nàng từ chối khéo léo, viện cớ rằng các anh chưa có vợ và Mai Khanh còn ít tuổi quá, nếu nàng bỏ đi lấy chồng thì ai lo việc gia đình.

Cả nhà cũng nghĩ như thế, một lý do nữa để cho Mai Hương từ chối vì mọi người ai cũng biết nàng đảm đang, cưới sự đảm đang thì có khác gì đi ôm về một cái núi bạc, một số vốn lớn của trời ban cho, ngồi gỡ hoài ăn không bao giờ hết. Cưới vợ giỏi thì chồng khỏi lo làm, có thất nghiệp, có bị chủ đuổi cũng chẳng sao. Ta có câu “trai khôn tìm vợ chợ đông” là thế, vào chợ thấy bà nào biết mua bán, biết mặc cả, biết chọn hàng tức thị đó là người vợ lý tưởng, cưới ngay đi chứ còn chờ gì nữa! Nhưng các gia đình đến xin cưới Mai Hương cho con trai đều là những gia đình mà cậu con học hành lỡ dở, tính nết lười biếng. Lắm cậu còn khét tiếng tiếng ăn chơi, chưa có một người nào làm ăn đàng hoàng, tư cách đứng đắn để cho cụ Lộc và con gái phải hối tiếc.

Những người đàn bà rỗi mồm không hiểu cho như thế, cứ gọi Mai Hương là gái già, gái ế. Có lần chính Mai Hương nghe được hai bà láng giềng ở sát cạnh nhà ngồi ở trong quán nói bô bô với nhau:

- Nó đảm quá thành thử bố nó với các anh em nó cứ giữ nó lại không cho lấy chồng, bây giờ một ngày một già, ai người ta còn màng đến nữa!

- Phải đợi ông lão nào góa vợ thì may ra...

Họ ác độc như thế nhưng mỗi khi gặp Mai Hương hoặc có chuyện gì cần đến nàng thì ngọt ngào xơn xớt: “Ối dào cô Hương ơi, sao mấy hôm nay cô đi đâu để chúng tôi nhớ, cả xóm nhắc cô...”

Mỗi lần như thế bắt Mai Hương phải dừng chân chào hỏi, tuy trong lòng rất bực tức nhưng không bao giờ tỏ ra ngoài.

******



Hôm nay rỗi rãi, công việc dọn dẹp trong nhà đã xong từ lâu, Phúc đi thầu mãi tận dưới tỉnh, Thọ cũng được gia đình học trò mời về tỉnh ăn giỗ, Mai Khanh đi ăn sinh nhật cô em họ từ trưa nên nhà vắng tanh. Mai Hương dọn cơm cho cha và mình ăn xong, nàng đợi u già rửa bát rồi cho u đi chơi trong xóm, còn mình thì ra sân ngồi nhìn trăng chờ em về.

Những lúc ngồi một mình như thế này, Mai Hương mới cảm thấy nhớ mẹ, nhớ quê nhà, nhớ từ cái ao cá cho đến cái sân phơi ngô, nhớ mấy gian nhà gỗ với từ cái cột, cái đòn dông, cái bể nước mưa, v.v... Tất cả những hình ảnh ấy chỉ được phép hiện về trong tâm trí người thiếu nữ khi mà mọi thứ sổ sách chợ búa họ hàng đã tính toán xong. Những cái nhớ ấy, mỗi khi trở về là y như có một sức mạnh làm cho Mai Hương không ngủ được, trằn trọc trên giường đến gần sáng.

Một cảm giác cô đơn man mác không biết từ đâu kéo đến xâm chiếm tâm trí, Mai Hương muốn có một bàn tay nào đến vỗ về mình, một giọng nói nào đến dỗ dành an ủi mình, giúp cho mình quên được những câu nói ác độc của mấy bà láng giềng mà có một hôm nào Mai Hương đã nghe.

Người ấy sẽ đến, Mai Hương tin như thế, nhưng người ấy sẽ là ai?

Tiếng cụ Lộc ho húng hắng từ trong buồng vọng ra, Mai Hương biết rằng cha còn thức. Sống chung từ thuở bé, người con gái hiểu rõ tính nết của từng người trong gia đình. Còn thức giờ này hẳn là cụ Lộc chắc phải có chuyện gì cần suy nghĩ. Mai Hương hơi thắc mắc, sao có chuyện để suy nghĩ mà cha không bảo cho mình biết.

Giọng cười nói từ ngoài cửa vọng vào với tiếng xe hãm máy và tiếng chào hỏi của em như kéo Mai Hương ra khỏi những ý nghĩ vẩn vơ. Mai Hương biết có mấy người bạn nào, đông lắm, hẳn thế, đã theo xe của chú đốc Định để đưa Mai Khanh về tận nhà. Nàng bước nhanh ra cửa đón em gái.

Những cảm giác trống trải ban nãy vừa tự do luồn lọt vào tâm hồn, được nàng vội vàng dồn ép ngay trong một góc kín. Mai Hương không muốn cho em gái biết mình buồn. Sự hy sinh của mình, Mai Hương tự cho như là một sự phải thế. Không ai bắt buộc, nhưng hình như định mệnh đã trao cho nàng cái sứ mệnh làm thiên thần gác cửa cho nhà họ Phạm này, Mai Hương muốn làm cho tròn sứ mệnh.

Từ thuở bé, mặc dầu là chị nhưng cách xa nhau nhiều tuổi, Mai Hương trông nom em rất tận tình, nên Mai Khanh vẫn quý chị như cha mẹ của mình. Từ hơn một năm nay, mỗi khi thoáng thấy chị hơi có gì buồn là y như Mai Khanh đề cập ngay đến vấn đề bỏ học ở nhà trông việc gia đình cho chị đi lấy chồng.

Có lần Mai Khanh dám nói một câu làm Mai Hương giật mình không ngờ em mình lại khôn ngoan như thế:

- Em thấy gia đình đã nhờ vả chị, gần như bóc lột chị quá nhiều, chị cần phải yêu và được yêu. Chị cần phải được sống hạnh phúc như ai...

Tuy Mai Hương cố gạt đi nhưng rồi lần nào những ý nghĩ ấy cũng trở về với Mai Khanh. Lần này em gái vừa đi chơi về gặp bạn bè vui vẻ, Mai Hương càng không muốn cho Mai Khanh biết những ý nghĩ buồn tủi thầm kín của mình.

- Tiệc có vui không? Khanh có mệt vào thay áo, rửa mặt đi đã rồi hãy ra đây kể chuyện chị nghe. Chúng ta sẽ cùng vào đọc kinh sau.

- Vui lắm chị ạ, mà em không mệt đâu, để em ngồi đây một lúc rồi hẵng vào thay áo, rửa mặt.

Khanh hân hoan đến ngồi cạnh chị, mới xa có một buổi chiều mà cô em đã cảm thấy nhớ nhà và nhớ chị, về gặp lại chị, Khanh mừng muốn kể hết tất cả một lần cho chị nghe.

- Khách đến dự chắc đông lắm nhỉ, chú thím có ra không?

- Khách đông hơn năm ngoái, các cô xinh và diện lắm cơ, diện hơn tất cả mọi năm, chú thím không ra để mặc cho tụi trẻ con với nhau, có anh Hoàng và...

Nói đến đây Khanh ngập ngừng chẳng biết có nên kể hết cho chị nghe không, một cảm giác xấu hổ ngượng ngùng như cô bé lần đầu tiên làm dáng bị mẹ bắt gặp.

- Hoàng là bạn của cô Nhung, con bà Thiện có hiệu tơ lụa ở đường gì ấy à?

- Vâng, anh Hoàng đến cùng với cậu anh ấy vừa ở Pháp về sáng hôm nay...

Định không nhắc đến Vinh nhưng chẳng hiểu tại sao Khanh lại kể ra cả như thế, sợ chị nhận biết sự thay đổi trên nét mặt, trong giọng nói của mình, Khanh ngừng lại. May quá Mai Hương không chú đến sự thay đổi của em, nàng chỉ hỏi lại hai chữ “thế à” rồi thôi. Mai Hương âu yếm đưa tay lên cài sửa lại bông hoa hồng trắng trên mái tóc em đang sắp rơi xuống.

Biết chị không nghi ngờ gì, Mai Khanh vui vẻ kể sang chuyện khác. Nào khen chiếc bánh to hơn năm ngoái, chú bếp mách rằng chú ấy phải mua đến 60 cái trứng gà với cả chục ký bột mì. Nào áo của Nhung là thứ hàng kim tuyến mới từ bên Mỹ sang chưa có bán ở ngoài, đấy là món quà của bà Định nhờ một bà bạn vợ ông bộ trưởng gì đi Mỹ mua về hộ, vừa kịp cho Nhung mặc vào dịp sinh nhật.

- Quà sinh nhật để cả một cái bàn lớn ấy chị ạ, nhưng chắc chỉ có anh Hoàng là mang đến món quà đắt tiền nhất.

- Quà gì mà đắt tiền?

- Một cái thánh giá với sợi dây bằng platine.

- Trời ơi, cậu ấy tiền đâu mà mua?

- Anh ấy là con cưng trong gia đình, mà nhà bà Thiện cũng giàu nữa.

- Phải nhà giàu mới chơi nổi với nhau như thế.

Giọng Mai Hương thản nhiên chứ không ganh ghét, có những gia đình thiếu sự chân thật với nhau, người này ganh ghét người kia khi thấy thành công hơn, nhưng gia đình của anh em cụ Lộc thì không thế. Cụ Lộc chấp thuận sự thành công của bác sĩ Định, em trai mình, cho rằng em mình giàu cũng như mình giàu. Một người trong họ thành công là đủ rồi, vả lại sự giàu có ấy có được do ở tài và sức chứ đâu phải từ trên trời rơi xuống.

Câu chuyện quay sang sự phê bình những người khách, cô này béo, cô kia gầy đi, nhà cô nọ vừa đổi xe mới... Mai Khanh nói để có chuyện nói, để chị khỏi nghi ngờ có sự xáo trộn trong lòng mình. Sự thực nàng chỉ muốn có một người nào thật thân để cho nàng được tỉ mỉ kể tất cả những gì xảy ra trong tâm hồn, nàng muốn hỏi ý kiến người thân ấy rằng những cảm giác ấy là gì, sao lại có sự thay đổi nhanh chóng như thế? Có ai thân hơn chị, thế mà sao Mai Khanh lại ngập ngừng không dám nói hết với chị?

Biết chắc rằng không phải vì sợ chị mắng hay giận dỗi trách móc, nhưng Mai Khanh linh cảm nếu Mai Hương biết thì nàng sẽ buồn, buồn rất nhiều dẫu cho bề ngoài nàng có cố sức che đậy giấu giếm.

Hai chị em im lặng ngồi bên nhau, câu chuyện buổi tiệc sinh nhật có thể gọi là tạm kể hết nếu không đề cập đến phần chính và nhân vật chính. Mai Khanh cảm thấy có gì đang đè nén trong ngực, nàng muốn hét thật to hoặc cười thật to cho những gì đang đè nén được trào ra. Thế mà rồi chẳng hiểu có bàn tay nào đã giữ lại. Mai Khanh chỉ nói rất khẽ một câu hỏi hầu như là vô nghĩa lý.

- Mùi hoa gì thơm quá chị nhỉ?

Hỏi thế chứ Mai Khanh đã biết rồi.

- Hoa dạ hương, ở trong Nam này người ta gọi thêm một chữ nữa là dạ lý hương.

- Có người bảo hoa này có ma đấy chị ạ, ma nó ưa mùi dạ lý lắm.

- Người ta bảo thế chứ nhà mình có Chúa thì làm sao có ma được.

Muốn cho câu nói của mình thêm vững chắc, Mai Hương đưa bàn tay lên làm dấu thánh giá. Mai Khanh thấy chị làm dấu cũng bắt chước làm theo, bỗng nhiên cả hai chị em đều rùng mình.

- Thật đấy chị ạ, tụi bạn ở trong trường nó vẫn bảo thế...

- Bảo gì cơ?

- Bảo mùi hương dạ lý là mùi hương ma quái.

- Đã bảo nhà mình có Chúa thì ma quỷ nào dám vào.

Giọng Mai Hương hơi gắt, sự thực nàng cũng vẫn thường nghe và không ai xa lạ, chính là cái u già nhà này hay đẻ ra lắm chuyện dị đoan nhảm nhí rất kỳ quái. Có lần Mai Hương đã cáu lên dọa u già là nếu u sinh vào thời xưa thì u bị người ta kết tội là phù thủy và bị mang đốt đi chứ chẳng phải chơi. Mai Hương kỵ nhất là nghe ai bảo mùi hương dạ lý có ma, vì cây dạ lý do tay nàng mới trồng từ độ vào đây và nó chóng lớn, hoa thơm hầu như quanh năm, cứ cách hai tháng lại nở hoa một lần. Hoa nhiều làm trĩu cả cành. Mỗi lần hoa nở, Mai Hương hay ra ngoài sân ngồi để tận hưởng cho hết cái mùi hương kỳ diệu ấy, nếu cứ dọa có ma thì còn ai dám ngồi nữa.

Giọng ho húng hắng của cụ Lộc từ nhà trong vọng ra, nhờ thế mà câu chuyện mùi hương dạ lý được quên đi.

Khanh hỏi chị:

- Thầy còn chưa ngủ sao chị nhỉ?

- Thầy thức từ tối đến giờ, hình như thầy có chuyện gì đang lo, mỗi lần cụ lo là y như cụ không chịu ngủ và cứ ho vặt mãi. Làm thầy thuốc mà cụ không chịu uống thuốc.

- Chiều nay cũng chẳng anh nào về hở chị?

- Chưa, hình như anh Phúc có ý định cưới vợ mà cô ấy người Nam, chỗ anh Phúc xuống thầu, chắc thầy lo nghĩ vì thế.

- Em ngờ rằng thầy vừa nhận được tin gì của bu chăng, sáng nay trước khi đi học em thấy bà Nam Hưng đến nói thầm thì gì với thầy khá lâu. Mặt thầy hơi cau có, ra dáng suy nghĩ...

- Thế à, bà Nam Hưng hay đi hàng Nam Vang. Thôi đúng rồi, sáng nay chị bận đi chợ, thế mà cụ chẳng bảo gì với mình cả.

Mai Hương trách cha, theo ý nàng những chuyện gì có liên can đến mẹ, đến quê hương thì cha không có quyền giữ lấy một mình. Hai chị em ngồi trầm ngâm suy nghĩ, thấy không còn chuyện gì để nói với nhau, Mai Khanh chậm rãi đứng lên đi ra đằng sau lấy nước rửa mặt.

Múc nước đổ ra chậu rồi Khanh mới nhớ là mình chưa thay áo, sợ nước làm ướt chiếc áo mới may đặc biệt để đi ăn lễ sinh nhật của Nhung. Chiếc áo được nàng ưa thích nhất vì từ lâu lắm không may áo. Hôm nay có thì giờ đi chọn hàng lấy, mà lại gặp được thứ hàng vừa ý, với màu tím nhạt mà Khanh rất yêu. Khanh không muốn chiếc áo chóng cũ nên vội vàng vào cởi mắc lên máng đàng hoàng rồi mới ra bể nước rửa mặt.

Tấm áo cánh bằng phin mỏng chỉ che một mảnh đằng trước ngực với một mảnh đằng sau lưng, để lộ hai cánh tay tròn, trắng nõn. Khanh nhúng cả hai cánh tay vào nước, rồi lấy khăn mặt lau qua, cố để cho hơi nước ẩm mát còn lại trên da thịt. Một cảm giác mơn man dễ chịu đang tràn vào cơ thể, Khanh tưởng tượng nếu được cởi hết cả áo để xối nước lên khắp người chắc sẽ còn sung sướng hơn biết mấy.

Đằng xa, Mai Hương thấy em kề cà, nàng chỉ sợ Khanh gặp gió mà ốm thì khổ cho bố và cả mình, lại còn bỏ học nên vội giục:

- Nhanh lên không khéo cảm bây giờ đấy.

- Nước mát quá, em chỉ muốn tắm một cái.

- Ai mà tắm giờ này, không được đâu?

Mai Hương vội lên tiếng chặn ngang cái ý nghĩ ấy ngay, sợ cô em gái dại dột mà thực hành thì cản không kịp. Khanh bê thau nước đến đổ vào gốc dạ hương, vừa đổ vừa nói chuyện với cây:

- Nước mưa đấy nhé, liệu mà nở thêm hoa nữa đi.

Rồi trở lại múc từng gáo đổ vào cái chậu đất để rửa chân, bể nước chao động vì bị cái gáo dừa vục vào làm lung lay mấy vệt sao từ trên trời phản chiếu xuống. Khanh muốn đừng vào ngủ nữa, nước mát quá và tâm hồn Khanh tỉnh táo quá, sợ vào ngủ sẽ phí đi chăng. Định đưa ý kiến ra nói với chị nhưng biết trước rằng chị sẽ không bao giờ cho phép. Mai Hương rất khắt khe với giờ giấc, đêm nay như thế này là đặc biệt lắm, vì ngày mai chủ nhật nàng mới cho cô em gái thức đến bây giờ. Mai Hương chỉ sợ em thức đêm mất sức, hại nhan sắc, rồi chóng già khó lấy chồng.

- Nhanh lên chứ Khanh, nhanh mà vào không khéo lại trúng gió bây giờ.

- Gió Sài gòn hiền lắm, không sợ ốm đâu chị đừng lo.

Mai Khanh muốn nói gió đêm nay hiền lắm, nhưng lại sợ gieo ngờ vực vào cho chị, sợ chị hỏi vặn tại sao lại gió đêm nay mà không là gió những đêm trước.

- Nhanh còn đọc kinh mà đi ngủ chứ, hay chửa!

Nghe chị giục lần thứ ba, Mai Khanh vội vàng cúi bê chậu nước đi tưới mấy gốc hoa hồng rồi mới theo chị vào nhà.

********



Cụ Lộc nằm mãi đợi giấc ngủ mà giấc ngủ nhất định không chịu đến, và mỗi lần không ngủ là y như nó cứ bắt ho. Bực mình đã ho thì cho ho luôn một thể, cụ ngồi dậy châm đóm kéo mấy điếu thuốc lào để hơi thuốc làm bạn với tâm trí...

Hình như tại chiều nay cụ lỡ tay bỏ nhiều trà vào ấm nên ấm trà hơi đậm, vì thế mà trí não cứ như là được rọi đèn vào trong, sáng suốt tỉnh táo lạ lùng. Càng tỉnh càng xui cụ nhớ nhiều đến quê nhà, di cư vào Nam thế này là gần sáu năm rồi, thế là gần sáu năm cụ xa quê hương xứ sở. Sống ở đây tuy không có gì thiếu thốn, nhưng con người càng về già lại càng đâm ra nhớ quê hương.

Những đêm như đêm nay cụ cảm thấy cuộc sống hết cả nghĩa lý, tự hỏi con người sinh ra để làm gì, tranh giành nhau, đặt ra chủ nghĩa này, chủ nghĩa khác để làm gì. Một ngày nào đó, Chúa gọi về là hết cả, có những người đi học đi hành hai ba chục năm trời, đọc được hàng tấn sách, thế mà rồi mấy ai dám tự hào rằng hiểu được chân lý của cuộc sống.

Cụ Lộc có cảm tưởng mình sắp được về với Chúa. Cụ muốn dọn linh hồn làm sao cho tinh khiết, mới có gần sáu năm mà con người cụ như già thêm hai chục tuổi nữa. Cụ nghe giọng đọc kinh thầm thì của hai cô con gái ở phòng bên: “Kính mừng Maria đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phước lạ hơn mọi người nữ.”

Người cha rất yên lòng, giá các con đọc kinh lớn hơn để cụ cũng đọc theo, chỉ có đọc kinh mới giúp cho con người khỏi suy nghĩ vẩn vơ. Đối với hai đứa con gái, cụ có thể tự hào là đã khéo nuôi khéo dạy, trong họ ngoài làng ai cũng bảo như thế. Bây giờ cụ chỉ còn cầu xin sao cho Phúc cưới được một người vợ cũng đảm đang như Mai Hương để cô em gái có thể yên tâm đi lấy chồng, mặc dầu hiện thời Mai Khanh cũng đã có thể thay thế chị được rồi.

Đêm nay cụ không ngủ được vì hai vấn đề. Thứ nhất Phúc chịu lấy vợ, nhưng cô vợ từ dưới Lục tỉnh lại là người miền Nam, đấy là một điểm làm cụ vướng mắc. Thứ hai là sáng hôm nay, bà Nam Hưng đến muốn làm mai con nhà bà Tiến Lợi cho Mai Hương.

Cậu cả con nhà con nhà bà Tiến Lợi, so với mấy đám từ trước đến nay là người khá nhất, vừa có học thức lại vừa nhanh nhẹn hoạt bát. Cậu ấy trước đã có một đời vợ nhưng vợ chết sau hai năm ăn ở với nhau.

Có lắm người rỗi miệng, đồn rằng mợ ấy chết vì giận chồng nên uống dầu gió tự tử. Ban đầu tưởng chỉ dọa chơi không ngờ lại chết thật. Điểm ấy làm cho cụ ngần ngại nhất, không có lửa thì làm sao mà có khói. Chẳng ít thì nhiều, thế nào người ta mới đồn như thế, vợ chết mới mãn tang thì đã có ý đi hỏi người khác ngay, như thế là thế nào? Con gái cụ tuy không được nhan sắc chim sa cá lặn, nhưng với cái đạo đức và hạnh kiểm thì dám thách tất cả làng trên xóm dưới đố ai bì kịp. Mai Hương đâu phải là thứ hàng thiu hàng ế mà cụ phải gả cho gấp? Đành rằng cậu ấy có danh có phận nhưng cụ vẫn ngần ngại, danh phận mà thiếu đức thì cũng chẳng ra gì.

- Giá có bu nó ở đây thì tao đâu có phải lo lắng vất vả quá vậy...

Người cha già thốt lên một lời than. Thật như thế, cái cảnh gà trống chăn con lắm khi làm ray rứt. Cụ buồn không biết than thở với ai, có ai hiểu cho đâu mà than thở.

Ngay cả đứa con gái út là Mai Khanh bây giờ cũng đã có đám này đám kia nhắm hỏi, nhưng cụ phải làm lơ đi vì không muốn cho con gái mình xao lãng sự học hành và có thể làm khổ cho Mai Hương, sợ Mai Hương sẽ buồn thân tủi phận chăng?

Hai, ba vấn đề dồn dập một lần, làm sao cụ có thể ngủ được?

************



Cả gian nhà yên lặng, ngoài tiếng ngáy đều đều từ phòng bên của cụ Lộc đưa sang, hòa với tiếng chó sủa ai đi khuya từ xa vọng lại. Mai Khanh nằm đếm cả mấy nghìn con cừu rồi sao mà vẫn không ngủ lại được. Ba, bốn hôm nay ai cũng kêu là đôi mắt nàng bị quầng thâm. Cụ Lộc biết thì nhất định phải uống ít nhất là hai, ba thang thuốc có nhiều táo tàu với nhãn nhục, hai vị thuốc cụ vẫn hay kê cho con gái mình uống mỗi kỳ cô bé học thi thiếu ngủ. Mấy đêm nay không học thi, nhìn bên ngoài chẳng có gì thay đổi nhưng tâm hồn người con gái đang có một sự xáo trộn ghê gớm. Khanh tìm đủ cách mà không thể nào đuổi được cái hình ảnh người con trai xứ Huế ấy ra khỏi tâm trí mình.

Giờ phút nào Khanh cũng bị đôi mắt, nụ cười, giọng nói của Vinh ám ảnh, mặc dầu hai người chưa hề nói với nhau một câu chuyện sâu đậm, thế mà sức mạnh gì đã bắt Khanh không ngủ được. Không ngủ thì cũng không ăn được. Đêm đêm trằn trọc, giỏi lắm là chợp mắt được một hai tiếng đồng hồ, kéo dài mãi thế này không khéo sẽ là cô gái trong bài thơ “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông” của Thôi Hộ.

Mai Khanh chưa có dịp gặp Nhung, không dám tới nhà vì tới mà chẳng có lý do gì thì làm sao khỏi bị người này người khác ngờ vực. Nàng mong Nhung đến nhà mình nhưng chắc Nhung cũng bận rộn nhiều sau lễ sinh nhật. Mai Khanh đành ước mong chóng đến kỳ thứ bảy này, nàng sẽ đến đòi ngủ lại rồi hôm sau đi nhà thờ Đức Bà với Nhung. Thỉnh thoảng Khanh vẫn đến ngủ lại thứ bảy như thế để sáng thức dậy sớm hai chị em cùng đi lễ với nhau. Nhà thờ Đức Bà to lớn, âm vang, bước vào như lạc đến một thế giới khác biệt, không giống với nhà thờ Thánh Minh của Khanh ở Phú Nhuận. Ở nhà thờ Đức Bà, người đi lễ toàn là những người sang trọng, ăn mặc diêm dúa, chung quanh nhà thờ đậu dọc toàn là những hiệu xe hơi đắt tiền. Nét mặt mọi người lúc quỳ dưới chân Chúa đều có vẻ dịu dàng từ thiện, không thắc mắc âu lo như những kẻ nghèo đã vào đến nhà thờ mà tâm trí chưa dứt được sự tính toán, suy nghĩ, lắm người còn không đủ thì giờ mà dự cho hết lễ, kể thật đáng thương.

Nhưng chỉ thỉnh thoảng thôi, Khanh mới dám cho phép mình được hưởng cái cảm giác thoải mái đó vì không muốn bỏ chị với cha đi chầu hoặc đi lễ một mình. Vả lại nhà thờ ở xóm Khanh tuy bé nhỏ nhưng có vẻ ấm cúng thân mật, ai vắng đi lễ một, hai lần là mọi người trong họ biết ngay, ai mới vào lạ mặt cũng biết ngay. Mỗi nhà thờ mang một vẻ độc đáo riêng, có đi lâu, đi nhiều mới biết.

Có tiếng gà gáy sáng, con gà trống độc nhất mà u già nằng nặc đòi nuôi, nếu thiếu nó thì trứng gà cứ vữa không nở được thành con. U già bảo thế, chẳng biết u học nó ở sách nào, nhưng Khanh cũng đồng ý nuôi để nó gáy đánh thức cả xóm mỗi sáng cho vui. Thỉnh thoảng nghe nó đập cánh gáy vào quãng bốn giờ chiều, tức thị u già sẽ hớt hơ hớt hải bảo rằng gà gáy chiều tức là trong xóm có con gái chửa hoang. Rồi u duyệt binh trong trí tất cả những cô gái nào đáng ngờ vực nhất xóm.

U làm cho cả nhà cười đau bụng, nhưng mỗi lần cười là bị u giận cho, u bảo tại các cô còn trẻ chưa biết chuyện đời, sau này lớn lên sẽ thấy. Thọ nghe kể cũng bật cười, những khi rỗi trông thấy u già, Thọ vẫn hỏi thăm xem con gà của u còn gáy nữa không?

- Có đấy cậu ạ, thời bây giờ văn minh tránh sao cho khỏi.

Thọ tinh nghịch hỏi thêm, theo ý u thì lỗi tại con gà gáy trái nên con gái chửa hoang hay tại con gái chửa hoang mà gà mới gáy trái?

- Tại các cô gái hỏng chứ cậu, hay nghe lời đường mật, gà nó biết được có chuyện gì thì nó mới gáy.

- Thế là con gà của u thiếu tế nhị và không lịch sự đấy nhé, biết chuyện của người ta mà đi kháo ầm lên cho cả xóm nghe.

U già nhất định cãi để bênh vực con gà:

- Mà nó gáy thế chứ nó có khai tên khai họ ai đâu?

- May phúc đấy chứ u, nó mà khai thì bị vào nồi nước sôi ngay, phạt cái tội hay mách lẻo!

Tiếng gà gáy làm Khanh liên tưởng đến những mẩu chuyện vui vui trong gia đình như thế. Nghe tiếng gà lần thứ hai, Khanh biết có nằm nán lại cũng không thể nào ngủ được nữa, thôi thì dậy sửa soạn rửa mặt chải đầu, tí nữa đến trường cho xong.

Khanh vừa thi đỗ tú tài phần thứ hai, định bỏ học ở nhà trông nom gia đình thay thế cho chị, nhưng cả gia đình từ cụ Lộc đến Mai Hương và hai anh đều không đồng ý. Mai Hương bảo “Tao đâu có vội lấy chồng, chưa biết chừng tao không lấy ai cả cũng nên. Ngày nào thầy về chầu Chúa thì tao sẽ xin vào giòng tu luôn, thế là khỏi vướng víu nợ nần gì với đời.”

Phúc và Thọ bảo: “Chúng tao sẽ lấy vợ để giúp đỡ trông nom cho gia đình, mầy chẳng cần phải bỏ học. Nếu chị Hương có đi lấy chồng thì sẽ có hai cô dâu thay thế.” Thọ còn muốn em gái cố giật mảnh bằng cử nhân văn chương để rồi sau này hai anh em ra mở trường dạy học, cái thứ trường mà Thọ vẫn đang cố gắng nghiên cứu, chỉ để đào tạo ra những người dân lành, sống có ích cho nước nhà mà không vụ lợi cho mình, những triết gia.

Ý định của Thọ làm cho Mai Khanh cảm thấy hứng thú, nếu hai anh em cùng ở trong một nghề thì sẽ khỏi phải xa nhau.

Nhưng từ ba hôm nay, nghĩa là từ buổi chiều thứ bảy đến ăn sinh nhật nhà Nhung đến giờ, đầu óc Khanh tán loạn không còn tha thiết đến một việc gì nữa cả. Ngoài ý muốn gặp Nhung để hỏi xem Nhung có biết gì về Vinh. Thế nào Nhung cũng phải biết, Vinh là cậu của Hoàng mà Hoàng với Nhung rất thân nhau.

Khanh muốn đến nhà Nhung ngay, hay là có phép gì để Nhung đến thăm mình thì sung sướng biết mấy. Đời chỉ đẹp khi mình đang chờ đợi chưa nói ra mà cái ấy đến với mình, chứ khi phải chạy chọt mãi cái ấy mới đến thì sự sung sướng không còn trọn vẹn nữa. Khanh thầm cầu nguyện Đức mẹ xui khiến sao cho Nhung đến nhà mình, từ ba đêm nay rồi, Khanh cầu nguyện.

Suốt mấy tiếng đồng hồ nghe thầy giảng mà tâm trí cứ để vào đâu, không hiểu thầy đã nói những gì. Môn Hán học là môn mà Khanh vẫn thích nhất vì từ thuở bé hay được cha dạy cho những lời của Khổng Mạnh, nên Hán học rất hợp với Khanh, thế mà hôm nay tất cả đều bị lọt ra ngoài tai, những lời giảng của giáo sư cũng như những câu dạy của Thánh hiền. Khanh chỉ muốn được gặp Nhung, gặp Hoàng và nếu có thể gặp lại Vinh, người con trai có cái dáng dấp quý phái, thứ quý phái pha lẫn hai nền giáo dục Âu và Á đó.

Giá trong lớp học mà Khanh có một đứa bạn gái thật thân để Khanh tâm sự hỏi xem những sự thay đổi trạng thái như thế này là vì sao, Khanh yêu chăng? Vô lý, rất vô lý, ai lại đi yêu một người mình chưa quen, chưa có một lời nói thân mật, chưa hiểu tính nết nhau. Biết đâu người ta chẳng có vợ ở nhà hoặc có vị hôn thê đang đợi, hoặc người yêu đã từng nặng lời thề thốt. Nhất là những chàng trai sống lâu năm ở Pháp, làm sao tránh khỏi sự thay đổi quan niệm về thẩm mỹ, quen nhìn mái tóc vàng với màu mắt xanh, liệu còn có thể trở lại với những nét Á đông thuần túy được nữa không?

Nghĩ đến những điều ấy, Khanh nghe như trong tâm hồn có gì đang đổ vỡ, một cảm nghĩ chán chường, thất vọng từ đâu kéo về. Người thiếu nữ bỗng lo ngại nếu đầu óc cứ tiếp tục quay cuồng với những ý nghĩ đen tối như thế này thì chắc Khanh phải bỏ học và cái mộng mở trường sẽ không bao giờ thực hiện, mảnh bằng cử nhân văn chương sẽ không bao giờ nắm được trong tay.

Cố gắng lắm Khanh mới ngồi hết mấy giờ “cua” vì bỏ dở về nửa chừng thế nào cha và chị cũng lo ngại, tưởng ốm đau rồi hỏi thăm rối cả lên làm sao Khanh có thể trả lời được.

Trưa nay ăn cơm xong, Khanh định vào phòng nằm nghỉ một chút vì đêm qua ngủ ít, nhưng trong suốt bữa ăn cụ Lộc cứ chốc chốc lại nhìn con thắc mắc, đợi Khanh đứng lên sắp ra sau đánh răng, cụ mới gọi lại hỏi:

- Sao mấy hôm nay thầy thấy con có vẻ hốc hác, có ốm đau gì không thì phải bảo để thầy chẩn mạch cắt thuốc cho...

Khanh lo sợ, vội vàng nói cho cha yên lòng rằng, chỉ hơi mất ngủ chứ chẳng ốm đau gì cả. Mai Hương cũng nói phụ một câu:

- Khanh nó ăn yếu hẳn đi, hôm nào cũng thừa cơm phần cô ấy, thầy cho thuốc bổ đi thì vừa, nếu không chắc cô ấy hết cả học hành được.

- Con vào phòng nghỉ một tí rồi thầy xem mạch cho, chắc tại lên Đại học nhiều bài nên đuối sức chứ còn gì nữa?

Người con gái ngượng ngùng trước sự săn sóc và âu yếm của người cha và chị, nhưng bây giờ Khanh cảm thấy hiểu rõ tâm trạng của những con thú vật mỗi lần có chuyện gì thường đi trốn một chỗ nằm riêng, không muốn cho ai trông thấy.

Khanh chợt nghĩ đến con mèo của mình, con mèo Khanh nhặt về nuôi từ thuở bé lúc nào cũng quấn quít bên chân, ngồi học nó cũng ngồi lên lòng, đi học về nó chạy ra đón, thế mà từ đêm có con mèo lạ đến tìm nó, đêm ấy nó gào thét làm Khanh lo sợ ngờ rằng nó ốm đau gì. Khanh còn nghi con mèo lạ đến cắn nhau với nó nên đã tìm cách đuổi đi, nhưng hình như hành động của Khanh làm cho con mèo nhà giận. Ngày mai lại nó không còn nhí nhảnh và quấn quít với Khanh như trước nữa, tuy vẫn dễ thương, gọi vẫn đến nhưng chỉ đến một tí rồi bỏ đi ngay, tìm những nơi kín đáo, hoặc mái nhà hoặc máng xối, những nơi không ai nhìn để được nằm một mình tự do suy nghĩ, chắc thế.

Chiều về, sau giờ ăn nó ăn ít hơn thường lệ, đến bữa ăn cũng không còn meo meo ầm lên như khi trước, lo ăn vội vàng để chạy đi tìm con mèo bạn. Khanh đã theo dõi từng cử chỉ và độ ấy quả thật nàng không làm sao hiểu nổi, bây giờ, mấy hôm nay thì Khanh cảm thấy đã hiểu dần và thèm khát cuộc sống vô tư của con mèo.

***********


Có tiếng xe ai đỗ ở trước nhà, Khanh ngập ngừng không biết có phải xe của anh Phúc đi thầu ở tỉnh về hay là xe của chú Đốc. Nếu xe của chú Đốc thì đúng là lời cầu nguyện của Khanh từ mấy hôm nay đã được Đức Mẹ chấp nhận. Vì chú Đốc đến là Nhung đến, hoặc Nhung đón Khanh chứ không thể nào khác nữa, chú Đốc chỉ đến thăm anh vào ngày nghỉ chứ không đến trong tuần bao giờ.

Lời cầu nguyện được chứng giám, Khanh phải vào nhà thờ đốt đèn để cảm tạ. Khanh nghe xe chẳng buồn ra sợ mừng hụt, nhưng khi nghe tiếng u già chào cô Nhung, Khanh vùng dậy khoác vội chiếc áo khoác ngắn rồi cứ thế chạy ra đón Nhung. Giọng Nhung tíu tít ngoài cổng, giọng nói sáng tươi của kẻ đang tràn ngập hạnh phúc.

- Lạy bác ạ, thưa bác có chị Khanh trong nhà không ạ?

- Có đấy, nó vừa ăn cơm xong đang nằm trong phòng.

Nhung vừa bước vào thì Khanh cũng vừa bước ra. Nhung nhìn Khanh ngạc nhiên hét lớn:

- Sao, Khanh ốm gì không mà gầy đi thế?

- Bác đang bảo để xem mạch cho nó đấy.

Cụ Lộc trả lời thay cho con gái.

- Hay xin phép cho Khanh sang bên con vài hôm đi, có gì ba con khám cho.

- Thôi cũng được, bố thầy thuốc, chú cũng thầy thuốc, sang chơi với chú thím vài hôm cho đổi không khí. Tùy nó đấy, con thử hỏi nó xem.

Nhung mừng quá chạy vội vào phòng Khanh lo dọn cặp sách, vừa chạy vừa nói vói ra vì Khanh đứng ở phòng ngoài với cụ Lộc.

- Chỉ cần cặp sách thôi Khanh nhé, quần áo còn cả va li bên ấy.

Khanh rất sung sướng, trong lòng như nở đến mấy chục bông hoa nhưng còn tỏ vẻ ngập ngừng sợ chị buồn. Mai Hương thấy em ngập ngừng đã vội giục thêm, biết rằng Khanh vì mình mà không muốn đi:

- Khanh sang ở với chú thím vài hôm đi, đổi bếp xem có ăn thêm được bát cơm nào không, may ra khỏi cần uống thuốc, mấy hôm nay Khanh ăn yếu quá, chị chỉ sợ...

Tất cả mọi người đều xúm vào săn sóc và giục Khanh đi làm Khanh đâm ra xấu hổ, nếu mọi người hiểu lý do vì sao Khanh gầy xanh và bỏ ăn chắc sẽ khinh và giận lắm. Để tự bào chữa, Khanh phải đổ thừa cho thiên nhiên, sự thay đổi của Khanh cũng như sự thay đổi của con mèo, thiên nhiên bày đặt ra như thế, ngay đến con mèo có biết gì đâu mà cũng phải chịu tuân theo một quy luật ấy.

Sau khi mang quà vào cho cụ Lộc, cho Mai Hương, u già, Nhung ngồi chơi một lúc nói chuyện với bác và chị rồi mới đứng lên xin phép ra về cùng với Khanh, người bạn gái thân nhất và cũng là người bà con gần gũi nhất của Nhung.

Từ thuở bé, Khanh và Nhung chưa bao giờ cãi cọ nhau, ganh ghét nhau như lệ thường những người chị em họ với nhau. Cũng như Khanh, Nhung không có bạn gái ở trong lớp học và ngay cả ở ngoài cuộc đời. Vì bạn gái thường vẫn giống như những trang nhật ký, có thể là rất bí mật kín đáo như cái nấm mồ chôn, nhưng khi trang nhật ký bị lạc vào tay ai thì nó lập tức vanh vách khai ra tất cả. Người bạn gái khi còn là bạn, còn thương yêu thì kín đáo, nhưng khi có chuyện gì hờn giận thì cũng hệt như trang nhật ký.

Với Khanh, Nhung cảm thấy yên lòng hơn. Khanh rất ít nói và chỉ nói những gì đáng nói. Nhung còn nhận thấy ở Khanh những đức tính khoan dung đại lượng của mấy dì phước, của mấy mẹ. Vì thế Nhung khỏi lo ngại, tha hồ tâm sự, tin rằng trang nhật ký này mình chép ra nhưng rồi được xóa đi ngay.

Nhung biết là mỗi sáng không ngày nào Khanh quên đọc bài Kinh Phù Hộ, một câu mà Nhung nhớ được nhờ nghe Khanh đọc luôn là câu “Lạy xin Chúa sửa sự lo, lời nói, việc làm chúng tôi hằng nên trọn lành theo ý Chúa.” Có lần, Nhung hỏi sao Khanh chọn bài kinh ấy mà đọc luôn, Khanh trả lời vì không tin rằng mình có thể tự hướng dẫn nếu chẳng có sự phù hộ soi sáng của Chúa. Nhung kính Khanh, cả gia đình ông Đốc nể Khanh ở những điểm ấy và bà Đốc, mẹ của Nhung, với quan niệm gần mực thì đen, bà chỉ muốn cho con gái có những người bạn như Khanh.

Vào ngồi trong xe cạnh Nhung rồi, Khanh mới nhận thấy đời có những phút sung sướng và mới hiểu rõ thế nào gọi là sung sướng. Đời của Khanh từ thuở bé đến lớn cứ đều đều trôi trong một gia đình nền nếp cổ kính đạo đức không hề thay đổi. Ngày nào cũng giống hệt ngày hôm qua, sáng dậy ăn xong đi học, trở về ăn cơm trưa rồi lại đi học nữa, tối về ăn cơm tối, học bài và đọc kinh đi ngủ.

Cuộc sống giống hệt như một đám ruộng bằng phẳng, từ xa đặt mắt vào góc nào cũng chỉ thấy có một màu không thay đổi.

Từ hôm gặp Vinh đến nay, Khanh mới biết thì ra tâm hồn có thể phát ra những thứ xúc động khác nữa.

- Nhung đến tìm Khanh có việc gì thế?

- Anh Hoàng và cậu Vinh mời chúng mình đến dự tiệc trà ở nhà anh Hoàng chiều hôm nay, tiệc trà mừng cậu Vinh ở Pháp mới về.

- Các anh ấy có vẻ con cưng quá nhỉ?

- Các anh ấy toàn là con cưng, nhưng chúng mình không phải con cưng cả đó sao. Khanh gầy mà Nhung thấy bác cả và chị Hương sợ ra mặt.

Nghe Nhung nói Khanh hơi mỉm cười, quả thật như thế. Mỗi gia đình mỗi lối cưng khác nhau, so với gia đình Nhung và gia đình Hoàng, thì Khanh cũng là một thứ con cưng, chỉ có khác ở cái hoàn cảnh của mỗi gia đình mà thôi. Nhung kể nốt cho Khanh nghe rằng tối hôm qua Hoàng và Vinh đến chơi nhà mình, Hoàng đòi đến Khanh nhưng ông đốc Định cản lại, bảo giờ ấy bác Cả ngủ rồi, đừng có làm bác ấy thức giấc.

- Đến cũng được chứ có sao, chúng mình ngồi chơi ngoài sân. Mấy đêm nay hoa dạ lý nở đầy ra, thơm tới sáng, ban ngày không thể nào ngửi thấy.

- Cậu Vinh xem chừng bị “coup de foudre” Khanh rồi đấy, anh Hoàng bảo thế, về nhà cứ khen Khanh mãi.

Mặt Khanh đang trắng nõn trở nên bừng đỏ như được phủ lên một lớp phấn, tim Khanh cũng nhảy mạnh hơn. Cử chỉ lúng túng của Khanh đã bị Nhung tinh mắt nhận thấy ngay. Không cần nói nhiều hơn, Nhung cũng hiểu ngay rằng ở giữa hai người này đã có một mối liên hệ từ bao nhiêu kiếp trước. Trong một phút, Nhung biết rõ lý do vì sao mà Khanh gầy đi như thế, mới cách có mấy hôm, những cảm giác mà Khanh vừa tiếp nhận, cách đây gần một năm Nhung cũng đã tiếp nhận, ngày mới gặp Hoàng.

Bây giờ thì hầu như cả hai gia đình của Hoàng và Nhung đều chấp thuận tuy chẳng nói ra, nhưng bên nào cũng đồng ý cho tụi trẻ nó tìm hiểu nhau trước đã.

Vợ chồng bác sĩ Định cũng nhận rằng ở Hoàng có những đức tính có thể mang hạnh phúc lại cho một người đàn bà: chân thành, vui vẻ và tốt với tất cả mọi người. Tuy là khác miền, khác cả tôn giáo, nhưng bên cạnh Hoàng chẳng ai thấy ngỡ ngàng, trong nhà ngay cả bác tài, u già, chú bếp, con sen đều vui mừng mỗi khi cậu Hoàng đến chơi.

Suốt mấy tiếng đồng hồ Khanh và Nhung lo trang điểm, thử áo, chải tóc, cuối cùng Khanh chọn chiếc áo màu hồng nhạt, Nhung chọn chiếc áo tím thẫm.

- Sao Khanh không mặc áo màu rượu vang đỏ, có phải nước da trắng của Khanh sẽ nổi bật lên hơn nữa không?

- Thôi các anh cười cho, thời bây giờ Âu Tây người ta đang chuộng màu da nâu, mình da trắng quá trông quê lắm, anh Vinh anh ấy sẽ sợ...

Vừa nói xong Khanh bỗng giật mình xấu hổ, thì ra vì Vinh mà Khanh chịu mất bao nhiêu thì giờ để chọn áo, chải tóc. Đấy không phải là một sự tự tố cáo cái cảm tình của mình rồi sao?

Nhung mỉm cười đồng ý, chiều nay Nhung cũng muốn đẹp cho vui lòng Hoàng và cho mẹ Hoàng thấy cô dâu tương lai tuy người xứ Bắc nhưng nếu cần cũng có thể sẽ biến thành cô gái Huế.

Thùy Dương, cô em thứ hai của Nhung, còn ngây thơ, tim chưa bị một hình ảnh nào đến làm vướng bận. Thấy hai chị thắc mắc trong công việc trang điểm chọn áo, Dương chế giễu bảo đến nhà anh Hoàng uống một cốc nước trà ăn vài chiếc bánh mà làm như đi ăn cỗ cưới bà chúa nước Anh không bằng. Cô bé đâu biết rằng đối với Nhung và Khanh thì buổi tiệc trà chiều nay còn quan trọng bằng vạn lần đi ăn cỗ cưới bà chúa nước Anh.

Khanh và Nhung chỉ nhìn nhau mỉm cười thông cảm, Thùy Dương làm sao có thể hiểu nổi. Nhung hay bắt chước Hoàng để nói giọng Huế với những tiếng “rứa”, tiếng “mô”, tiếng “hỉ” kéo dài ra nghe rất nũng nịu và dễ thương.

- Anh Hoàng “hỉ”, anh Hoàng nói “rứa” Nhung không ưng “mô”!

Cả nhà cùng khen là Nhung nói giọng Huế nghe giống hệt và đáng yêu quá. Nhung làm cả nhà lây theo cái chữ “mô” với chữ “rứa”. Nhung dễ bắt chước được giọng Huế là nhờ những bài ca bài hò của Phạm Đình Chương: “Quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn...”


***************

Tài xế vừa ngừng xe ở nhà bà Thiện, Hoàng vội vàng chạy ra đón, tưởng Hoàng mời đông khách nhưng chị có ba chị em Nhung, Thùy Dương và Khanh mà thôi, mục đích tuy không nói ra nhưng ai cũng ngầm hiểu là cốt để cho Vinh với Khanh quen nhau hơn.

Bà Thiện vui vẻ bước theo sau lưng con trai hỏi thăm Nhung và trách cô sao lâu ngày không đến chơi.

- Bác mắng anh Hoàng đi, anh ấy bảo con rằng bác lúc nào cũng bận, con đến chỉ có làm mất thì giờ mà thôi.

- Thiệt không đó Hoàng?

Bà Thiện quay lại chất vấn con trai, Hoàng mỉm cười xin chịu lỗi:

- Rứa mạ không chịu nhận là khi mô mạ cũng bận bịu đó răng?

- Việc chi thì việc, thương nhau thì phải bỏ thì giờ cho nhau, con nói răng nghe lạ rứa, mình là người chớ mô có phải là máy móc.

- Thôi từ nay con không hỏi anh Hoàng nữa, con tự đến một mình con khi mô con nhớ bác.

Buổi tiệc trà hôm nay còn một mục đích thứ hai nữa là vì bà Thiện muốn xem mặt Khanh, xét đoán Khanh vào hạng người nào, vì mấy hôm nay nghe hai cậu cháu kêu ầm lên là thua cuộc với thắng cuộc. Bà Thiện muốn tự mình đánh giá xem cô gái này có thể mang hạnh phúc lại cho cậu em quý giá của mình không. Đối với người chị ấy, tuy chỉ là chị họ nhưng bà thương Vinh như thương Hoàng, bà không muốn Vinh vấp phải một cô vợ không xứng đáng, thiếu tư cách, giả trá và thiếu lòng.

Bà vẫn khuyên Vinh và Hoàng cưới vợ phải chọn tông, tránh những người nói khéo vì càng nói khéo, càng thiếu lòng dạ. Kinh nghiệm đời đã dạy cho bà như thế.

Hoàng không đồng ý với mẹ, Hoàng thường cãi lại bảo cưới vợ đẹp thì dẫu mình có đói, pha cốc nước lạnh mà uống vừa nhìn nhan sắc của vợ còn hơn là đã uống nước lạnh mà phải nhìn một người đàn bà “răng hô, miệng hốc, trán chày vồ”. Hai mẹ con không ngừng cãi nhau điểm ấy.

Mấy người khách kéo vào mua hàng bắt bà Thiện phải bỏ câu chuyện với Nhung và Khanh để ra tiếp khách. Hoàng vội mời các cô lên gác, Vinh chờ ở trên gác, anh chàng về đã mấy hôm mà vẫn chưa quen giờ giấc, ngày nào cũng ngủ và đêm thì cứ đòi ăn.

Nhà Hoàng không có vườn đất rộng như biệt thự của Nhung nhưng ở trên gác là ba cái sân thượng, mái đúc bằng, chung quanh xây tường, bên dưới lát đá hoa, buổi chiều lên đấy chơi cũng mát và dễ chịu như ngồi trong vườn. Ở dưới là cửa hàng rộng, hai căn phố ghép thành một, chung quanh toàn các thứ nhung, lụa, tơ rực rỡ đủ màu sắc. Tầng thứ hai dùng làm kho chứa hàng, một phòng sổ sách và phòng ngủ của ông bà Thiện. Tầng thứ ba là phòng khách và phòng riêng của hai anh em Hoàng với Vinh.

Buổi cơm trưa cả nhà đều ăn ở dưới để tiện việc trông hàng khi có khách vào mua, lại gần nhà bếp dễ bưng dọn. Đến buổi chiều thì phải chịu khó đưa lên sân thượng cho mát.

Hoàng thường cùng với các bạn lên sân thượng nhìn xuống đường, đấy là một trong những ưu tiên của cuộc sống, nhìn thấy người mà người không sao nhìn thấy mình nếu không muốn bị mỏi cổ.

Ba chị em Nhung, Khanh và Thùy Dương theo Hoàng lên gác, trong lòng tất cả đều hân hoan, Thùy Dương hỏi đùa Hoàng:

- Tiếc quá, anh Hoàng không có em gái, giá có em gái tha hồ được may áo mới anh Hoàng nhỉ.

- Trời sinh ra thế, nếu có em gái thì chắc phải dẹp tiệm.

Nhung hân hoan khoe với Khanh là tất cả áo Nhung mặc từ nửa năm nay đều do Hoàng chọn mẫu hàng. Bà Thiện thấy con trai có khiếu nên giao cho con cái quyền lựa chọn để làm “còm măng” ra ngoại quốc.

Một hôm có thứ hàng đẹp quá, Hoàng bắt mẹ chỉ được buôn về hai áo, một cho mẹ may và một cho Nhung mà thôi, lần ấy bà Thiện chiều con nhưng giao hẹn bận sau không chịu như thế nữa.

Lên tới gác thượng, trang trí nhờ một khu vườn nhỏ với đủ các thứ hoa cả hương lẫn sắc, mọi người đều dừng chân ngạc nhiên, thầm phục khiếu thẩm mỹ của Hoàng. Vinh đang chờ ở đấy.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bức Thành Biên Giới Phần 3: Chương Ba. Minh Đức Hoài Trinh Phúc lái xe vào sân, cho xe nấp dưới bóng cây vú sữa rồi ra sau hòm mở cửa khênh vào nhà một giỏ lớn toàn các thứ hoa quả trong vườn chàng đã mang từ Vĩnh Long lên.

- Quà của chị Hai gửi cho các cô đấy.

Mai Khanh đang ăn, vội vàng đứng dậy mừng anh, giúp anh mở giỏ hoa quả, gọi u già lấy mâm sắp lên, xuýt xoa rối rít vì quả nào cũng còn tươi, nhìn qua những chiếc lá xanh mướt còn dính đằng sau cuống.

- Khiếp, chị Hai xếp cẩn thận quá, chẳng có quả nào bị nát cả.

- Chuyện, người ta con gái nhà vườn mà lại. Khanh phải thấy tất cả tấm lòng ở trong đấy nhé, không có lòng đố ai xếp khéo như vậy.

Cụ Lộc cũng ngừng ăn, đến nhìn mấy quả mãng cầu chưa chín nhưng gai đã lớn gần muốn nứt ra, bên dưới có một lớp cam, rồi đến mấy quả dừa với mấy trái thơm, tất cả đều chọn toàn thứ ngon lành mập mạp nhất.

Kỳ này Phúc lên Sài Gòn để đón cha và hai em gái xuống xem mặt chị dâu. Từ mấy tháng nay Phúc xuống thầu ở Vĩnh Long, do Phúc làm quen với một gia đình người Nam. Từ quen, đến mến, đến thân, đến yêu và bây giờ tính chuyện trăm năm chẳng có là bao xa.

Lưỡng Nga, người con gái miền Nam này đã mang cho Phúc những gì mà mười lăm năm nay, từ độ bị thất vọng vì tình lần thứ nhất Phúc không hề tìm thấy bên cạnh một người đàn bà nào khác.

Nga có cửa tiệm tạp hóa, mỗi ngày Phúc đến mua hàng ở đấy, ban đầu chỉ quen nhau như chủ tiệm với khách hàng nhưng dần dần vào độ hai tháng sau, cảm tình ngày một nảy nở.

- Thầy Hai.

Nga gọi Phúc như thế sau khi hỏi thăm gia đình và biết rằng Phúc là con lớn nhất trong nhà, tiếng “Thầy Hai” do miệng Nga nói sao mà nghe dễ thương đến thế. Phúc đã sung sướng nhận cái tên mới của mình không phải do cha mẹ đặt ra ấy.

Nga không có cái nhan sắc lộng lẫy kinh hồn như một số các cô gái Nam khi họ đã đẹp, nhưng Nga có cái thứ nhan sắc mặn mòi, càng nhìn lâu càng bắt mọi người phải lưu luyến.

Nhan sắc Nga đi đôi với cái tính hồn nhiên nhưng rất đứng đắn của nàng. Nga ở với mẹ và hai em, cha chết từ ngày khởi cuộc đánh nhau, mẹ nàng phải một mình tần tảo nuôi các con. Vì thế Nga chỉ theo học đến hết ban trung học thì nghỉ ở nhà để giúp mẹ buôn bán nuôi các em. Năm nay Nga đã hai mươi chín nhưng trông chỉ độ hai mươi mốt, nhiều lắm là hai mươi hai. Có lẽ vì nụ cười rất tươi và rất chân thành với đôi mắt đen ngơ ngác cho người ta cái cảm tưởng ấy.

Nhiều thanh niên từ mấy tỉnh xa đến xin cưới nhưng Nga nhất định từ chối, chỉ vì ngày bé có một lần đi xem bói cùng mẹ, ông thầy bói bảo rằng chồng Nga phải là người tuổi Hợi từ đường bể vào mới là đúng số. Từ đó Nga lần lữa mãi, nhất định chờ cho được người tuổi Hợi, cố nhiên phải là người ở tuổi Phúc chứ nếu Hợi mà cách một giáp, nhỏ tuổi thua Nga thì sẽ bị nàng xem như em bé.

Mấy hôm đầu gặp Phúc, Nga tưởng rằng Phúc có vợ con rồi, đọc trong các sách báo miền Bắc, nghe kể những chuyện cha mẹ đi cưới vợ cho con trai ngay từ khi các cậu lên bảy lên tám để có người lo việc gia đình, Nga tin chắc rằng ít nhất tuổi Phúc cũng phải có cả đàn con với bà vợ già hơn mười lăm hai chục tuổi, do đó Nga không hề để ý, chỉ xem Phúc như trăm ngàn người khách khác.

Một hôm mẹ Nga thấy Phúc đi mua cà phê bột với sữa hộp và xà phòng rửa mặt, bà cụ hỏi thăm:

- Sao thầy Hai làm việc lâu dưới này mà không tính chuyện thuê nhà đưa cô Hai xuống đây, có phải đỡ buồn không?

Bà cụ hỏi thăm vì thấy chiều nào, sau giờ nghỉ việc, Phúc cũng đến mua các thứ cần dùng rồi ngồi lại chuyện trò hỏi thăm những thắng cảnh, thổ sản ở Vĩnh Long. Hình như Phúc muốn trốn cái giờ hoàng hôn, sợ phải sống thui thủi một mình trong gian nhà trọ.

Nghe Phúc trả lời là chưa có vợ, làm cho cả hai mẹ con Nga đều ngơ ngác chẳng biết có nên tin, vì người Nam cho rằng mấy ông Bắc kỳ là chúa khôn ngoan. Họ bảo “vợ tôi khuất núi” tức là bà ấy hiện đang ở tỉnh khác, khuất sau mấy ngọn núi chẳng hạn.

- Ủa, vậy chứ thầy Hai năm nay bao nhiêu tuổi?

- Dạ cháu tuổi Hợi, năm nay vừa đúng ba mươi tám.

Nga nghe đến hai chữ tuổi Hợi, bỗng giật mình đứng sững cả người.

- Sao thầy Hai lại tuổi Hợi?

Nga ngây thơ hỏi mà không biết rằng câu hỏi của mình rất vô lý.

- Sinh vào năm Hợi thì phải chịu tuổi Hợi chứ biết làm sao được cô!

Người con gái xấu hổ cúi mặt sau câu trả lời của Phúc, và từ đấy Phúc nhận thấy Nga đối với mình kém tự nhiên mỗi khi vào mua hàng mà không có những người khách khác hoặc mẹ hay các em ở nhà trong. Tuy vậy, lắm khi Phúc lại bắt gặp Nga đang nhìn trộm mình, thế mà Phúc có nhìn lại thì Nga vội vàng quay đi, hoặc cúi đầu cắn môi e ấp.

Cũng từ đấy Phúc không còn thấy buồn nữa, nếu ví tâm hồn người như một cái sân và những ý nghĩ buồn chán là những chiếc lá khô rụng xuống mỗi khi gió đến, thì từ hôm ấy hình như có bàn tay ai đã mang chổi đến quét giùm cái sân nhà Phúc và cái sân trở nên quang đãng sạch sẽ hẳn ra.

Phúc đâm ra yêu đời, tưởng mình như mới hai mươi tuổi, những câu “trai già khó tính”, “trai già giống con lợn già” không còn làm cho Phúc bận lòng nữa.

Phúc cũng chẳng muốn tìm hiểu lý do vì sao, mỗi chiều làm gì thì làm, có bị các người quen mời đi nhậu ở đâu rồi cũng phải lái xe ngang qua hiệu tạp hóa, nếu hiệu tạp hóa còn mở cửa thì ghé mua một vật gì mà lắm khi những vật ấy về đến nhà, Phúc không mở ra vì chẳng cần dùng đến. Lệ thường vào quãng tám giờ là hiệu đóng cửa, nhưng về sau này, lắm khi đến gần chín giờ mà Phúc thấy cửa hiệu vẫn còn mở, Nga vẫn còn lăng xăng đứng lên ngồi xuống hoặc cộng sổ sách, hoặc khâu vá quần áo cho các em.

Có những đêm hai mẹ con ngồi nói chuyện với Phúc đến gần 11 giờ mà chẳng ai thấy buồn ngủ.

Mấy tuần lễ đầu, lắm bận Phúc nói mà Nga nghe không hiểu, hoặc Nga nói gì Phúc phải hỏi lại hai ba lần, nhưng từ độ sau, mỗi bên cố gắng một tí, bớt những chữ đặc biệt địa phương thì cả hai hiểu nhau rất dễ dàng, không cần giảng giải thêm nữa.

Khi đã cảm thông nhau rồi thì đến mấy cái vạn lý trường thành cũng bị sức mạnh mầu nhiệm đến phá vỡ tung ra cả, mẹ của Nga, bà Sáu, thường hay nói chuyện với hàng xóm:

- Thầy Hai Bắc coi vậy mà hiền lắm, suốt ngày đi làm việc rồi về nhà hoặc tới đây chơi chớ chẳng có đi ăn đi nhậu gì cả.

Ngày trước, mỗi tuần vào chiều thứ bảy, Phúc lái xe về Sài Gòn thăm cha với các em một lần cho bớt cô độc, nhưng từ độ sau này có khi cả tháng Phúc không thấy sự cần thiết phải về với gia đình nữa.

Chiều thứ bảy, Phúc đến ăn cơm ở nhà Nga, tập ăn những món canh chua cá lóc hoặc cá kho, thịt kho. Đồng thời Nga cũng mua những quyển sách gia chánh dạy nấu theo lối Bắc để làm cho Phúc ăn và cả nhà ăn theo, rất là vui vẻ đầm ấm. Sáng chủ nhật, Phúc đến đón Nga với các em đi vào vườn của Nga để hái hoa quả.

Những buổi sáng đẹp trời, nhìn Nga với các em tung tăng chạy từ cây này sang gốc cây khác, Phúc cũng bắt chước vác sào chạy theo. Những lúc ấy, Phúc hoàn toàn quên tất cả quá khứ và tương lai, quên ngay cả cái tuổi tác hiện tại của mình đáng lẽ phải đạo mạo như mọi người chứ đâu có vác sào chạy ngờ ngờ đi theo mấy cô bé, chú bé như vậy.

Phúc tưởng như cả mình lẫn Nga đều chỉ mới vào tuổi mười lăm mười bảy, những quả nào nằm trên cành dễ trèo thì Nga nhanh nhẹn trèo lên hái ném xuống cho Phúc bắt, lần nào Phúc bắt cũng trúng, Nga khen rối rít:

- Thầy Hai tài quá, em chịu thầy Hai luôn!

Những buổi đi chơi như thế đã giúp cho Phúc hiểu thêm Nga được nhiều hơn và càng ngày càng mến Nga hơn, chỉ mến thôi chứ trong lòng Phúc cũng chưa thấy gì khác. Nhưng rồi mùa sầu riêng đến...

Vĩnh Long không phải là nơi thổ sản của sầu riêng, nhưng nhà nào muốn cũng có thể trồng vài cây, trong gia đình Nga mọi người đều thích ăn nên đã cố gắng trồng rất nhiều để khỏi phải mua ở ngoài. Phúc bắt đầu yêu Nga chỉ vì một quả sầu riêng đầu mùa ấy.

Lần đầu tiên, Nga bổ trái sầu riêng ra mời Phúc ăn và nhìn Phúc bằng đôi mắt lo ngại. Phúc thường kể với Nga rằng, theo người Âu mỗi đầu mùa, khi họ ăn một thứ trái nào lần thứ nhất, họ sẽ cầu xin một chuyện và lời nguyện được thực hiện.

- Đây là sầu riêng đầu mùa, nếu thầy Hai ăn được sầu riêng thì thầy Hai sẽ sống được trong Nam này mãi mãi.

Cử chỉ và giọng nói chứng tỏ sự tha thiết cầu xin của người con gái, Nga đã cầu nguyện thay Phúc. Phúc cầm múi sầu riêng bỏ vào miệng ăn ngay, mặc dầu đây là lần thứ nhất từ khi vào Nam. Ăn xong Phúc khen:

- Ngon lắm, sao Nga lại sợ tôi không ăn được? Coi chừng Nga phải nhịn phần là đằng khác ấy chứ?

- Thiệt không thầy Hai, hay thầy Hai nói giả bộ cho em vui...

- Có bao giờ Nga nghe tôi nói giả bộ chưa?

Đôi mắt Nga không ngơ ngác như lệ thường mà rơm rớm khóc vì không giấu được sự cảm động. Phúc đặt múi sầu riêng xuống bàn, kéo Nga vào lòng hôn lên đôi mắt ướt át ấy, khẽ thầm thì vào tai người con gái:

- Lời nguyện của Nga đã thành đó thấy chưa, anh sẽ ở mãi trong Nam này với Nga, Nga có muốn không?

Nga gật đầu hơi mỉm cười, nàng nhắm mắt hoàn toàn đặt hết tin tưởng vào câu nói của người đàn ông tuổi Hợi mà nàng đã chờ đợi từ hơn mười năm nay bây giờ mới đến.

Phúc kể với Nga rằng ngày mới vào đây, ngửi thấy không khí thơm mà không biết mùi thơm ấy phát từ đâu, Phúc và các em đều tưởng rằng đó là mùi đất cháy, sau này có dịp đi ngang chợ mới biết đấy là mùi sầu riêng.

- Thế mà mãi hôm nay anh mới có dịp ăn, số mạng cả Nga nhỉ.

Nga cầm tay người yêu sung sướng, nàng kể câu chuyện tuổi Hợi cho Phúc nghe, và cả hai cùng tin rằng định mệnh đã ghi sẵn cho hai cuộc đời của họ phải nối liền với nhau, không thể nào tránh được.

Tính tình Nga ngay thật và tâm hồn trong trắng hình như nhờ cuộc sống bình dị, dễ dãi của đất miền Nam. Đất đai miền Nam phì nhiêu, lúa hai mùa không phải nhọc công cày bừa vất vả như ở miền Bắc.

Nhờ cuộc sống dễ dàng, người dân không bị những sự tranh đấu làm thay đổi cái bẩm tính chất phác của trời phú cho. Chỉ những nơi nào đất đai khô cằn chật vật khó khăn, nhiều sự cạnh tranh thì con người mới đâm ra khôn ngoan lừa lọc; đất miền Nam màu mỡ tràn ngập, con người đâu có thấy cần phải vận dụng đến những sự gian trá lừa lọc làm gì.

Một hôm Phúc hỏi Nga sao không lên Sài Gòn buôn bán, Nga trả lời:

- Sài Gòn ồn ào quá, em ngủ hổng được, xe chạy suốt đêm, lúc nào cũng tưởng như sóng vỗ mà không phải là sóng thật, mình cảm thấy bị xí gạt. Mỗi lần em đi Sài Gòn về là mất mấy ký, má cũng vậy, ở đây quen rồi em hổng thích đi đâu cả.

- Nhưng Sài Gòn nhiều chỗ ăn chơi, xi-nê rạp hát mở suốt ngày, Nga còn trẻ tuổi mà không thích những thứ đó sao?

- Em đâu có ham, chen vô đám đông là em ghét rồi, sống gì mà cứ phải chạy theo thời gian như bị ai đuổi sau lưng.

Những người con gái biết đô thị mà chẳng say mê thèm khát đô thị như thế, không phải đã chứng tỏ một sự khôn ngoan, bẩm tính của thiên nhiên phú cho họ đó sao?

Từ trước đến nay Phúc vẫn là kẻ không có óc kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, chàng thường gọi sự phân chia Bắc Nam là một sự thiển cận. Xứ Việt Nam từ trước đến sau hết bị người Trung Hoa đến người Pháp cai trị, những kẻ đến cai trị muốn cho công việc được dễ dàng nên đã đặt sự phân chia ấy. Khi đã phân chia ra rồi thì tự “chúng nó” ghét lẫn nhau, mà đã ghét nhau thì không thể nào đoàn kết.

Các quan cai trị không sợ gì cho bằng sự đoàn kết của một dân tộc, “chúng nó” chia rẽ nhau thì chẳng khác gì một bó đũa được lấy ra từng chiếc, tha hồ bẻ năm bẻ ba, dễ dàng biết mấy.

Người Việt Nam lúc nói lên những lời lẽ phân chia đâu có ngờ rằng mình đã mắc mưu những kẻ thống trị. Ngày di cư vào Nam, ai lo thì lo chứ Phúc chẳng bao giờ thấy lo ngại gì cả, chàng còn hứa rằng mình sẽ vào Nam cưới vợ; nếu nhà vợ có chê mình là “cọc cạch”, “cá rô cây” thì mình sẽ ở thế nào cho họ thấy rằng “cá rô cây hay cọc cạch” cũng chỉ nói một thứ ngôn ngữ, ăn chung một thức ăn, gạo và nước mắm, nhất là nước mắm, món ăn chính của người dân Việt không tìm thấy ở một nước nào khác trên thế giới. Và trên giấy tờ cùng khai chung mấy chữ “dân Việt Nam”. Đất đai từ ải Nam Quan cho đến Cà Mau cũng là do một tổ tiên, những người nói chung một thứ tiếng Việt, ăn nước mắm ấy đã tranh đấu, đã dổ bao nhiêu xương máu mới vẽ lên được cái hình chữ S trên bản đồ ngày nay.

Phúc đã hứa và đã thực hiện đúng lời hứa của mình.

Cả nhà gọi Nga bằng chị Hai vì Nga cũng là con gái lớn nhất trong gia đình, chỉ có Phúc gọi bằng Nga, chàng cho cái tên Lưỡng Nga của nàng là đặc biệt hơn tất cả những tên khác. Về sau khi đã trở nên thân mật, Phúc còn đọc cả câu thơ dài mỗi khi gọi người con gái: “Nga nga lưỡng nga nga đâu rồi?”

Phúc thầm khen ông bố của Nga đã biết chọn tên cho con chứ không làm biếng tìm những chữ mà mọi người vẫn dùng, hoặc những thứ tên hoa lý, lài, lan, huệ, cúc v.v... dể gọi con cho giống với lối xóm và dễ nhớ.

Ngồi trên xe Phúc khoe với các em:

- Mỗi một cái tên không thôi mà nghe đã có cảm tình rồi, khi gặp chị ấy các cô sẽ đồng ý với anh và sẽ hiểu anh ngay, hiền lành và ngoan ngoãn... Con gái phải thế mới được.

Cụ Lộc lim dim mắt ngồi gật gù sau xe, mấy tháng đầu lúc nghe Phúc báo tin chàng có ý định cưới một cô gái Nam về làm vợ, cụ hơi lo ngại không biết rồi Bắc Nam có đủ sức hiểu nhau? Liệu có ăn ở với nhau được lâu dài hay là trống đánh xuôi kèn thổi ngược mà vẫn phải đóng kịch để sống cho hết cuộc đời thì khổ cả hai bên.

Dần dần Phúc giảng giải về sự thiển cận của những kẻ có óc kỳ thị. Phúc gọi họ là những con ngựa bị che mắt chỉ biết một lối về chuồng, sao gọi là tự do và thông minh. Thêm vào đấy nhờ có một vài đám quen biết cũng là Nam Bắc mà vẫn thuận hòa được với nhau làm cho cụ bớt lo ngại.

Nhất là từ thuở bé cụ chưa nghe con trai ca tụng một cô gái nào, thế mà bây giờ cậu cả không ngừng nhắc đến người yêu, chắc hẳn cô gái phải có gì đặc biệt lắm.

Mai Khanh hoàn toàn tán thành hôn nhân của anh, nàng sẵn sàng mở vòng tay đón nhận người đàn bà nào có thể làm cho anh mình sung sướng, để cho cuộc đời anh về già bớt cô đơn. Trái lại Mai Hương vẫn còn thắc mắc. Ngay từ đầu, nàng đã tỏ vẻ lo ngại, nàng lo có một người đàn bà khác vào nhà thì nàng sẽ bị đẩy lui khỏi tâm hồn của anh chăng?

Mai Hương đã hy sinh tuổi trẻ của mình cho gia đình, tuy không tỏ ra ý gì nhưng trong thâm tâm người con gái ấy cũng muốn gia đình phải trả lại cho mình bằng cách không ai được phép đi tìm hạnh phúc ở một nơi khác. Nghĩa là cụ Lộc không có quyền chơi bời dan díu với một người đàn bà khác. Mai Khanh không có quyền lấy chồng và hai anh không có quyền lấy vợ.

Mai Hương viện hai lý lẽ để chống đối, thứ nhất là Nga không có đạo, lấy vợ không có đạo thì sau này con cái nó cũng theo mẹ, thế là dòng họ không được sự che chở của ơn trên. Thứ hai nàng là con gái miền Nam, làm sao biết những phong tục tập quán, những mùi vị bếp nước của người miền Bắc.

Người chị dâu đã trả lời cô em chồng một cách gián tiếp là nàng sẵn sàng theo đạo, học kinh rửa tội, tin tưởng tất cả những gì mà người yêu mình tin tưởng. Lý do thứ hai, Phúc bảo, từ hơn mười năm sống ở Bắc tức là quê hương xứ sở, mà có cô gái nào đã chiếm được tâm hồn Phúc đâu. Khi đã thành thật yêu thương nhau thì dẫu có khác màu da, khác tiếng nói, khác tất cả mọi thứ, người ta cũng vẫn có cách để dung hòa, để theo nhau hoặc tha thứ cho nhau. Ngày nay, Nga và chàng đã yêu nhau thì chẳng còn lý do gì cản được.

Khi thấy cả nhà đều ngả về Phúc, nhất là hai anh em Thọ và Mai Khanh lại còn giục anh nên cưới gấp cho vui nhà vui cửa, Mai Hương đành lùi bước, nhưng từ đấy nàng khép chặt tâm hồn, không phát biểu ý kiến gì nữa cả.

Mỗi lần Nga gửi hoa quả lên, nhất là sầu riêng, chỉ có ba anh em Phúc, Thọ và Mai Khanh ăn, Mai Hương không hề động đến, viện cớ này cớ khác, với quả sầu riêng thì nàng bịt mũi chạy xuống bếp trốn, đợi cả nhà ăn xong mới lên. Đến cái vỏ sầu riêng nàng cũng bắt u già phải gói kín rồi mới mang chôn đi hoặc đổ ở đống rác nào thật xa.

- Cô không ăn thì anh ăn hết vậy.

Thế là Phúc ăn trọn phần của cô em gái, chàng lại còn dùng giọng Nam để khen như chàng vẫn hay khen với Nga.

- Ngon quá xá, sau này có con gái anh sẽ đặt tên nó là Phạm thị Sầu Riêng, các cô có đồng ý không?

- Hay đấy anh Phúc, em đồng ý, nhưng có lẽ nên bỏ chữ thị đi, gọi là Phạm Lưỡng Sầu Riêng, mẹ là Lưỡng Nga Nga, con là Lưỡng Sầu Riêng, đẹp biết mấy.

Nghe Mai Khanh trả lời anh, Mai Hương gắt gỏng hỏi lại:

- Sao lại Lưỡng Sầu Riêng, một quả chưa đủ gắt um nhà lên rồi sao còn đòi những hai quả, ai chịu cho nổi, mà chữ sầu riêng nghe buồn chết đi, sầu là buồn, riêng là một mình. Sầu riêng là buồn một mình, tên đó xúi quẩy lắm.

- Chị Hương nói lạ chưa, em không tin là cái tên đó xúi quẩy, nó mang tính chất dân tộc thuần túy Việt Nam, em cho nó là đẹp nhất, hơn tất cả những cái tên khác mà chúng ta vẫn thường bị nghe.

- Tùy đấy, đẻ thêm vài đứa gọi là Lưỡng Măng Cụt, Lưỡng Mãng Cầu, Lưỡng Chôm Chôm, Lưỡng quýt, mít, xoài, ổi luôn đi, đặt đủ cả cái vườn trái cây nghe cho đã thèm.

Phúc và Mai Khanh ngơ ngác nhìn Mai Hương, không ngờ nàng lại có thể mỉa mai cay cú như vậy. Nhưng rồi cũng chẳng ai lên tiếng trách móc, biết rằng người con gái ấy cảm tình còn chất phác, cho rất nhiều nhưng đòi hỏi lại cũng rất nhiều.

Không nói ra, nhưng mọi người đều hiểu rằng vì tâm hồn Mai Hương quá trống trải, chưa một lần yêu và được ai yêu, ngày nào người con gái ấy có một hình ảnh để ấp ủ, ngày nào được làm vợ, làm mẹ thì nhất định là Mai Hương sẽ thay đổi quan niệm, không mỉa mai chua chát như thế nữa.

*********************
 

Bà Hải xuống xe, trả tiền rồi đứng đợi con Lài khênh giỏ quà theo sau, có tiếng chó sủa và một cô bé ở chạy ra đuổi chó.

- Bà Phủ có nhà không đó chị Sen?

- Dạ, bà con có nhà.

Cô bé ở nhà bà Phủ Ninh vừa đáp vừa chạy vội ra mở cửa nhà trên để đón khách.

- Chị Sen lấy cho tui mượn cái khay đi.

Buổi thăm viếng hôm nay, theo ý bà Hải chỉ là một cuộc thăm viếng xã giao, hơi có tính cách quan trọng hơn ngày thường một tí thôi, chứ chưa phải là một sự bỏ hàng rào thưa, hàng rào dày gì cả. Bà muốn đợi con về để bàn bạc rồi đi xem tuổi tác của hai đứa trước khi tính những chuyện quan trọng khác. Tuy vậy trong lòng người mẹ cũng đã chắc hết bảy phần mười rằng Vinh sẽ bằng lòng cô con gái của bà Phủ, và Đoan Trang nếu gặp lại Vinh sau này sẽ thương ngay đứa con trai quý của mình.

Từ hai năm nay bà Hải đã nhắm khắp các nơi quen biết mà chỉ thấy có cô gái này xứng đáng làm dâu nhà mình nhất. Không phải vì khó tính nhưng bà Hải còn thuộc phái cổ, sợ những cô gái quá đẹp, quá tài hoa thì sẽ không phải là những người vợ và người mẹ của con, của cháu mình chăng? Đa tài thì đa lụy, trời đã sinh ra thế, vả lại sự giao thiệp của bà cũng chỉ giới hạn, làm sao mà biết cho khắp.

Tết nay Vinh sẽ về ăn tết với gia đình, hiện giờ Vinh đang tập sự ở một phòng luật sư và đồng thời đi dạy học thêm nên rất bận, chỉ có Tết mới được nghỉ. Bà Hải cũng không muốn cho con trở về Huế ở lâu, vì xứ Huế độ này không phải như độ trước. Vị Lãnh chúa đã thống trị và những tên bộ hạ thường dùng uy quyền để áp bức, bà Hải sợ Vinh quen thói tự do ở nước ngoài, về quê nhà nếu gặp những sự gì bất công mà thốt ra những lời phê bình thì rồi có khi nguy. Một ông thầy bói cũng có dặn bà đừng nên để cho Vinh về, sợ có những sự tai bay vạ gió không lành. Miễn Vinh trở lại quê hương mà bình yên mạnh khỏe là người mẹ mừng lắm rồi. Thằng con trai đỗ đạt mà không có đầm đìa, bà Hải còn ước mong gì hơn.

Có những người mẹ khác thương con cho mình, nhưng bà Hải không thế, bà thương con vì con, nên không đòi hỏi và không bực tức. Cảm tình lên đến cái độ ấy mới thoát khỏi sự xiềng xích, làm đau khổ cho cả hai bên, người cho và người nhận.

Bà Hải và bà Phủ Ninh, mẹ của Đoan Trang quen biết nhau từ lâu, từ ngày ông Hải còn làm Quản đạo ở tỉnh K., ông Phủ Ninh làm việc dưới quyền ông Hải, sự đi lại với nhau bắt đầu từ đấy.

Bà Phủ Ninh độ ấy còn gọi là cô Nghè Ninh, nổi tiếng là khéo ăn, khéo ở, khéo làm. Mỗi khi trong đạo có lễ lạt tiệc bàn gì, thế nào cô Nghè cũng chịu khó thu xếp công việc nhà mình để vào làm giúp suốt mấy ngày từ sáng đến tối.

Đặc biệt nhất là cô Nghè Ninh không bao giờ vào làm giúp mà quên mang theo một con dao bén, một tấm thớt nhỏ và một cái khăn lau tay.

Biết rằng nhà có cỗ bao giờ cũng thiếu các thứ ấy, đây là ba vật rất quan trọng. Nếu chỉ mang cái tài khéo léo của mình đến mà thiếu dụng cụ thì khéo đến mấy cũng chỉ có giương mắt ra mà nhìn như bác thợ hồ không có cái bay, thợ mộc không có bào có đục. Cỗ bản xứ ta lại có cái lối món gì cũng phải thái mỏng, phải cắt nhỏ, phải băm vụn, thiếu tấm thớt con dao thì lấy gì mà làm?

Ngày ấy mỗi khi thấy bóng cô Nghè Ninh vào đến cửa là bà Hải yên trí, chỉ cần nói sơ qua ý mình muốn những món gì, cái gì đã làm xong, cái gì cần tiếp tục, rồi thì có thể giao cho cô Nghè, còn mình lên sửa soạn bàn ghế, xếp dọn ở nhà trên. Tính nết cô Nghè lại vui vẻ, làm quần quật suốt ngày mà luôn luôn tươi cười, không ai hề nghe một câu gắt gỏng. Như thế bảo ai mà không quý chuộng.

Ngày nay bà Phủ Ninh đã ngoài bốn mươi, gần lên đến năm mươi rồi mà lúc nào cũng diêm dúa, đầu tóc vẫn dài óng mướt, búi gọn gàng. Đối với người ăn người làm, với cả họ hàng bà con láng giềng không ai bị mất lòng, trong gia đình thuận thảo. Nhắm con gái người ta hay nhìn qua bà mẹ, căn cứ vào đấy thì Đoan Trang là một cô gái mà tất cả các bà mẹ có con trai đều có thể yên lòng đến xin cưới về làm dâu nhà mình, mẹ như thế tất nhiên con gái cũng phải như thế.

Biết nhau từ thuở nào nhưng ngày ấy chẳng ai nghĩ gì vì cả hai cô cậu còn nhỏ, nhất là hôn nhân không bao giờ nên tính trước. Độ sau này Đoan Trang lớn, mỗi lần nàng theo mẹ đến nhà hoặc có khi mang quà đến biếu, bà Hải mới bắt đầu chú ý đến cô con gái ấy.

Đoan Trang có dáng đi khoan thai, nói lên sự phong lưu sau này, không còm như bà lão phải vác bó củi nặng trên lưng, cũng không cứng ngắc như cái cột nhà có bánh xe đẩy ở dưới. Dáng đi rất cần thiết, theo ý bà Hải, chỉ nhìn cái dáng đi là có thể đoán tương lai của cô gái và của cả chồng cô sẽ ra thế nào. Mặt mày Đoan Trang phúc hậu, da trắng, tóc dài và rậm, chứng tỏ một sức khỏe dồi dào, đôi mắt đẹp nhưng không sắc sảo, lẳng lơ, tình tứ quá. Cái mũi kín đáo tức là sau này sẽ biết giữ của và sẽ nắm được của trong tay. Người nào có cái mũi vừa mỏng vừa hênh hếch lên, đi dưới trời mưa tưởng như nước mưa có thể chảy ướt vào tận bên trong thì tướng người ấy không chết non cũng nghèo hèn xơ xác. Đã hết đâu, còn cái miệng, cô nào mà khóe miệng chảy xuống thì sau này chỉ có mếu với khóc, hết khóc chồng đến khóc con suốt cả đời.

Tất cả đều xuất lộ chân tướng con người. Đoan Trang còn chăm học, sau này các con nàng sinh ra sẽ không mắc cái chứng lười biếng. Về nhà, bà Phủ còn dạy thêm công việc bếp nước, cưới loại con gái này được tức là nhà có phúc.

Bà Phủ gặp bà Hải vội hỏi thăm ngay tin tức cậu con trai, sau khi nhìn qua khay quà, không phải thứ quà trong vườn thân mật mà thứ lê táo với cam tàu mua đắt tiền ở ngoài hiệu, chứng tỏ dụng ý và sự quan trọng của cuộc viếng thăm.

- Cậu Vinh về lâu rồi mà răng không ra Huế chơi?

- Cháu phải đi làm, với lại tình thế ni ra Huế cũng không có lợi chi, nhà tui đang xin nghỉ việc để dọn vô Sài Gòn ở với cháu nhưng xin chưa được phép, thành ra Tết ni chắc cháu sẽ ra thăm.

- Cụ tài rứa chớ em mới xa cỡ một hai năm, mà về chưa được gặp thì em cũng không chịu được. Chừ chắc cậu Vinh lớn lắm.

- Ở bên Tây uống sữa tươi thay nước, ăn hoa quả thay cơm không lớn răng được, bóng cháu gởi về tụi tui nhận không ra.

Bà Hải rút trong ví lấy tấm ảnh của Vinh mới gởi về do Hoàng chụp, hai bà trầm trồ khen ngợi nhưng mỗi người theo đuổi một mục đích của mình.

Đoan Trang nhẹ nhàng mang khay trà ra đặt ở trước mặt mẹ và khách, rồi cất tiếng mời lí nhí:

- Cụ xơi nước, mạ... nước...

Thấy mái tóc cô gái xòa xuống mặt, bà Hải đưa tay ra, vuốt lên hộ khi cô gái đang cúi đặt tách nước gần mình, cử chỉ thân mật như mẹ đối với con gái, vừa vuốt tóc Trang bà vừa hỏi thăm:

- Trang năm ni thi ra chưa con?

- Dạ cuối năm ni con thi ra.

- Thôi học vừa vừa, rứa đủ lắm rồi, con gái học chi nhiều, sau chồng hắn sợ, đàn ông hay sợ thứ đàn bà học cao lắm đó.

Ba Phủ nghe nói thế vội tán thành ngay:

- Dạ em cũng nói luôn như rứa, con gái học tới cái bằng cấp tú tài đôi là đủ quá rồi, lấy chồng cần biết coi sóc nhà cửa, cần biết nuôi dạy con chớ chữ nghĩa vô đó có ích chi.

- Phải lắm, bằng cấp chữ nghĩa cho nhiều mà cơm không lành canh không ngọt thì chồng hắn cũng bỏ đi kiếm người khác.

Đoan Trang nghe mẹ mình và bà Hải nói, nàng chỉ cúi đầu mỉm cười không cãi lại tuy rằng ý kiến nàng khác hẳn. Đàn ông ngày nay không còn giống đàn ông ngày trước, vấn đề ăn uống, con cái đối với họ không quan trọng nữa. Thiếu gì các bà nội trợ đảm đang mà rồi cũng bị các ông chồng bỏ bê đi tìm đến những người khác kém hơn. Hình như người đàn ông ngày nay cần một sự hành hạ tâm hồn, họ thích đến với những sự gì làm họ quay cuồng điên đảo. Một sự tự đánh đập mình làm cho mình đau khổ tinh thần, thứ mà Trang gọi là “masochisme moral”, như thế họ mới thích thú. Nhìn ra chung quanh Trang gặp rất nhiều trường hợp ấy, do đó mà nàng thấy quan niệm ngày nay đã thay đổi.

Nhưng đấy là những ý kiến riêng của Trang, chẳng mấy khi nàng dám đưa ra, nhất là với thế hệ của mẹ, của bà Hải thì làm sao các cụ có thể hiểu nổi, nói ra các cụ sẽ cho rằng hắn học nhiều nên hắn loạn óc.

Cũng như mẹ, Đoan Trang chỉ cần nhìn cái mâm quà của bà Hải là nàng hiểu ngay ý định bà cụ đến đây với mục đích gì, và nàng cũng biết rằng mẹ mình sung sướng lắm.

Đêm hay ngày, mỗi khi cúng quảy hoặc mỗi chiều thắp hương, bà Phủ Ninh chỉ có một lời cầu xin cho con gái gặp được tấm chồng xứng đáng. Lắm khi nghe trộm được lời cầu nguyện của mẹ, Đoan Trang cảm thấy thương mẹ lạ lùng, không hiểu sao mẹ mình lại có thể đặt tin tưởng vào sự cầu xin đến thế.

Tuy nhà không giàu, Đoan Trang không thuộc loại con gái có hồi môn nhưng cũng được khá nhiều gia đình có con trai đưa tin mai mối. Đám nào bà Phủ cũng cân nhắc, rồi cuối cùng từ chối khéo đổ thừa rằng con gái còn đòi học thêm chứ chưa chịu lấy chồng mà rồi có mỗi một mình nàng nên bà không dám ép.

Sự thực không phải thế, bà Phủ Ninh khi nghe ai rấp ranh ý định hỏi con gái mình thì bà đã vội đi dò hỏi. Có đám thì bà mẹ chồng khó tính, ngủ trưa mà bắt con cháu chạy quanh nhà đuổi chim không cho hót cụ mới ngủ được.Có thứ nhạc nào êm dịu và vui tai bằng tiếng nhạc chim, người không yêu được nhạc của chim tức là nhạc của thiên nhiên thì làm sao có thể yêu được người. Mẹ khó khăn như thế thì con trai tránh sao khỏi những cái tính khó ấy, con gái bà vào làm dâu nhà ấy sao kham.

Một đám khác không đuổi chim thì lại keo kiết bủn xỉn, cậu con trai đến ngồi xòe mười ngón tay lên đùi, bà nhìn mấy đầu móng tay thấy nó bé li ti như hai ba hạt đỗ gom lại trong bàn tay lớn của một người đàn ông. Đấy là một nét tố cáo sự đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành, kinh nghiệm đã cho bà Phủ từng gặp và để ý thấy nhiều người như vậy, điều tra ra thì quả thật là thế. Con bé ở đi chợ mua nhầm cái trứng thối về bà bắt ra đổi, trứng đập rồi, không đổi được, nó phải mua cái khác đền cho bà chủ. Bủn xỉn đến mức ấy thì ai dám gả con cho.

Một đám nữa không khó tính, bủn xỉn nhưng lại đánh bạc, cả nhà từ trên xuống dưới đánh bạc. Đối với bà Phủ những người đánh bạc là những người phản Thượng Đế, cho rằng ngày quá dài, thừa thãi thì giờ mới phung phí một cách vô ý thức như thế. Nếu cho đánh bạc là một thứ giải sầu thì cái sầu mà giải được bằng cờ bạc cũng là cái sầu vứt đi, nếu tìm sự lợi lộc trong cờ bạc thì hóa ra bần tiện lắm sao, mình mời bạn mình đến nhà ngọt ngào xơn xớt mà chỉ chăm chăm định móc túi họ cho hết sao?

Đàn ông đánh bạc lại càng đáng tránh cho xa, vì sự đam mê của người đàn ông bao giờ cũng mạnh hơn, cứ thử nghiên cứu một sòng bạc thì sẽ thấy, bao nhiêu sự thật được phô bày ra, được lột trần ra, những sự thật mà bình thường họ vẫn che đậy, giấu kín không muốn cho ai biết.

Chỉ có cậu Vinh con bà Hải nếu không bị cô đầm nào bẫy mất ở bên Pháp thì sẽ là một đám tốt đẹp nhất cho con gái bà. Vừa là con nhà trâm anh thế phiệt, cha mẹ lại có tu hành phúc đức, vừa có giáo dục chứ không phải như phần đông những gia đình chỉ lo dạy con gái, còn con trai muốn ra sao thì ra. Bà Phủ không đồng ý như thế, con trai hay con gái cũng cần được uốn nắn giáo dục, nếu không thì khó mà nên người.

Gia đình ông Thượng Hải tuy ngày nay không còn được như xưa nhưng tiền bạc có mấy khi mang lại hạnh phúc. Người Trung Hoa khi nhận lời gả con gái cho ai thì điểm trước nhất là xem chàng trai có được cái đức tính cần cù siêng năng không đã. Đấy mới là yếu tố chính đưa đến sự giàu sang về sau. Vì số tiền gia tài của cha mẹ để lại, nếu mà chỉ có biết ăn chơi lười biếng, thì đến mấy sông mấy núi đi nữa cũng phải suy sụp, nhất là khi trời không muốn cho hưởng thì trời đòi lại rất nhanh.

Các cậu con trai nhà giàu lại quen thói ăn chơi, hiếm có những trường hợp đặc biệt, bố mẹ giàu mà con còn biết lo làm cho giàu thêm.

Đối với Vinh thì không thế, bà Phủ Ninh đã biết rõ từ thuở Vinh còn bé, bà vẫn âm thầm mơ đến một ngày gần được xem Vinh như con trai mình, mà nếu Đoan Trang không lấy được Vinh thì cũng cầu xin cho con gái của bà gặp được một người con trai nào tương tự như thế.

Sợ đứng lâu sẽ làm cho hai bà ngượng ngùng khó ăn khó nói, Đoan Trang nhẹ nhàng rút lui vào phòng trong. Bà Hải chăm chú theo dõi bước chân cô con gái. Hôm nay ở nhà, Trang xắn quần hơi cao hơn ngày thường nên bà mẹ chồng tương lai có thể nhìn kỹ gót chân của nàng. Gót chân nào hồng hào như được một lớp son phủ lên tức là phước tướng, sang trọng, không là mệnh phụ nhất phẩm phu nhân cũng vợ nhà tỷ phú. Trái lại những gót chân còn trẻ mà da sần sùi hoặc tái ngắt thì thế nào cũng phải chịu một cuộc đời lận đận vất vả.

Gót chân của Đoan Trang không được thắm như son nhưng không đến nỗi tái ngắt, tuy vậy cũng làm cho bà Hải thắc mắc. Để tự an ủi, bà Hải phải đưa cái câu “nhân vô thập toàn” ra, mà quả như thế, nếu tất cả mọi thứ tướng đều tốt thì hôm nay Trang phải là vợ của một vị vua chúa nào rồi.

Đợi Trang vào hẳn nhà trong bà Hải mới bắt đầu vào đề, cái đề quan trọng cho cả bao nhiêu cuộc đời.

- Thằng Vinh trước khi về xứ có viết cho tui một bức thơ nói “Con về mà không na theo mụ đầm mô về cả, mạ đừng lo”. Trước khi đi Tây hắn cũng hẹn “Con để cho mạ cái quyền kén dâu, mạ kén cô nào biết bóp chân, biết nấu cháo, biết thương mấy cây bầu cây bí, biết bỏ lư trầm cho mạ tụng kinh là được”.

- Chao ơi, con trai đời chừ mà còn được những ý nghĩ hiếu thuận như rứa là quý hóa như mấy cái núi vàng. Người ta nói có hiếu mới có tình, người không có hiếu thì không làm răng mà có tình với vợ con.

- Phải, tui cũng thấy như rứa, người ta ai cũng lo tính chuyện vợ giàu vợ đẹp, hắn không hề hỏi mấy chuyện nớ.

- Dạ... cụ thiệt có phước...

Bà Phủ thấy bà Thượng Hải ngừng ở đây, bà muốn nói thêm một câu gì để cho bà Hải có hứng mà vào đề chính, giáo đầu thế là đầy đủ lắm rồi. Thế mà bà Hải vẫn im lặng ra dáng suy nghĩ ngập ngừng, nâng tách trà lên chậm rãi uống từng ngụm, hình như sợ mình nói ra hơi sớm mà hai đứa chưa gặp lại nhau rồi có gì xảy ra làm trắc trở đi chăng? Bà Hải đổi sang chuyện khác tìm một chút thì giờ trì hoãn để lấy thêm can đảm.

- Trà thơm quá, mua mô mà ngon dữ hè?

- Dạ trà Quan Âm ướp sen đó.

- Ướp cách răng mà ngon bắt kinh đi.

- Dạ thì cũng ướp như ướp bông lài, bông cúc thường đó thôi, con Trang hắn tự giành ướp lấy, năm mô mùa sen tới hắn cũng ướp cho em uống cả năm. Lựa thứ sen còn tươi mới hái từ dưới hồ lên, bỏ tua, chỉ lấy gương với cánh, xé gương ra từng mảnh trộn chung với trà đậy thật kín. Ba ngày thay bông sen mới một lần để cho đậm hương, mà phải lấy toàn sen tươi chớ không dùng sen tàn, sen cắt rồi không có hương mà còn làm ê mùi trà vì nhụy hoa đã bị gió quạt vô không thơm tho chi nữa cả.

- Con Trang giỏi hí, đi học về mà còn lo ướp trà cho mẹ, rứa là quý lắm đó.

Bà Phủ kiêu hãnh nói thêm:

- Dạ nhờ trời hắn học chi thì học chớ về tới nhà là việc chi cũng giành làm, trồng cây cũng trồng, cho heo cho gà ăn cũng đòi cho, đi chợ nấu ăn, giao cho việc chi là làm được cả.

- Dạy con gái rứa là phải, học nhiều mà không biết làm ăn thì chồng con cũng buồn mà đứa ăn đứa ở hắn cũng không coi ra chi.

- Em cũng nghĩ như rứa...

Bà Hải dọn giọng định nói thẳng với bà Phủ để dành Trang cho Vinh, nhưng không hiểu tại sao có gì cứ như cản lời, bà lại phải quay sang câu chuyện ướp trà.

- Trà sen mà muốn cho thiệt ngon thì trong vườn phải có hồ sen, buổi chiều mùa sen nở, khi mặt trời gần lặn độ chừng bốn năm giờ, mình bơi thuyền thúng ra mở từng bông sen, lựa thứ sắp nở, bỏ trà vô giữa nhụy rồi cột chặt lại không cho nở nữa. Để qua một đêm, ngày mai chèo thuyền ra hái bông sen về pha trà uống thì tuyệt. Trà vừa hưởng thứ nắng còn lại của buổi chiều hôm qua, vừa được tắm sương suốt một đêm, ấp ủ trong mấy cánh sen. Mà cần nhứt là phải lựa thứ sen gần nở như con gái tới tuổi, đó mới là lúc hương thơm nồng nàn nhất. Bông còn non thì hương chưa chín, mà bông nở rồi thì lại phai hết hương. Như rứa trà mới thiệt ngon, nhưng đó là nói chuyện ngày trước có thì giờ rộng rãi, người ăn người làm dễ nuôi, vườn tược to lớn, chớ đời chừ khó khăn, cũng ít còn ai cầu kỳ nghĩ tới mấy chuyện nớ.

- Dạ, đời chừ cái chi cũng phải vội vàng gấp rút.

Bà Phủ lại có ý muốn thúc giục bà Hải nhập đề chính ngay đi, nhưng bà Hải vẫn cứ chần chờ.

- Mà trà ướp được như ri là đã giỏi lắm, có con gái trong nhà để hắn lo những việc cắm bình hoa, ướp gói trà, chị cũng thiệt có phước, có một đứa nên một đứa, còn đòi chi nữa.

- Dạ thì cũng nhờ trời...

- Thôi thì nói gần nói xa, chỗ chị em quen biết lâu rồi nên tui cũng không muốn cậy mai mối làm chi cho phiền phức. Tui muốn hỏi coi con Trang năm ni đã có đám mô chưa?

Bà Phủ thở phào một tiếng định trả lời ngay, nhưng như thế sợ tỏ ra vẻ như mình chờ đợi quá, bà cũng phải giả vờ nâng chén trà lên uống một ngụm cho có vẻ dềnh dàng rồi mới bắt đầu.

- Dạ cũng có mấy nơi nhưng mà hắn khó tính chê lên chê xuống hoài, hắn ưng người có học thức, có địa vị, biết hiếu thuận, con nhà tử tế, em thường nói “con mà khó tính quá thì thành ra lắm mối tối nằm không chớ chẳng chơi mô”, rứa mà hắn cũng nhất định gạt hết, đòi đi học thêm đã.

Bà Phủ cố ý nói để đề cao con gái mình thêm chút nữa, mặc dầu biết rằng trước mắt bà Hải thì Đoan Trang có giá trị lắm rồi. Con trai người ta hơ hớ mới đậu bằng Tiến sĩ bên Tây về mà người ta không nhắm hồi môn, chứng tỏ rằng con gái mình cũng có giá trị lắm đó chứ còn gì nữa.

- Trang khó tính dữ hè, thôi để chờ bữa mô thằng Vinh tui về cho hai người gặp nhau coi có chê nhau không đã.

- Dạ, được cụ thương cho như rứa thì phúc đức quá rồi, nhưng để chờ ý kiến của cậu Vinh coi ra răng...

- Phải đó, nói trước với nhau nhưng cái chi rồi cũng không qua được trời, hữu duyên thì thiên lý năng tương ngộ...

- Dạ...

Bà Phủ mừng rỡ chỉ muốn gọi con gái ra báo cái tin vui ấy ngay, nhưng ai lại làm gấp rút quá vậy, bà đành phải đợi cho bà Hải ra về. Thấy cả hai chén trà đều cạn, Bà Phủ gọi con pha thêm trà, người mẹ muốn con gái mình cũng chứng kiến cái phút quan trọng này với mình ngay.

Trang mang ấm trà ra, nhẹ nhàng châm vào hai cái tách.

- Cụ khen con ướp trà ngon đó, sướng không, con gái có chi sướng bằng được khen công ăn việc làm.

Trang cúi đầu, cắn môi mỉm cười e thẹn. Bà Hải nhìn Đoan Trang, con dâu tương lai của mình bằng đôi mắt âu yếm làm cho bà Phủ cảm động và sung sướng. Bà lẩm nhẩm cầu xin cho đừng có sự gì trở ngại, vì hôn nhân, nhất là những cuộc hôn nhân tốt đẹp thường hay xảy ra lắm chuyện trở ngại không ai ngờ được. Phải chờ đến ngày đưa dâu đi rồi, ký giấy ký tờ ở tòa đốc lý rồi thì mới có thể ăn ngon ngủ yên được.

Xe bà Hải vừa ra khỏi ngõ, bà Phủ vội vàng đi ngay vào phòng con gái báo cái tin vui ấy:

- Cụ Thượng đòi xin con cho cậu Vinh đó, con có ưng không?

Trang đỏ mặt không biết trả lời thế nào, từ trước đến giờ nàng vẫn phản đối những cuộc hôn nhân do cha mẹ dàn xếp, tức là hôn nhân không tình cảm ấy. Ngày bé, Trang vẫn hay gặp Vinh và thường bị Vinh trêu: “Lêu lêu, người mô may áo đầm cho búp bê mà lại không biết may quần”, rồi Vinh còn bảo nàng mang kéo với vải đến nhà, Vinh sẽ dạy cho mà biết cắt quần lá nem, lá chả đẹp lắm. Hoặc có khi bà Hải sai Vinh đến nhà bà Phủ thì Vinh bắt Trang đi kiếm sào chọc ổi, chọc đào cho Vinh ăn. Vinh hơn Trang những chín tuổi, bảo Vinh không xem Trang như em bé sao được. Thế mà bây giờ nếu được làm vợ Vinh, suốt đời sẽ mang tên Vinh... Trang cảm thấy hoang mang...

Bà Phủ biết rằng con gái mình sẽ bằng lòng vì không có một đám nào tốt hơn nữa.

- Để anh Vinh về đây rồi tính, hỏi trước mà tới khi anh Vinh với con gặp nhau mà không hợp ý nhau thì răng?

Trang trả lời mẹ trong nhịp tim nhảy mạnh, người mẹ không tin như thế, con gái bà thật xứng với cái tên Đoan Trang, Vinh làm sao có thể từ chối và làm sao Trang có thể không yêu lại Vinh.

****************

Vinh cầm bức thư do tự tay mẹ viết lấy, làm cho thằng con trai ngạc nhiên, linh tính báo trước một sự gì sắp xảy ra chăng? Từ gần hai mươi năm nay, bà Hải không mấy khi chịu cầm đến cán bút vì con cái đã lớn, đứa nào cũng sai được cả rồi, cần ghi chép cái gì là có thể bảo chúng nó. Bà Hải vẫn nói: “Chừ mắt càng ngày càng mờ, tay càng ngày càng run, không viết được ngay ngắn, để nhờ các con. Mình gò gẫm cả buổi vừa mất thì giờ mà chữ thì như gà bươi khó đọc.”

Thế mà hôm nay mẹ tự viết lấy thư, hẳn phải có chuyện gì quan trọng lắm chứ chẳng phải đùa.

“Vinh của mạ,

“Rứa là con học hành thành tài rồi, công ăn việc làm cũng coi như có rồi, mạ mừng lắm. Trời Phật đã nghe lời cầu xin của mạ, chừ mạ chỉ còn xin một chuyện nữa, cho con nên đôi nên lứa là mạ có thể nhắm mắt, nếu Trời Phật bắt mạ phải xa con. Trước khi đi Tây con cho mạ cái quyền tự kén dâu lấy. Con có nhớ con nói với mạ kén người mô biết tưới cây bầu cây bí, bỏ lư trầm cho mạ tụng kinh. Con về mà không có đầm theo, rứa là con vẫn giữ lời hứa, quân tử nhứt ngôn, mạ mừng lắm.

Mạ mới nhắm cho con được một người, đó là cô Đoan Trang con bà Phủ Ninh. Ngày trước, khi con ra đi hắn còn nhỏ, chừ đã lớn và đủ tư cách lắm. Mạ tin chắc là khi con gặp Trang thì con cũng sẽ không trách mạ. Tết ni con về mạ tính làm lễ coi mắt nếu con muốn.

Con ráng giữ gìn sức khỏe đừng làm việc nhiều mà ốm đi. Mạ đang làm cho con một tể thuốc để con đem theo khi trở vô Sài Gòn.

Mạ.”

Kèm với bức thư của bà Hải, còn một bức thư nhỏ của thằng Minh: “Anh Vinh ơi, mạ đi bỏ hàng rào thưa cho anh rồi, chờ anh về sẽ ăn đám hỏi. Anh mau về cưới đi không thì mất, vì cô Đoan Trang dễ thương lắm. Ngày mô mạ cũng lo tụng kinh thật nhiều để cầu nguyện cho anh.”

Cả hai bức thư làm cho Vinh thắc mắc, Vinh cảm thấy mình như bị dồn ép vô một góc tường, không biết phải đối phó cách nào với gia đình, với người con gái mà mẹ đã nhắm cho mình, với Mai Khanh.

Hình ảnh Đoan Trang hiện về, mờ nhạt ở trong tâm trí, cô gái bé lúc nào đi đâu cũng có ôm con búp bê, mái tóc cắt cũng giống theo một kiểu với con búp bê. Cô gái ấy mà sao mẹ lại muốn mình phải cưới về. Định mệnh thật là quỷ quái, chính Vinh đã giữ lời hứa với mẹ cho đến khi về xứ, nhất định không để cho cô nào giữ làm của riêng, thế mà vừa tới Sài Gòn lại bị thu mất hồn.

Từ mấy tháng nay, Vinh thả cuộc sống bềnh bồng theo giòng đời, yêu Khanh và được người con gái cũng trả lại cho một thứ tình tương đương, thế mà cả hai đều không dám thú thật với gia đình, biết trước rằng nói ra thì thế nào cũng đổ vỡ, thà cứ để yên như thế mà hy vọng.

Cả hai bên gia đình đều không bao giờ chấp thuận một người con dâu hay con rể khác đạo. Khanh kể cho Vinh nghe cuộc tình duyên của anh mình. Nếu Nga không chịu rửa tội và theo đạo thì cũng chưa chắc ở nhà đã cho cưới. May mà gia đình Nga tuy bảo rằng theo đạo Phật nhưng sự thực thì chỉ là đạo thờ ông bà, mỗi kỳ giỗ tết cũng có cúng nhưng là một thứ cúng Thổ thần, cúng ông Táo, chứ không phải loại đạo gốc, đạo nguồn như gia đình của Vinh.

Sự theo đạo của Nga vì thế chẳng có gì trở ngại, nhất là thuở bé Nga cũng từng theo học trường của mấy dì Phước và đã tỏ ra say mê, thích mặc áo trắng đi nhà thờ mỗi chủ nhật cùng với các bạn gái.

Nhưng gia đình Vinh, có bao giờ bà Hải chịu nhận Khanh làm con dâu, dẫu nàng có tài hoa đức hạnh đến mấy, hoặc giả Vinh có liều gạt bỏ gia đình ra ngoài để chung sống với Khanh thì chưa chắc Khanh đã dám, vì Khanh còn gia đình của nàng. Vả lại thứ hạnh phúc xây trên sự đau khổ, xây trên nước mắt của người mẹ, liệu có bền mãi không?

Giá Vinh sinh vào một gia đình khác, như gia đình chị Thiện chẳng hạn thì chẳng thành vấn đề, đằng này Vinh là một đứa con cưng, trước khi đi và ngay cả trước ngày về xứ, còn viết thư hẹn cho mẹ cái quyền được chọn lấy con dâu, một người vừa ý mẹ. Khanh làm sao mà vừa ý mẹ?

Vinh nhớ đến ngày sinh nhật của Thùy Nhung, khi Hoàng nói cho Vinh biết rằng Khanh là Thiên Chúa giáo, Vinh đã cảm thấy có một áng mây đen đang giăng qua trước mắt, áng mây từ độ ấy không bao giờ ngừng giăng, có lẽ càng ngày lại càng quánh đặc hơn nữa.

Đang thắc mắc không biết phải làm gì, đi đâu cho bớt tù túng, thì có tiếng gõ cửa của Hoàng, Vinh mừng quá chạy vội ra đón thằng cháu đến đúng lúc, chẳng khác nào một vị bác sĩ đến khi nhà đang có người ốm.

- Cậu có gì mà không được vui? Bận áo vô đi chơi với Hoàng cho bớt ưu tư đi.

- Đi mô? Sài Gòn nhỏ tí xíu đi độ nửa giờ là hết rồi, bớt ưu tư chi được!

- Cậu nói lạ rứa, tại cậu quen ở bên Âu châu, đối với Huế nhà mình, Sài Gòn là một thế giới kỳ ảo, cậu bận áo vô mau!

- Hoàng có chắc đi lang thang ngoài đường thì sẽ vui hơn không?

- Tụi mình đi tới nhà Nhung rồi bảo Nhung đưa sang nhà Khanh.

Nghe nói đến Khanh, Vinh bằng lòng ngay tuy biết rằng đến Khanh cũng chẳng có thể nói gì được. Muốn gặp riêng Khanh, trao đổi một vài câu chuyện phải tổ chức trước cả tuần. Nhờ năm bảy người đến hẹn, rồi mời, rồi xin phép, nói dối trá hai ba vòng mới được đi chứ không phải dễ dàng, mặc dầu có Nhung và Hoàng làm tay trong. Thỉnh thoảng Nhung giả vờ kêu mệt, buồn, nhớ biển rồi xin phép cha mẹ cho tài xế lái xe để mình và em gái cùng đi. Đi hai chị em chưa đủ vui, bắt mẹ phải sang xin cho Khanh đi với. Phút cuối cùng mới gọi điện thoại cho Hoàng, làm như vì còn dư chỗ trong xe, sự thực cả hai đã xếp đặt từ trước. Chiều về nhà, còn phải cho tài xế tiền để bác tài khỏi có đi mách với cô Hương, thật là cả một tấn tuồng dằng dặc mấy màn, mấy cảnh.

Cố nhiên khi xuống đến Long Hải thì Khanh và Vinh được tách rồi, đi thả bộ xa xa trên bãi cát với nhau hoặc ngồi nói chuyện, nhìn sóng nước, nhìn mọi người nô đùa dưới bể. Cả hai đều không mấy khi dám tắm bể, sợ mất thì giờ, những phút quý báu được ngồi bên nhau.

Trước khi ra khỏi nhà, Vinh đưa cho Hoàng đọc bức thư của mẹ mình. Hoàng đọc xong vỗ bàn chan chát làm nhảy cả mấy cái bút, lọ mực.

- Thôi chết rồi, tưởng ai chứ cô Đoan Trang thì nguy lắm!

- Nguy chỗ mô?

- Cô ni đẹp người, đẹp nết, có thể kình được với cô Khanh nhà ta, chỉ tiếc là máy bay từ Paris về ngừng ở Sài Gòn chứ chẳng ngừng ở sân Phú Bài, nếu không thì mô có tới phần cô Khanh?

- Chi mà ghê rứa, ở đời còn có số mạng, bộ Hoàng tưởng gặp cô mô mình cũng nhào vô mê liền hả?

- Thiệt mà, cô ni không kể cái hậu thuẫn vững chắc là bà ngoại nằm đằng sau, mà tự cô cũng là một kiện tướng thuộc loại sâu sắc thâm trầm, không phải loại phổi bò, gối bông gòn vỗ kêu bình bịch rồi hết mô, cậu ơi!

- Bộ tưởng người ta không biết cô nớ hay răng? Ngày mình đi, cô ta nhỏ chút xíu, tới nhà ai cũng kè kè con búp bê, bị cậu phá cho luôn, có khi còn níu áo mẹ để khóc nhõng nhẽo.

- Hậu sinh khả úy mà cậu, chừ cậu gặp chắc cậu xỉu liền.

- Nói bậy nào, bỏ cô Khanh cho ai?

- Rứa mới là cay nghiệt trời già. Hoàng đâu có ngờ mà trời đất lại sinh ra lắm trò. Bà ngoại vừa cổ kính lại quá ư sùng đạo, đời mô bà ngoại chịu đón cô Khanh về làm dâu!

- Nếu bà ngoại được như mạ của Hoàng thì đỡ khổ biết mấy...

- Khỏi chê, mạ Hoàng gặp Nhung là ô-kê liền, không lôi thôi chi cả. Nếu Hoàng có ưng theo đạo để khi đám cưới được làm lễ tại nhà thờ cũng được, mà nếu Hoàng có không vô đạo thì Nhung và ông bà Đốc cũng chịu cho đám cưới ở trước cửa nhà thờ. Miễn là các con sau này thì cho chịu phép rửa tội, cả hai gia đình đều rộng rãi như rứa mới hở được, chớ ngột ngạt như Khanh với cậu thì chắc Hoàng đã bỏ nhà ra đi từ lâu. Nói rứa chớ đời còn dài, cũng chưa biết răng mà lường...

Vinh chép miệng thở dài:

- Giá bà ngoại đừng có đi bỏ hàng rào thưa cô ni gấp quá thì mình còn xin vài ba năm coi tình thế có biến chuyển. Chớ mình như bị tròng đầu vô xích, Khanh mà biết chuyện ni chắc khóc dữ lắm.

- Tìm kế hoãn binh đi cậu, còn ba tuần nữa mới tới Tết. Cậu lo viết thư thưa với bà ngoại là để chờ ngày mô cậu ra Huế đã rồi nói chuyện...

- Rồi răng nữa, nói chuyện chi đây? Chỉ còn có ba tuần...

- Rồi mình tính sau, có thể là cậu nói thiệt với cô Trang để cho cô giả bộ không thèm mình nữa.

- Bắt thêm một người phải hy sinh, nhưng rồi bà ngoại cũng lo đi kiếm đám khác chớ có khi mô chịu nhận Khanh.

- Ờ hỉ, lôi thôi chi lạ!

Hoàng cũng chưa biết tính cách nào để giúp người cậu mà Hoàng rất thương, nhất là trong câu chuyện này, đầu dây mối nhợ đều do Hoàng với Nhung cả. Hoàng hối hận đã giới thiệu và đã vô tình đưa Vinh vào những ngõ bí khó thoát. Nếu biết trước như thế chắc Hoàng chẳng bao giờ dám giới thiệu làm gì.

- Thế mới biết con người vốn vô tư, các cụ nói “nhân chi sơ tính bản thiện” là đúng lắm.

- Hoàng nói chi?

Vinh đang mặc áo nghe giọng Hoàng vội quay lại hỏi.

- Biết phức tạp như ri thì Hoàng mô có giới thiệu cho cậu.

- Hoàng nói sai, tất cả tụi mình đều biết là sẽ phức tạp, rứa mà không đứa mô chịu rút lui ngay từ đầu, vẫn nhào vô, nhưng đó là ý của định mệnh. Hoàng thử nghĩ nếu cuộc đời cứ đều đều, cậu học xong trở về để cho và ngoại kén vợ, một cô gái có đủ điều kiện vừa ý tất cả mọi người. Hai vợ chồng hạnh phúc bên nhau, đẻ ra một bầy con, đứa mô cũng xinh đẹp khôn ngoan... thì đời còn có chuyện chi để nói nữa.

- Cậu nói chắc đúng, rứa thì làm chi mà có bi hài kịch cho thiên hạ khóc, thiên hạ cười cậu hỉ.

- Hơn nữa, không biết ở đây Hoàng có hay đọc những câu chuyện cổ tích của các nước châu Âu, họ có những mẩu huyền thoại ngày xửa ngày xưa rất ngây ngô và rất dễ thương.

Rồi Vinh kể một mẩu huyền thoại nói về sự cấu tạo của vũ trụ theo tầm tưởng tượng của người dân xứ Nga cho Hoàng nghe. Ngày xưa, lúc ban đầu, vũ trụ chỉ là một khối thủy tinh cứng rắn lững lờ trong không gian. Một hôm khối thủy tinh ấy gặp phải một áp lực tự nhiên khác, nó bị nổ tung ra, rơi xuống mặt đất thành muôn nghìn mảnh vụn. Những mảnh vụn ấy biến hóa thành muôn loài trên quả đất, một số biến thành loài người và suốt đời đi tìm nhau. Khi họ yêu nhau thì đó là hai mảnh thủy tinh đã gặp nhau, xưa kia họ ở chung một chỗ sát kề nhau trong khối thủy tinh lúc ban đầu. Cũng như khi mình đập bể một cái ly mà muốn ghép lại thì phải tìm cho đúng từng mảnh với nhau mà ghép nó mới sát nhau. Có những đôi vợ chồng hoặc bè bạn sống suốt đời mà lủng củng hoài chỉ vì họ không phải là những mảnh vụn sát nhau trong khối nguyên thủy thì làm sao mà ghép được lại với nhau.

Hoàng gật gù tán thưởng câu chuyện của Vinh kể.

- Hay, cái lý thuyết ấy có thể chấp nhận được, không trách sao mà có nhiều đôi cứ lẳng nhẳng lằng nhằng suốt đời.

- Vì thế nên loài người khi đặt ra hôn nhân phải đặt thêm sự ly dị để chế ngự lại, để cứu vãn tình thế, nếu không thì đau khổ biết mấy.

Hoàng cũng đồng ý như thế, yêu nhau đến mấy đi nữa mà khi nghe nói đến cái đạo luật gia đình cấm sự ly dị cũng làm cho người ta đâm ra dè dặt.

Để cho quên bớt những ý nghĩ buồn nản, nhân câu chuyện luật gia đình, Hoàng kể cho Vinh nghe rằng cái phương pháp giữ chân hội viên mới mẻ nhất và cổ kim đông tây chưa ai làm, là bắt mấy nữ hội viên cao cấp phải chịu để cho ban nhiếp ảnh đưa xuống hầm chụp những bức ảnh khỏa thân.

- Để làm gì?

Vinh ngơ ngác hỏi.

- Nếu hội viên nào có ý phản bội tức thì tấm ảnh ấy sẽ được đưa ra để bêu diếu cho xấu hổ.

- Kể đã là một mưu thần chước quỷ khá “sadique” đấy, nhưng xét ra thì chẳng việc gì mà xấu hổ, nếu các bà từng sống ở Âu châu, có dịp đến Pampelonne hoặc đảo Levant chơi, thấy người ta theo phái thiên nhiên đi đầy đường sá ra đó thì có chi đâu mà xấu hổ.

- Hoàng cũng nghĩ như rứa, có chi mà xấu hổ, nếu bắt các bà trong khi chụp ảnh phải làm một động tác gì thì nguy hiểm hơn nhiều. Nếu chỉ có đứng hoặc nằm suông thì có thể xem như một bức ảnh chụp trộm, ảnh ghép, hoặc những bức ảnh thân mật khi người chồng thấy vợ mình có tấm thân đẹp đã cố chụp lại để sau này già còn lưu một chút làm kỷ niệm thì sao.

Câu chuyện đang từ vấn đề tôn giáo nhảy qua xã hội, theo Vinh thì chỉ cần nhích một tí cái ý thức, cái quan niệm sống của con người thì những bức ảnh khỏa thân của các nữ hội viên ấy hầu như thành vô ích. Người ta lợi dụng sự e thẹn của người đàn bà Á đông chứ ở Âu châu hiện nay, các bà các cô rất kiêu hãnh khi có được một thân hình đẹp. Lắm người xin gia nhập vào hội “thiên nhiên” không phải vì muốn tắm nắng, khí trời gì cả mà chỉ vì muốn khoe tấm thân đều đặn của mình ra. Nhà đạo diễn Vadim còn trả lời với báo chí rằng, tại sao có chuỗi hạt đẹp, tấm áo đẹp thì chịu đưa ra khoe khoang với bạn bè mà bộ đùi của vợ đẹp lại giấu đi một chỗ.

Cứ đi ra bể thấy các cô các bà nằm nhan nhản đầy ra ngoài bãi cát với hai mảnh rất nhỏ thì sao. Từ hai mảnh đến không mảnh nào có xa nhau là mấy, cũng những bà ấy mà sáng hôm qua, lúc lên xe xuống xe còn lo sợ khép đùi, khép váy cẩn thận. Theo khoa xã hội học thì thay đổi thời tiết, thay đổi khung cảnh tức thị tâm lý, tính tình con người thay đổi theo một sáng một chiều.

Những bức ảnh ấy không có cái sức mạnh ghê sợ bằng những bức ảnh của một vị vua Trung Đông mà sau ngày cách mạng trong nước, người ta đã tìm ra được trong phòng riêng của ngài. Vị vua tinh quái, chụp trộm tất cả các bà nào đã vào “dựa mạn thuyền rồng”, cố nhiên là ảnh chụp những lúc nào các bà đang thoát y, đang có những động tác đặc biệt.

Khi sự thật được đưa ra ánh sáng, đó mới là đáng ngại, bao nhiêu vụ ly dị đã xảy ra vì những tấm ảnh quái ác đó.

- Thôi nghe cậu, đừng có xúi trẻ con, như thế này đã đủ lắm rồi.

Vinh cười bảo là nói cho hết vậy thôi chứ ai có định xúi trẻ...

Ra đến đường, Vinh mới nhớ mình có hứa mang cho Khanh một quyển sách bàn về các tôn giáo kim cổ trên thế giới. Từ khi quen Khanh, biết cô gái còn ngây thơ, chưa hiểu gì nhiều, Vinh thấy mình cần phải giúp đỡ chỉ dẫn trên tất cả mọi phương diện. Vinh bảo Khanh chỉ nên đọc những loại sách gì thật cần thiết, những quyển sách thật giá trị chứ đừng có bất cứ gì cũng đọc, vừa không lợi mà còn mất thì giờ. Ngay cả những quyển sách bán chạy cũng chưa chắc là những loại sách bổ ích; sự đắt hàng của một quyển sách lắm khi không phải là vì sách có một giá trị chân chính mà chỉ vì sự quảng cáo rầm rộ của nhà xuất bản hoặc vì quyển sách viết chiều theo thị hiếu của số đông, mà số đông thì bao giờ cũng lười biếng, chỉ thích những món quà dễ tiêu. Vinh không muốn cho Khanh phải rơi vào số người thừa thì giờ cần phải giết bớt đi ấy.

- Cậu có cầm bức thư tới cho Khanh đọc không?

- Hoàng nghĩ sao, có nên đưa tới không?

- Thôi đừng đưa, đọc chỉ khổ thêm chứ chẳng lợi lộc gì, nghe Nhung bảo Khanh khổ lắm vì quan niệm tôn giáo ở nhà rất chặt chẽ, và ngay với bản thân mình Khanh cũng chặt chẽ. Bỏ gì thì còn có thể bỏ, chứ không thể nào bỏ Chúa, và không có chi khổ bằng thấy mình tự mâu thuẫn với mình, phải không cậu?

- Đúng, Khanh không bao giờ có ý định bỏ đạo, cậu thì vẫn kính trọng sự tin tưởng của tất cả mọi người nên cũng cho sự ấy là phải.

- Loài người đặt ra nhiều hình thức để làm khổ nhau thêm, cậu có thấy rứa không? Nhưng nếu con người ta không chuộng cái hình thức, cái bề ngoài thì mạ Hoàng phải dẹp tiệm vì hàng lụa bán cho ai. Nếu quả thật chỉ sống với tinh thần thì phải làm theo cổ nhân, nghĩa là lột vỏ cây, tước lá dừa kết thành mảnh che thân, rứa là đủ rồi, cần gì phải sắm quần áo cho tốn kém mất thì giờ.

Hoàng và Vinh đi bộ thẳng tới nhà Nhung, u già bảo các cô đi chầu cả rồi, hôm nay là chiều chủ nhật. Hỏi thăm nghe bảo có cả cô Khanh, Vinh mừng lắm, như thế khỏi đến nhà Khanh mãi tận Phú Nhuận, vừa xa lại vừa phải gặp mấy người bà con Khanh mà Vinh rất ngại. Vinh có cảm tưởng lúc nào mình cũng bị nhìn một cách soi mói dò la.

U già còn bảo các cô đi từ lâu, giờ này chắc cũng gần xong, các cậu có đi đón thì đi ngay không lại tréo đường nhau mất công đi tìm.

Ra khỏi nhà, đợi u già đóng cửa rồi, Hoàng bắt đầu khen u già:

- Đời bây giờ mà có những nhân vật trung thành với chủ như thế là hiếm rồi đó, cậu có thấy không?

- Loại người này bị văn minh giết đi nên càng ngày càng hiếm, có lẽ đến thế hệ chúng mình thì sẽ hết, không còn u già, u trẻ gì nữa cả.

Hồi chuông nhà thờ bắt đầu đổ ngân nga lan ra khắp buổi chiều. Hoàng vội kéo Vinh đi nhanh hơn, sợ không đón kịp các cô, để các cô về mất lại phải đi tìm hết cả thì giờ.

****************
 

Mai Hương buồn rầu hơn bao giờ hết, hơn cả cái hôm phải lìa mẹ xuống tàu di cư vào Nam, hơn cả khi nghe tin anh cưới vợ và hơn cả khi thấy cô chị dâu, một người con gái xa lạ chầm chậm và tin tưởng bước vào mái nhà của mình đang ở.

Mai Hương buồn vì nàng vừa lén đọc được tập nhật ký của cô em gái, đứa em độc nhất mà nàng đã chăm sóc, đã thương yêu như một người mẹ trẻ chăm và yêu con.

Ở ngay trang đầu của tập nhật ký, Mai Khanh viết: “Tôi biết trước rằng có một ngày nào đó tập nhật ký này sẽ phản bội tôi, sẽ đưa hết tâm sự thầm kín của tôi ra kể lể cho một người khác nghe. Nhưng đời có những sự biết trước mà vẫn không ai có thể tránh hay là không muốn tránh. Tôi cảm thấy cần phải viết, cần phải nói, cần phải nói ra những gì đang gào thét ở trong đầu óc, nếu không thì những sự gào thét ấy sẽ bùng nổ và tôi có thể trở nên cuồng loạn. Tâm hồn tôi là một bãi cát lún, nhìn bên ngoài, nhìn đằng xa tưởng là phẳng lặng, bình yên nhưng sự thực... Trời ơi! Sự thực...!

Lạy Đức Mẹ, xin hãy phù hộ và che chở cho con.”

Ở những trang đầu, bắt đầu là ngày sinh nhật của Thùy Nhung, ngày cô em gái gặp con người lý tưởng. Mai Khanh đã ghi lại tất cả những gì hai người đã nói với nhau, từ lúc được Vinh mời nhảy bản blue tango đến các cuộc gặp gỡ tại nhà Nhung, tại nhà Hoàng. Những lần đi Long Hải, đi Thủ Đức, đi Hố Nai, tuy lần nào cũng có người này người khác đi theo, nhưng anh chị vẫn tìm được những giờ phút dành riêng cho nhau, tách rời khỏi tất cả mọi người để tìm hiểu, để tâm sự và rồi để say mê nhau hơn.

Trong nhật ký có một đoạn Mai Khanh dám đề cập đến sự hy sinh phần hồn để cho thể xác được toại nguyện, tức là bỏ tôn giáo mình để theo người mình yêu.

- Lạy Chúa tôi, nghĩ đến thế mà dám nghĩ được thì thật là quá quắt!

Mai Hương lầm thầm nói một mình, thà nàng nghe em gái nói đến cái chết, nàng có thể nhìn em gái chết chứ Mai Hương không bao giờ cho em gái cái ý nghĩ bỏ đạo. Đúng là có ma quỷ chen vào đây chứ chẳng không. Chỉ có ma quỷ mới cám dỗ được con người, chứ người với người thì làm sao đủ sức cho Mai Khanh phải đề cập đến những chuyện hy sinh linh hồn mình như thế.

Gấp quyển nhật ký để trả lại chỗ cũ, Mai Hương nghẹn ngào chỉ muốn khóc to lên như khi người ta khóc lúc đặt hòm xuống huyệt. Thế là nàng mất thêm một người thân, một đứa em mà nàng đã yêu thương hơn tất cả. Cái cảm giác cô độc lại trở về, như thỉnh thoảng nó vẫn trở về trong tâm trí, nhưng hôm nay nó ghê rợn hơn, chính Mai Hương cũng không hiểu tại sao. Tại sao Mai Khanh không nói với mình ngay từ buổi đầu? Nếu Mai Khanh nói thì có lẽ người chị đã đủ sức để cản trở. Mai Hương còn nhớ rõ cái đêm em đi ăn sinh nhật ở nhà Thùy Nhung về khuya ấy.

Trong gia đình rồi chỉ có mỗi một mình Mai Hương là khổ, hy sinh tất cả cho mọi người thế mà cũng chẳng ai tín nhiệm đền đáp lại, có gì họ cũng giấu giếm hành động một mình; bao giờ câu chuyện đã xong xuôi cả rồi mới cho biết. Chẳng ai trả lại đúng với số cảm tình mà Mai Hương đã mang trao cho.

- Thế là Mai Khanh đã biết yêu và đã được biết thế nào là tình yêu của một người đàn ông.

Mai Hương nghẹn ngào nói lên, hơn nữa đấy là thứ tình cao rộng, thứ tình to tát ghê sợ đặc biệt chứ không phải loại tình cảm qua đường vụn vặt nhan nhản ngoài cuộc đời.

Những cảm giác đập mạnh vào người con gái sau lúc đọc tập nhật ký của em mình xong là giận, tủi, ghen, tức và tội nghiệp.

Mai Hương giận em ở chỗ đã giấu giếm mình mà lại đi tâm sự với Nhung, xem Nhung hơn chị ruột, sau cơn giận là sự tủi thân, nàng cảm thấy tủi thân khi so với em gái, sao em lại được biết một thứ tình kinh khủng ấy còn nàng thì bao nhiêu lâu chờ đợi. Những thằng con trai đến với nàng đều là loại đàn ông chỉ chực cưới vợ để sống ăn bám vào lưng vợ. Không có lấy một thằng nào ra hồn cho nàng có thể tiếc, có thể buồn, để rồi lấy cái tiếc cái buồn ấy mà làm đối tượng cho cuộc sống, làm nguồn an ủi cho sự hy sinh của mình.

Còn Mai Khanh chưa vào đời đã gặp ngay tình yêu, được nằm gối lên lòng người yêu nghe những ngón tay chàng luồn qua mái tóc vuốt ve từng sợi, được nghe giọng chàng chân thành nói đến những sự nhớ thương đợi chờ, những giấc mơ của mấy đêm trước.

Sau sự tủi thân là bực tức, trong khi mình quần quật lo làm công việc trong nhà quên cả điểm trang, quên cả cuộc sống tình cảm riêng tư, chỉ biết thức khuya dậy sớm để phụng sự nó thì nó chỉ nghĩ đến mưu chước nào đánh lừa được mình để đi gặp người yêu. Trong đầu óc nó chỉ còn mỗi một hình ảnh của người yêu, ngoài ra tất cả đều phụ, mình cố sức nấu ra nồi cơm dẻo, bát canh ngọt mấy đi nữa nó cũng cho rằng không ngon bằng cái “xăng uých” nó chia đôi với người yêu trong những lúc đi chơi với nhau. Đã thế nó lại nhường hết phần thịt cho chàng, còn nó chỉ có nhai bánh mì suông mà bảo là từ thuở bé chưa bao giờ ăn bữa nào ngon đến thế.

Nhưng những ý nghĩ buồn, tủi, giận, tức ấy được dẹp lại, người chị cảm thấy tội nghiệp cho đứa em gái mang tình yêu đi trao không đúng chỗ. Vinh là con một gia đình gốc gác đạo Phật và theo lời Khanh viết trong nhật ký thì không bao giờ mẹ Vinh chấp thuận một người con dâu khác đạo như Khanh.

- Họ nhà này cũng thế, không ai thừa con đi gả cho... chúng nó!

Mai Hương nghiến răng nói lại như để trả lời ngay với người đàn bà mẹ của Vinh đang đứng trước mặt mình mà Mai Hương tưởng tượng chắc phải đanh ác lắm.

Bước ra khỏi phòng em gái, Mai Hương buồn rầu không biết có nên đưa câu chuyện ra mách với cha và các anh không. Chỉ có cha còn ngăn cấm được, chứ các anh mỗi người mỗi ngả nói ra cũng vô ích. Anh Phúc thì Mai Hương xem như đã mất đi rồi. Từ ngày lấy vợ chỉ biết có nhà vợ, không còn nghĩ tới tình gia đình, tình anh em. Vợ mà cái thứ đạo mới theo một sáng một chiều thiếu căn bản thì cũng như không, đi vào nhà thờ lúc nào người ta hát thì mặt cứ trơ phỗng ra, người ta đứng, người ta quỳ thì vẫn cứ ngồi đờ như mới bị đóng đinh dính vào ghế, có ai nhắc bên tai mới biết đứng dậy...

Những kẻ có đạo lúc quỳ, lúc đứng, lúc cúi đầu, lúc đưa tay lên làm dấu đều có vẻ dịu dàng chân thành, cử chỉ phát ra tự trong tâm, không phải như những bức tượng gỗ, những con người máy. Mai Hương ngẫm nghĩ không biết anh của mình ăn phải bùa phải bả gì mà có thể thương được con người ấy.

Nhưng thôi, câu chuyện của anh thì cho như là xong đi, Nga chịu theo đạo thế cũng tạm được, đàn bà theo chồng là phải lắm, nhưng mang cái công thức áp dụng vào Khanh thì nghe sao xuôi. Mai Khanh đã phản bội gia đình, phản bội họ hàng, mang tình đi trao cho một người khác đạo. Mai Khanh sẽ bị trừng phạt, mà sự trừng phạt chắc phải ghê gớm lắm nếu không biết hối cải. Mai Khanh sẽ không bao giờ được về nước Chúa, uổng bao nhiêu công tu niệm cầu nguyện.

Ý nghĩ cuối cùng là Mai Hương phải làm sao cứu vớt em, bao giờ cũng trên thương xuống, nàng là chị phải làm cách nào để dìu dắt đứa em gái ra khỏi con đường trái, con đường chỉ đưa đến sự tội lỗi mà thôi.

Có cách gì để cứu vãn được, hai người yêu nhau đã gần năm tháng rồi, tuy chưa lấy gì làm muộn nhưng nếu cứ kéo dài thì sẽ nguy hại, trong nhật ký có những đoạn Mai Khanh dám đưa ra những ý nghĩ liều lĩnh, đến tìm Vinh, trao tất cả cho Vinh để rồi hai gia đình phải chịu chấp thuận khi mọi việc đã xong.

Mai Hương nảy ra ý nghĩ đi tìm cô Hiển. Cô Hiển là em gái của cụ Lang Lộc, cả gia đình chỉ có cô là hiểu Mai Hương và gần nàng nhất, ai cũng bảo hai cô cháu giống tính nhau, có lẽ vì thế mà thương nhau chăng. Cô Hiển ngoan đạo nhất trong họ, hình như khi có thai, bà nội giận ông nội mấy tháng liền, nên hay ra quỳ trước mặt Đức Mẹ. Lúc sinh cô ra, nét mặt cô phảng phất có vẻ gì giống bức tượng, ai cũng công nhận như thế.

Cô Hiển đã phản đối cuộc hôn nhân của Phúc nhưng rồi sau thấy cụ Lang anh mình giảng giải, cô mới tha thứ, một phần vì Nga chịu khó học kinh rửa tội. Cô xem đấy là một sự làm phước, vì mình đã dìu dắt được một linh hồn ra khỏi chốn u tối. Nếu sau này Nga được về nước Chúa thì dòng họ nhà mình cũng thêm phần đức độ.

Kỳ này thì Mai Hương tin chắc rằng cô Hiển sẽ phản đối, nhất là nếu Mai Hương trình bày tất cả những mối nguy hại cho cô nghe, những gì vừa đọc trong nhật ký của em gái.

Mai Hương nhất quyết cứu em ra khỏi vòng hỏa ngục, nàng định ăn cơm chiều xong sẽ sang gặp cô, nếu cần sẽ mang cả tập nhật ký đọc cho cô nghe, may ra cô sẽ sợ mà cố gắng hợp sức với mình.

Một cảm giác kỳ lạ khó chịu cứ theo ám ảnh Mai Hương từ nãy đến giờ mà Mai Hương nhất định không chịu thú nhận, đó là sự ghen tị với em khi biết rằng em có người để yêu. Vô lý thật, không còn gì vô lý hơn. Hương là chị, bao giờ nàng chẳng cầu xin cho em được hạnh phúc, nàng đã chẳng chơi họ để dành tiền cho mình với em sau này làm hồi môn lấy chồng đó sao? Nếu Vinh là người đồng đạo, xứng đáng thì nàng sẽ là người thứ nhất tán thành, giúp vào cho cuộc hôn nhân của em. Nhưng đằng này không phải thế, Mai Khanh đã đi trái lối, và bổn phận nàng là phải dìu em ra khỏi chốn hỏa ngục đang chờ.

Mai Hương nhắm mắt cố xua đuổi mọi ý nghĩ, nàng đi nhanh xuống bếp lo cắt công việc cho u già để ăn cơm xong còn sang nhà cô Hiển. Có tiếng gà gáy, Mai Hương giật mình lẩm bẩm:

- Chết thật, giờ này mà gà gáy, hay là...

Mai Hương chợt nhớ đến câu nói của u già, nàng không muốn tin rằng chuyện gì có thể xảy ra, nhưng ở dưới bếp u già đã nói to lên:

- Cô Hương ơi, gà lại gáy trái đấy nhé, mới có năm giờ...

Mai Hương muốn chạy đến bịt miệng u già, nàng có cảm tưởng như cả xóm đã nghe tiếng gà và đã nghĩ rằng gà gáy để kháo chuyện Mai Khanh, em gái của Mai Hương, con gái cụ lang Lộc. Con gà đang muốn mách cho cả xóm biết chuyện tình của hai người ấy.


**********************


Mai Khanh quỳ dưới chân tượng đức Mẹ thổn thức không biết từ bao lâu rồi. Từ độ yêu Vinh, nàng đã đốt rất nhiều đèn để cầu nguyện cho mối tình được trọn vẹn, tuy chính nàng cũng không biết làm thế nào để được trọn vẹn. Nhưng, lời cầu xin hình như không được chấp thuận, càng ngày Mai Khanh càng cảm thấy mình bị siết chặt trong cái gọng kìm quằn quại, khổ sở chưa tìm ra lối thoát. Vinh đi Huế đã mấy hôm, chàng hẹn sẽ đưa câu chuyện hai người ra thưa với mẹ nếu có hoàn cảnh thuận tiện, nếu không thì đành khất lần đợi ngày cha mẹ dọn vào Sài Gòn.

Cả Khanh và Vinh đều biết rằng câu chuyện của mình sẽ không bao giờ được hai gia đình chấp thuận, mặc dầu xét trên quan điểm con người, Khanh là một cô gái đủ điều kiện để làm vợ hiền, dâu thảo. Vinh cũng thế, trong xã hội Việt Nam hiện tại, kiếm được một người chồng như Vinh không phải dễ. Thế tại sao hai gia đình lại nhất định không chịu hiểu?

Đến người chị thân yêu nhất mà bây giờ cũng ở vào phe đối lập, suốt ngày hai chị em không nói chuyện với nhau. Sau hôm cãi nhau to tiếng, mỗi người vào phòng riêng đóng chặt cửa khóc một mình.

Mai Khanh giận chị sao lại mang nhật ký của nàng mách với cha, với cô, với họ hàng để kéo về hùa chống mình. Muốn gặp Vinh nhưng Vinh đã về Huế, mấy ngày Tết sắp đến mà buồn nặng nề, mặc dầu trong nhà vẫn sửa soạn ăn Tết đầy đủ chẳng kém gì mọi năm.

Từ cả tháng trước, Mai Hương đã lo đong nếp, đong đậu, đặt lá, lạt để sửa soạn gói bánh chưng, hùn với mấy người bà con mổ chung con lợn để kho thịt đông ăn ba ngày Tết, mặc dầu Sài Gòn nóng hừng hực nhưng đấy là những món ăn của quê hương, phong tục không thể không có. Dưa hành tự tay Mai Hương muối lấy, vì nàng khéo muối nên cả chục người bà con mang hành hoặc mang tiền đến nhờ muối hộ.

Không khí Tết vẫn sực nức mà sao nghe như có gì thê lương giả tạo. Ngày trước hai chị em tíu tít nào gọt quất, nào xăm gừng, gói bánh lớn bánh nhỏ. Bây giờ như hai người xa lạ, suốt ngày Mai Khanh ở trong phòng không ra nhà ngoài, chỉ trừ những khi cần thiết lắm. Kỵ nhất là xuống bếp gặp chị. Muốn đi học cho khuây lãng nhưng trường đóng cửa, Mai Khanh cũng không dám đến nhà Nhung sợ mọi người bảo đến tìm sự che chở, mà sự thật là thế. Chỉ có Nhung và Thùy Dương là theo cánh Mai Khanh, ông bà đốc Định cũng ngập ngừng không dám cho ý kiến sợ mất lòng cụ Lộc.

Ông Định giữ thái độ im lặng của những nhà ngoại giao khi gặp thế bí, bà Định đề nghị nếu Vinh chịu theo đạo thì nên gả, nhưng gia đình của Vinh lại không phải như gia đình của Hoàng.

Suốt ngày Mai Khanh chỉ mong chiều đến, lấy cớ đi nhà thờ để vào tìm sự yên tịnh trong ấy, dưới chân đức Mẹ. Nàng hay nhớ đến một câu nói của Vinh:

- Chỉ có một Thượng Đế, và Thượng Đế không bao giờ muốn sự chia rẽ.

Mai Khanh cũng ngờ ngợ như thế, lấy đâu ra mà có nhiều Thượng Đế với nhiều thiên đàng được.

Mai Khanh quỳ gục đầu trên cánh tay tựa vào thành ghế ở phía trước. Nàng vẫn chưa muốn trở ra, chưa muốn về nhà vội, chỉ những phút này tâm hồn mới thoải mái, bớt ray rứt.

Về nhà, mỗi một sự phải ăn cơm chung, phải nhìn mặt cha, mặt chị, là Mai Khanh đã thấy lo sợ, tuy chẳng ai nói gì. Cụ Lộc rất thương con nhưng lần này cụ không thể chấp nhận một thằng rể hoàn toàn đứng ra ngoài tôn giáo như thế. Nếu Vinh chịu theo đạo như lời đề nghị của bà Đốc thì may ra vì thương con, cụ sẽ tha thứ, nhưng gia đình Vinh cũng hệt như gia đình của Khanh. Chỉ khác nhau ở chỗ hai bức tượng thờ, một bên thờ Phật, một bên thờ Chúa. Giữa hai bức tượng ấy loài người đã xây lên một bức thành còn dày, còn vững hơn những bức thành biên giới của thời xưa để tránh tên đạn quân thù, còn chắc chắn hơn cả cái Vạn lý Trường Thành của vua nhà Tần thời xưa.

Khanh biết cha mình sẽ có thể chấp thuận với điều kiện ấy, nhưng nàng không dám mang ra nói với Vinh vì biết Vinh cũng hiểu rõ như thế. Vinh hiểu, Vinh rất yêu Khanh nhưng chẳng hề nghe Vinh đề cập đến, vì Vinh còn mẹ và rất thương mẹ.

Có một lần trong lúc đi chơi, Khanh đã từng nghe Vinh nói: “Kẻ nào còn tin được một sự gì là kẻ ấy may mắn.”

- Anh bảo như thế nghĩa là thế nào?

- Nghĩa là người còn có đức tin, còn tin được, là người may mắn.

- Thế anh không có đức tin à?

- Anh chỉ tin nơi mình, nơi đường lối ăn ở, nơi sức chịu đựng và sự cố gắng của mình.

- Anh không tin thì sự thay đổi tôn giáo đối với anh đâu phải là một chuyện quan trọng.

- Đối với anh không quan trọng nhưng đối với mẹ anh thì lại vô cùng quan trọng. Vả lại con người không bao giờ nên mang cái đầu mình đi cúi hết cửa này đến cửa khác nhiều quá.

- Anh bảo chỉ có một Thượng Đế thì sự ấy có quan hệ gì?

- Ấy chỉ vì có một Thượng Đế nên mới ngại, vì ở trên nhìn xuống ngài sẽ khinh, ngài khinh cái sự bất nhất của mình. Vả lại anh không muốn làm khổ mẹ anh.

Không cần Vinh nói, Khanh cũng hiểu rõ ý của Vinh và sự cương quyết của chàng. Nếu Khanh có yêu Vinh thì chính Khanh phải chịu tất cả, Vinh không đòi hỏi Khanh phải theo mình nhưng không bao giờ Vinh cho phép Khanh bắt buộc mình một sự gì.

“Anh không muốn làm khổ mẹ anh”, câu nói mỗi lần vang lại trong tai Khanh nghe như có một sự gì đang đổ vỡ.

Đấy chỉ là câu chuyện riêng của hai gia đình, ngoài ra vấn đề tôn giáo ngày nay còn liên quan đến chính trị. Khanh nghe rất nhiều những câu chuyện đàn áp bắt bớ, cậy quyền cậy thế. Người ta dùng tôn giáo để làm cái thang trèo lên con đường giàu sang danh vọng.

Khanh không tin rằng có thể xảy ra được những sự ấy, ngay cả trong sinh viên với nhau cũng có những sự phân chia. Họ họp nhau lại nói chuyện, nhưng thấy bóng Khanh đi qua thì câu chuyện ngừng bặt, làm như Khanh nghe được thì tất cả mọi người đều biết.

Sự chia rẽ càng trầm trọng bên ngoài thì bên trong gia đình của Khanh bầu không khí cũng càng căng thẳng. Mỗi khi Mai Hương đi đâu về, nghe được một tin gì thì nhắc cho cả nhà biết, cố ý làm ray rứt em gái, hình như người chị sung sướng khi thấy em bực tức mà không dám cãi lại.

Mai Khanh quỳ xuống cúi đầu làm dấu thánh giá một lần cuối khi ngoài trời chập choạng tối để rời khỏi nhà thờ, khi hồi chuông chiều trên nóc nhà thờ vừa dứt.

****************

Trang ơi, làm chi mà ở hoài trong phòng?

Nghe giọng mẹ gọi ngoài sân, Đoan Trang gấp quyển sách sau khi đã lấy cây bút chì kẹp vào trong làm dấu, rồi đứng dậy đi ra ngoài sân để thở, vì suốt từ trưa nàng đã ngồi mãi trong nhà, biết rằng mẹ gọi chỉ vì thế.

Sau hôm bà Hải mang lễ đến hỏi Trang cho Vinh, người con gái cảm thấy cuộc đời mình không còn là của mình nữa. Mặc dầu đã bảo với mẹ rằng hãy đợi Vinh về xem có hợp nhau không rồi sẽ tính, nhưng cảm tình sao lại vùn vụt kéo đến quá nhanh chóng. Một trạng thái khó hiểu, giá có nhà phân tâm học nào cho Trang đặt vấn đề ấy ra xem như thế nghĩa là sao. Tại sao cảm tình lại có thể đến trước khi gặp gỡ?

Đoan Trang nhớ lại hình ảnh Vinh chín năm về trước, ngày nàng mới lên chín, thường hay bị Vinh trêu, giọng của Vinh như còn ở bên tai:

- Lêu lêu, không biết may quần cho búp bê, bắt búp bê phải mặc áo đầm, lêu lêu!

Trang tức lắm, mỗi lần như thế Trang lại lấy kéo cắt vải của cái màn ra bắt mẹ dạy may quần, bị mẹ mắng cho, Trang khóc giận Vinh cả tuần lễ “ai biểu lêu lêu người ta”.

Thế mà chỉ còn có mấy ngày nữa thì Vinh sẽ ra Huế thăm gia đình và thăm Trang, nếu có thể thì sẽ ăn hỏi trước ngày Vinh vào Nam lại.

Bà Phủ Ninh, mẹ Trang, mấy hôm nay đang lo sửa soạn nhà cửa, gọi thợ đến sơn quét, bảo rằng để ăn Tết nhưng Trang biết rằng không phải với dụng ý ấy, mẹ muốn căn nhà phải xứng với ông rể tương lai.

Trang cố gắng hình dung ra Vinh, muốn biết Vinh ngày nay thay đổi thế nào mà chịu, không sao vẽ ra được. Trang cũng không dám nhờ mẹ đi mượn ảnh về xem. Ai lại thế, xấu hổ chết, người ta biết thì sẽ cười cho: con gái chừng ấy tuổi mà đã ngựa!

Mẹ bảo theo tấm ảnh của bà Hải vừa đưa cho xem thì Vinh cao lớn lắm, to con lắm, lịch sự, đẹp trai, có duyên, con mắt lẳng giống hệt ông Hải. Thế mà Trang cũng chịu, không thể tưởng tượng ra.

Mấy hôm nay Trang thấy mẹ vui vẻ, cười nói luôn, thỉnh thoảng lại đến ôm Trang vào lòng, nhìn con rất kiêu hãnh, sau đấy bà ngước mắt lên trời như nói gì với trời, chắc là cầu xin và cảm ơn.

- Bây giờ mạ có thể chết được rồi, ngó con lấy được người chồng xứng đáng, mẹ không tin rằng cậu ấy sẽ làm cho con phải khổ...

Lần nào Trang cũng chạy lại bịt miệng mẹ không cho nói.

Sân nhà vừa được rào lại, mấy cái giậu ngả vì mùa lụt vừa qua cũng được sửa chữa, cái giàn hoa trước cửa cũng mới sơn thêm một lớp sơn màu thẫm nâu, tất cả mọi vật đều sẵn sàng chia vui với người con gái. Cả đến cái giếng nước uống đằng sau cũng được đắp vá lại những chỗ thủng bằng xi măng mới.

Nhìn quanh sân không còn chỗ nào hư hỏng nữa, nếu Vinh tinh mắt, chàng sẽ cảm thấy ngay sự quan trọng của mình đối với gia đình này. Chắc hẳn nhà Vinh cũng thế, Trang không dám đến thăm vì xấu hổ, sợ người ta chê là đi làm dâu trước, nhưng nghe mẹ bảo rằng bà Hải lo sửa soạn trang hoàng từ trong nhà ra đến ngoài sân như đón một vị hoàng tử.

Trang nóng ruột trông cho chóng hết ngày hết đêm. Chẳng dám nói ra với ai, nhưng người con gái cảm thấy đêm ngày sao mà độ này dài dặc, dài bằng hai lệ thường. Tuy vậy, cũng có một vài lúc Trang chợt lo lắng, ngộ lỡ như Vinh gặp Trang mà không vừa ý thì chàng sẽ chê thế nào. Đời có ai biết trước được những gì sẽ xảy ra, khoa học còn nói đến những luồng điện, nếu hai luồng điện không hòa nhau được thì sao? Trang chỉ sợ Vinh chê mình chứ riêng Trang thì nhất quyết dầu cho Vinh có què quặt bệnh tật đến thế nào, Trang cũng sẽ thương như những người đàn bà phải yêu chồng, người chồng mà định mệnh đã dành cho mình.

Cảm tình quả thật là kỳ lạ, chỉ có mấy câu giao hẹn đơn sơ của hai bà mẹ với nhau mà Trang thấy đời mình từ nay được xem như một bông hoa có chủ, mình đã thuộc quyền sở hữu của Vinh.


******************
 

Cái gì chờ đợi hay không chờ đợi rồi cũng đến, Vinh quả là con người lý tưởng của Trang và có lẽ của rất nhiều cô gái khác. Trang không ngờ số mình lại may mắn như thế. Mẹ bảo đôi mắt Vinh lẳng, Trang không đồng ý, chỉ thấy trong đôi mắt ấy chứa chất một nét gì mênh mông. Có những lúc Trang tự bắt gặp mình rùng mình mỗi khi thấy Vinh đang nhìn. Đôi mắt hơi giống loại mắt người Ả-rập, âm u và thăm thẳm. Vinh nhìn Trang như muốn dò xét lẫn một chút thương xót, tại sao Trang lại đọc thấy những nét ấy trong cái nhìn của Vinh?

Bà Hải và bà Phủ Ninh cố ý rủ nhau ra xem vườn hái đậu để cho Trang với Vinh ngồi nói chuyện với nhau, cái giàn đậu vừa vặn đợi Vinh về nấu chè. Bà Hải bảo Vinh hay thích ăn chè đậu ngự ngày bé, và bà Phủ nhất định để dành cho ông rể tương lai.

Suốt buổi Trang nói rất ít, Vinh cũng không thuộc loại nói nhiều, hình như Vinh hơi có vẻ lo cho thời cuộc, linh cảm sẽ có một sự gì rồi sẽ xảy đến cho nước nhà.

Vinh vẫn gọi Trang là Trang như ngày trước, nhưng không xưng anh hoặc xưng “người ta” một cách kẻ cả như thuở ấy nữa. Ngày xưa Vinh hay có cái giọng người lớn “Trang đưa vải, kéo với kim chỉ tới, người ta dạy cho mà cắt quần lá nem”.

Bây giờ trong câu chuyện Vinh xưng bằng “tôi”, Trang hỏi Vinh có nhớ những câu nói xưa không?

- Thỉnh thoảng vẫn nhớ, nhưng tôi không tưởng tượng nổi cái sức lớn của Trang, ra đường gặp chắc tôi không dám chào, hèn chi mà thằng Hoàng hắn nói hoài.

Sự thật, nơi Trang mang rất nhiều mâu thuẫn, Trang vừa người lớn lại vừa trẻ con, đêm còn ngủ với mẹ.

Vinh định nhắc lại câu nói của Hoàng nhưng rồi nghĩ thế nào, Vinh không nhắc. Thấy Trang đang đọc dở quyển Les Affinifés électives của Goethe, Vinh hỏi thăm Trang thích Goethe sao?

- Em muốn tìm những nhà văn hào mô đặc biệt, những nhà văn hào mô mà phải có những gì khác người, khác với loại văn sĩ thường tình để xem những sự khác ấy nó ở đâu ra. Em còn nhiều sách phải đọc, phải học, nếu lấy thì giờ đi đọc loại sách vớ vẩn thì nguy quá!

- Nếu muốn tìm hiểu Goethe thì Trang nên đọc thêm quyển Wilheim Meister. Quyển này khó tiêu lắm, ngay ở xứ sở nhà ông ấy cũng không mấy người nuốt trôi. Lắm khi phải đọc lại hai, ba lần một trang mới thu nhận hết ý.

- Rứa hở anh, rứa thì mai em phải đi kiếm đọc, không biết hiệu sách ở Huế có đủ không. Chỉ mỗi một điểm đó làm cho em thèm khát mấy thành phố lớn, ngoài ra thì khó rủ được em ra khỏi xứ Huế ni lắm!

Vinh mỉm cười, chàng muốn bảo rằng Trang nói dóc, lấy chồng mà gặp ông chồng muốn đi, ông bảo một tiếng là phải làm va-li ngay.

- Nếu tìm đây không có thì hôm nào vô Sài Gòn tôi sẽ gởi ra cho.

Trang ngước nhìn Vinh tỏ ý cảm ơn, thấy Trang ngoan ngoãn hiền lành mà lại chịu khó đọc sách, Vinh có cảm tưởng, hay Trang là em gái của mình? Nếu Trang là em gái của Vinh thì sẽ đúng hơn.

- Em sợ em chưa đủ sức hiểu được những tư tưởng cao siêu ở trong mấy tác phẩm lớn quá, cũng như trong Les affinifés électives chẳng hạn, tại răng đứa con của bà nớ lại giống cả hai người, cả ông đại úy, cả cô Odile?

- Như rứa Goethe mới nói là hai lần ngoại tình vì trong khi cấu tạo đứa con thì người vợ đang đau khổ với ý nghĩ rằng mai kia sẽ mất ông bạn đại úy và đồng thời ông chồng cũng đang quay cuồng với hình ảnh cô Odile.

- Em chắc là do sự tưởng tượng của nhà văn chớ nghe có vẻ khó vững quá, phản khoa học anh hỉ.

- Cũng chưa biết được...

Câu chuyện của hai người chỉ quanh quẩn trong những tác phẩm sách vở mà không hề đề cập đến hiện tại. Quả thật Vinh xem Trang như em gái mình, có phải vì tâm hồn đã bị một người khác nắm giữ hay tại biết Trang từ thuở còn nhỏ, quen đùa nghịch xem như em bé nên cái cảm tưởng Trang là em gái không thể xóa được. Câu chuyện mà Trang vừa hỏi về đứa con trong tác phẩm của Goethe làm Vinh lại mỉm cười, biết đâu Trang chẳng là kết quả của một sự ngoại tình trong tư tưởng như thế, muốn mang câu chuyện ra nói nhưng Trang còn ngây thơ, chắc không chấp nhận những câu chuyện đùa ấy và cô nàng sẽ giận. Vinh cũng nhận rằng Hoàng nói đúng, Trang có thể là một địch thủ của Khanh nhưng tiếc rằng máy bay không đỗ ở sân Phú Bài trước. Sự quỷ quái của định mệnh là cố ý tạo những mẫu giống nhau đặt trên nẻo đời để trêu ghẹo.

Ở Trang có nhiều nét của Khanh, cả tinh thần lẫn vật chất, một vài khi nếu không tự kiểm soát thì Vinh sẽ ngỡ Trang chỉ là Khanh trá hình để đùa với Vinh, thử thách mình mà thôi, khác nhau ở giọng nói, người nói giọng Bắc, kẻ nói giọng Huế. Trang lại trẻ con hơn Khanh vì lúc nào cũng được mẹ nuôi như con cu cu, luôn luôn chạy theo đằng sau.

Cả hai cô gái đều có một khổ người thanh thanh, mái tóc dài, nói đến mái tóc thì cô nào cũng đòi cắt vì nóng cổ nóng lưng, mà sự thật thì cô nào cũng tiếc, không bao giờ dám cắt.

Trang sung sướng hơn Khanh, ít cô độc hơn và quan niệm về tôn giáo cũng nhẹ hơn, không sâu đậm khắc khảm vào đầu óc như Khanh. Vinh biết rằng Trang đặt rất nhiều tin tưởng vào mình, điểm này làm cho Vinh lo ngại. Giá Trang có vẻ đanh ác, hoặc ích kỷ hợm hĩnh tầm thường như nhiều người khác thì Vinh sẽ đối phó dễ dàng hơn. Sự tin tưởng của Trang là một thứ khí giới nguyên tử làm cho Vinh không dám tiến mạnh. Lúc ra đi, Vinh có ý định sẽ nói sự thật cho Trang nghe rằng mình đã có người yêu để cho Trang khỏi hy vọng mất công và có khi làm lỡ cuộc đời, biết đâu Trang sẽ gặp người hơn mình?

Nhưng những câu nói đã được xếp đặt sẵn đã biến đâu mất hết, Vinh cảm thấy mình không đủ can đảm làm khổ một lần ba người đàn bà, mẹ của mình, Trang với bà Phủ. Vinh đành chôn vùi cái ý định nói thẳng lúc ra đi, phó mặc cho thời gian trả lời và giải quyết hộ. Cũng như trước khi đến nhà Trang, Vinh cố ý đóng kịch làm sao cho có vẻ dễ ghét, tự phụ, ác độc, thế mà khi thấy Trang thơ ngây và chân thật quá, Vinh lại không nỡ và cũng dẹp luôn vai kịch của mình.

Chỉ còn một cách là về nói với mẹ xin hoãn binh, Trang còn bé quá, để cho Trang học hành xong, đời bây giờ cái bằng cấp tú tài không đủ làm việc. Một lý do nữa thúc đẩy Vinh giữ im lặng là vì sợ mẹ buồn trong ba ngày Tết. Vinh tự hẹn sẽ nói với mẹ vào độ nghỉ hè cho Trang thi cử xong khỏi buồn, có thể lúc ấy Vinh sẽ thân với Trang hơn, sẽ tỏ cho Trang biết rằng ở giữa hai người chỉ có thể có tình anh em, và biết đâu Trang chẳng là em gái tinh thần của Vinh. Một năm qua thế nào Trang cũng sẽ khôn ngoan hơn, hiểu đời hơn, và người như Trang thì Vinh biết rằng sẽ có những quan niệm rộng rãi hơn chứ không gò bó như những cô gái khác.

Vinh đã tội nghiệp bà Phủ Ninh, tội nghiệp mẹ và tội nghiệp luôn cả Trang, đó là một điểm yếu đuối của thằng con trai suốt đời được sống trong sự nuông chiều.

Lạ nhất là Vinh có cảm tưởng đang tìm thấy ở Trang một chút hình ảnh của chính mình. Vinh tự hỏi sao cô bé còn ít tuổi mà lại có những lập luận giống mình, một thằng con trai đã gần nửa đời người. Vinh đã tinh nghịch hỏi:

- Ai dạy cho Trang mà biết những ý nghĩ già dặn quá vậy?

Trang nhìn Vinh bĩu môi:

- Đó, anh lại coi Trang như con nít, không ai dạy cho Trang cả, tại Trang thấy đời ngắn mà sự hiểu biết quá rộng nên Trang phải tìm một lối đi cho vừa mau vừa ít mất thì giờ.

- Sống ở Huế mà cũng biết chạy theo cái đồng hồ sao?

- Anh dễ ghét, Trang không nói chuyện với anh nữa, chỉ có người Sài Gòn như anh mới biết quý thì giờ hả?

- Nhất định rồi, Sài Gòn của người ta rộng rãi xa hoa, Huế buồn như trang tiểu thuyết của...

- Em không chịu anh nói xấu xứ Huế của em mô...

- Chưa chi mà đã có óc địa phương tính, rứa mà đòi làm người lớn chi? Những kẻ chỉ nhắm mắt mở mắt biết mỗi một quê hương mình là những kẻ tư tưởng táo bón, cần phải được uống thuốc xổ...

- Anh Vinh dễ ghét, em...

- Ra méc mạ phải không, mới lúc nãy nói chuyện văn hào đặc biệt mà chừ đòi ra méc mạ, mắc cỡ, rứa mà khoe mình là người lớn...

- Mà em đã méc chưa?

Cãi lại Vinh trong lòng Trang cảm thấy vui thích vì biết Vinh vẫn xem mình như em gái, tin rằng cái tình gì cũng có ngày tan biến nhưng tình anh em chắc sẽ còn mãi. Sau này Trang sẽ ở mãi cái địa vị ấy, thêm vào cái địa vị làm vợ và làm mẹ của mấy đứa con. Trang rất thích có nhiều con, nếu không sợ Vinh cười thì Trang sẽ kể lể với Vinh sự ấy. Hiện giờ thì Trang còn muốn xin Vinh cho mình học thêm để xứng đáng với Vinh hơn, sợ Vinh giỏi quá mà mình chưa biết gì nhiều thì Vinh cứ phải hạ thấp xuống để nói chuyện búp bê với mình, tội nghiệp cho Vinh.

Từ giã Trang về, Vinh băn khoăn, chưa biết phải nói thế nào với gia đình mình, với gia đình Trang. Vinh hối hận sao ban nãy gặp Trang Vinh chẳng có thái độ nào cho dứt khoát với người con gái ấy để bây giờ khỏi thắc mắc. Nhưng Vinh quên nghĩ rằng ngoài Trang ra Vinh còn có mẹ, đâu phải chỉ mình hai đứa với nhau mà muốn tính sao thì tính.

*****************
 

Hai mẹ con chậm rãi đi bên nhau, đường không xa nên bà Hải muốn đi bộ, có thằng con trai út đi kèm bà không thấy mệt mỏi, dầu phải đi cả chục cây số mà có Vinh theo chắc người mẹ cũng dám đi.

- Răng? Con thấy mạ nói đúng không, có phải con Trang dễ thương không? Hơn mấy đứa khác từ trước tới chừ mạ biết đó, con bằng lòng chưa?

Vinh cúi đầu đi bên mẹ, nhìn những hạt bụi nhỏ bay phủ mờ cái mũi giày bóng loáng của mình, ngập ngừng chưa biết có nên thú thật với mẹ bây giờ hay không bao giờ nữa cả. Vinh không trả lời, bà Hải ngỡ rằng con có chuyện gì bất mãn, bà thắc mắc hỏi lại:

- Con thấy hắn có chi đáng chê nữa?

Vinh giật mình, câu hỏi với giọng thắc mắc của mẹ như có một sức mạnh kéo Vinh về với thực tế. Vinh hết dám suy nghĩ lâu hơn.

- Được, tính nết coi bộ cũng dễ thương nhưng còn nhỏ quá, con thấy nên để cô ta học thêm vài năm nữa, mới mười tám tuổi biết chi mà lấy chồng, về nhà nhõng nhẽo cả ngày mạ chịu chi nổi!

Bà Hải mừng rỡ nghe con nói, bà cũng không có ý định giục con phải cưới vợ làm gì cho gấp, năm nay hay qua năm sau cũng còn kịp, miễn là Vinh bằng lòng để cho bà yên trí khỏi lo. Vì con trai hay con gái sống độc thân, thế nào cũng có những sự dòm ngó cám dỗ. Bà chỉ sợ Vinh gặp phải một cô gái không có lòng, không biết thương yêu, rồi sau này cuộc đời sẽ khổ sở lận đận.

“Đời văn minh răng mà thấy nhiều sự lạ lùng quá”, đấy là một câu mà người đàn bà vẫn hay thắc mắc tự nói lên với mình khi gặp chuyện gì không hiểu nổi. Ngày xưa bà vẫn cho rằng mình đã là quá cấp tiến văn minh lắm rồi, chồng chết mà dám bước thêm bước nữa, dám yêu ông Hải. Nhưng bây giờ thì còn có bao nhiêu chuyện khác quái lạ trầm trọng hơn vẫn xảy ra mỗi ngày. Vì lo sợ nên bà mới phải đi kén vợ cho con trai, để một mình Vinh bà tin rằng con bà khó tự tìm thấy hạnh phúc.

Có Vinh về, nhà vui như những ngày đại hội, hôm nào bà Hải cũng dậy sớm hơn, lo xuống bếp làm thức ăn, từ sáng đến khuya hết dọn mâm này đến mâm khác. Tất cả những món gì mà từ thuở bé Vinh hay ăn đều thấy chất đầy mâm đầy bàn.

Ông Hải bắt Vinh ngồi hàng buổi bên mình để nói chuyện, ông có cảm tưởng vừa tìm được một người bạn ở nơi thằng con trai, Vinh giống cha hệt như ngày trẻ. Lắm khi ông Hải nhìn con, nói chuyện với con mà ngờ như đang nói chuyện với mình ở trước gương, cả tinh thần lẫn vật chất, ý nghĩ làm cho ông vui vẻ và sung sướng. Ít nhất ông cũng có thể tự hào rằng đã góp phần để lại được cho đời một tác phẩm. Nếu trong hơn ba chục năm trời làm việc với ý định xây dựng quê hương mà ngày nay chỉ còn lại như một con số không thì ông ước mong rằng con trai sẽ thay mình làm được một việc gì ích lợi hơn, danh tiếng cho dòng họ hơn chăng?

Nhận thấy cha có vẻ cởi mở, mấy lần Vinh định mang câu chuyện riêng của mình ra bàn bạc với cha, nhờ cha giải quyết hộ nhưng vẫn ngập ngừng. Cha biết thì mẹ sẽ biết, mà mẹ biết thì sẽ tan hoang ra tất cả. Thấy cha có vẻ nâng niu cuộc sống tinh thần của mẹ làm Vinh cảm động nhưng lại buồn ở chỗ rằng như thế tức là mình sẽ phải nhường bước.

- Cậu nghĩ lại, cậu với mạ hệt như hai kẻ bộ hành trong sa mạc, tất cả mọi người đều bỏ cuộc, chính mình cũng vì sợ nặng nề, yếu sức, mà phải vứt bỏ bao nhiêu hành trang. Hiện thời cậu chỉ còn có một mình mạ con là kẻ đã chứng kiến tất cả những chuyện vui buồn từ thuở mô, hình như cả từ kiếp trước...

Giọng ông Hải trầm trầm như giọng của người xưng tội biết rằng mình có nhiều tội lỗi. Ông tiếp theo:

- Nhiều khi cậu làm cho mạ con buồn, mình là đàn ông hay có những đòi hỏi ích kỷ, muốn chi là bắt phải chiều theo, không hề nghĩ đến chung quanh mình có làm ai đau khổ... Rứa mà mạ con tha thứ hết, không khi mô nghe một lần oán trách cả. Sống không còn mấy năm nữa... chừ cậu sám hối, tránh hết những chuyện có thể làm trái ý mạ con...

Lời tâm sự của cha như những nhát búa đóng chặt thêm mấy cái đinh vào trong nắp thùng gỗ, Vinh thấy mất hết can đảm. Ông Hải vô tình mà như cố ý, ông khen Vinh đã ăn ở xứng đáng với tình của mẹ dành cho và mong rằng cứ được như thế mãi.

Vinh cảm thấy nhột nhạt khi nghe cha nói những câu ấy, thằng con trai chỉ muốn gào to lên, kể hết sự thật cho cha nghe, nhưng cái phút giây can đảm ấy không đến, và chắc không bao giờ còn đến nữa.

Cả nhà giành nhau để được nói chuyện với Vinh, đi chơi với Vinh. Bà con xa gần đến thăm từ sáng tới chiều không lúc nào ngớt. Vinh đi vắng nhà, họ bằng lòng đợi cho đến lúc Vinh về. Thằng Minh và thằng Thi đêm nào cũng đòi ngủ với anh, bắt anh kể chuyện bên Tây cho chúng nghe. Hai thằng em tỏ vẻ quý cô chị dâu tương lai, khen mãi làm cho Vinh phát sốt ruột, Vinh phải hỏi:

- Cô Trang cho tụi bây ăn mấy chục gói kẹo mà tụi bây khen dữ rứa?

Cả hai đứa giận lắm, nhất dịnh cãi là không ăn hối lộ của ai cả, tại thấy cô ấy dễ thương, xứng đáng làm chị dâu.

- Răng là xứng đáng làm chị dâu, tụi bay nói anh Vinh nghe coi?

Minh và Thi tranh nhau trả lời, chúng nó lớn cả rồi, không còn bé dại như trước, như ngày Vinh sắp lìa quê hương.

- Xứng đáng làm chị dâu nghĩa là dễ thương, không đanh ác, sau ni không bắt nhốt anh mình vô buồng mà hành hạ riêng, không cho anh em người ta đi chơi với nhau.

- Rồi, đó là ý của Minh, chừ tới phiên Thi phát biểu ý kiến cho anh Vinh nghe.

- Xứng đáng làm chị dâu là không có vẻ keo kiệt, khi mô lỡ như mình có đói bụng tới chị không đuổi.

Vinh nhìn hai thằng em, kể ra chúng nó cũng đã biết xét người, chính Vinh cũng nhận thấy ở Đoan Trang có những nét rộng lượng, từ tâm. Câu chuyện nới với cha, với mẹ, với các em chỉ làm cho Vinh càng thêm thắc mắc khó xử.

Vừa qua mồng sáu Tết, Vinh vội trở vào Sài Gòn, nghỉ phép như thế đã lâu lắm rồi. Cả nhà đi tiễn, không ai buồn như ngày tiễn Vinh đi Pháp, vì Sài Gòn rất gần chứ đâu có xa xôi như xứ Pháp. Chỉ hơn có hai tiếng đồng hồ máy bay, nếu không đi máy bay thì có thể đi xe, đường bộ tha hồ nhìn được bao nhiêu phong cảnh. Vinh hẹn đến nghỉ hè, nếu gia đình không dọn vô Sài Gòn thì Vinh sẽ ra ở hai tháng. Chỉ cần một lời hẹn ấy nghe là đủ mát ruột rồi, bà Hải không mong gì hơn. Với Trang, hôm cuối cùng hai người gặp nhau, Vinh chỉ biết khuyên Trang nên cố học cho xong ban tú tài, cô gái cũng thích như thế.

Trang hoàn toàn tin tưởng vào Vinh, từ thuở bé chưa bao giờ bị một sự va chạm nào với thực tế, với những sự lọc lừa. Trang không hề nghĩ rằng mình sẽ khổ, nhất là khổ vì Vinh, người con trai mà nàng đã xem như anh từ độ bé tí, hai gia đình đi lại thân mật với nhau. Trang muốn tập thêm công việc nhà cửa để ngày nào về với Vinh, Trang sẽ xứng đáng với lòng mong đợi của bà Hải, của Vinh. Hơn nữa Trang cũng chưa muốn xa mẹ một cách vội vàng, Trang không lo sợ mất chồng, mất vị hôn phu như những cô gái khác.

Theo Vinh thì đây chỉ là một đường lối hoãn binh trong khi chờ có giải pháp khác, tránh cho mẹ sự buồn phiền ngày nào hay ngày ấy. Biết rằng như thế là hèn, là yếu đuối, nhưng Vinh chẳng còn cách nào hơn.

***************

Lần này đón Vinh có thêm hai thiếu nữ cùng với gia đình bà Thiện. Khanh gầy đi vì lo lắng. Trước Tết hai người hẹn nhau sẽ liều lĩnh tranh đấu với gia đình nhưng rốt cuộc chẳng ai tiến hơn được bước nào.

- Anh đã nói gì với mẹ chưa?

- Anh chẳng nói gì được cả, cứ để thế này mình sẽ nuôi cái ảo tưởng rằng mọi sự rồi sẽ được giải quyết êm đẹp, anh sợ cái phản ứng của mạ, nhất là trong mấy ngày Tết, đời mạ không còn lâu dài nữa.

Cố nhiên là Vinh vẫn chưa dám nói câu chuyện ở nhà định đi hỏi vợ cho mình, sợ Khanh khổ thêm, Vinh tự thấy mình càng ngày càng đâm ra sở khanh như có lần Nam Trân đã gán cho, đối với Trang không dám nói sự thật, với Khanh cũng phải giấu giếm. Liệu người ngoài có ai hiểu cho không?

- Mấy hôm không có anh, em phải đi nhà thờ mỗi ngày 2 lần.

- Đi làm chi mà nhiều quá vậy?

Câu hỏi của Vinh làm Khanh cau mày, đáng lẽ Vinh phải khen, đấy là những điểm bất đồng của hai kẻ khác đạo, một người đồng đạo sẽ có phản ứng khác. Khanh buồn buồn trả lời:

- Em muốn đi tu, có lẽ đấy cũng là một giải pháp, trong gia đình em bây giờ ngạt thở lắm. Chị Hương và cô của em nhất định phản đối tới cùng, dẫu anh có theo đạo cũng chưa chắc đã chịu.

- Khanh về bảo với chị Hương đừng khó tính lắm, tụi con trai nó nghe tiếng đồn gần xa, nó sẽ chạy trốn hết, ngồi đấy chờ hoài chẳng có thằng nào dám nộp đơn.

Câu này Vinh nói to làm cho cả Hoàng và Nhung bật cười, chỉ có Khanh là hơi bất mãn. Khanh không muốn ai nói đến sự cô độc của người chị mà dầu sao Khanh cũng vẫn thương. Ở Khanh đang có những mâu thuẫn dồn dập, chính Khanh cũng không thể nào hiểu nổi, những sự mâu thuẫn ấy đã như những ngọn roi cứ quất vào tâm hồn mà người cầm roi lại chính là Khanh.

Nhìn ra sân bay, Vinh chợt nảy ra một ý nghĩ liều lĩnh khi thấy chiếc máy bay vừa cất cánh sau khi đã nuốt hàng trăm hành khách đưa sang Hoa Kỳ. Hay là Vinh liều lĩnh đưa Khanh ra ngoại quốc sống một thời gian, trong khi ấy Trang sẽ lớn khôn hơn và có thể hiểu đời, dễ giảng giải hơn. Đối với gia đình thì đứng trước một sự đã xong chắc sức phản ứng sẽ kém dữ dội. Vinh và Khanh chậm rãi đi theo mọi người ra xe xếp hành trang. Vinh đặt ngay câu hỏi:

- Khanh có thể bỏ tất cả để ra sống ở ngoại quốc với anh không?

Khanh ngơ ngác không dám tin cái ý nghĩ táo bạo ấy, nhìn Vinh như muốn bắt chàng nhắc lại một lần nữa, tưởng rằng mình đã nghe nhầm.

- Anh bảo sao? Tại sao anh lại có thể nghĩ như thế? Chắc em không dám đâu. Chúng ta phải cưới nhau rồi mới có thể sống không tội lỗi, nếu không có phép hôn phối mà sống liều thì suốt đời chỉ có đi nhà thờ xưng tội. Hơn nữa còn thầy em, mẹ em, ở ngoài kia còn họ hàng nhà em.

Vinh cũng đoán trước là Khanh sẽ từ chối, rất yêu Vinh nhưng nàng lại có một quan niệm quá vững chắc về gia đình và hôn nhân, do giáo dục từ thuở bé. Vinh không muốn biến mình thành một thứ quỷ sa tăng để cám dỗ người con gái tinh khiết, ngoan ngoãn ấy. Nhưng đến đây thì Vinh cảm thấy mình bị bế tắc, không còn lối thoát nào nữa cả.

Sài Gòn vẫn xa hoa, vẫn ăn chơi, những buổi lễ dạ hội vẫn được tổ chức rất vĩ đại mặc dầu không khí như có thứ hơi ngạt chen lẫn vào, khó thở.

Tình hình chính trị mỗi ngày một ngột ngạt, có những sự bắt bớ mất tích một vô lý mà chẳng ai dám nói ra. Chung quanh hình như lúc nào cũng có người rình rập nghe ngóng, người ta nghi ngờ lẫn nhau, sợ hãi nhau. Cả những người bị bắt được thả ra cũng không dám tả lại những gì mình đã bị chứng kiến, những sự tra tấn giam cầm. Họ chỉ nói rằng đi làm việc ở xa, nếu sự thật khó giấu giếm thì phải ca ngợi sự khoan hồng để khỏi bị tai vạ.

Trước tình trạng nước nhà như thế, câu chuyện tình cảm riêng tư đâm ra bé nhỏ, mặc dầu vạn vật đều có những mối tương quan không thể chối cãi.

Chàng sinh viên ngây thơ dại đột sẵn sàng tin tưởng vào cuộc đời ngày mới về xứ bây giờ không còn nữa. Hình ảnh cậu Vinh ngơ ngác khi bước chân xuống sân bay đã biến mất, nhường chỗ cho một chàng trai ưu tư, khắc khoải, không phải chỉ vì tình yêu thôi, mà còn vì quê hương đất nước. Vinh cảm thấy mình như kẻ muốn đưa tay ra với lấy một cái gì không xa lắm, nhưng cả tay chân đều bị trói chặt, đành chỉ biết giương mắt nhìn bực tức mà thôi.

Sau tám năm trời sống ở ngoại quốc để rồi trở về nhìn lại quê hương, thấy quê hương có đủ tất cả mọi yếu tố để tiến rất xa, thế mà tại sao như bị những sức mạnh từ đâu đến cản trở. Những sự kiện đã xảy ra ở các nước Âu Mỹ cách đây từ một hai trăm năm trước đang chen chúc với những sự kiện khác nhuốm đầy chất văn minh nguyên tử hỗn hợp lại thành một sức mâu thuẫn kỳ lạ.

Những rạn nứt trong lòng người, những ý nghĩ phân chia Bắc Nam, tôn giáo của một nhóm người thiển cận không chịu nhìn sự ích lợi chung, đặt cá nhân lên trên quốc gia, những sự ấy nếu không được cứu vãn kịp thời thì sẽ là những nhát cuốc đào hố để chôn vùi quê hương, đưa đất nước chóng đến chỗ diệt vong nhất.

Thời thượng cổ khi trong nước có sóng gió, vua sai quan đi gặp thầy bói để hỏi thăm, mong tìm ra nguyên nhân để cứu chữa, cầu xin một sự che chở. Những sự tin tưởng chất phác nhưng đầy tính chất xây dựng ấy ngày nay cũng không còn, chỉ còn lại sự nghi kỵ, sống không có ngày mai, sống cho thỏa thích con người của mình hôm nay, còn ngoài ra ai sao thì mặc họ.

Trong nước được chia ra làm ba lớp người. Lớp thống trị thứ nhất dùng đủ mọi cách để giữ vững tài sản địa vị của mình, lớp người này như một chiếc bánh thiu nếu không muốn dùng những hình ảnh khác bẩn thỉu hơn. Chiếc bánh thiu ngày đêm đang bị lũ nhặng bao vây mong kiếm chút hơi hướng, đấy là những kẻ chuyên sống bằng hành vi xu nịnh, sẵn sàng cúi mình làm tất cả mọi hành động gì để lớp người trên được vui lòng.

Tầng lớp thứ hai là của những kẻ bị trị, uất ức mà không dám hé răng, còn một chút liêm sỉ không chịu biến thành một lũ nhặng bâu chung quanh cái bánh thiu, đành chịu cho người chà đạp, hy vọng vào những điềm linh ứng, những lời cầu nguyện gửi nhắn vào tai thần thánh nhưng chẳng biết bao giờ thần thánh chịu nghe cho.

Lớp người thứ ba tuy cũng có chức vị, tuy không đến nỗi bị bạc đãi nhưng không chấp nhận sự lợi dụng đàn áp, ngấm ngầm đau khổ, muốn tìm cách ngăn chận nhưng lại sợ cái áp lực của lớp thứ nhất với lũ nhặng bám chung quanh đang tìm đủ mọi cách để tấn công.

Cả ba lớp người như cây đèn kéo quân trung thu, chạy vòng quanh đuổi bắt nhau, chẳng ai đuổi ai ra khỏi cây đèn, và cây đèn vẫn quay không ngừng.

Vinh tự cảm thấy mình vô dụng, thuộc vào lớp người thứ ba, nhìn rõ mà chịu chết, không biết làm gì nếu không muốn tự nộp mình vào trại giam Côn Đảo. Những sự kiện bắt Vinh phải quên bớt con người của mình mặc dầu yêu Khanh, vẫn thỉnh thoảng có ý nghĩ bắt chước Phúc làm cái hành động phá bức thành biên giới đã ngăn chắn rất nhiều người một cách vô nghĩa. Nhưng làm sao phá được khi chỉ có mỗi một mình. Khanh không chịu giúp sức và sau lưng Vinh còn có những tiếng thở dài, những giọt nước mắt của người mẹ.

Những lúc này chỉ có Hoàng là người thân nhất để Vinh có thể tâm sự, tâm sự mà không sợ bị phê bình, bị chỉ trích hoặc đi khai báo với người khác.

- Tức quá Hoàng nhỉ, ở vào thế kỷ này rồi mà còn gặp những cái hàng rào tư tưởng ngăn cách...

- Ngu nhất là không phải chỉ có riêng hai gia đình, mà chính là cả cậu lẫn Khanh đều tự làm khổ lấy mình.

- Cũng có thể...

Vinh trả lời lơ lửng vì không chịu nhận hẳn phần lỗi về mình, tự cho mình là phóng khoáng, cởi mở hơn nhiều người khác.

- Còn chi nữa, cậu không chịu nhận, cậu thử nhìn lại coi, Khanh bắt cậu phải theo đạo mới được cưới, mặc dầu yêu đến xanh xao gầy còm, bỏ cả ăn cả học. Cậu thì không chịu theo đạo để cưới Khanh, bức thành này là hai người xây lên chứ chẳng có ai vô đó cả.

- Hoàng nói vô lý, nếu không có bà ngoại...

- Thôi đi cậu, bà ngoại chỉ là một trong mấy lý do mà thôi, không có bà ngoại Hoàng cũng chưa chắc cậu đã chịu theo đạo. Khanh đã có lần phàn nàn với Nhung rằng cậu bảo không đưa cái đầu đi cúi hết cửa này đến cửa khác...

- Xin lỗi đi, cậu có bao giờ đề nghị Khanh bỏ đạo của mình chưa?

Vinh không đồng ý với Hoàng. Theo Vinh thì bức tường đã xây lên từ hàng trăm năm trước, mới được bồi đắp thêm vào mấy năm sau này, chưa biết rõ là bàn tay nào thúc đẩy. Bức thành không phải do Khanh và nhất là không do Vinh.

Thấy cãi nhau mãi, nói chuyện chính trị mãi mà chẳng đi đến đâu, chẳng đưa đến một giải pháp gì mới, hai cậu cháu rủ nhau ra nhà hàng Pagode ngồi nhìn những tà áo màu tha thướt.

Về xứ từ hơn một năm rồi mà Vinh vẫn chưa hết say mê chiếc áo dài của các cô gái Việt. Lắm khi Vinh tự bắt gặp mình nhìn các cô như ngày ở Pháp hay ra mấy quán cà phê ngồi nhìn cái thiếu nữ ngoại quốc.

Cũng có những cảm giác thích thú ngạc nhiên, những cái nhìn chấm thi cho điểm, nhận xét soi mói, không phải như người vẫn nhìn những cái gì quen thuộc thường xuyên. Có những màu sắc lắm khi chói chang, khó chấp nhận trên người một cô gái Âu, thế mà lúc may vào chiếc áo dài lại thành ra nhịp nhàng vui mắt, tha thứ được cả. Vinh vẫn phàn nàn với Hoàng rằng các cô gái Á Châu ngày nay đã rời bỏ dần bộ quốc phục để mặc theo cái lối Âu, mong trình bày bộ đùi, bộ ngực xinh đẹp. Tiếc rằng lắm khi cái thân hình của các cô lại không phải sinh ra để mặc những thứ ấy, nhất là trong những buổi lễ hội. Ngoại trừ một số cô may mắn lắm mới có được tấm thân cân đối, còn thì phải nhờ đến sự dung túng che chở của chiếc áo dài và chiếc quần phủ gót, cũng như các cô gái Nhật Bản phải nhờ đến cái kimono.

- Hoàng xin không đồng ý với cậu ở điểm này. Theo Hoàng thì cô nào có bộ đùi không ống sậy, không độc bình, dáng dấp nhanh nhẹn, không ẻo lả, nghĩa là cô nào mặc được thì phải để cho người ta mặc. Chiếc áo dài Việt Nam đã đồng lõa cho sự lười biếng, khi đã giấu giếm được thì các cô sẽ thả trôi, không lo tập tành sửa chữa nữa.

Cãi nhau mãi, không ai làm thay đổi lập trường của ai, nhưng cả hai đều công nhận rằng Vinh bị cái méo mó của những kẻ sống lâu ở nước ngoài. Lúc trở về quê hương cũng cẫn còn có cảm tưởng mình là một thứ du khách, chỉ thích những gì đặc biệt thuần túy của cái xứ mình đến viếng.

****************
 

Mai Hương ngạc nhiên thấy em gái hình như mấy tuần nay có vẻ bớt buồn, ăn ngủ bình thường, không hốc hác như trước. Mai Hương nghĩ rằng chắc có sự gì đã xảy ra, hoặc là hai người này đang trù tính một chương trình ghê gớm trái với luân thường đạo lý, hoặc trái với gia đình, chứ không lý do nào mà họ có thể thay đổi nhanh chóng như thế.

Cố sức dò la nhưng chẳng biết gì hơn, Mai Hương không hiểu rằng mối tình nào cũng chia ra nhiều giai đoạn. Sau giai đoạn cuồng nhiệt ban đầu thì đến một giai đoạn trầm lặng hơn, hoặc để tìm lối thoát hoặc để hiểu nhau hơn, sửa soạn đi đến cuộc xây dựng lâu dài trong tương lai. Vinh và Mai Khanh đã thảo luận nhiều lần với nhau và cùng đồng ý nên để cho thời gian giúp thêm sức vào, và thời gian vẫn đưa đến cho người rất nhiều giải pháp hữu hiệu. Hiện giờ cả hai cùng có cảm tưởng rằng mình như một con vật đang bị trói chặt, càng vùng vẫy thì cái dây trói lại càng cứa vào da thịt làm cho đau đớn hơn.

Vinh cũng không bằng lòng khi thấy Mai Khanh đã quá hành hạ thể xác của chính mình bằng cách mỗi ngày đi nhà thờ cầu nguyện hàng giờ ở dưới sàn đá cho chai trầy đầu gối, ăn ngủ sút kém, không chịu uống thuốc tẩm bổ.

Vinh bắt buộc Khanh phải hứa với mình là đổi thái độ, nếu không Vinh sẽ giận. Khanh chiều ý người yêu và cảm thấy cuộc sống có phần dễ chịu, đỡ u uất hơn. Do đó làm cho Mai Hương, vì bản tính chất phác hay tin nhảm nhí theo u già nên đâm ra lo ngại, nàng nhất định hỏi thẳng em gái:

- Độ này cậu Hoàng đi đâu chẳng thấy lại chơi?

Nghe chị hỏi thăm Hoàng, Khanh ngước mắt nhìn lên chị hơi thắc mắc:

- Anh ấy ở nhà, chẳng đi đâu cả, chắc bận học vì sắp thi đến nơi.

- Còn cậu Vinh?

Nghe chị nhắc đến tên Vinh, Khanh hơi mỉm cười đỏ mặt không trả lời, giả vờ quay nhìn ra mấy gốc hồng vừa đơm bông định khen lấp đi, nhưng Mai Hương khôn hơn, nàng hỏi tiếp ngay:

- Bộ cậu ấy về Huế kiếm được vợ rồi sao không thấy nói gì cả?

- Ai bảo với chị thế, anh Vinh vào đây từ mồng sáu Tết.

Khanh kiêu hãnh trả lời, nàng không ngờ hôm nay bị chị tấn công như thế, đúng là cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.

- Đoán thế, thấy Khanh có vẻ bình tĩnh mà cậu ấy cũng không tìm cách nhờ cô Nhung với cậu Hoàng đến thậm thọt làm chim xanh chim đỏ.

- Chẳng có ai làm chim xanh chim đỏ gì cả, chị đừng bảo thế.

Mai Hương bỗng như vừa tìm được một lời giảng giải cho bài tính của mình, nàng sẽ làm đủ mọi cách để gieo vào lòng em gái cái ý nghĩ Vinh sắp có vợ, một mặt khác sẽ làm thế nào nhắn cho bà Hải biết cuộc tình duyên lén lút của con bà đang làm khổ gia đình mình.

Tuy nghĩ lại cũng hơi tội nghiệp em gái, biết Mai Khanh sẽ buồn, sẽ khổ sở nhưng cứ để cho tình trạng này kéo dài thì chắc rồi sẽ xảy ra nhiều chuyện lôi thôi phiền phức khác. Mai Hương và cô Hiển đã bàn bạc kỹ với nhau, nếu không mở một cuộc tấn công rất mạnh thì khó mà cứu được Mai Khanh. Thà cho chịu đựng một trận rồi hết, cũng như những người bệnh mà phải dùng đến phương pháp mổ xẻ đau đớn mới chữa khỏi. Cô Hiển bàn nên gả chồng cho Khanh là xong. Mai Hương tuy không đồng ý nhưng cũng đành chịu vậy.

- Cô xem có đám nào, cô đánh tiếng hộ nhé.

- Khối, để đấy tao liệu cho!

Cô Hiển nói bằng một giọng chắc nịch, từ trước đến nay cô đã từng làm mai cho nhiều đám mà đám nào cũng ăn chắc. Mai Khanh cháu cô lại vừa xinh, vừa có học thức, trong họ đều biết tiếng, muốn gì chứ muốn chồng là có ngay.

Đừng nghĩ rằng Mai Hương ác với em gái, trái lại chính nàng cũng khổ sở rất nhiều. Biết bao nhiêu lần người chị đã phải vào nhà thờ để đốt đèn cầu nguyện. Ai đứng gần bên lắng nghe sẽ nhận thấy giọng người chị rất chân thành tha thiết: “Lạy Chúa phù hộ cho em con bớt mê muội, khỏi sa vào vòng tội lỗi.”

Chúa ở trên trời nghe lời cầu xin của cả hai chị em, cô nào cũng chân thành, cô nào cũng đau khổ, Chúa sẽ khó xử chẳng biết nên giúp bên nào.

Mai Hương đã cầu xin với tất cả tấm lòng thành khẩn của một người chị thương em, một kẻ có trách nhiệm bảo vệ gia đình mà gia đình đang gặp cơn khốn khổ. Như kẻ giữ ngôi nhà, thấy ngôi nhà bị gió bão lay dọa, tất nhiên phải lo đi tìm dây, tìm cột để chống đỡ chứ ai có thể ngồi đấy mà nhìn suông. Xin mọi người đừng trách Mai Hương.

Trông thấy em gái mỗi ngày một gầy, những ý nghĩ hờn tủi ban đầu đã hết, chỉ còn lại lòng thương chân thật mà thôi. Càng thương em gái, Mai Hương lại càng oán ghét Vinh, xem chàng như một thứ quỷ sa tăng hiện hình lên để cám dỗ em mình.

Sau đêm đến ngủ lại nhà cô Hiển để bàn bạc cẩn thận một lần nữa, Mai Hương về phòng mình nắn nót viết gửi ra Huế cho bà Hải một bức thư. Nàng đã ăn cắp được địa chỉ trong phong bì tấm thiệp của Vinh gửi vào chúc Tết Mai Khanh vừa rồi.

“Thưa bà,

Tôi đường đột viết thư này gửi bà vì không có cách nào hơn, nếu bà ở vào địa vị của tôi chắc bà cũng làm như thế. Để khỏi giáo đầu dài dòng lôi thôi, tôi xin tự giới thiệu với bà tôi là chị của Mai Khanh. Em gái tôi, từ độ gặp cậu Vinh, con trai bà, chẳng biết cậu ấy đã dùng bùa ngải bên Tây, Tàu gì mà làm nó say mê bỏ ăn bỏ ngủ. Gia đình chúng tôi là kẻ có đạo dòng từ bao nhiêu đời, không thể nào đi nhận một người khác đạo và nhà, nếu người ấy không tự nguyện xin theo đạo của chúng tôi.

Chắc bà cũng biết phép hôn phối rất là quan trọng trong đời người con gái. Xin bà hiểu nỗi đau khổ của chúng tôi từ mấy lâu nay, và xin bà nên đi cưới vợ khác cho cậu Vinh, khuyên cậu ấy hãy buông tha em gái tôi để cho nó ăn, nó học. Cậu ấy thiếu gì vợ, mong bà thông cảm giùm.

Ký tên

Người chị đau khổ.”

Mai Hương đọc lại tác phẩm của mình một lần cuối rồi nhét vội vào phong bì dán kín ngay, định chiều nay đi bỏ tận bưu điện. Nàng ngại không dám cất lâu sợ sẽ thay đổi ý kiến. Biết rằng bức thư của mình có thể gây ra rất nhiều sóng gió, nhưng Mai Hương hy vọng rằng qua cơn sóng gió này thì cuộc sống sẽ lại được bình yên như cũ.

Nàng cầu nguyện rất nhiều trước khi bỏ thư vào thùng bưu điện, về đến nhà Mai Hương suýt thú thật cái hành động của mình với em gái nhưng nàng lại không dám, biết chắc rằng Mai Khanh sẽ giận dỗi.

Cũng có thể là hai chị em rồi sẽ mất nhau suốt đời như đã xảy ra trong một vài gia đình khác mà lắm khi nguyên nhân thật bé nhỏ, nhưng rồi Mai Hương hy vọng họ nhà mình có nhiều phúc đức hơn, nhà mình có Đức Mẹ phù hộ, không thể nào giống những gia đình khác. Sau này Mai Khanh sẽ hiểu mình và sẽ công nhận hành động của mình là vì thương yêu em và chỉ muốn bảo vệ em.

*******************
 

Bà Hải đứng lặng người sau khi nghe thằng Thi đọc xong bức thư, người mẹ muốn từ chối không tin rằng con trai của mình lại có những hành động như thế. Đây chỉ là một sự vu khống để phá rối hạnh phúc nhà bà, do những kẻ ác độc chuyên ganh ghét đó thôi.

Việc trước nhất là dặn hai cậu bé Minh và Thi không được mang câu chuyện bức thư ra mách với ai, sợ đến tai bà Phủ Ninh sẽ làm khổ cho hai mẹ con Đoan Trang.

Sự thật thế nào chưa biết rõ, cũng có thể là đúng mà cũng có thể là bịa đặt hoàn toàn. Tuy tự nghĩ để an ủi như thế, nhưng trong lòng người mẹ vẫn thấy băn khoăn. Bà Hải chờ chồng về để bàn bạc xem chồng giải thích thế nào, đời thật phức tạp.

Người mẹ tin rằng con trai mình không bao giờ biết làm một sự gì ám muội. Mặc dầu xa vắng trong bảy tám năm trời, ngày về bà Hải thấy con vẫn không thay đổi, vẫn tỏ ra hiếu thuận ngoan ngoãn, vui vẻ với tất cả mọi người, chứ không kiêu kỳ hách dịch như một số người sau khi đi học xa về tự nhận thấy mình đã thành tài. Tại sao trong bức thư lại nói những lời thóa mạ tệ hại đến thế?

Nghe giọng hỏi thăm mình từ ngoài cửa như thường lệ, bà Hải vội vàng bước ra. Nhìn thấy mặt vợ không được tươi vui, ông Hải đoán ngay vừa có gì xảy tới.

- Mình có chi không vui đó?

Bà Hải lặng lẽ trao bức thư đang còn nắm trong tay cho chồng đọc, mắt ngước nhìn theo dõi từng nét thay đổi trên gương mặt của chồng. Ông Hải đọc xong hơi mỉm cười có vẻ mỉa mai:

- Đúng là giọng thơ đàn bà, “bùa ngải bên Tây, bên Tàu”. Bên Tây làm chi có bùa ngải...

- Mình nghĩ răng, có thiệt không?

- Thiệt thì cũng có thể là thiệt, nhưng đã chi mô mà cuống cuồng, hoặc là mình viết thơ hỏi hắn, hoặc là mình đi một chuyến vô Sài Gòn nhân tiện coi chỗ ăn chỗ ở của hắn ra răng rồi hãy tính, chớ tự nhiên nhận được cái thơ rồi buồn liền hả?

- Mình nói phải, chưa có chi mà tui đã tin...

Nghe chồng cho phép vào Sài Gòn thăm con, bà Hải mừng quá. Từ độ có chiến tranh đến giờ người đàn bà không hề dám rời chồng lấy một ngày, chỉ sợ ông Hải cô độc buồn rầu, nản chí, hoặc không ai lo lắng cho chu đáo bằng mình, nhất là gặp phải những hôm có chuyện bực tức xảy ra, không có mình ở đó để an ủi.

Ngày trước ông Hải có một nếp sống bận rộn khác hẳn, khách khứa bạn bè luôn luôn, sự vắng mặt của vợ không quan trọng lắm. Nhưng ngày nay chiến tranh của đất nước đã thu hẹp con người lại về với mình, một người bạn trở nên cần thiết. Với ông Hải thì ngoài vợ ra, không còn nơi nào cho tinh thần nương tựa nữa cả.

Trước kia mỗi con người có thể nhìn được tương lai của mình, nhất là loại người như ông Hải mà lối đi đã được tổ tiên, cha ông vạch sẵn, rõ ràng sáng sủa, có thể trông ra tăm tắp đến tận cùng, tức là cái nơi mình sẽ được chôn cất. Ngày nay không còn nữa, lối ấy đã bị ngăn chắn, con đường ngày nay nó ngoằn ngoèo, ông Hải tự ví mình như kẻ đang lạc lối, may mắn lắm mới nhìn rõ ngày hôm sau, chứ qua đến hôm sau nữa thì chẳng dám tính trước.

Những lời giải thích và sự có mặt của chồng làm cho người đàn bà bớt khổ sở, bà Hải cố gắng thu xếp cắt đặt công việc nhà để mau được vào Sài Gòn thăm con, nghe con giải thích với mình. Hy vọng rằng sự thật sẽ tốt đẹp và bức thư này chỉ là của một người ghen ghét với hạnh phúc nhà mình. Loài người vẫn độc ác, chẳng bao giờ mong cho người khác được sung sướng.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bức Thành Biên Giới Phần 4: Chương Bốn. Minh Đức Hoài Trinh Bà Hải muốn níu vào những sự tin tưởng ấy, tin rằng con mình ngay thật và thương mình, không bao giờ muốn làm gì cho mình phải khổ. Được vào Sài Gòn kỳ này để coi sóc chỗ ăn chỗ ở của thằng con trai, người mẹ còn cảm thấy một niềm vui riêng. Từ khi Vinh dọn ra khỏi nhà bà Thiện, chẳng biết có thiếu thốn gì không, người mẹ muốn tự tay mình được trông nom sắm sửa cho con, còn gì kiêu hãnh hơn nữa.

- Rồi làm răng chừ mình hè?

Đêm đã khuya mà bà Hải còn thắc mắc với muôn ngàn ý nghĩ, nếu quả thật Vinh có yêu Khanh như lời mách trong thư thì bà biết tính sao? Biết nói gì cho Vinh bỏ được cô gái ấy?

- Răng là răng? Mình không lo ngủ để mai còn lên máy bay, đi hơn hai tiếng đồng hồ mệt lắm chớ không phải khỏe chi. Chuyện mô còn có đó, thằng Vinh khôn ngoan có ăn có học, giảng cho hắn thì hắn hiểu, mình đừng lo, tui biết tính con trai của tui.

Nghe chồng khuyên bằng giọng vững chắc, bà Hải yên tâm.

- Hay mình viết cho hắn một bức thứ?

- Viết rồi, nhưng tui không đá động tới việc nớ, lỡ như không có chi cả thì răng. Tui chỉ khuyên hắn đừng làm chi cho mình buồn, rứa là đủ rồi. Hắn có phải đầu bò đầu bướu chi mô mà sợ. Con trai có ăn chơi cũng là chuyện thường, mình không thấy cha hắn đó răng. Những thằng con trai mà lúc trẻ không biết ăn chơi thì sau về già thèm khát, sẽ còn làm khổ cho vợ con nhiều hơn.

- Mình nói cũng phải, nhưng mà chơi chi chỗ người ta có đạo, rồi lỡ dính vô một cái thì khổ không?

- Mình nói lạ chưa, khi đi chơi làm răng biết được ai có đạo ai không có, bộ hỏi người ta à?

- Thì hỏi cũng được chớ răng, biết người ta không phải cùng đạo với mình thì tránh trước đi.

- Mình biểu hỏi cách răng, như thời chừ người ta hỏi cung, hoặc bắt khai vô trong đơn như mỗi khi xin ra làm việc cho chính phủ đó hả?

- Khó chi, thì cứ ngay thiệt mà hỏi.

- Em ơi em đạo chi rứa? Em đạo Phật? Đạo Chúa hay đạo ông bà? Bộ mình bắt con mình mỗi khi quen với cô mô thì phải hỏi rứa phải không, vô lý lắm, nhiều khi vui câu chuyện, với lại đời chừ con gái văn minh, có khi chính các cô đi tìm bạn trai trước. Không lẽ người ta tìm tới mình rồi mình co giò chạy trốn đi mô?

- Văn minh có nhiều cái cũng lạ mình hỉ.

- Văn minh đi vòng quanh chớ có chi mà lạ. Đời chừ con trai cũng phải lo canh phòng cẩn thận như đời xưa người ta canh con gái.

Bà Hải nằm yên nghe chồng nói, biết rằng mục đích câu chuyện của chồng cốt làm cho mình bớt thắc mắc, nhưng chỉ được một lúc rồi sau đó, khi nghĩ nếu Vinh nhất định yêu cô gái ấy thì bà trả lời làm sao với gia đình Đoan Trang.

Hai hôm trước bà Hải cho đặt các thứ nem chả ở nhà mụ Cai, nổi tiếng nhất để mang vô Sài Gòn cho Vinh với gia đình bà Thiện, biết rằng con trai và các cháu mình rất hảo những món quà của quê hương. Người dân Huế mang nặng cái bệnh địa phương hơn nơi nào cả, họ cho rằng con heo xứ mình ăn rong với cám chứ không ăn những thứ đồ hóa học, thứ chỉ làm cho to béo mà nhão thịt không ngon. Vì thế mà người dân Huế vào Nam cũng không quên mang theo từng giỏ từng bồ nem chả để biếu bà con.

Phải có tiếng gà gáy như thúc giục bên tai, bà Hải mới ngủ chợp được đi một lúc.
*******************


Bà Hải vào Sài Gòn từ bốn hôm nay, Vinh và gia đình bà Thiện đi đón. Một lần nữa, linh tính cho Vinh biết có một sự gì không lành sắp xảy ra. Đôi mắt bà Hải còn chất chứa nhiều thắc mắc, Vinh ngờ rằng đã có ai mách đến tai mẹ câu chuyện của mình với Khanh chăng. Ngại nhất là thấy mẹ không nói gì, thỉnh thoảng Vinh bất chợt nghe được vài tiếng thở dài rất nhẹ, rồi hết.

Nay là ngày thứ ba rồi, nếu mẹ không hỏi chắc Vinh phải nói trước chứ kéo dài mãi tình trạng này, Vinh không chịu nổi.

Vinh vốn rất sợ những người đàn bà nào giận mà im lặng, thà có chuyện gì thì cứ hét tướng lên rồi sau đấy là xong chứ những bà nào cô nào giận mà cứ để ngấm ngầm trong bụng làm Vinh thắc mắc khổ sở. Nhất là khi người đàn bà ấy mình phải gọi bằng mẹ.

Muốn gặp Mai Khanh để bàn bạc trước khi nói chuyện với mẹ, Vinh nhờ Nhung và Hoàng đến tận nhà nhưng Mai Khanh ốm và cô chị nhất định ngăn cản không cho ra khỏi nhà, viện cớ rằng ốm chưa khỏi mà ra ngoài gặp nắng gió sẽ ốm thêm. Vinh cáu kỉnh vì tất cả mọi sự đều đi ngược lại với ý muốn của mình.

Từ hôm bà Hải vào, ngày nào vợ chồng chị Thiện cũng thay nhau đưa bà Hải đi thăm các đền chùa, hết lăng Ông đến chùa Ngọc Hoàng, chùa Xá Lợi. Quẻ xăm của Ông cho rất xấu làm bà Hải lo sợ bổn mạng không vững, gia đạo không yên, có lẽ vì thế mà bà Hải ngần ngại không dám nói với con chăng?

Đi chơi đâu thì đi, người đàn bà cũng không hết buồn và những cái nhìn dò hỏi của mẹ vẫn không ngừng làm cho Vinh thắc mắc. Đêm nay, sau khi ăn cơm ở Chợ Lớn về, bà Hải vào phòng trong thay chiếc áo lụa mỏng rồi ra nằm ở hành lang nhìn xuống đường, Vinh cũng theo mẹ mang ghế ra ngồi cạnh, lần này Vinh cương quyết bắt mẹ phải nói, để kéo dài thế này không khác gì người có tội mà chỉ ra tòa chứ không được xét xử.

- Mạ có chi buồn răng không cho con biết?

Hình như bà Hải cũng đợi cái phút này, người mẹ nhìn con trả lời:

- Mạ buồn nên mới vô đây gặp con, có người viết thư cho mạ nói con đi dụ dỗ con gái người ta mà nhà họ có đạo... Mạ không muốn tin là con có thể làm được những chuyện nớ...

Nói đến đây bà Hải nghẹn lời, có một cục gì như đang chặn ngang cổ không cho nói thêm nữa.

- Họ có ký tên dưới bức thư không?

- Có.

Bà Hải đi vào phòng lấy cái ví cầm tay mở tìm bức thư trao cho con, rồi nằm yên lặng chờ Vinh đọc xong.

- Trời ơi, bà Mai Hương chứ ai!

- Bà nớ là chị của cô ta phải không?

Vinh gật đầu trầm ngâm nghĩ ngợi, chàng chờ đợi tất cả mọi sự, chỉ trừ cái hành động này của Mai Hương. Giọng bà Hải trở nên trách móc như có pha lẫn chút nước mắt.

- Răng con không nói với mạ ngay từ đầu, để mạ không biết mạ đi hỏi con bà Phủ...

Vinh ngồi cắn răng im lặng chịu lỗi của mình rồi khẽ trả lời mẹ, cử chỉ lúng túng hối hận.

- Tại con sợ mạ buồn...

- Chừ mạ còn buồn hơn, biết tính cách răng cho trọn vẹn, biết nói chi với bà Phủ Ninh, người ta tin nơi mình là người lớn, lại là chỗ quen biết lâu năm...

- Tại con thấy nói ra cũng không ích chi, nhà họ có đạo...

- Thì nhà mình cũng rứa...

Bà Hải ngắt lời con, Vinh gật đầu đồng ý với mẹ:

- Bởi rứa nên con mới không nói với mạ làm chi.

- Con đã biết là nhà họ đạo, nếu muốn lấy con gái họ thì con phải theo đạo, mà theo đạo tức là con phải bỏ gia đình mình, bỏ cậu, bỏ mạ, bỏ Phật Thánh, nếu không thì ai người ta gả cho.

- Con không muốn theo đạo, con không có ý định bỏ gia đình...

- Rứa thì con đeo đẳng cô ta làm chi mà để cho khổ cả nhà người ta, lại khổ nhà mình, khổ nhà cô Trang...

- Tại thương... cảm tình...

Vinh lúng túng trả lời mẹ, muốn giảng cho mẹ hiểu rằng cảm tình đến bất chợt và không báo trước, làm sao có ai ngăn cấm. Nghĩ thế thôi, Vinh biết rằng mẹ ở một thế hệ khác, mẹ đặt vấn đề tôn giáo lên quá cao trong khi quan niệm của Vinh lại rộng rãi.

Bà Hải lắc đầu, bà cũng đã hiểu thế nào là cảm tình, bà vẫn công nhận mình là kẻ may mắn vì đã yêu bằng một thứ tình nồng nhiệt nhất, mà đời mỗi người chỉ gặp có một lần. Bà đã được chung sống suốt đời với người mình yêu, và người ấy lại tỏ ra xứng đáng chứ không giống như hoàn cảnh của nhiều người đàn bà khác, sau một thời gian sống chung, người đàn ông thay đổi, hoặc tỏ ra những thái độ kém quân tử làm xóa nhòa tất cả bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của thuở đầu tiên khi hai người mới quen nhau. Người mẹ không muốn buộc con phải làm những điều gì phản tự nhiên nhưng bà cũng không muốn mất đứa con trai cưng quý, đứa con mà từ bao nhiêu năm nay bà đã đặt tất cả niềm tin tưởng vào đấy.

- Thôi, nếu con đã nặng tình với người ta thì mạ cũng không biết nói răng, mạ không muốn rồi sau ni con sẽ oán giận, chừ mạ còn sống, nếu con có vì mạ mà không theo đạo thì sau ni mạ chết rồi con cũng sẽ theo vô cho vui lòng cô ta.

Vinh lắc đầu thấy mẹ cũng hệt như nhiều người, mỗi khi động đến tôn giáo là khư khư ôm thật chặt cái quan niệm của mình, còn chặt hơn lão hà tiện ôm hũ vàng lúc sắp chết.

Bà Hải đứng lên đi vào phòng ngủ, bỏ mặc Vinh ngồi lại một mình, lần đầu tiên người mẹ ấy cảm thấy giận thằng con trai. Tất cả những kỷ niệm êm dịu cũ từ mấy chục năm nay lần lượt hiện về trong tâm trí người đàn bà. Ngày nào thằng bé mới sinh ra, những sự âu yếm săn sóc của chồng với cha mẹ chồng, ngày Vinh mới chập chững biết đi, biết nói. Giọng nói đả đớt ngây thơ còn vang bên tai, nhất là mấy câu trả lời của thằng bé khi có ai hỏi đến.

- Út thương ai?

- Xương mạ, xương chậu.

- Út con ai? Cháu ai?

- Chon âm xam, cháu chụ chượng.

Đôi mắt to tròn và láy đen như hai hạt nhãn, đôi má bầu bĩnh, cái trán cao lơ thơ mấy sợi tóc mềm, ai nhìn cũng chỉ muốn bế, muốn ôm vào lòng. Rồi tiếp đến những ngày Vinh bắt đầu cắp sách đến trường, đấy cũng là những phút hân hoan khi người mẹ nhìn thằng bé mang cặp sách lên vai. Những mảnh bằng cấp sau đó lần lượt Vinh giật được mang về trao cho mẹ như những viên gạch tuần tự xây cái thang cấp đưa thằng con trai lên đài danh vọng.

Nhất là hôm được bức điện tín Vinh báo tin thi đỗ tiến sĩ, người mẹ nhận thấy quả là Trời, Phật ở không xa và vẫn nghe những lời cầu xin của mình. Ngày xưa khi nghe hai gốc cây bị chặt, bà Hải ngỡ rằng dòng họ nhà mình thế là lụn bại, nhưng sự thành đạt của Vinh đã thay đổi, cất bỏ được cái ý nghĩ bi quan yếm thế ấy.

Ngỡ rằng trời Phật thương mình, nhưng phút này người đàn bà như bị ai dẫn đi lạc lối. Tất cả đều có vẻ mỉa mai, tất cả đều vô nghĩa lý.

Bà Hải cảm thấy tim nhói đau, bà đưa tay lên xoa ngực, hơi nóng ấm của bàn tay áp vào lớp áo lụa làm cho bà bớt khó chịu. Người đàn bà hơi thắc mắc, lâu lắm không thấy cái chứng nhói tim này trở lại.

- Chắc tại tách nước trà lúc nãy ở Chợ Lớn.

Đổ lỗi cho nước trà vì không muốn đổ lỗi cho thằng con trai đã làm cho mình buồn nên mới đau. Thỉnh thoảng có chuyện gì phải suy nghĩ lo lắng, cộng thêm với vài tách nước trà đậm thì bà Hải lại cảm thấy đau. Nhưng chỉ một tí thôi, rồi qua ngay, và người đàn bà thấy không cần phải để ý tới. Theo bà Hải vẫn nghĩ thì con người cũng chẳng khác gì một cái máy, sau bao nhiêu năm làm việc, thế nào chẳng có sự trục trặc hư hỏng chỗ này chỗ khác, đó là chuyện thường, không nên lấy làm quan trọng bắt mọi người chung quanh phải chịu đựng.

Bà Hải không đồng ý với những người đàn bà nào mới đau ốm một tí ti đã bắt cả nhà phải chạy ngược chạy xuôi, đi mời bác sĩ, đi chiếu điện, đi tìm ông lang, đi xin thuốc thánh... Ngày các con còn ở chung trong gia đình, bà Hải vẫn cố dạy cái tính ấy, tính chịu đựng tất cả mọi kết quả tốt hay xấu về những hành động của mình. Cố nhiên là phải suy nghĩ trước khi hành động, cả sự đau khổ vật chất cũng vậy, đau thì phải can đảm chịu chứ không có cái lối “nhà giàu đứt tay, ăn mày đổ ruột”, chưa đau đã kêu chí chóe. Trong số mấy đứa con thì cô cả tức là Mai hay la lối nhất mỗi khi đứt tay chảy máu, trái lại về sự đau đớn tinh thần mà người khác không thể nguôi thì Mai lại chịu rất tài, hầu như nàng có thể quên ngay sau đó. Lan hơi ngược lại nhưng không cô nào bằng cô Cúc, cô bé này chuyên than đời, định mệnh buộc sẵn cho mỗi người một đức tính như một thứ khí giới trước khi ra trận. Bé Trúc là một cục lì nên ít ai để ý đến, nhưng qua những bài thơ của nó người mẹ đoán hiểu rằng kiếp trước nó cũng đã vay nợ định mệnh khá nhiều.

Đêm nay giận thằng con trai, người mẹ bỗng cảm thấy nhớ đến bốn đứa con gái, hiện giờ chiến tranh đã mang đi mỗi đứa một nơi. Lần đầu tiên bà Hải cảm thấy mình hơi thiên lệch với các con, tại sao từ trước đến giờ lại chỉ dồn tất cả tình thương cho mỗi một mình Vinh? Tại sao lại chỉ đặt tin tưởng vào mỗi một thằng con trai ấy?

***************
 


Ngồi yên lặng một lúc ôn lại những lời mẹ vừa nói, Vinh muốn theo mẹ vào phòng nói lên với mẹ sự hối hận của mình, xin mẹ tha lỗi, hứa với mẹ sẽ cố thu xếp mọi sự êm đẹp cho vui lòng mẹ. Nhưng thấy trong phòng mẹ im lặng, ngờ rằng mẹ đã ngủ, sợ vào sẽ làm mẹ thức giấc, mẹ đã bỏ vào tức là muốn tránh mình. Khi hai kẻ thương nhau mà có sự giận hờn thì cả hai đều bị dằn vặt đau khổ, tình gì cũng thế, dẫu là anh em, vợ chồng hay là mẹ con, vì cảm tình thường hay làm cho người ta đau.

Bị mẹ giận Vinh cảm thấy bơ vơ, giá lúc này có Khanh bên cạnh để giúp Vinh thêm một chút can đảm, Vinh sẽ kể lể hết những nỗi thắc mắc. Giá gặp Khanh lúc này để nói với Khanh những gì đã giằn vặt mình, kể lại cho Khanh nghe những xúc động mà Vinh đã trải qua đêm nay, Vinh muốn được Khanh an ủi mặc dầu biết Khanh cũng đang cần có người an ủi.

Đêm càng về khuya càng vắng, Sài Gòn vẫn bình yên nhưng sau khi các rạp hát với phòng trà đóng cửa thì mọi người cũng hết có chỗ chơi và đành là ai phải về nhà nấy.

Vinh ngồi nhìn xuống đường, nhìn hàng me quen thuộc trước cửa nhà mà đêm về đã nhuộm màu xanh ngọc thạch ra thành màu đen âm u. Cảm giác bực bội ban nãy được đêm làm lắng dần xuống. Vinh trở nên bình tĩnh nhưng sự bình tĩnh như càng bắt Vinh nhìn vào bên trong của con người, của tâm hồn mình rõ rệt hơn. Vinh uất ức, cảm thấy tự khinh ghét mình, cho mình là đồ bỏ, vô ích, vô dụng. Nếu những ý nghĩ này cứ tiếp tục nảy nở thì con người sẽ đi đến chỗ tự hủy hoại. Bao nhiêu vụ tự tử cũng vì thế, nhà phân tâm học Freud bảo rằng tự tử là một cách trả thù người mình thương. Nhưng đấy là tự tử vì tình khi thất vọng, còn trường hợp của Vinh thì không phải thế. Vinh chỉ thấy tự chán ghét mình bất lực, thừa thãi, kéo dài cuộc sống tầm thường không mang lại được gì cho ai, đấy lại là một chuyện khác.

- Vinh vô ngủ, đừng ngồi khuya mà lạnh, rồi cảm chừ!

Giọng bà Hải từ trong phòng vọng ra, cố tạo vẻ dửng dưng nhưng đã làm cho Vinh cảm động. Biết mẹ đang giận mình không ngủ được mà vẫn lo lắng đến sức khỏe của mình như ngày xưa còn là một chú bé con yếu đuối. Vinh hối hận, chỉ muốn vào ôm mẹ khóc một trận như khi còn tuổi thơ, hẳn đây là một điều sung sướng nhất. Làm lỗi mà được khóc và khóc được, quả là một cách giải quyết dễ dàng, vì khóc xong cũng như xưng tội xong, bao nhiêu lỗi lầm sẽ được nước mắt gột rửa. Đến một tuổi nào bị liệt vào hạng người lớn, thế là hết cái quyền hạn đó, nước mắt như cũng theo với thời gian mà cạn dần. Xã hội không cho phép khóc nữa và lắm khi có trốn xã hội mà khóc một mình thì nước mắt cũng chẳng thèm ra.

Ý nghĩ vào tìm mẹ, xin lỗi mẹ vừa chớm lên đã bị dẹp xuống ngay. Vinh tự hỏi rồi đấy sẽ như thế nào? Một giải pháp gì sẽ đến cởi mở hộ cho những nút dây đang thắt chặt, hay ngày mai cũng lại giống hệt hôm nay mà thôi.

Không muốn làm trái lời mẹ, Vinh đứng lên đóng cửa đi vào phòng. Khi đi ngang chỗ mẹ ngủ, Vinh không quên đưa mắt nhìn cái hình dáng bé nhỏ của mẹ đang nằm nghiêng nghiêng nhìn ra phía cửa sổ, chỉ mong mẹ gọi mình nhưng bà Hải như cố ý nằm yên.

*******************
 


Vinh đi làm về mặt mày phờ phạc, đôi mắt trũng sâu vì đêm qua không ngủ, nếu thiếu ngủ mà trong lòng vui vẻ không có điều gì thắc mắc thì cũng chẳng sao. Đằng này ngủ thiếu mà còn bị những ý nghĩ buồn nản yếm thế dằn vặt tâm trí thì càng tăng thêm mệt nhọc cho cả tinh thần lẫn vật chất. Suốt đêm Vinh bị ám ảnh bởi những cảm tình mâu thuẫn, thương mình, thương mẹ, thương Khanh và thương luôn cả hai mẹ con cô Đoan Trang bỗng dưng bị đưa vào trong cái vòng đau khổ một cách vô lý.

Nhìn thấy mặt mẹ nhợt nhạt và mắt mũi đỏ của người mới khóc, Vinh ngừng bước hốt hoảng hỏi ngay:

- Trời ơi, tại răng mạ khóc?

- Mạ về, con ra giữ chỗ máy bay để mai mạ về...

- Mạ khoan về, mạ ở lại với con thêm vài bữa nữa, tại răng mạ về chi gấp, con với mạ chưa nói hết chuyện... ít nhất mạ cũng để cho con giải thích với mạ rõ ràng, con muốn mạ hiểu con...

- Cô Mai Hương tới đây...

Bà Hải chỉ nói được có mấy chữ rồi ngồi phịch xuống ghế nghẹn ngào không nói thêm được nữa. Vinh tái mặt chẳng cần mẹ phải nói rõ, chàng cũng hiểu tất cả câu chuyện. Đúng như Vinh đoán, sáng nay đợi lúc Vinh đi làm việc vắng, Mai Hương đến tìm bà Hải, nàng đã nói thẳng những gì nàng cần nói, nghĩa là bảo bà Hải về dạy lại con, đừng để cho Vinh đi quyến rũ con gái nhà người ta nhà có đạo. Đại khái chỉ là những lời trong bức thư nhưng bằng một giọng chát chúa hơn, soi mói hơn, thiếu lễ phép hơn, nhất là đối với bà Hải mà tuổi tác đáng vào tuổi mẹ của Mai Hương.

Bực tức bà Hải cũng dùng cái giọng châm chọc để trả lời lại:

- Tại em cô dễ dãi, có bằng lòng thì con tôi nó mới quyến rũ được chớ nếu em cô cứ đứng đắn nghiêm trang thì mười thằng Vinh con tôi cũng không dám tới. Cô hãy về dạy em cô trước đi rồi hẵng hay.

Mai Hương xấu hổ vì câu nói ấy, nàng nhảy lên hét to trả lời lại với bà Hải, vì Mai Hương vốn tính tự ái, nàng không bao giờ bằng lòng cho ai được nói động đến gia đình mình. Tuy rằng nàng cũng công nhận lý của bà Hải viện ra không phải là sai, nếu nàng ở địa vị người mẹ ấy thì nàng cũng sẽ nói như thế, nhưng đằng này Mai Hương lại là chị của Mai Khanh, cố nhiên nàng phải tìm đủ mọi cách để bênh vực em và bảo vệ gia đình mình.

Hai người đàn bà như hai con hổ cái, chẳng ai chịu nhường cho ai một lời, lúc chia tay cả hai đều thề rằng không bao giờ chấp nhận sự có mặt của “con bà” và “em cô” vào trong gia đình nhà mình.

- Mạ về, con để cho mạ về, con muốn làm chi thì tùy con, mạ già rồi, nợ đã trả hết rồi, chắc không còn sống lâu lắc chi nữa. Mạ cũng không muốn cản trở con, nếu chừ con có vì mạ mà không lấy người ta thì mai tê mạ chết rồi con cũng sẽ...

Vinh lắc đầu nghẹn ngào, nhìn theo mẹ đang vừa xếp các thứ quần áo vào va li vừa thổn thức. Không ngờ Mai Hương lại bản lĩnh đến thế, nàng có thể làm tất cả mọi sự, không ngần ngại trước một hành động nào để mang đến phần thắng cho mình. Vinh chưa biết cách gì để đối phó lại với hoàn cảnh, chàng muốn giữ mẹ lại với mình vài hôm nhưng biết mẹ có ở lại cũng vô ích, chỉ làm khổ thêm cho mẹ mà thôi.

- Mạ giận con.

Bà Hải nhìn con, đôi mắt bảo không nhưng có một cử chỉ nhỏ làm cho Vinh hiểu rằng đúng, mà giận là phải, bỗng nhiên cuộc sống đang thanh bình, Vinh đã làm xáo trộn chỉ vì những chuyện tình cảm riêng tư của mình.

- Mạ không giận nhưng chừ về mạ không biết ăn nói làm răng với bà Phủ với con Trang.

- Chuyện con với Trang thì mạ cứ để đó cho con giải quyết, mạ đã nhứt định về thì con không dám giữ nhưng con xin mạ đừng nói chi cả.

- Con làm răng mà giải quyết, người ta hỏi thì con bắt mạ phải trả lời răng đây?

- Mạ nói hiện chừ tình trạng nước nhà đang lôi thôi, con muốn chờ một thời gian cho yên ổn. Sự thiệt cũng như rứa, bao nhiêu người bị bắt, bị giết, bị chôn sống, chôn chết dưới hầm mà mình chỉ lo đến hạnh phúc riêng một cách ích kỷ như rứa hóa ra mình là người không biết suy nghĩ.

- Con muốn răng cũng được, tại mạ sợ con một thân một mình không có ai săn sóc, tuổi con lại là tuổi dễ bị quyến rũ sa ngã nên mạ mới phải lo đi hỏi vợ cho con...

- Chuyện cô Trang mạ cứ để đó, cô ta mô có phải dại dột chi, nếu con nói thì chắc cô ta hiểu ngay.

Thấy con khen người con gái do mình lựa chọn bà Hải hơi thoáng vui, nhưng rồi nhớ đến những câu nói của Mai Hương bà lại bực tức. Trong một tâm hồn căng thẳng thương mẹ, thương mình, Vinh đã muốn làm vui lòng mẹ. Chàng hứa chắc rằng mình sẽ không cưới Khanh làm vợ cũng như sẽ không bao giờ theo đạo. Bà Hải nhìn con im lặng, tỏ vẻ ngờ vực lời hứa của con, cho rằng Vinh chỉ nói cho mình yên lòng trước lúc ra về mà thôi.

Tiễn mẹ đi rồi, Vinh trở về nhà với gia đình bà Thiện và Hoàng, thấy Vinh buồn, tất cả mọi người đều muốn tìm cách nào làm cho Vinh khuây lãng. Hoàng định mời Vinh tối nay đi xem chiếu bóng, rồi sau đấy ở lại ngủ nhà mình để tránh cho Vinh những giờ phút suy nghĩ cô độc. Ông Thiện trái lại muốn rủ tất cả vào Chợ Lớn ăn, ăn xong trở về nhà lên gác thượng pha trà nói chuyện.

Bà Thiện muốn đưa Vinh đi xem bói, theo lời bà thì thầy bói là một phương thuốc giải sầu công hiệu nhất. Mỗi khi thấy tâm hồn lạc lõng bơ vơ không biết nương dựa vào ai, vào đâu thì đến dựa vào ông thầy bói. Những lời khuyên răn đanh thép của ông thầy bói như những liều thuốc bổ giúp cho người bệnh có đủ sức đứng dậy, chỉ ông thầy bói mới có thể giải thoát được những giờ phút tù túng ấy. Sau đấy cái gì đến hẵng hay, vì con người đã có liều thuốc bổ để đứng vững rồi, có phải chịu đựng thêm một chút nữa cũng chẳng sao.

Có thể là những lời tiên tri ấy không đúng một tí nào, nhưng mấy ông thầy bói vốn thạo tâm lý của người đi xem bói, nên họ có những lối đoán non đoán già làm cho mình cảm thấy tin tưởng. Theo bà Thiện, mỗi khi buồn mà đi bói về là y như thế nào cũng hết buồn ngay.

Bà Thiện không nói hết những ý nghĩ của mình với cậu em, nhưng bà nhất định đưa Vinh đi xem bói chiều hôm nay, rồi sau đó ai muốn đi đâu thì đi.

- Có cụ Nhân ở trên đường Chi Lăng, nghe nói hay lắm, cậu Vinh đi với chị xem bói một quẻ.

- Thôi chị ơi, bói ra ma, đi làm chi, đời chừ văn minh...

Vinh cố ý nói ra để gạt đi, đúng ra Vinh rất sợ sự thật, sợ có gì sẽ làm cho mình buồn hơn chăng.

- Bậy nào, ra ma răng được, ông thầy ni bói Dịch hay lắm, biết cả những câu chuyện tương lai, quá khứ chi của mình. Cậu cứ đi thử mà coi một chuyến cho biết.

Mấy hôm nay ở nhà bà Thiện cũng không ngừng la rầy thằng con trai của mình khéo lanh chanh đi làm mai mối để cho bây giờ cả hai mẹ con Vinh đau khổ. Hoàng biết lỗi nên im lặng chứ không cãi lại mẹ, chính Hoàng cũng muốn tìm một phương pháp để giải vây cho Vinh nhưng cả hai người Hoàng và Nhung đều cảm thấy bất lực.

- Thôi, cậu không đi thì để chị đi cho vậy, chỉ cần nói tuổi ra là đủ rồi, xin một quẻ gia sự tình duyên coi có bình yên...

Bà Thiện nghĩ bụng có lẽ Vinh không đi là hơn, Vinh mà đi ngộ lỡ ông thầy bói nói những sự gì không lành, sẽ làm cho Vinh buồn thêm chăng.

Từ khi nghe nói Mai Hương dám đến tận nhà để cãi nhau với bà Hải, ai cũng đâm ra sợ cô gái ấy. Riêng Vinh, chàng cảm thấy mình như kẻ lầm lạc, chẳng biết phải đối xử thế nào. Tâm trí quanh quẩn hết nghĩ tới mẹ lại nghĩ tới Khanh mà từ mấy hôm nay Mai Hương đã tìm đủ mọi cách để ngăn chặn, không cho liên lạc.

Ngay cả Nhung là em họ mà mỗi lần đến nhà cũng bị Mai Hương mỉa mai trách móc. Trong họ hầu như ai cũng đã biết câu chuyện và ai cũng cho là Mai Hương hành động rất đúng, nếu nàng có làm gì hơi quá đáng thì chẳng qua chỉ vì lòng thương em, muốn giữ gìn cho linh hồn em về sau này đó thôi. Cố nhiên là Thùy Nhung bị mọi người phê bình, cho rằng nàng có một cuộc sống táo bạo rồi cũng muốn kéo người khác theo với mình cho có đôi có bạn.

Mai Hương còn một thứ khí giới nữa để dọa em, là mang cái tuổi già của cụ Lộc ra. Nàng luôn nhắc cho em gái biết rằng cha đã già rồi, đừng có làm bêu diếu gia đình để cho cha phải chết sớm vì xấu hổ với họ hàng bà con.

Với cụ Lộc thì Mai Hương lại mang câu chuyện Mai Khanh đòi liều lĩnh cùng Vinh sống chung, ăn ở với Vinh, đến khi mọi người biết chuyện thì đã lỡ rồi và tất cả đều sẽ phải chấp nhận... Nghe nói như thế, người cha nào mà chẳng lo sợ, sự thực thì đấy chỉ là những ý nghĩ điên cuồng, Mai Khanh đã chép vào nhật ký mình trong một đêm không ngủ được, chứ người con gái ấy sẽ không bao giờ có can đảm thực hiện.

Một lần cụ Lộc đã gọi con gái dọa cho một trận, nếu còn có những ý nghĩ hư hỏng như thế nữa thì cụ sẽ từ không nhận làm con, và con gái nghe nói bị từ cô nào cũng lo sợ.

Gia đình đã bỏ Mai Khanh vào cái gọng kìm, nàng hết chỗ thoát, đến nỗi mấy ngày sau này Mai Khanh không còn biết hành vi của mình đúng hay sai. Vào nhà thờ xưng tội, Cha cũng khuyên nên quên đi, về đến nhà thì tất cả họ hàng bà con đều phê bình chỉ trích. Tìm đến hai anh thì hai anh cũng chẳng giúp ích được gì, nhất là anh Phúc, mặc dầu sẵn sàng thương em nhưng lại sợ Mai Hương nói xỏ xiên vợ mình nên không dám tỏ ý kiến rõ rệt. Mấy lần Nga muốn mời Mai Khanh về Vĩnh Long ở với mình vài tuần chơi cho đổi không khí nhưng bị Mai Hương cản lại ngay. Biết rằng Mai Khanh mà về với chị dâu thì thế nào cũng được bà chị dâu xúi khôn xúi dại cho, nên Mai Hương nhất định phản đối và cả nhà đành phải chịu thua.

Mai Khanh có cảm tưởng mình quả đã bị lầm lạc, nàng chỉ còn một cách là cầu xin đấng thiêng liêng soi sáng chứ không biết phải làm gì hơn. Nếu sự yêu đương là trái ý Chúa, thì xin Chúa hãy phù hộ cứu vớt mình ra. Khanh còn sung sướng hơn Vinh ở điểm ấy, điểm tin tưởng vào tôn giáo. Chỉ có sự tin tưởng mới giúp cho con người sống và vượt qua khỏi những lúc đau khổ yếm thế.

Khanh cảm thấy thương hại Vinh, nàng muốn giúp Vinh có thể đến chỗ tin tưởng như mình, nhưng coi bộ khó khăn vì Vinh hầu như thuộc vào loại vô thần vô thánh.

- Lạy Chúa, xin Chúa soi sáng cho Vinh, đừng bắt Vinh phải mãi mãi ở trong vòng lầm lạc u tối.

Đó là lời cầu nguyện mỗi đêm của Khanh nhưng hình như Chúa không thèm nghe. Khổ hơn nữa là nếu tình trạng lạc lối của Vinh kéo dài thì Vinh sẽ mất Khanh, vì người con gái thoáng nghe u già mách lại rằng ở nhà cụ Lộc, cô Hiển và Mai Hương đang định chuyện gả nàng cho một người nào, cố nhiên là một người đồng đạo.

Lắm khi nằm suy nghĩ xong, Khanh cứ phải cắn môi để khỏi phải hét lên, sợ cụ Lộc hoặc Mai Hương ở phòng ngoài nghe được lại cho rằng mình điên. Nàng tự hứa sẽ cương quyết từ chối, nếu ép buộc quá thì nàng sẽ xin vào nhà tu mặc dầu biết như thế là vì muốn tránh khỏi bị lấy chồng, muốn giữ tình yêu Vinh cho trọn, chứ chẳng phải vì được ơn trên kêu gọi gì cả. Khanh hơi xấu hổ với những ý nghĩ của mình, ngày mai lại phải đi nhà thờ xưng tội nữa. Từ khi yêu Vinh nàng thấy mình nhiều tội lỗi quá, người thiếu nữ lo sợ chỉ muốn đừng suy nghĩ gì cả như ngày xưa khi chưa gặp Vinh.

Mở tủ tìm tập nhật ký, mặc dầu biết chị mình mỗi ngày thường rình để đọc lén nhưng Khanh cứ tiếp tục viết, tin chắc rằng nếu không cho tâm hồn mình một lối thoát thì sẽ có ngày trở nên điên cuồng, hai đằng thế nào cũng phải chọn một. Và Khanh đã chọn tập nhật ký, mặc cho Mai Hương muốn đọc, muốn làm gì thì làm.

Nhìn những trang giấy nhàu nát nhòe nước mắt, đọc lại từ đầu khi hai người mới quen nhau, Khanh bỗng giật mình không ngờ yêu một kẻ khác đạo lại khổ đến thế. Sự giày xéo khổ sở không phải chỉ do ngoại giới mà do ngay chính trong lòng mình. Chẳng có một ngày nào vui. Đến đoạn Mai Hương bảo Vinh là quỷ sa tăng hiện vào đời Khanh để cám dỗ đưa Khanh vào vòng sa đọa tội lỗi, xa cách bà con họ hàng, xa Chúa, Khanh nhắm mắt không dám đọc thêm.

Lần đầu tiên Khanh thấy lo sợ, cảm giác mình như bị ai kéo xuống hố sâu, giá có Vinh ở cạnh nàng ngay lúc ấy, được gục đầu vào vai Vinh, nghe Vinh dỗ dành thì chắc Khanh sẽ không thấy lo sợ nhưng Vinh ở xa quá, cách bao nhiêu phố phường...

******************


Trang đang nằm vắt người trên cây khế ngọt to lớn, nghiền ngẫm quyển sách của Vinh vừa gửi ra cho mượn. Say mê đến nỗi không nghe cả tiếng mẹ gọi mình ở trước ngõ, không nghe cả tiếng chân người đang đến dưới gốc cây chỗ nàng nằm đọc sách.

- Sách chi mà hay dữ rứa?

Trang giật mình nhìn xuống, nhận ra Tú Uyên, bạn quen cùng học một lớp nhưng không thân nhau lắm. Nàng vội vã rời gốc cây nhảy xuống đất đón bạn.

- Ở Sài Gòn về khi mô rứa, mình tưởng Uyên ở lâu hơn?

- Mình mới về chiều bữa qua.

Trang ngạc nhiên, nàng không hề đợi cô bạn ấy đến thăm mình, chắc hẳn phải có chuyện gì đây. Quả thật như thế, tuy xứ Huế bé nhỏ nhưng phải là bạn bè thân mật với nhau người ta mới chịu khó đi lại thăm viếng chứ nếu chỉ là chỗ quen biết đại khái thì cũng chẳng mấy ai có thì giờ đến thăm ai. Nghe tin Đoan Trang sắp được làm vợ của Vinh, một thanh niên vừa đỗ bằng Tiến Sĩ từ Pháp về, làm cho một số thiếu nữ cảm thấy như bị ai cầm kim cúc đâm vào tim mình.Trong một thành phố lớn, những chuyện cưới hỏi ấy không được xem làm trọng chứ một thành phố nhỏ thì bất cứ ở Nam Mỹ hay Bắc Phi cũng được xem là quan trọng giống nhau. Có những kẻ chuyên môn ăn rồi đi kháo cho mọi người biết và cố nhiên là không quên thêm thắt, dặm mắm muối vào để câu chuyện tăng phần hấp dẫn.

Nhân dịp vào Nam thăm gia đình, Tú Uyên đã không quên mở cuộc điều tra về đời tư của anh chàng ấy. Người Huế vào Nam tuy khá đông và Sài Gòn tuy rộng nhưng dân buôn bán lại rất dễ gặp nhau, hỏi thăm ra thì ai rồi cũng có bà con không xa thì gần với nhau, sự điều tra vì vậy mà rất nhanh chóng.

Tú Uyên chỉ mất có một buổi chiều là biết được bao nhiêu chuyện về Vinh, Hoàng, Khanh và Nhung.

- Đọc sách chi mà say mê tới nỗi không biết khách tới nhà?

Tú Uyên vừa nói vừa nhìn bạn từ đầu xuống chân xem người được chồng đi nói có khác hơn với mình chưa có ai hay không. Thấy Trang chẳng có gì thay đổi, Tú Uyên yên lòng nói tiếp:

- Sướng ghê hỉ, chồng đi hỏi rồi mà còn trèo cây nằm đọc sách.

Nói xong nàng giật lấy quyển sách trên tay cô bạn gái may mắn ấy, lật ra xem, đọc mấy chữ đề tặng ở trang đầu làm nàng chú ý, đọc to lên “Gửi Đoan Trang, Sài Gòn ngày rằm tháng hai”.

- Chàng gởi cho cả sách mà đọc, hấp dẫn chi lạ.

Nói xong trả quyển sách lại cho Trang, không cần biết tên quyển sách là gì, tác giả là ai, và trong sách nói gì, mà chỉ cần biết ai gửi cho Trang quyển sách ấy. Trang không lấy làm lạ, vì trong lớp Trang và các cô bạn này vẫn tuyên bố là những con đường song song không bao giờ thèm gặp nhau.

Trang thắc mắc muốn biết mục đích của cuộc viếng thăm không chờ đợi này, nàng tìm cách hỏi chuyện ngay tuy trong lòng cũng đã hơi đoán biết tại sao Tú Uyên lại đến hôm nay.

- Sài Gòn có chi vui không?

- Sài Gòn vui lắm, các cô gái Nam gái Bắc chi cũng thiệt đẹp, Huế mình thua xa, liệu mà vô mau giữ chàng, nếu không để cho mất thì chớ trách.

- Răng mà mất được, mất đi mô?

Trang ngây thơ hỏi lại. Tú Uyên ngơ ngác nhìn cô bạn gái, không biết Trang giả vờ hay nói thật, nếu nói thật thì quả là đáng cho các bạn thương hại, mình ở một nơi, hôn phu ở một nẻo mà không sợ mất, thế mà có vị hôn phu làm chi cho uổng của.

- Mình nói chuyện ni cho ấy nghe, mà ấy đừng buồn hỉ, chuyện ni ghê gớm lắm, chỗ chị em mình mới nói chớ không quen biết thân thì mình không nói mô.

- Chuyện chi mà ghê dữ rứa?

Cô bạn gái ngập ngừng để làm tăng thêm vẻ quan trọng của câu chuyện, nàng chờ đợi một sự thích thú, tin chắc sẽ được thấy vẻ mặt đau khổ của Trang.

- Mình vô Sài Gòn nghe mấy người họ nói anh Vinh có mèo người Bắc mà lại đạo Thiên Chúa, cô nớ đẹp lắm và anh Vinh mê lắm, hình như hai người thề thốt với nhau nhứt định sẽ lấy nhau.

Trang phá lên cười to sau khi nghe nói xong câu chuyện ghê gớm ấy làm cho Tú Uyên rất ngạc nhiên và bực tức.

- Họ đặt bày ra đó, mình biết rồi, anh Vinh thiệt thà mà đứng đắn lắm, không phải như những người đàn ông khác. Nếu trước có cô mô thì lại là chuyện khác, mình không có quyền biết tới, nhưng mà...

Rồi Trang lắc đầu:

- Họ nói chi kệ họ, mình không tin, họ có đưa cả bóng anh Vinh dắt cô nớ đi phố mình cũng không tin nữa, mình chỉ tin khi mô anh Vinh nói với mình mà thôi. Tụi mình biết nhau từ hồi nhỏ chớ phải mới biết hay răng mà lo.

Tính chất phác cùa Trang làm cho cô bạn cụt hứng, không ngờ Trang có thể đặt hết tin tưởng vào một người đàn ông như thế. Uyên công nhận là Trang thuộc loại người sung sướng. Đặt địa vị mình vào đó, chắc nàng đã chạy vào giường khóc một trận rồi ngày mai lấy vé máy bay vào Sài Gòn để bắt quả tang, hoặc là buộc thằng đàn ông phải cưới liền.

- Ờ thì mình nghe rứa thì biết rứa, nói cho ấy để ấy lo mà đề phòng, đời chừ nguy hiểm lắm.

- Cám ơn Uyên, nhưng mình thấy không có chi đáng lo cả. Anh Vinh coi mình như em gái và mình cũng coi anh như anh. Người ta nói là vì người ta rỗi mồm rỗi miệng, dại mà tin thì chỉ tổ mất thì giờ!

- Trang vô tư chi lạ, rứa lỡ như anh ấy thương ai trước thì răng?

- Anh Vinh thương mạ anh ấy hơn cả, đi hỏi mình là mạ anh ấy đi hỏi, mình cũng biết nhưng mà mình thích như rứa. Tình yêu đến sau hôn nhân theo ý mình vẫn bền hơn. Có nhiều đôi vợ chồng yêu nhau chí chết mà cưới nhau rồi sau đó vài năm tình yêu cũng phai. Mình sợ lắm.

Quan niệm về hôn nhân và tình yêu hơi không hợp thời của Trang làm cho cô bạn gái đành tiu nghỉu ra về. Tưởng gieo được những sự phá rối nghi ngờ cho anh chị lủng củng với nhau chơi mà thấy Trang quá vô tư, không thèm lo ngại gì nên Tú Uyên cũng hết muốn nói thêm. Ghé thăm mấy cô bạn khác, kể cho họ nghe, cô nào cũng chỉ trích “Hắn cổ lỗ chi lạ, đời chừ mà còn có những cái quan niệm cũ rích. Tại từ nhỏ tới lớn đeo bên lưng mẹ nên mới xưa lắc xưa lơ như rứa, ‘hôn nhân đi trước tình yêu’ thì còn ra chi!”

Ngoài miệng tuy nói vậy nhưng trong lòng cô nào cũng đồng ý là nếu mình được ở địa vị của Trang, có người như Vinh đi hỏi thì mình cũng xin ký cả hai tay cho tình yêu đến sau hôn nhân.

Tú Uyên về rồi, Trang mang câu chuyện của cô bạn gái vừa nói với mình ra kể lại cho mẹ nghe, nhưng cũng như Trang, bà Phủ đã gạt đi, cho rằng người ta đặt chuyện ra để phá rối.

- Thiên hạ là hay ganh ghét lắm, con đừng thèm nghe!

- Con không nghe mô, mạ khỏi lo, con đã nói là khi mô anh Vinh kể con mới tin mà...

Hai mẹ con lặng lẽ đi vào nhà. Trang mở đèn tiếp tục đọc quyển sách của Vinh, bà Phủ cũng xuống bếp coi làm cơm, chẳng còn ai nhớ đến câu chuyện của Tú Uyên nữa.

Có những kẻ được trời thương, không cho cái tính ưu tư vặt, người khác nghe thế chắc là đã cuống cuồng, đêm nay khỏi ăn khỏi ngủ.

************************
 


Vinh đọc đi đọc lại mấy lần bức điện tín trong tay “Về ngay mạ chết”. Ý nghĩ thứ nhất của Vinh là chỉ muốn nhào từ trên gác xuống dưới đất để chết theo mẹ. Nhưng sau vài phút bình tĩnh lại, Vinh nhất quyết không cho đó là sự thật. Lần đầu tiên Vinh mới nhận biết rằng mình tin tưởng ở cái tôn giáo của mẹ. Mỗi người, nếu muốn biết mình có tin hay không, và tin nơi đâu thì hãy chờ những phút nào đau khổ lo sợ nhất, nếu lúc ấy mà tự nghe mình cầu xin thì tự khắc sẽ biết là mình tin ai, tin vào đâu.

Vinh vẫn cầu nguyện nhưng vẫn nghĩ đây chỉ là một trò đùa hoặc mưu mô của ai bày đặt ra để phá mình, tuy rằng đấy không phải là một trò đùa có thể tha thứ.

Đùa hay thật, Vinh cũng phải nhờ Hoàng đi xin nghỉ việc, còn mình lo về thu xếp quần áo và lấy vé máy bay về Huế ngay.

Vừa vào tới trong sân, nhìn thấy vẻ tang tóc của cha và các em, lúc bấy giờ Vinh mới chịu tin là sự thực, Vinh mới nghe trong lòng quằn quại, nếu không cố sức đè nén chắc sẽ khóc òa lên.

Hôm qua cho đến suốt mấy tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay, Vinh không thể nào tưởng tượng là mẹ có thể chết một cách mau chóng như vậy. Từ trước mỗi lần có dịp nhìn những cái đám ma, nghe những tiếng khóc, không bao giờ Vinh nghĩ rằng những sự tang tóc ấy rồi một ngày nào đó cũng sẽ đến mình. Mải khi nó đến rồi mới ngẩn ngơ hối hận, sao không ngờ trước để phòng bị sẵn hoặc để ăn ở đối xử với người chết cho xứng đáng hơn.

Nếu Vinh biết hôm mẹ vào Nam thăm mình đó là lần cuối thì mấy hôm ấy Vinh đã nghỉ việc không đi làm để suốt ngày được ngồi bên mẹ, Vinh đã làm tất cả cả những gì cho mẹ vui lòng, nhưng làm sao biết trước được.

Chiếc hòm sơn đỏ vừa được chở vào nhà trước lúc Vinh về đến sân, mặc dầu từ xưa, bà Hải không muốn những cái đám ma to lớn, cho đó là một sự phí phạm, chết rồi còn báo người thân phải tốn tiền. Nhưng ông Hải nhất định bắt phải đi mua cho được một cỗ hòm lớn đắt tiền vì nghĩa tử là nghĩa tận, ông không muốn cho vợ ông lạnh lẽo trong một chiếc hòm mỏng manh bé nhỏ.

Đợi Vinh về mới liệm để cho Vinh được nhìn mặt mẹ cũng là ý kiến của ông Hải vì biết rằng vợ mình chỉ sống cho mỗi thằng con trai đó mà thôi. Cho hai mẹ con được nhìn nhau một lần cuối là việc rất quan trọng, và ông Hải tin chắc rằng vợ mình sẽ cảm ơn cái hành động đó nhất, nếu người chết còn nói được.

Vinh hỏi tỉ mỉ cặn kẽ từng người trong nhà về cái chết của mẹ, ai biết trước nhất, đêm trước khi chết mẹ đã làm những gì, nói những câu gì, mẹ buồn hay vui, mẹ có tỏ vẻ mệt nhọc hoặc đau đớn chỗ nào không. Tất cả mọi người đều phải chịu cho Vinh lấy khẩu cung, biết là Vinh đang đau khổ nên chẳng ai dám trái ý.

Theo tất cả những lời khai, Vinh đang biết đại khái là từ hôm ở Sài Gòn về, mẹ kém vui, hay ngồi thừ ra một mình như có vẻ suy nghĩ gì nhiều lắm. Bà mang rất nhiều quà đến cho Trang và cho bà Phủ, chỉ có Trang với bà Phủ mới làm cho bà vui mỗi lần hai mẹ con nhà ấy tới thăm. Ban đêm bà Hải không ngủ sớm như lệ thường mà hay lần tràng hạt rất khuya, ông Hải phải giục mới chịu vào ngủ.

Đêm hôm trước, khi đi ngủ cũng chẳng ai nhận thấy có một điểm nào thay đổi, bà vẫn lo dặn con bé ở ngày mai dậy nấu xôi cho hai em ăn rồi đi học. Thế rồi sáng hôm sau, trái với lệ thường không thấy bà dậy sớm, ông Hải nhẹ nhàng đi làm việc, sợ đánh thức giấc ngủ của vợ, ngờ rằng đêm qua vợ có gì làm mất ngủ nên mới chợp mắt đó chăng. Đợi đến tám, rồi chín rồi mười giờ, chẳng ai dám vào hỏi thăm, ngoài đường tiếng xe cộ qua lại ồn ào như thế mà vẫn không làm cho bà Hải thức giấc, đấy là một điểm đáng ngạc nhiên nhưng không đứa nào tỏ ý tò mò ngờ vực gì cả.

Mải đến mười hai giờ ông Hải đi làm về hỏi thăm vợ, nghe nói bà Hải còn ngủ, ông lo ngại đi thẳng vào phòng, và lúc ấy mới hay rằng bà Hải đã chết từ lâu. Mời bác sĩ đến nhưng bác sĩ cũng không làm gì được hơn. Tìm chung quanh không có dấu vết nào khả nghi, bác sĩ ngờ rằng bà bị tim hay óc. Muốn biết rõ thì phải mổ nhưng ông Hải từ chối, đằng nào vợ cũng chết rồi, chẳng cứu vãn lại được, thôi thì tốt hơn là đừng biết để cho thân thể người chết được nguyên vẹn.

Nhìn xác mẹ nằm trên giường, Vinh chợt nhớ lại cái hình ảnh cách đây mấy tuần trước khi mẹ còn ở với mình trong Nam sau buổi nói chuyện hôm ấy, rồi mẹ giận bỏ vào ngủ, lúc Vinh đi ngang liếc nhìn qua phòng cũng thấy hai tay mẹ đặt lên ngực hệt như thế.

Nếu đêm ấy Vinh vào hỏi một câu gì thì sẽ được mẹ trả lời, nhưng hôm nay, dẫu Vinh có gào lên, có vật vã khóc lóc đến mấy, người chết cũng không thèm cử động. Xác mẹ cứng đờ như một khúc gỗ nằm đấy, bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu sự hiểu biết thâu nhặt trong mấy chục năm trời nay đã tan biến đi đâu mất hết!

Vinh đến cầm bàn tay lạnh lẽo của mẹ thì thầm nói những lời xin lỗi “Con hứa sẽ không theo đạo, sẽ không cưới Khanh, mạ tha lỗi cho con”. Vinh tin rằng mẹ vẫn còn nghe lời mình.

Trước khi tiễn mẹ về Huế Vinh cũng đã hứa rồi, nhưng bây giờ bên xác mẹ Vinh muốn nhắc lại một lần nữa như thắt thêm một nút dây vào tim mình. Tuy không dám tự thú, nhưng trong lòng thằng con trai vẫn cho rằng cái chết của mẹ hôm nay là do lỗi mình gây ra tất cả, nếu không có câu chuyện yêu đương với Khanh thì bà Hải đâu cần phải vào Nam và trở ra một cách gấp gáp như vậy. Nếu Vinh không yêu Mai Khanh thì làm gì có câu chuyện cãi nhau giữa bà Hải với Mai Hương, người mẹ đâu có phải chịu những cơn xúc động dữ dội ấy.

Ông Hải thấy con buồn và tỏ vẻ hối hận, ông không hề có một lời trách móc. Trái lại trước thái độ buồn bã của Vinh ông phải tìm cách dỗ dành thằng con trai.

- Cậu chắc là mạ bị chứng đau tim, bên ngoại con có cái chứng nớ, hình như ông ngoại con và một trong mấy người cậu của con cũng chết lặng lẽ như rứa. Ngủ một đêm rồi chết chớ chẳng đau ốm gì cả, mà rứa là có phước vô cùng, ai cũng không mong chi hơn, ngay cả César cũng chỉ ước được chết cho mau và không biết trước.

Ông Hải định ngừng, muốn để cho con trai có thì giờ mà suy nghĩ nhưng thấy Vinh vẫn đờ ra, ngồi như vô tri vô giác, người cha lo sợ vội vã nói thêm. Theo kinh nghiệm của ông thì không bao giờ nên để cho một người đang buồn có những phút trống rỗng vì những phút ấy rất có thể đưa đến những ý nghĩ tai hại, liều lĩnh. Nhất là ở hoàn cảnh Vinh vừa buồn vừa hối hận, nếu chỉ buồn không thôi thì nỗi buồn ấy có thể mang đến nhiều cảm hứng, có thể sáng tác thành nhạc, thành thơ và nên để yên một mình, đừng đến quấy rầy cho người buồn được tự do buồn. Đằng này Vinh và bà Hải, ngoài tình mẹ con như còn có một thứ tình gì sâu xa thiêng liêng hơn nữa mà ông Hải đã từng nhận thấy ngay từ khi thằng bé mới sinh. Nói theo thuyết nhà Phật thì hai người này kiếp trước đã có hẹn hò nhau, nợ nần nhau chi nhiều lắm...

- Mạ con từ thời còn trẻ cũng thường cầu nguyện xin cho được ngủ rồi chết luôn chứ đừng phải đau ốm, vừa hành hạ thể xác vừa làm khổ con cháu, bắt con cháu phải săn sóc hầu hạ vất vả. Mạ rứa là có phước hơn cậu, chết trước khỏi phải khóc người mình thương mà lại được người ta khóc thương mình.

Vinh nhìn cha tỏ ý cảm ơn, không ngờ cha có thể cao thượng đến thế. Lúc này ông Hải có quyền xỉ vả mắng nhiếc Vinh, một người cha khác thấp kém hơn sẽ đổ tất cả tội lên đầu Vinh cho bớt đau khổ.

Nhận thấy cha mình sau cái chết của mẹ như cũng già hẳn đi so với hồi Tết khi Vinh ra thăm, đôi mắt ông Hải trước kia đã hơi sâu, bây giờ như có bàn tay nào moi thêm cái lỗ để chôn vào sâu hơn nữa. Những nếp nhăn khi da thịt béo tốt thì căng thẳng ra không thấy rõ, nhưng hai hôm nay gầy tóp xuống như vừa được nét bút chì của ai tô đậm lên trán, lên mép, lên đôi mắt. Vinh cau mặt lo sợ rồi đây sẽ còn một lần nữa phải khóc cha và cuộc đời như thế là hết, một thế hệ trước mình đang rũ tàn xuống và lần lượt đến thế hệ của mình cũng sẽ tiếp theo. Vinh thì thầm nói như sợ định mệnh có nghe thấy mà tìm cách ngăn cản:

- Cậu xin nghỉ vô Sài Gòn ở với con.

- Để khoan đã hẵng tính, cậu chưa biết, chừ mạ mới chết mà cậu bỏ thì thì ai trông coi mộ mạ lúc mới ni, tội nghiệp mạ...

Công việc ma chay rước thầy tụng kinh ngày đêm cho đến tẫn liệm có bà Phủ Ninh và Đoan Trang lo lắng hết, hai cha con Vinh hoàn toàn bất lực. Dì Tư thì suốt ngày ở trong bếp vì khách đến phúng điếu đông nên phải trông việc cơm nước, cả nhà chẳng có ai có thì giờ để buồn, chỉ trừ ông Hải và Vinh vô phận sự, khách tới cũng không tiếp, giao cả cho Đoan Trang với mẹ và hai chú bé Minh và Thi. Bà Phủ xin phép cho Đoan Trang được vấn khăn tang vì theo lời bà, một lời đã hứa, dầu chưa cưới nhưng cũng đã như dâu con trong nhà.

Chiếc khăn tang trên đầu người con gái như thêm một sợi dây ràng buộc lại với Vinh nữa, mặc dầu Vinh không mấy khi gặp Trang nhưng người con gái ấy, mẹ đã thay định mệnh mà gán vào đời mình. Vinh nhìn Trang vừa hối hận, vừa thương hại mà lại vừa bực tức.

Cuộc tình duyên với Khanh thế là phải chấm dứt, tất cả những sự ấy chỉ vì đầu óc thiển cận của loài người. Nếu không có cái hòm sơn đỏ của mẹ nằm sừng sững chắn ngang những ý nghĩ thì Vinh sẽ khổ sở khi biết từ nay mình phải quên Khanh, không có quyền yêu người con gái ấy nữa. Nhưng cái chết của mẹ đã đủ sức làm tê liệt tất cả những thứ cảm tình khác, nỗi buồn mất mẹ đã đánh bạt được nỗi buồn mất người yêu.

Nhiều lần Vinh bắt gặp mình đang thầm thì với người chết: “Mạ ơi, tại con nên mạ mới chết.” Một lần có cả trước mặt Trang mà Vinh cũng không kiềm chế nổi làm cho Trang nhạc nhiên:

- Anh Vinh nói chi lạ rứa, mạ mất là tại số, anh đừng để cho những ý nghĩ bi quan ấy nó đi sâu vào tâm trí, em sợ anh sẽ buồn rồi sinh ốm đau thì khổ lắm...

Vinh lắc đầu, chàng chỉ nghe lời Trang có một phân nửa, đầu óc đang đi tìm những gì đâu đâu.

- Trang làm răng mà hiểu được, chính tôi đã giết mạ.

- Anh điên rồi anh Vinh, em sợ anh Vinh buồn quá đâm ra điên lên mất!

Trang vừa nói vừa khóc, lúc ấy Trang cảm thấy thương Vinh hơn bao giờ cả; nếu không sợ có người trông thấy, nếu không sợ cái hòm của bà Hải đang chắn ngang giữa hai người, thì Trang đã chạy đến ôm lấy Vinh để che chở bảo bọc cho Vinh, biết rằng Vinh đang cần sự che chở. Trang chợt nhớ đến câu nói của mẹ mình thường vẫn nói: “Đàn ông có học hành khôn ngoan chi mấy rồi cũng như con nít, khi mô cũng cần có người đàn bà bên cạnh để giúp đỡ bảo bọc.”

Mấy lần Vinh còn muốn hét lên câu “tôi đã giết mẹ” cho mọi người cùng nghe để cho họ dè bĩu mắng nhiếc, may ra mới đáng, hay là cũng chưa đáng? Nghĩ đến Khanh đang ở Sài Gòn một mình, sống chung trong gia đình mà cô độc không kém người bộ hành trên sa mạc, Vinh cảm thấy thương Khanh, tội nghiệp Khanh, rồi đây khi nghe Vinh nói chấm dứt thì Khanh sẽ phải khổ đến thế nào. Câu hứa với mẹ và câu nói giận dỗi của mẹ cũng như còn vang bên tai “Con làm chi thì làm, chừ con có vì mạ mà không lấy người ta, thì sau khi mạ chết rồi...”

Làm sao Vinh có thể hành động khác hơn, nhất là gia đình Khanh lại đòi hỏi phải theo đạo...

******************
 
 


Vinh ở chờ đến ngày mở cửa mả cho mẹ xong mới tính chuyện vào Nam, không muốn bỏ cha đơn chiếc trong lúc này. Mất vợ, ông Hải ngơ ngác như con chim lạc bầy lạc lối. Từ trước đến nay người vợ đối với ông cũng quan hệ và cần thiết như cánh tay đôi chân, bây giờ ông Hải cảm thấy như người què cụt. Ông lúng túng trước tất cả mọi vấn đề, chắc cần phải một thời gian lâu lắm mới làm quen được với những sự kiện lạ lùng này.

Đêm nay trước khi vào Sài Gòn, Vinh với cha thức trắng bên cạnh bàn thờ bà Hải để nói chuyện, vì cũng chưa biết đến bao giờ mới lại có dịp gặp nhau. Vinh muốn cha nói với bà Phủ Ninh rằng hiện đang có tang, chưa muốn cưới vợ ngay, chắc bà Phủ cũng hiểu cho như thế.

May mắn là nhà bà Phủ Ninh và cả Đoan Trang chẳng ai biết được câu chuyện của Vinh và Khanh, hôm nọ ngồi cạnh quan tài mẹ Vinh suýt khai thật với Trang nhưng rồi thấy không lợi gì cho ai nên lại thôi không nói nữa, nhất là thấy Trang tin tưởng nơi mình quá, Vinh đâm ra ngần ngại. Vinh chỉ lo bà Hải đã tỏ một cử chỉ gì, nhưng thấy sự hồn nhiên tin tưởng của hai mẹ con Đoan Trang thì Vinh yên trí mẹ đã nghe lời hứa của mình trước khi hai mẹ con từ giã nhau ở sân bay.

Mang câu chuyện ấy ra nói với ông Hải, Vinh đã rất ngạc nhiên không chờ đợi những lời của cha mà theo ý Vinh, nếu mẹ nghe được chắc sẽ giận lắm. Ông Hải nói:

- Theo ý cậu thì con không cần phải giữ lời hứa với mạ làm chi, nếu vì lời hứa mà suốt đời con phải sống trong sự hối tiếc thì chắc là ở trên trời hay ở một thế giới nào khác đó mạ cũng không vui. Sống với người mình không thương, khổ sở vì thương một người mà không được lấy, cả hai đằng đều làm cho mình mất tinh thần. Cậu đã biết rõ những sự bực tức đó ngày cậu bằng tuổi con.

- Thiệt ra con cũng không muốn theo đạo, dầu chỉ theo có một hôm để được vợ được chồng như người ta vẫn làm. Mà không vô đạo thì đời mô nhà người ta chịu gả. Con đã gián tiếp thúc đẩy cái chết của mạ, nếu không có câu chuyện của con thì con chắc mạ vẫn còn sống.

Ông Hải lắc đầu không muốn đổ hết tội cho con, ông muốn đổ cho số mệnh, theo ông thì tại cái số xui như thế, có Vinh hay không có thì đến hôm nay bà Hải cũng phải rời ông.

-Người đàn bà khi muốn, họ có thể làm tất cả mọi hành động, không lùi trước bất cứ một sự gì.

- Con muốn nói ai?

- Cô chị, tác giả của bức thư gửi cho mạ, nếu biết kết quả như hôm nay liệu cô ta có chút chi hối hận hay là đắc chí.

Thấy cha không biết về chuyện Mai Hương đến nhà gây gổ với bà Hải, Vinh phải kể lại hết cho cha nghe, kể cả lý do vì sao lại xảy ra cái mối tình oan nghiệt giữa hai người. Ông Hải bình tĩnh lắng nghe như người nghe một câu chuyện cổ tích. Đợi con ngừng rồi, ông mới thở dài chán nản bày tỏ ý kiến của mình:

- Rứa mà mạ về không nói chi cho cậu biết cả, chắc mạ sợ cậu nghe rồi sẽ giận con. Chừ mạ chết rồi, cậu như người mù bị ai giựt mất gậy. Cậu không ngờ là con thương cô Khanh, nếu biết thì cậu sẽ cản không cho mạ đi hỏi cô Trang. Cái chết của mạ là do sự chật hẹp trong quan niệm về tôn giáo của cả hai bên. Nếu cứ tiếp tục chật hẹp như ri mãi thì còn có nhiều cái chết khác nữa, chết một cách vô lý, vô duyên.

Vinh đồng ý với cha nhưng cũng như cha, không tìm thấy một lối thoát nào cả. Ông Hải chậm rãi tiếp lời:

- Cậu tin rằng khi chết rồi thì sự nhận xét chắc phải sáng suốt hơn, mạ sẽ không trách con nữa và sẽ thấy sự khư khư ôm lấy chữ đạo của mình như rứa là thiển cận, là trái cả với ý Phật của mạ. Nếu con thấy chỉ có thể hạnh phúc sung sướng với cô Khanh thì cậu khuyên con nên vô đạo để cưới cô ta, cậu sẵn sàng chấp nhận cô ta làm con dâu, sẵn sàng thương cô ta như con gái. Ít nhứt mình cũng đập bể được bức thành ngăn cách chia rẽ, bức thành biên giới xây lên do những sự tin tưởng mù quáng của loài người, do những sự tham lam của một số người thống trị muốn kìm giữ để cho dễ bề sai khiến.

Vinh cắt ngang câu nói của cha, người con trai không muốn làm trái ý mẹ, mặc dầu rất kính phục cha, không ngờ cha ở vào một thế hệ trước mà lại có một quan niệm quá rộng rãi như thế. Ông Hải đã đi trước mọi người quá xa với những tư tưởng ấy.

- Con đã hứa với mạ nên con muốn giữ lời, hình như con đang thay đổi, giờ phút ni đối với con thì cô mô cũng giống nhau, không lấy ai hết cũng chẳng có gì phải buồn bực. Nghĩ lại cho kỹ, mình thấy mình đã quá quan trọng hóa cuộc đời một cách ngu ngốc, những vấn đề to tát hôm nay, ngày mai có thể thành viễn vông bé nhỏ. Cái bức thành biên giới mà cậu vừa nói, con cũng thấy nó không đáng để cho mình phải đặt lên một vị trí quá cao. Cậu có thấy khi đứng trước cái chết, nhất lại là cái chết của một người thân thì cái “tôi” hôm nay không còn là cái “tôi” của ngày hôm qua nữa...

Ông Hải gật đầu; chính ông cũng đang nghĩ như thế, nếu vợ ông còn sống thì nhất định ông không dám xúi con cứ vào đạo để cưới vợ. Chính mấy hôm trước ông cũng đang bị những ý nghĩ như hôm nay ông cho là chật hẹp bao vây lấy tâm trí. Ông Hải ngạc nhiên, người như ông, từ trước đến giờ đã từng trải qua bao nhiêu đau khổ rồi mà tư tưởng đầu óc cũng chưa thông. Phải đến hôm nay, trước cái chết của vợ, ngồi trước bàn thờ mới có những ý nghĩ rộng rãi này, kể cũng hơi chậm.

- Con cũng không nên oán giận cô Mai Hương làm chi, mạ chết còn là tại mấy chục năm trời sống căng thẳng, nhứt là về sau ni, từ khi có những biến cố xảy ra cho gia đình, cho đất nước. Mạ chịu đựng nhiều như hầu hết những người đàn bà khác trong xứ, chịu đựng một cách âm thầm can đảm, cho đến khi sự chịu đựng trở thành một thói quen.

Cả cái chuyện cãi vã với cô chị đó chỉ là một cái đấm cuối cùng làm ngã người lực sĩ hay ví một cách tầm thường dễ hiểu hơn, thì đó là giọt nước cuối cùng làm tràn ra miệng chén. Con không nên đổ lỗi cho cô ta mà oan, mình không nên xét oan cho ai. Khi đến tìm mạ để gây, chắc cô ta không nghĩ đến cái kết quả hôm nay.

Vinh cau mặt nhìn cha, dưới ánh đèn, mái tóc bạc như được ai phết lên một lớp dầu bóng loáng, nét mặt ông Hải trở nên sâu sắc nhưng hiền lành. Vinh rùng mình vì một ý nghĩ chợt đến, khi con người đạt tới được những tư tưởng từ bi hỉ xả ấy rồi thì phải chăng đó là triệu chứng báo hiệu sự xa lìa cuộc sống trần tục?

Cái chết của bà Hải như một thứ dược phẩm có tính chất thanh lọc, cái chết ấy làm lắng tan những ý nghĩ ngờ vực oán hận. Vinh muốn đưa những thắc mắc của mình ra nói với cha, nhưng ông Hải lên tiếng trước:

- Con có thể ngạc nhiên khi thấy cậu không buồn, không khóc, nhưng chắc con đã đọc câu chuyện thần thoại Hy Lạp, bà Niobé khi thấy mười bốn đứa con của mình chết thì đã lặng lẽ biến thành đá. Sự khổ đau mà còn đo lường được với những lời than thở, với những giọt nước mắt thì có thể xem đó là chưa tới tuyệt đỉnh.

Vinh cắn môi suy nghĩ những lời cha vừa nói, cảm thấy mình gần cha và thương cha hơn. Tâm hồn cha là cả một quyển sách triết lý cao siêu thế mà mấy lâu nay sao mình lại xao lãng, mải lo chạy theo những gì đâu đâu.

Ánh đèn chong trên bàn thờ lòe sáng. Vinh và ông Hải ngẩng lên tưởng như người chết cũng trở về dự cuộc nói chuyện đêm nay với hai cha con.



HẾT

____________________

Minh Đức Hoài Trinh

15/10/1967


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có.