Tam Bảo văn chương Phần 1: Tựa Đoàn Trung Còn Sách xưa có câu: Văn chương là phương tiện để ghi chép đạo lý, cũng có nghĩa là cỗ xe chở đạo. Lại có câu: Nói mà không có văn chương thì lưu hành chẳng được xa. Vậy bất cứ tôn giáo nào cũng đều cần dùng văn chương để gửi gắm, phát triển, và truyền bá đạo lý, làm cho đạo lý có thể lưu lại ngàn đời, truyền xa ra ngoài muôn dặm. Ví như có một thắng cảnh kia, chân ta chưa từng bước tới, mắt ta chưa được xem qua, có thể nhờ văn chương của các tao nhân mặc khách miêu tả mà cảnh trí thanh lịch rực rỡ đều như hiện ra trước mắt, chẳng khác gì ta đã từng đi đến tận nơi vậy.

Đức Phật thuyết Pháp, chư tăng gìn giữ pháp Phật để vĩnh viễn lưu truyền làm đạo lý tế độ quần sanh. Vì thế, Phật, Pháp và Tăng là ba món báu của chúng sanh, xuất hiện ở Thiên Trúctừ hơn 25 thế kỷ trước đây, mà lan rộng ra khắp mười phương, lưu lại lâu dài tới vạn kiếp, cũng nhờ có văn chương làm phương tiện ghi chép đạo lý, khiến cho chúng sanh ở khắp mười phương, ở sau vạn kiếp đều đặng hiểu rõ mà tin tưởng, tôn trọng đạo mầu.

Phật giáo truyền sang Việt Nam ta, không kể giai đoạn Bắc thuộc vốn chưa có chứng cứ khảo cứu chắc chắn, chỉ kể từ sau khi độc lập, trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, cho tới triều Nguyễn, trên ngàn năm nay, ngày lần thịnh hành, từ thành thị cho đến hương thôn, đâu đâu đều có chùa chiền, danh lam thắng tích rất nhiều, thì thấy rằng chúng sanh phương Nam này rất đông người tin tưởng và tôn trọng đạo Phật.

Nhưng tin tưởng và tôn trọng mà không bày tỏ thành lời thì không đủ tỏ được lòng thành tín. Cho nên các tín đồ đạo Phật thường dùng các thể thi ca từ phú để ngâm vịnh, miêu tả, đặng gửi gắm lòng đạo, phát triển ý đạo, mà lưu truyền Ba món báu cho được dài lâu. Những áng văn chương ấy góp lại cũng nhiều, đều là việc dẫn giải đạo lý, để bày tỏ sự mến mộ đối với đạo mầu.

Những giá trị ấy, há nên để tán lạc mà mai một mất đi sao? Vậy bổn tòng thơ sưu tập các bài thi ca từ phú của các tao nhân mặc khách xưa nay, lựa ra từng phần, lấy nhan đề chung là Tam Bảo văn chương, in làm một quyển sách, nhằm cống hiến cho các bạn thiện tín thường ngày ngâm vịnh mà nuôi dưỡng tấm lòng mộ đạo.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 2: I. CÁC THỂ CA (kệ, hát nói, lục bát, song thất lục bát) - BẢY BÀI KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT Đoàn Trung Còn 1. Kệ đức Phật Tỳ-bà-thi (Vipayin) (Đức Thế Tôn thứ 998 về Quá khứ Trang nghiêm kiếp)
 
Thân tùng vô tướng trung thụ sanh,
Du như huyễn do chư hình tượng.
Huyễn nhân tâm thức bổn lai vô,
Tội phúc giai không vô sở trụ.
 
Diễn nôm


Thân thọ sanh từ nơi không tướng,
Như giấc mơ do tượng hình ra.
Người mơ tâm thức đâu mà?
Trụ đâu tội phước đều là thành không.

Kinh Trường A-hàm chép rằng: Vào thuở mà người ta hưởng thọ được tám muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Bàn-đầu, mẹ là Bàn-đầu Bà-đề. Ngài ở thành Bàn-đầu Bà-đề, ngồi dưới cây Ba-ba-la, thuyết pháp ba hội, độ cho người ta được 348.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Khiên-trà, phép thứ hai tên là Đề-xá. Thị giả là ngài Vô-ưu-tử Phương Ưng.
 

2. Kệ đức Phật Thi-khí (Ikhin)
(Đức Thế Tôn thứ 999 về Trang nghiêm kiếp)
 
Khởi chư thiện pháp bổn thị huyễn;
Tạo chư ác nghiệp diệc thị huyễn.
Thân như tụ mạt, tâm như phong,
Huyễn xuất vô căn vô thật tánh.
 
Diễn nôm

Pháp lành khởi, vốn xưa là huyễn;
Nghiệp dữ gây, cũng huyễn mà ra.
Thân bọt đậu, tâm gió qua,
Không gốc, không thật, tánh là huyễn thôi!

Kinh Trường A-hàm chép rằng: Vào thuở mà người ta hưởng thọ được bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Minh Tướng; mẹ là Quang Diệu. Ngài ở thành Quang Tướng, ngồi dưới cây Phân-đà-lỵ, thuyết pháp ba hội, độ cho người ta được 250.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là A-tỳ-phù, phép thứ nhì tên là Bà-bà. Thị giả là ngài Nhẫn-hạnh-tử Vô Lượng.
 

3. Kệ đức Phật Tỳ-xá-phù (Visvabhù)
(Đức Thế Tôn thứ 1.000 về Trang nghiêm kiếp)
 
Giả tá tứ đại dĩ vi thân,
Tâm bổn vô sanh, nhân cảnh hữu.
Tiền cảnh nhược vô, tâm diệc vô,
Tội, phước như huyễn, khởi diệc diệt.
 
Diễn nôm

Bốn vật lớn mượn làm thân đó,
Tâm không sanh, nhân cảnh mà sanh.
Cảnh không, tâm cũng không thành,
Đôi đàng tội phước như hình huyễn thôi!
 
Kinh Trường A-hàm chép rằng: Vào thuở mà người ta hưởng thọ được bảy muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Thiện Đăng, mẹ là Xương Giới. Ngài ở thành Vô Dụ, ngồi dưới cây Bà-la, thuyết pháp hai hội, độ cho người ta được 113.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Phù-du, phép thứ nhì tên là Uất-đa-ma. Thị giả là ngài Tịch-diệt-tử Diệu Giác.
 

4. Kệ đức Phật Câu-lưu-tôn (Krakucchanda)
(Đức Thế Tôn thứ nhất về Hiện tại Hiền kiếp)
 
Kiến thân vô thật thị Phật thân.
Liễu tâm như huyễn thị Phật huyễn,
Liễu đắc thân, tâm bổn tánh không.
Tư nhân dữ Phật hà thù biệt?
 
Diễn nôm

Thân không thật, ấy là thân Phật;
Tâm bông lông, biết Phật bông lông.
Thân, tâm, tánh ấy vốn không,
Người ta với Phật cũng đồng như nhau.

Kinh Trường A-hàm chép rằng: Vào thuở mà người ta hưởng thọ được bốn muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca-diếp. Cha tên là Lễ Đắc, mẹ là Thiện Chi. Ngài ở thành An Hòa, ngồi dưới cây Thi-lỵ-sa, thuyết pháp một hội, độ cho người ta được 40.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Tát-ni, phép thứ hai tên là Tỳ-lâu. Thị giả là ngài Thiện-giác-tử Thượng Thắng.
 

5. Kệ đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (Kanaka­- mouni)
(Đức Thế Tôn thứ 2 về Hiền Kiếp)
 
Phật bất kiến thân, tri thị Phật,
Nhược thật hữu tri, biệt vô Phật.
Trí giả năng tri tội tánh không,
Thản nhiên bất bố ư sanh tử.
 
Diễn nôm

Thân chẳng thấy, biết là thân Phật,
Nếu biết rồi, thì Phật là không.
Người khôn biết tội tánh không,
Thản nhiên chẳng sợ trong vòng tử sanh.

Kinh Trường A-hàm chép rằng: Vào thuở mà người ta hưởng thọ được ba muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca-diếp. Cha tên Đại Đức, mẹ là Thiện Thắng. Ngài ở thành Thanh Tịnh, ngồi dưới cây Ô-tàm Bà-la-môn, thuyết pháp một hội, độ cho người ta được 30.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Thư-hàm-na, phép thứ nhì là Uất-đa-lâu. Thị giả là ngài An-hòa-tử Đạo Sư.
 

6. Kệ đức Phật Ca-diếp (Kayapa)
(Đức Thế Tôn thứ 3 về Hiền kiếp)
 
Nhất thiết chúng sanh tánh thanh tịnh,
Tùng bổn vô sanh, vô khả diệt.
Tức thử thân, tâm thị huyễn sanh,
Huyễn hóa chi trung vô tội, phước.
 
Diễn nôm

Tánh chúng sanh thảy thanh tịnh hết,
Do không sanh, không diệt mà ra.
Thân, tâm là huyễn thôi mà,
Huyễn thì tội, phước hóa là đều không.

Kinh Trường A-hàm chép rằng: Vào thuở mà người ta hưởng thọ được hai muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca-diếp. Cha là Phạm Đức, mẹ là Tài Chủ. Ngài ở thành Ba-la-nại, ngồi dưới cây Ni-câu-luật, thuyết pháp một hội, độ được người ta 20.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Đề-xá, phép thứ nhì là Bà-la-bà. Thị giả ngài là Thiện-hữu-tử Lập Quân.
 
7. Kệ đức Phật Thích-ca Mâu-ni (Çakyamouni)
(Đức Thế Tôn thứ 4 về Hiền Kiếp)
 
Pháp bổn pháp vô pháp,
Vô pháp, pháp diệc pháp.
Kim phó vô pháp thời,
Pháp pháp hà tằng pháp.
 
 
Diễn nôm

Pháp là pháp, vốn xưa không pháp,
Không pháp mà cũng pháp đó đây.
Ta trao không pháp buổi nay,
Pháp nào pháp nấy, nào hay pháp nào.

Ngài giáng sanh trong dòng nhà vua Sát-lỵ, phóng đại quang minh; dưới đất nảy lên hoa sen vàng. Ngài bước đi bảy bước, đưa một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, dùng tiếng như sư tử rống mà nói rằng: “Trên trời, dưới đất, chỉ có một mình ta là tôn quý.” Hôm ấy là ngày mùng 8 tháng 4 năm 624 trước Công nguyên. Ngài xuất gia tu hành thành Phật, chuyển Pháp luân Tứ diệu đế, thuyết pháp hành đạo 49 năm. Thị giả của ngài là ngài A-nan.

Sau ngài dạy đệ tử là Ca-diếp rằng:

“Nay ta đem Chánh pháp nhãn tạng, diệu tâm Niết-bàn giao phó cho nhà ngươi.”

Nói rồi ngài thuyết bài kệ trên.

Ngài thuyết kệ xong rồi, ngồi ngay thẳng, lặng lẽ nhập Niết-bàn dưới gốc cây Sa-la. Các đệ tử liền lấy củi thơm thiêu hóa. Năm ấy ngài 80 tuổi. 

Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 3: HƯƠNG SƠN PHONG CẢNH Đoàn Trung Còn Chu Mạnh Trinh
Bầu trời cảnh Phật,
Thú Hương sơn ao ước bấy lâu nay.
Kìa non non, nước nước, mây mây,
Đệ nhất động là đây có phải?
 
Thỏ thẻ rừng Mai chim cúng trái;
Lửng lơ khe Yến cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
 
Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng,
Này hang Phật Tích, này động Tuyết Quynh.
Nhác trông lên ai khéo vẽ hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt.
 
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt;
Gập ghềnh đôi lối uốn thang mây.
Chừng giang sơn còn đợi ai đây?
Hay tạo hóa sẽ ra tay xếp đặt?
 
Lần tràng hạt niệm: Nam-mô Phật,
Cửa từ bi công đức xiết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu.
 
 
 
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 4: VIẾNG CHÙA HƯƠNG TÍCH Đoàn Trung Còn Chu Mạnh Trinh
 
Hương sơn là thú thanh cao,
Những là nay ước mai ao mấy lần.
Thanh bình gặp hội du xuân,
Én anh nô nức xa gần đua nhau.
 
Thuận dòng ngàn liễu dặm dâu,
Một thuyền đàn sách, lưng bầu gió trăng.
Buồm lan nhẹ cánh lâng lâng,
Hay đâu mượn gió gác Đằng đưa duyên.
 
Giang sơn thì vẫn người quen,
Dạo chơi Châu Phố, xuôi miền Đục Khê
Chiêng vàng gác bóng non tê,
Dừng chèo, ướm hỏi lối về chùa trong.
 
Lần khe Yến Vĩ đi vòng,
Bốn bề bát ngát xa trông lạ dường.
Giữa dòng đáy nước lồng gương,
Mượn chèo ngư phủ đưa đường Đào Nguyên.
 
Lạ cho vừa bén màu thiền,
Mà trăm não với ngàn phiền sạch không!
Bầu trời man mác xa trông,
Biết đâu nước Nhược non Bồng là đâu.
 
Cỏ cây xanh ngắt một màu,
Yết thần Vạn Tuế, lên lầu Ngũ Doanh.
Nhác trông sơn thủy hữu tình,
Bút thần khôn vẽ bức tranh nào bằng.
 
 
Chung quanh những núi cùng rừng,
Đồng Ông một dãy, ngang lưng non Bà.
Núi Xôi, núi Oản, núi Gà,
Núi con Voi phục, bày ra bên cầu.
Nào ông Sào Phủ đi đâu?
Hang sâu còn vết dắt trâu rõ ràng.
 
Tiếng đâu văng vẳng chuông vàng,
Khói đâu nghi ngút mùi nhang Thiên Trù.
Thuyền lan mấy mái chèo đua,
Một giây thẳng tới bên chùa bước lên.
 
Lầu chuông, gác trống đôi bên,
Cửa rồng năm sắc, đài sen chín tầng.
Muôn hồng ngàn tía tưng bừng,
Suối khe réo nhạc, thông rừng dạo sênh.
 
Chim cúng trái, cá nghe kinh,
Then hoa gài nguyệt, chày kình nện sương.
Nam mô Phật Tổ vô lường,
Trai thành dâng một nén hương trụ trì.
 
Nước công đức, cửa từ bi,
Dịp cầu khổ hải, cánh bè mê tân.
Người lễ Phật, kẻ cầu thần,
Người con công, kẻ mộc ân vô vàn.
 
Phòng Tăng tựa chốn thanh nhàn,
Vui vầy đạo Phật, mê man màu thiền.
Lò trầm chưa dứt hương nguyền,
Túi thơ đủng đỉnh dạo miền Giải Oan.
 
Hỏi đây rằng Đệ nhị quan,
Rành rành vết ngọc còn in dấu giày.
Luân hồi nào dễ ai hay,
Oan gia thiệt lấy nước này giải cho.
 
Lần theo dấu thỏ quanh co,
Qua rừng mơ tốt đến chùa Chấn Song
Bầu trời bát ngát xa trông,
Võng trời rủ xuống mấy vòng thướt tha.
Chắp tay niệm Phật Di-đà,
Kẻ ngồi, người đứng, kẻ ra, người vào.
Non trời biết mấy tầng cao,
Đã đi phải đến, đã trèo phải lên.
 
Một tòa phong cảnh thiên nhiên,
Gió đâu văng vẳng nhạc tiên xa gần.
Cheo leo đỉnh núi non thần,
Cúi đầu trời thấp, cất chân mây đùa.
 
Hoa đua thắm, liễu khoe non,
Chim cúng trái, vượn ru con dập dìu.
Màu thanh vẻ lịch trăm chiều,
Hỡi ai mở khóa động đào cho nhau?
 
Một làn thăm thẳm hang sâu,
Rẽ đường nhác thấy đôi cầu hai bên.
Kìa lẫm thóc, nọ kho tiền,
Kìa Bảo tòa nọ Kim liên rõ ràng.
 
Phất phơ dải phướn vắt ngang,
Nước đâu nhỏ giọt quỳnh tương trên đầu.
Khen ai khéo dệt kim châu,
Áo cà-sa đủ năm màu linh lung.
Khen ai khéo lựa tơ đồng,
Cống, xang, hồ, đủ tám cung nhịp nhàng.
Thiên đường một lối sáng choang,
Đường đi âm phủ một hang tối mò.
 
Biết ai rằng cậu hay cô,
Lần đôi đường có nhấp nhô đầu người,
Bút hoa ai khéo vẽ vời,
Rêu in vách đá một vài câu thơ.
 
Khói trầm ngào ngạt xa đưa,
Giục người giấc mộng: trống trưa, chuông chiều.
Ngọn đèn lồng bóng trăng treo,
Tiếng kình chen tiếng tiêu thiều hôm mai.
 
Phật Bà cao ngự Liên đài,
Đôi bên Ngọc Nữ, Thiện Tài phán ban.
Thần thông hóa phép chan chan,
Hóa ngàn tay mắt, hóa ngàn chân thân,
 
 
Đô Thiên quan, Đô phu nhân,
Diệu Thanh cùng với Diệu Âm đôi nàng.
Thanh sư bạch tượng bày hàng,
Thâm nghiêm một điện linh quan ngất trời.
 
Kiếp tu hành biết mấy mươi,
Dấu thiêng đã mấy muôn đời còn đây.
Sắc không ngồi nghĩ cho hay,
Từ bi cũng tấm lòng này mà ra.
 
Cúi đầu làm lễ bước ra,
Hồ đi lại đứng, dần dà mấy phen.
Khách trần lạc lối cõi Tiên,
Họa sau này có nhân duyên chăng là?
 
Trải bao dặm liễu đường hoa,
Nhật trình chắp nhặt khúc ca tay đề.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 5: VĂN CÚNG CÔ HỒN Đoàn Trung Còn Nguyễn Du
 
Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt,
Toát hơi mây lạnh lẽo xương khô.
Não người thay buổi chiều thu,
Ngàn lau nhuộm bạc, lá ngô rụng vàng!
 
Đường bạch dương bóng chiều man mác,
Dịp đường lê lác đác sương sa.
Lòng nào lòng chẳng thiết tha,
Cõi dương còn có, nữa là cõi âm.
 
Trong trường dạ tối tăm trời đất,
Có khôn thiêng phảng phất u minh.
Thương thay, thập loại chúng sanh,
Hồn đơn, phách chiếc lênh đênh quê người
Hương lửa đã không nơi nương tựa,
Hồn mồ côi lần lữa mấy niên.
Còn chi ai khá ai hèn,
Còn chi mà nói kẻ hiền, người ngu!
 
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát,
Nước tịnh bình vẩy hạt dương chi.
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, cùng về Tây phương.
 
Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh,
Chí những lăm cất gánh non sông;
Nói chi đương buổi tranh hùng,
Tưởng khi thất thế vận cùng mà đau!
 
Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở,
Khôn đem mình làm đứa thất phu.
Giàu sang càng nặng oán thù,
Máu tươi lai láng, xương khô rụng rời
 
Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc,
Quỷ không đầu đón khóc đêm mưa.
Cho hay thành, bại là cơ.
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!
 
Cũng có kẻ màn lan, trướng huệ,
Những cậy mình cung quế, phòng hoa.
Một phen thay đổi san hà,
Mảnh thân chiếc lá, biết là về đâu?
 
Trên lầu cao, dưới dòng nước chảy,
Phận đã đành trâm gãy, bình rơi.
Khi sao đông đúc vui cười,
Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương?
 
Đau đớn nhẽ không hương, không khói,
Luống ngẩn ngơ trong cõi rừng sim.
Thương thay tay yếu chân mềm,
Càng năm càng héo, một đêm một dài!
 
Kìa những kẻ mũ cao áo rộng,
Ngọn bút son, sống, thác ở tay.
Kinh luân gom một túi đầy,
Đã đêm Quản, Nhạc, lại ngày Y, Chu,
 
Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm,
Trăm loài ma, mồ nấm chung quanh.
Ngàn vàng khôn đổi được mình,
Lầu cao viện hát tan tành còn đâu!
 
Kẻ thân thích vắng sau vắng trước,
Biết lấy ai bát nước chén nhang!
Cô hồn thất thểu dọc ngang,
Nặng oan khôn lẽ tìm đàng hóa sanh!
 
Kìa những kẻ bày binh, bố trận,
Đổi mình vào lấy ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ làm công một người.
 
Khi thất thế, tên rơi đạn lạc,
Bãi trường sa thịt nát máu trôi.
Mênh mông góc bể, bên trời,
Nắm xương vô chủ biết nơi chốn nào!
Trời xâm xẩm mưa gào, gió thét,
 
Khí âm huyền mờ mịt trước sau.
Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,
Nào đâu điếu, tế, nào đâu chưng, thường?
 
Cũng có kẻ tính đường trí phú,
Mình làm, mình nhịn ngủ, kém ăn.
Ruột rà không kẻ chí thân,
Dẫu làm nên để dành phần cho ai?
 
Khi nằm xuống không ai nhắn nhủ,
Của phù vân có cũng như không!
Sống thời tiền chảy bạc dòng,
Thác không đem được một đồng nào đi.
 
Khóc ma mướn thương gì hàng xóm?
Hòm gỗ da bó đóm đưa đêm!
Ngẩn ngơ trong quãng đồng chiêm.
Tàn hương, giọt nước biết tìm vào đâu.
 
Cũng có kẻ rắp cầu chữ quí,
Dấn mình vào thành thị lân la.
Mấy thu lìa cửa, lìa nhà,
Văn chương đã chắc đâu mà trí thân.
Dọc hàng quán phải tuân mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng kiêng khem.
Vội vàng liệm sấp, chôn nghiêng,
Anh em: thiên hạ; láng giềng: người dưng.
 
Bóng phần tử xa chừng hương khúc,
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang.
Cô hồn nhờ gởi tha hương,
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng!
 
Cũng có kẻ vào sông ra bể,
Cánh buồm mây chạy xế gió đông.
Gặp cơn giông tố giữa dòng,
Đem thân chôn rấp vào lòng kình, nghê.
 
Cũng có kẻ đi về buôn bán,
Đòn gánh tre chín rạn hai vai.
Gặp cơn mưa nắng khí trời,
Hồn đường, phách xá lạc loài nơi nao?
 
Cũng có kẻ mắc vào khóa lính,
Bỏ cửa nhà, gồng gánh việc quan.
Nước khe, cơm vắt gian nan,
Dãi dầu ngàn dặm, lầm than một đời!
 
Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.
 
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp,
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa.
Ngẩn ngơ khi trở về già,
Ai chồng con tá, biết là cậy ai?
 
Sống đã chịu một đời phiền não,
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa.
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sanh ra thế biết là tại đâu!
 
Cũng có kẻ nằm cầu, gối đất,
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi.
Thương thay cũng một kiếp người,
Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!
 
Cũng có kẻ mắc đoàn tù giặc,
Gởi mình vào chiếu rách một manh.
Nắm xương chôn rấp góc thành,
Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?
 
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé,
Lỗi giờ sanh, lìa mẹ, lìa cha.
Lấy ai bồng bế xót xa,
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
 
Cũng có kẻ chìm sông, lạc suối;
Cũng có người sẩy cội, sa cây;
Có người leo giếng đứt dây,
Người trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành.
 
Người thì mắc sơn tinh, quỷ quái,
Người thì xông nanh hổ, ngà voi.
Có người hay đẻ không nuôi,
Có người sa sẩy, có người khốn thương.
 
Gặp phải lúc đi đường lỡ bước,
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau.
Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu, phách lạc biết đâu bây giờ!
 
Hoặc là ẩn ngang bờ, dọc bụi,
Hoặc là nương ngọn suối, chân mây.
Hoặc là điếm cỏ, bóng cây,
Hoặc là quán nọ, cầu này bơ vơ.
 
Hoặc là nương thần từ Phật tự,
Hoặc là nhờ đầu chợ, cuối sông.
Hoặc là trong quãng đồng không,
Hoặc là gò đống, hoặc vùng lau tre.
 
Sống đã chịu một bề thảm thiết,
Ruột héo khô, da rét căm căm;
Dãi dầu trong mấy muôn năm,
Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương.
 
Nghe gà gáy, tìm đường lánh ẩn,
Lặn mặt trời, lẩn thẩn tìm ra.
Lôi thôi, bồng trẻ, dắt già,
Có khôn thiêng hãy lại mà nghe Kinh.
 
Nhờ phép Phật siêu sinh Tịnh độ,
Phóng hào quang cứu khổ độ u.
Rắp hòa tứ hải quần chu,
Não phiền trút sạch, oan thù rửa không.
 
Nhờ đức Phật thần thông quảng đại,
Chuyển Pháp luân tam giới thập phương.
Nhơn nhơn Tiêu Diện Đại vương,
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sanh.
 
Nhờ phép Phật uy linh dõng mãnh,
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao.
Mười loài bất kể loài nào.
Gái, trai, già, trẻ đều vào nghe kinh.
 
Kiếp phù sanh như hình, như ảnh,
Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không.
Ai ơi lấy Phật làm lòng,
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
 
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi, bát cháo, nén nhang,
Gọi là manh áo, thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
 
Ai đến đó, dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên, chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn giả chia đều chúng sanh.
 
Phật hữu tình từ bi phổ độ,
Chớ ngại rằng có có chăng chăng.
Nam mô Đà Phật, Pháp, Tăng,
Độ cho nhất thiết siêu thăng linh hồn.
 
Nam mô Bồ Tát, Thế Tôn,
Tiếp dẫn cô hồn Tịnh độ siêu sanh.
 
Kệ rằng:
 
Hàn lâm sở lý dạ trầm trầm,
Ái ngại cô hồn khổ não thâm!
Tịch diệt phong trần vô lượng cúng;
Hy hâm hưởng thọ hữu thường lâm.
 
Kim tiêu hạnh ngộ Bồ-đề quả;
Chúng đẳng đương thi hoan hỷ tâm.
Chỉ chí Thiên đàng phi huyễn lộ,
Quân mông giải thoát xuất hàn lâm.
 
Nam mô Sanh Tịnh độ Bồ Tát Ma-ha-tát!
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 6: ÔNG NHẪN, ÔNG KHÔNG NHẪN Đoàn Trung Còn Tú Xương
 
Bài này tuy là dịch từ chữ Hán dịch ra, song xem cho kỹ độc giả sẽ thấy có cái phong vị của những truyện truyền kỳ Thiên Trúc. Như vậy rất có thể trước đây gốc là chữ Phạn, do các nhà truyền giáo đưa sang Trung Quốc, rồi sau mới được dịch sang chữ Hán.

Đức nhẫn là một đức lớn trong đạo Phật, có thể giúp người đạt đến chỗ giải thoát.
 
Trời thu hiu hắt gió vàng,
Rặng lau hoa nở, đôi hàng lá thưa.
Thơ đường nhân lúc hứng thừa,
Vui lòng mượn bút lọc lừa ngâm nga...
 
Thấy trong lục cũ truyền ra,
Thiệt, hư chưa tỏ, gần xa chưa tường.
Tiếc là tựa lối theo đường,
Cứ trong tích trước rõ ràng chép chơi:
 
Tích xưa nghe có một người,
Gia tư điền sản phỏng vời thích trung.
Một ông đức hạnh lạ lùng,
Chẳng hay làm sự ngoài vòng phi vi.
 
Tánh hằng nhẫn nhục từ bi,
Thiệt hơn chẳng chút tranh thi cùng người.
Dù ai cả tiếng dữ lời,
Làm thinh, gãi tóc, đắp tai ra về.
 
Một ông thì lại hay nề,
Nết thì cả giận, nào hề nhịn ai.
Cùng lòng chánh trực trời trai,
Đã lòng hỷ xả, hiệp tài nở nang.
 
Cùng nhau kết bạn đá vàng,
Cùng đi làm phúc Thập phương Ta-bà,
Chẳng nề chùa quán gần xa,
Thấy đâu dột nát cửa nhà, hưng công.
 
Hai người đi đến ba đông,
Bãi đâu xảy thấy non thung lạ dường.
Đỉnh cao nghi ngút nghìn hàng,
Dợn xanh ấy đá, chói vàng nọ hoa.
Huệ lan đôi khóm rườm rà,
Hóa long trúc đã thiệt da điểm mồi.
Suối đàn cuộn nước cùng vui,
Chim rừng làm tổ tranh mồi líu lo.
 
Rồng nam phun nước thập thò,
Thông thì thổi gió ỳ ù cheo leo.
Một chùa bỗng thấy bên đèo,
Bốn bề đá chổm rồng leo ngất tường.
 
Trong chùa chói lói chữ vàng,
San hô, hổ phách cột giường khảm quanh.
Bốn bề cảnh vật khoe thanh,
Muôn gian ngàn nóc thênh thênh rộng dài.
 
Nhìn xem chẳng khác Bồng Lai,
Đã nên một cảnh trần ai tếch chừng.
Hai người đến đấy lòng mừng,
Vào chùa lễ Phật, đều chưng tu hành,
 
Tháng ngày náu tiếng ẩn danh,
Gió xuân đỡ quạt, trăng thanh thay đèn.
Khát thì uống nước cam tuyền,
Đói thì lại nếm đào tiên qua thì.
 
Niệm kinh, lắng kệ đòi khi,
Vui niềm Phật pháp sớm khuya chẳng nài.
Biết rằng xuân tới hoa khai;
Thu sang lá rụng, chẳng sai tơ hào.
 
Tháng ngày luống những ước ao,
Vui bề đạo đức, biết nào Kỷ, Canh
Hai ông tu đấy đã đành,
Cùng khuyên nhau ở lòng lành mới nên.
 
Ở lâu cầm thú liền quen,
Con vào hái quả, con lên dâng trà.
Chúng cầm đã ở chiền già,
Lòng ông Năng Nhẫn hiền hòa yêu đang.
 
Cho ăn, cho uống, giữ giàng,
Rác thì quét tước, sửa sang một mình.
Ra vào mặc chúng tung hoành,
Chẳng hề nặng đến chúng sanh một lời.
Dù lòng chúng vật chơi bời,
Đã trong Thượng điện lại ngoài Tam quan.
 
Một ông thấy chúng lăng loàn,
Khôn chừa nết cũ, tức gan thay là.
Ngày ngày đánh đánh khua ra,
Mắng rằng rác ráy chiền già vì bay.
Cũng nhiều phải cái quá tay,
Lòng ông Năng Nhẫn thương thay muôn phần!
 
Khuyên ông Bất Nhẫn đòi danh:
Kẻ đà làm phúc xả thân tu hành,
Còn làm những sự chẳng lành,
Hư công vả lại uổng danh thay là.
 
Chẳng bằng nhẫn nhục hiền hòa,
Từ bi hỷ xả, vốn ta ghi lòng.
Để cho dày thửa âm công
Thân sau lại sửa hóa rồng chút chăng.
 
Ấy là lời thiệt trình rằng,
Xin đừng làm sự lăng nhăng nữa là.
Cùng nhau đều trở lại nhà,
Sớm kinh, tối kệ xướng hòa chẳng khuây.
 
Bạn cùng non nước, cỏ cây,
Hay đâu trời đất vần xây mấy đời.
Đạo cao, đức rộng tót vời,
Đã mười lần hóa lại mười lần sinh.
 
Đều cùng được phép tiến linh,
Lốt phàm lột khỏi nhẹ mình lưng lưng.
Ăn chăng không, ý cũng đừng,
Chẳng hề đói khát, rửng rưng tháng ngày.
 
Ông kia nết cũ chưa khuây,
Thấy loài cầm thú còn hay giận cùng.
Một hôm Chư Phật hội đồng,
Phán rằng hai ấy tu công đã chầy.
 
Đạo nhân đức trọng cao dày,
Song còn người nọ chưa hay nhẫn lòng.
Âu là người ấy hãy không,
Hẳn cho Năng Nhẫn lên thông tòa vàng.
 
Bàn xong, biện bạch tỏ tường,
Long xa, phụng liễn nghênh ngang tống hoàn.
Lũ thì bảo cái tràng phan,
Ngất trời rợp bóng dù tàn bể sen.
 
Kiệu vào đến trước cửa chiền,
Rước ông Năng Nhẫn vào đền lưu ly.
Phong làm Bồ Tát ngự vì,
Ông kia thấy vậy lòng thì buồn thay!
 
Song le tu Đạo đã chầy,
Đằng vân giá võ cũng hay phép thần.
Tức thì nương gió dời chân,
Xăm xăm thẳng bước tới sân Phật đài.
 
Bước vào quỳ dưới ngọc giai,
Khấu đầu bèn kể mọi lời khúc nôi.
Rằng tôi từ thuở ra đời,
Cùng ông Năng Nhẫn hai người kết thân.
 
Đi làm phúc khắp xa gần,
Ba đông bèn mới mai chân cửa Chiền.
Hằng từ đạo đức tăng thiền,
Vui bề Phật pháp những quên cửa nhà.
 
Lẽ thì ơn Phật lòng xa,
Anh em cùng được một tòa vinh phong.
Cớ sao kẻ được, người không?
Dám xin xem xét cho cùng kẻo oan.
 
Phật rằng: Sự đã luận bàn
Hai người tu đạo đã ngoan, đã chầy.
Song ngươi nhẫn nhục chưa hay,
Cho nên chưa được sánh bầy tòa sen.
 
Bạch rằng: Tội ấy đã nên,
Bây giờ Phật phán ở đền làm sao?
Hay là tu lại thế nào.
Mà cho được dự bước vào lưu ly?
 
Phán rằng: Nào có khó gì,
Non kia tụ điểu gần thì chẳng xa.
Gìn lòng nhẫn nhục thì là,
Chẳng là nhẫn nhục, thì ta trở về.
 
Lên non đứng đấy một bề,
Ba năm ba tháng chớ hề giận ai,
Thì cho vào chốn Phật đài.
Vâng lời Phật phán bèn dời chân ra.
 
Cách non phỏng hãy còn xa,
Tiếng chim eo óc nghe đà ỏi tai.
Xăm xăm bước đến nửa vời,
Trèo lên đỉnh núi đứng nơi thạch bàn.
 
Dãi dầu nắng sém mưa chan,
Ước mong thấu đến Tam quan Phật đài.
Tân toan khổ ải chẳng nài,
Cứ lời Phật phán dám sai chút nào.
 
Chim đều đậu khắp vai, đầu,
Tổ làm rừng rực trước sau trọn ngày.
Chim con theo mẹ tập bay,
Vẫy vùng nhảy nhót thâu ngày gọi nhau.
 
Dậy đường chuyển động trên đầu,
Cứ lời Phật phán dễ hầu dám xao.
Đêm ngày luống những ước ao,
Đốt tay tính sắp lý đào khai hoa.
 
Đến tuần trăng mãn, trăng tà,
Đành hay tháng trọn, biết là niên chung.
Ra ngoài hai tháng ba đông,
Mười lăm ngày nữa thì công hoàn thành.
 
Ở lành gặp sự chẳng lành,
Đôi chim chinh chích trên cành bảo nhau.
Ta đừng tha rác chi lâu,
Kìa kìa đã sẵn trên đầu người kia.
 
Cùng nhau ríu rít bay về,
Liền làm tổ bé ở kề bên tai.
Nhỏ nhen chẳng dám gần ai,
Vợ chồng đẻ ấp hôm mai một mình.
Bốn con tốt tốt sơ sinh,
Chồng liền dặn vợ tâm tình khúc nôi:
Giữ con chẳng khá khi nguôi,
Để anh sẽ liệu kiếm mồi cho ăn.
 
Bay xuôi, bay ngược xa gần,
Chẳng hề có được nghỉ chân ở nhà.
Hết gần lại dạo miền xa,
Kiếm cho con trẻ, đàn bà đủ no.
 
Một mình hầu mượn ai lo,
Tối về thì lại dặn dò, hỏi han.
Sớm thì chắp cánh băng ngàn,
Thương con, xót vợ, tân toan chẳng nài!
 
Đến tuần con đã ra ngoài,
Nể chồng, chim cái ngỏ lời vân vi.
Rằng: Anh tối lại, sớm đi,
Nhọc nhằn mưa nắng, thiếp thì ở không.
 
Rày con cũng đã đủ lông,
Nghỉ chân, thiếp sẽ cất công đỡ chàng.
Chim đực rằng: Chớ nói quàng,
Em còn non nớt, nắng sương phong hàn.
Nào anh có quản lầm than,
Vợ lành, con lớn thì an dạ này.
Phỏng đà qua được ba ngày,
Tối về, chim cái lại nài xin đi.
 
Thấy lòng vợ đã nằn nì,
Nhủ rằng: Mặc ý, anh thì giữ con.
Nói rồi, chim cái liền bon,
Lạ lùng phong thổ, nước non biết gì.
 
Tìm mồi bay lại, bay đi,
Vẩn vơ chẳng biết rằng thì ở đâu.
Bay quanh đã một ngày thâu,
Chẳng hề có một cái sâu, cái ruồi.
 
Non đoài hầu lặn mặt trời,
Chồng mong, con đói, dỗ thôi lại mòng.
Dường như lửa chất bên lòng,
Thương con vả lại sợ chồng giận chăng.
 
Khi trời tối đến liên băng,
Thấy hoa sen nở, nhện giăng tổ ngoài.
Lòng mừng bay thẳng đến nơi,
Nhện kinh thoắt đã chạy dời vào trong.
 
Đuổi theo vào giữa liên phòng,
Mãi ham bắt nhện mơ mòng biết chi.
Hay đâu sen cũng như quỳ,
Âm thì hợp lại, dương thì nở ra.
 
Yếu thơ, con trẻ đàn bà,
Phải chờ bạch đán khai hoa mới về.
Đến nhà con khóc như ri,
Chồng thì chẳng có ủ ê một điều.
 
Tấc lòng lo sợ trăm chiều,
Dỗ con thôi mới đánh liều tới nơi.
Chồng rằng: Đã thỏa sự đời,
Lênh đênh thuyền bách sóng khơi mặc dù.
 
Hẹn hò đã phỉ sở cầu,
Một mình ai dễ biết đâu là chừng!
Chạnh lòng chim cái ngập ngừng,
Than thân, rằng: Khế lộn gừng chua cay!
 
Bây giờ sự đã dường này,
Lạy chồng thôi lại bày ngay mọi lời:
Thấy chàng chen chúc ngược xuôi.
Xót chàng thiếp phải bước dời chân ra.
Song le thơ yếu đàn bà,
Vả thêm non nước gần xa lạ lùng.
Trọn ngày mồi hãy còn không,
Tối về thấy nhện liên phòng giăng tơ.
 
Mãi tham bắt nhện nào ngờ,
Khí âm hòa hợp thì vừa khôn ra.
Trước sau sự đã thật thà,
Há rằng thiếp dám sai ngoa điều nào.
 
Chim đực rằng: Sự lạ sao?
Hoa đâu lại có hợp vào nở ra.
Thôi thôi hãy trở về nhà,
Sự đà có đấy ắt là khỏi dôi.
 
Hôm nay đã được nhiều mồi,
Con thì no dạ đều ngồi, khỏi lo.
Thấy chồng mai mỉa nhỏ to,
Dẫu ngay ai kẻ hỏi cho được tường.
 
Tấc lòng thảm thiết tư lương,
Mặt hoa thêm đượm hai hàng mưa sa.
Nói thôi bèn trở về nhà,
Đỗ cành, chim đực thiết tha một mình.
 
Giận sao vợ ở bạc tình,
Bèn đem hát thử hoa tình câu chơi.
Hát rằng: Gần bén, xa rời,
Một chăn đắp được mấy người tri âm?
 
Trong nhà đã sẵn hoàng cầm,
Song le lại muốn nhân sâm nước người.
Đành hay kho Tạo chẳng vơi,
Pha phôi ai dễ biết nơi cõi bờ.
 
Thương vì chút phận con thơ,
Cho nên trải chiếu đắp dơ trăm chiều.
Ưa là chơi đã đến điều,
Bạn sen đà phỉ hết điều nói năng.
 
Nghe thôi chim cái nghĩ rằng:
Đã nên một sự vô bằng mất đôi.
Sự oan biết thuở nào nguôi,
Âu là phải trả khúc nôi mấy lời.
 
Hát rằng: Vào sóng ra khơi,
Một mình ai kẻ biết vời sâu nông.
Tử sanh ngỡ vẹn chữ đồng,
Nào hay nhìn đến mênh mông trăm chiều.
Thôi thôi sương tuyết đã nhiều,
Càng cao tuổi tác, càng nhiều mỉa mai.
Bây giờ tía lạc hồng phai,
Cho nhau những tiếng đơn sai vào mình.
 
Lọ là phải nói tận tình,
Nghe lời thì biết, xem hình thì hay.
Hát thôi chim đực giận thay,
Nhủ rằng: Trong ấy, gian ngay đã liều.
Đất kia mà ném ao bèo,
Dao kia rạch nước hết điều đôi co.
Ngỡ là phải lưới, mắc dò,
Ai ngờ hoa hợp, kể cho làm kỳ.
Thôi đừng hát khảy làm chi,
Vào nhà nghỉ khỏe mai đi kiếm mồi.
Thấy chồng ngờ vực chưa thôi,
Tức gan, chim cái khôn ngồi, chạy ra.
Đến gần lạy đã trình qua:
Vợ chồng là nghĩa ruột rà ngàn năm.
Đã nguyền kinh bố, thạch châm,
 
Dám đâu bả lả âm thầm riêng ai.
Niềm gian phó quỷ thần hay,
Nâng mâm, cầm chổi xưa nay một bề.
Đắng cay, chua chát chẳng nề,
Ước cầu cho vẹn, lời thề cho xong.
 
Thiếp dù ở chẳng hết lòng.
Lại nguyền như đá đợi chồng đứng đây.
Thầy nghe nó nói giận thay,
Mắng rằng: Chim chóc chúng bay nói càn.
 
Vốn tao nết dữ đã quen,
Cứ lời Phật phán về ngàn từ bi.
Dù bay xảy có việc gì,
Cớ sao mà lại nói chì đến tao.
 
Tao mong lên cõi đài cao,
Cho nên tao mới ra vào đứng đây.
Tổ làm, con đẻ mặc bây,
Từ bi, nhẫn nhục xưa nay ghi lòng.
 
Làm sao lại có đợi chồng,
Mà cho mầy lại vợ chồng ví von?
Xưa lên cây được bốn con,
Cùng hai trai gái kiểu tròn như vo.
 
Vật vào hòn đá dương cô,
Thương ôi! chim chích nên tro còn gì
Trên đầu mấy tổ dứt đi.
Cỡi mây nương gió, tốc về Tây Phương.
 
Bước vào tới trước tòa vàng,
Phật liền phán hỏi mọi đường xưa sau.
Dư ngày dự đã về chầu,
Liền quỳ, bèn mới ngỏ tâu mọi lời:
 
Con vâng Phật phán tới nơi,
Đã trong ba tháng, lại ngoài ba năm.
Trên đầu chim đẻ dư trăm,
Cứ lời Phật phán dám lầm một phân?
 
 
Hằng trông cho được toàn thân,
Đôi chim chinh chích tổ gần bên tai.
Ghen tương lắm sự gái trai,
Chẳng như lại ví thân ai đợi chồng.
 
Giận, con đã sốt cả lòng,
Bốn con cho lẫn vợ chồng xua tay.
Ấy là lời thiệt bày ngay,
Dám xin truyền phán lẽ này làm sao?
 
Công con khó nhọc tiêu hao,
Tòa vàng may được chút nào cùng chăng.
Phật rằng: Làm sự chẳng hằng,
Sát sanh thôi lại nói năng ấy gì?
 
Có đường, có nẻo thì đi,
Già lam yết đấy tức thì đuổi ra.
Giận thay liền trở về nhà,
Quyết rằng tìm cảnh yên hà thong dong.
Non Bồng nước Nhược dù lòng,
Vui bề sơn thủy, lánh vòng trần gian.
 
Truyện này chẳng lọ luận bàn,
Ai xem thì khá tu hành nết na.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 7: VĂN SÁM PHÁT NGUYỆN Đoàn Trung Còn Bài thứ nhất

Nguyên văn của đức Từ Vân
Huệ Lưu diễn nghĩa
 
Từ Vân phước đức lớn thay,
Làm văn phát nguyện truyền nay lâu dài:
 
Một lòng mỏi mệt chẳng nài,
Cầu về Cực Lạc ngồi đài Liên hoa.
Cha lành là Phật Di Đà,
Tuôn hào quang tịnh chói lòa thân con.
 
Thẳm sâu ơn Phật hằng còn,
Con nay chánh niệm lòng son một bề.
Nguyện làm nên đạo Bồ-đề,
Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây Phương.
Phật xưa lời thệ tỏ tường,
Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sanh.
 
Thệ rằng: Ai phát lòng thành,
Ta đem vật báu để dành các ngươi;
Thiện nam, tín nữ mọi người,
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra;
Ta không rước tới nước ta,
Ta không làm Phật, chắc là không sai.
Bởi vì tôn tưởng Như Lai,
Có duyên tưởng Phật, sống dai không cùng.
Lời thề biển rộng mênh mông,
Nhờ ơn Phật độ thoát vòng trần lao.
 
Tội mòn như đá mài dao,
Phước lành thêm lớn càng cao, càng dày.
Cầu cho mình thác biết ngày,
Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh.
 
Cầu cho sự khổ thoát mình,
Lòng không luyến mến sự tình thế gian.
Cầu cho thần thức thanh nhàn,
Y như đức Phật thăng đàn thuở sơ.
 
Đài vàng tay Phật nương chờ,
Các ngài Bồ Tát bấy giờ đứng trông.
Rước đi thật đã nên dòng,
Nội trong giây phút thảy đồng về Tây.
 
Xem qua cõi Phật tốt thay,
Hoa sen đua nở, tánh nay sạch trần.
Hội này thấy Phật chân thân,
Đặng nghe pháp nhiệm, tâm thần sáng trưng.
 
Quyết tu độ hết phàm dân.
Giữ lời Phật thệ, Phật ân rộng dài.
Phật thệ chắc thật không sai,
Cầu về Tịnh độ, nương đài Thích Ca.
Đất ba bình đẳng một nhà,
Hoa sen đua nở là cha mẹ mình.
Hoa nở rồi, biết tánh linh,
Các ngài Bồ Tát bạn lành với ta.
 
Huệ Lưu diễn nghĩa chép ra,
Ai tu Tịnh độ thì ta sám cùng.
 
 
Bài thứ hai

Nguyên văn của thầy Châu Hoằng
Huệ Lưu diễn nghĩa
 
 
Châu Hoằng thầy hiệu Liên Trì,
Làm văn phát nguyện chỉ qui một đường.
 
Cúi đầu làm lễ Tây Phương,
Tịnh Bang giáo chủ Phật vương Di-đà.
Độ người vượt khỏi ái hà,
Dắt ra hầm lửa, nhảy qua nghi thành.
 
Tôi nay phát nguyện vãng sanh,
Nguyện về Cực Lạc nên danh sen vàng.
Ngửa trông vòi vọi Đạo tràng,
Rủ lòng thương xót mà mang tôi về.
 
Tôi thương ba cõi đắm mê,
Bốn ơn càng trọng lo bề cứu nhau.
Tưởng vì đời lắm thảm sầu,
Quyết làm nên Đạo độ sau luân hồi.
 
Không trên một bậc mà thôi,
Sáng trưng đường lối, không đôi nào bì
Nên tôi lòng gắng dạ ghi,
Chuyên câu niệm Phật không khi nào rời.
 
Phật là đức cả khắp trời,
Cứu người thoát tử, độ người thọ sanh.
Còn lo nghiệp trọng, phước khinh.
Chướng dày, huệ mỏng, phàm tình tối tăm.
 
Còn lo lòng nhiễm dễ lầm,
Duyên trần chưa sạch, tánh thầm khó nên.
Con nay tánh nguyện khởi lên,
Gối dầm năm vóc, thật bền lòng ngay.
 
Mở gan, trải dạ tỏ bày,
Chí thành sám hối, trông ngày Phật thương.
Chúng con nhiều kiếp oan ương,
Từ đời thuở trước không lường đến nay.
 
Bởi vì mê tối dại ngây,
Sân si quen nết, cãi thầy dạy khuyên.
Ví như ba nghiệp đảo điên,
Dù cho nước biển rửa liền sạch đâu!
 
Than ôi tội nghiệp lớp đầu,
Nguồn ân, biển ái, thẳm sâu vô cùng!
Ngửa trông đức Phật bao dung,
Tội mòn, nghiệp hết sạch không hội này.
 
Quyết lòng niệm Phật, ăn chay,
Chí tâm thề nguyện từ rày đến sau.
Ví dù con có ở đâu,
Lánh xa bạn dữ chẳng hầu tựa nương.
 
Gắng tu đạo Phật giữ thường,
Thệ không thối chuyển mắc đường thai sanh.
Nguyện sau tu luyện mau thành,
Đặng mà cứu độ phàm tình thoát ra.
 
Cha lành là Phật Di Đà,
Đem lòng quảng đại để mà độ con.
Đoái thương mấy đoạn khúc nôi,
Chứng tri đệ tử luân hồi oan khiên.
 
Cầu con đương buổi ngồi thiền,
Trong lòng chánh niệm tin chuyên vững vàng.
Cầu con giấc ngủ rõ ràng,
Thấy Di Đà Phật hào quang rạng mình.
 
Cầu cho sắc tướng quang minh,
Thấy Di Đà Phật tâm tình đặng an.
Nguyện cầu lên cảnh Lạc bang,
Thấy Di Đà Phật trên đàn giảng kinh.
 
Cam lồ Phật rưới đầu mình,
Hào quang Phật chiếu thanh minh tâm thần.
Cầu cho áo Phật đắp thân,
Tay vàng Phật dỡ thoa lần đầu con.
 
Cầu cho chướng trước dứt chồi,
Gốc lành thêm lớn, vun bồi tốt tươi.
Cho con sạch hết việc đời,
Trong lòng thanh tịnh như người Tây Phương.
 
Tánh linh, mầu nhiệm tỏ tường,
Mau nghe Chánh pháp như gương trên đài.
Màu thiền thanh tịnh khoan thai,
Tịnh quang cõi Phật thấy hoài không ngơi.
 
Như con gần tới qua đời,
Khiến cho linh tánh đặng con biết lần.
Đừng cho bệnh khổ vào thân,
Tử an, sanh thuận như thần ban xưa.
 
Đừng cho luyến mến dây dưa,
Đứng mà thành Phật, Long Thơ Tống trào.
Sáu căn đừng có lao xao,
Rõ ràng chánh niệm như sao Bắc thần.
 
Hết rồi một đoạn báo thân,
Vào trong thiền định xuất thần Tây quy.
Ngó gần thấy Phật A Di,
Quan Âm, Thế Chí, trụ trì trước ta.
 
Các ông Thánh chúng Hằng sa,
Tuôn hào quang xuống chói lòa rước con.
Duỗi tay xuống tiếp một hồi,
Lầu, đài, cờ, phướn đông thôi quá chừng.
 
Nhạc trời tâu trỗi vang lừng,
Mùi nhang thơm ngát, vui ưng tấm lòng.
Tây Phương cảnh Phật thong dong,
Rõ ràng trước mắt hiện trong cõi này.
 
Kẻ nghe người thấy vui thay,
Khiến cho ai nấy liền ngày phát tâm.
Chỉ người chánh tín tưởng thầm,
Bước vô đạo Phật, khỏi hầm lửa thiêu.
 
Vui thay cõi Lạc tiêu diêu,
Ai theo Phật rước, cao siêu Liên đài.
Vung tay về chốn Kim giai,
Gần trong Cực Lạc, xa ngoài trần lao.
 
Tòa sen rực rỡ trong ao,
Đỏ, vàng, xanh, trắng tuôn hào quang ra.
Con ngồi chễm chệ trong hoa,
Phật cùng Bồ Tát Hằng hà nhóm đông.
 
Con nghe pháp nhiệm tỏ lòng,
Chứng Vô sanh nhẫn, chân tông thượng thiền.
Chỉ trong giây phút thành duyên,
Vâng nghe chư Phật dạy truyền pháp âm.
 
Đặng nhờ thọ ký ấn tâm,
Dạy rồi, linh tánh bao năm nhớ hoài.
Ba thân, bốn trí lâu dài,
Sáu thông năm mắt, chuyện ai cũng tường.
 
Đà-la thần chú nhiều phương,
Phép nào cũng biết, như gương soi hình.
Bao nhiêu công đức chứng minh,
Nhớ ghi gồm đủ như kinh Phật truyền.
 
Mình đà cõi Phật ở yên,
Nhớ lời thệ trước độ duyên Ta-bà.
Thần thông biến hóa thân ta,
Khắp mười phương thảy hiện ra phép mầu.
Từ bi phước đức thẳm sâu,
Có duyên hóa độ, đâu đâu vâng lời.
Khắp trong cả thảy nhiều nơi,
Cũng đều độ hết người đời trầm luân.
 
Khiến cho lòng tịnh quen lần,
Dứt tình ái dục, lưu thần thiện lương.
Dắt người về đến Tây Phương,
Vào hàng Bất thối náu nương bạn lành.
 
Lòng con thệ độ chúng sanh,
Rộng như biển cả cùng gành hư không.
Hằng hà thế giới đều thông.
Chúng sanh phiền não độ đồng sạch trơn.
 
Nếu mà còn để nhơn nhơn,
Nguyện con không hết, như đờn đứt dây.
Phật thương, chứng lễ nguyện này,
Tu trì công đức độ ngay hữu tình.
 
Bốn ơn đền đáp phân minh,
Ba đường cứu vớt siêu sinh khỏi nàn.
Nguyện chung thế giới ba ngàn.
Vẹn tròn một trí vào bang Phật đà.
 
Nguyện về Cực Lạc một nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa nở rồi biết tánh linh,
Các ông Bồ Tát bạn lành với ta.
 
Huệ Lưu diễn nghĩa chép ra,
Ai tu Tịnh độ cùng là sám chung.
 
 
Bài thứ ba

Cả Phương
 
Quảng Nam thuộc nước Việt đây,
Làm văn phát nguyện, con này Cả Phương.
 
Con từ kiếp trước không lường,
Lãng đi bổn tánh nên vương cõi trần.
Chết đi sống lại xoay vần,
Thay hình đổi xác nhiều lần vào ra.
 
Phước lành trút bỏ thân ta,
Gặp trang giáo pháp xuất gia tu hành.
Cạo đầu, phát nguyện làm lành,
Cớ sao phá giới? Lòng đành tán chơn.
 
 
Giết loài sanh vật bất nhân,
Ham ăn cá thịt dưỡng thân nhơ này.
Gạt người lấy của liền tay,
Của trong Tam Bảo hàng ngày tham lam.
Chấp chi tà ngụy cũng làm.
Đắm say tửu sắc, mê ham chơi bời.
Hủy Tăng, báng Phật, khi người,
Nghịch cha, cãi mẹ, dể lời thầy răn.
 
Thấy người tài đức ép dằn,
Gieo tai, cấy vạ, kiếm ăn cho đành.
Nhúng tay vào đám lợi danh,
Đua ganh phải quấy, nói mình là hơn.
 
Lòng tà làm việc bất nhơn,
Khua môi, múa lưỡi vang rân lẫy lừng.
Ở chùa tụng niệm bần thần,
Ra đi đám tiệc, việc mần tinh chiên.
 
Ngoài bày hình dạng tướng thiền,
Trong lòng quỷ quyệt, đảo điên, khi người.
Ăn no, biếng nhác, dong chơi,
Cộc cằn, ham hố, thói đời ngán thay!
 
 
 
Tranh danh đua lợi tối ngày,
Thây trôi biển cả, ai rày biết đâu!
Việc lành không chút góp thâu,
Ba đường tội báo dễ hầu dung tha.
 
Ngửa cầu đức Phật Di Đà,
Thánh tăng, Thế Chí cùng là Quan Âm.
Mở mang đức rộng chiếu lâm,
Cúi thương cho kẻ lỗi lầm, cứu con.
 
Sáu căn, ba nghiệp sạch rồi,
Bởi vì gốc phước mọc chồi đến nay.
Tròn vành một niệm thẳng ngay,
Dứt đường tội nghiệp, trở quày đường quang.
 
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 8: II. CÁC THỂ THƠ: KỆ KHÓA HƯ Đoàn Trung Còn Trần triều Thái tông Hoàng đế
(1225-1258) ngự chế
Huyền Mặc phụng diễn
 

1. Kệ Bốn núi

(Sanh Lão Bệnh Tử)
 
Tứ sơn tiếu bích, vạn thanh tùng,
Ngộ liễu, đô vô vạn vật không.
Hỷ đắc lư nhi tam cước tại,
Mạch kỵ đả sấn thướng cao phong.
 
Diễn nôm

Bốn non, muôn bụi xanh rì,
Tỉnh ra, muôn vật có gì gì đâu.
Con lừa ba cẳng ruổi mau,
Ta vui cưỡi nó lên đầu núi cao.

Núi thứ nhất: Tướng sanh

Chân tể huân đào vạn tượng thành,
Bổn lai phi triệu, hựu phi manh.
Chỉ sai hữu niệm, vong vô niệm;
Khước bội vô sanh, thọ hữu sanh.
 
 
Tỵ trước chư hương, thiệt tham vị;
Nhãn manh chúng sắc, nhĩ văn thanh.
Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lý trình!
 
Diễn nôm

Thợ hóa đúc nên muôn tượng hình,
Vốn xưa chẳng mống, chẳng là mành.
Chỉ lầm có niệm, quên không niệm;
Vậy trái không sanh, chịu có sanh.
 
Mũi, lưỡi đã tham hương với vị;
Mắt, tai lại đắm sắc và thanh.
Phong trần lưu lạc dài làm khách,
Ngày cách quê hương muôn dặm xanh!
 
Núi thứ nhì: Tướng lão

 
Nhân sanh tại thế nhược phù âu,
Thọ, yểu nhân thiên, mạc vọng cầu.
Cảnh bức tang du tương hướng vãn;
Thân như bồ liễu tạm kinh thu!
 
 
Thanh điêu tích nhật Phan Lang mấn,
Bạch biến đương niên Lữ Vọng đầu!
Thế sự thao thao hồn bất cố,
Tịch dương tây khứ, thủy đông lưu!
 
Diễn nôm

Đời người bọt nổi khác chi đâu,
Thọ, yểu nhờ trời, chớ bậy cầu.
Canh mặt tang du hầu đến tối,
Mình như bồ liễu tạm qua thâu!
 
Phan Lang bữa trước xanh chòm tóc,
Lữ Vọng ngày nay bạc mái đầu!
Man mác sự đời thôi mặc kệ,
Bóng chiều tây xế, nước đông thâu!
 
Núi thứ ba: Tướng bệnh

 
Âm, dương khiên đức bổn tương nhân,
Biến tác tai truân cập thế nhân!
Đại để hữu thân phương hữu bệnh;
Nhược hoàn vô bệnh diệc vô thân.
 
 
Linh đơn mạn sá trường sanh thuật;
Lương dược nan linh bất tử xuân.
Tảo nguyện viễn ly ma cảnh giới,
Hồi tâm hướng Đạo dưỡng thiên chân.
 
Diễn nôm

Âm dương lỗi đức tạo nên nhân,
Cảm mạo làm ra nạn thế nhân.
Biết lại có thân, nên có bệnh,
Nếu mà không bệnh cũng không thân,
 
Trường sanh lầm tưởng đơn làm thuật;
Bất tử khôn đem thuốc trở xuân.
Nguyện lánh cõi ma đi cho sớm,
Trở về nuôi lấy tánh thiên chân.
 
Núi thứ tư: Tướng tử

Bãi đãng cuồng phong quát địa sanh,
Ngư ông túy lý điếu châu hoành.
Tứ thùy vân hợp âm mai sắc,
Nhất phái ba phiên cổ động thanh.
 
 
Vũ cước trận thôi phiêu lịch lịch,
Lôi xa luân chuyển nộ oanh oanh.
Tạm thời trần liễm thiên biên tịnh,
Nguyệt lạc trường giang dạ kỷ canh.
 
Diễn nôm

Gió cuồng quét đất phút lung lay,
Thuyền lật ông chài lúc rượu say.
Bốn phía mây lồng màu tối xẩm;
Một lằn sóng gợn tiếng vang đầy.
 
Gót mưa đòi trận lần xô đẩy;
Xe sấm bao vòng vội trở xây.
Cát bụi bên trời khi tạm sạch,
Sông dài trăng lặn mấy canh chầy.
 


2. Kệ Sắc thân


 
Vô vị chân thân xích nhục đoàn,
Hồng hồng, bạch bạch mạc tương man
Thùy tri vân quyển trường không tịnh,
Thúy lộ thiên biên nhất dạng san.
 
Diễn nôm

Khối thịt chân nhân biết ở đâu?
Hường hay là trắng chớ lừa nhau.
Ai hay mây cuốn trong không tịnh,
Móc biếc bên trời núi một màu.
 

3. Kệ răn sát sanh


Vũ, mao, lân, giáp tận hàm linh,
Úy tử, tham sanh khởi dị tình?
Tự cổ Thánh hiền hoài bất nhẫn,
Yên năng kiến tử dữ tham sanh?
 
Diễn nôm

Cánh, lông, mai, vẩy tánh đều linh,
Sợ tử, tham sanh há khác tình?
Hiền thánh từ xưa lòng chẳng nỡ,
Sao đành thấy tử với tham sanh?
 

4. Kệ răn trộm cắp


Tạc bích, xuyên tường ý bất hưu.
Thiên ban, bá kế khổ doanh cầu.
Kim sanh cẩu đắc tha nhân vật,
Bất giác chung thiên thọ mã, ngưu.
 
Diễn nôm

Khoét vách, đào tường chí những đâu,
Ngàn mưu, trăm kế những tham cầu.
Của người dù có đời này được,
Đời khác luôn làm kiếp ngựa, trâu.
 

5. Kệ răn ham sắc


 
Tai nhạ mai hương, kiểm nhị đào,
Kiến chi mục tống, ý điêu điêu.
Đô Lư nhất đại cơ bì xú,
Ám đoạn nhân trường bất dụng đao!
 
Diễn nôm

Tóc xức hương mai, má phấn đào,
Mắt đưa lấm lét, ý nao nao.
Thịt da một túi dơ tuồng thúi,
Cắt ruột người ta lựa phải dao!
 

6. Kệ răn nói bậy


 
Hiếp kiên, siểm tiếu, thiệt diêu thần,
Vĩnh tác trần hoàn vọng ngữ nhân.
Tự ý cầu hoan xu thế lợi,
Đáo đầu tranh miễn nghiệp triền thân!

Diễn nôm

So vai, cười bợ, lưỡi khua môi,
Nói bậy dua đời mãi thế thôi.
Dòm ý cầu vui xô thế lợi,
Rốt cùng ác nghiệp thuở nào rồi!
 

7. Kệ răn uống rượu


 
Nhất úng tao khang khúc nhưỡng thành,
Kỷ đa trí giả một thông minh!
Phi duy độc phá tri lưu giới,
Bại quốc, vong gia tự thử sanh!
 
 
Diễn nôm

Một hủ cơm, men đúc lộn thành,
Bao nhiêu người trí mất thông minh!
Chẳng riêng phá giới hàng Tăng chúng,
Mất nước, tan nhà cũng đó sanh.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 9: VỊNH THÁP BÁO THIÊN Đoàn Trung Còn Chúa Trịnh Căn (1682-1709)
 
I

Bốn bề đen ngắt gấm vân chương,
Cảnh lạ mười phân chỉ khác thường.
Thẳm thẳm liên đài, nhuần diệu sắc,
Thênh thênh phúc chỉ nức thanh hương.
 
Vầy nên cõi pháp trừng tha tính,
Suốt được lòng người lạc thiện phương.
Gió Đạo thổi đưa hòa hẩy hẩy,
Công khi ngoạn thưởng rất thư lương.

II

Bình phong tám bức mọi đồ thâu,
Đầm ấm trời xuân ngọc một bầu.
Mây thọ đùn đùn toàn bảo các.
Non nhân vọi vọi đối chung lâu.
Mở đường tế độ là ơn rộng,
Ngõ cửa từ thông tỏ đạo mầu.
Thắng lãm chọn đây làm phẩm nhất,
So trong tịnh giới há nhường đâu.
 
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 10: KHUYÊN HỌC PHẬT Đoàn Trung Còn Ưng Bình Thúc Giạ thị

Đường danh, nẻo lợi ngó đông đông.
Chen chúc nhau chi đám bụi hồng?
Kìa bóng bạch câu qua chẳng lại;
Nọ tranh vân cẩu có rồi không.
 
Lỡ cười, lỡ khóc trên sân khấu;
Khi nở, khi tàn mấy cụm bông.
Muốn kiếp phù sanh sau khỏi lụy,
Quyển kinh, câu kệ chớ nài công.
 
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 11: HỌA VẦN BÀI KHUYÊN HỌC PHẬT Đoàn Trung Còn Của cụ Lễ Bộ Thượng Thư Thúc Giạ thị
I
Bình Nam
Son phấn ghen nhau thấy cũng đông,
Hồn mê chợt tỉnh giấc lầu hồng!
Hoa gương, trăng nước kêu rằng có;
Sừng thỏ, lông rùa vốn thật không.
Đường lợi đua chen e lắm bụi;
Cội tu vun quén sẽ nhiều bông.
Đời càng khó nhọc càng thêm khổ.
Sáu chữ Di Đà chẳng tốn công.

II
Châu Khuê

Đành chịu ơ hờ với chúa đông.
Vì không tham tía, chẳng tham hồng.
Đã toan trừ hết lòng phiền não;
Nên quyết tìm ra tướng sắc không.
Giống vãi đất lành thì tốt trái;
Lúa cho cỏ lộn há nhiều bông?
Vô minh che lấp từ vô thủy,
Muốn phá vô minh phải gắng công.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 12: VỊNH CẢNH CHÙA KHÁN SƠN Đoàn Trung Còn Chúa Trịnh Căn

Một khuôn nhuần được khí thanh huyền,
Cảnh tự nhiên này khéo uyển nhiên.
Tinh xá làu làu vầng nguyệt dãi;
Phương đinh thán thán bóng thông in.
 
Khăng khăng nẻo nhiễm thiền quan tĩnh;
Lộng lộng đường thông pháp giáo truyền
Nhắn nhũ bàng nhân du thưởng đấy,
Gìn lòng kính cẩn, chớ trần duyên.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 13: VỊNH CẢNH CHÙA HOA YÊN Đoàn Trung Còn Chúa Trịnh căn
 
Cung quế hương đưa thoảng thoảng mùi,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai.
Thanh lương một khóm vang vang rộng;
Ưu-bát ngàn xuân rỡ rỡ tươi.
 
Gió đức hiu hiu nhuần mọi đỉnh;
Doành nhân cuộn cuộn khắp đòi nơi,
Thấy thiền tăng những vân vân hối.
Cảnh mấy thu chày hãy hãy vui.
 
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 14: VỊNH CẢNH CHÙA PHÁP VŨ Đoàn Trung Còn Chúa Trịnh Căn

Thanh quang mơn mởn chốn Dao Quang,
Gấp mấy trần gian, mấy thế thường!
Cả mở tượng đồ, đồ huệ chiếu;
Vẹn gồm khoa lục, Lục Kim Cương.
 
Doành thâu bích hải, doành quanh quất,
Sắc ánh từ vân, sắc rỡ ràng.
Đức thạnh càng ngày càng hiển ứng,
Đừng thay, đừng lạnh dấu đăng hương.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 15: VỊNH CẢNH CHÙA THANH MAI Đoàn Trung Còn Chúa Trịnh Căn
 
I

Bừng mắt xa trông sực cửu thiên,
Rộng thâu thú vị khéo viên tuyền.
Binh boong chày nện trên chung các,
Ngào ngạt hương lừng trước ngọc hiên.
 
Kẻ thoát tam đồ, vầy cội phúc,
Người qua thập giới dốc lòng thiền.
Từ bi dường ấy, oan linh ấy,
Một tấc niềm đơn rất kính tin.
 
II

Gây dựng nhờ nơi thái nhất quyền,
Đích nên tịnh cảnh khắp ba ngàn,
Cung châu xét tỏ công vô lượng,
Cửa phạm sum nhau khách hữu duyên,
 
Gió phất thông reo nhờ nhạc vỗ;
Suối tuôn nước chảy ngỡ chuông rền.
Nghiệm xem cảm ứng nhơn nhơn bấy,
Bút chép thơ đề biết mấy thiên.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 16: VỊNH CẢNH CHÙA NÚI PHẬT TÍCH Đoàn Trung Còn Chúa Trịnh Căn

Kiền khôn thâu vén một bầu đông,
Nẩy nẩy siêu nhiên chỉ lạ lùng.
Hương vũ, trăng thiền soi vặc vặc;
Vân song, tiếng ngọc nặng boong boong.
 
Ao trong lẻo lẻo ngư long hội;
Non nhiễu trùng trùng cẩm tú phong.
Luận thế giới này, giai cảnh ấy,
Có bề quảng đại, có linh thông.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 17: VỊNH CẢNH CHÙA PHỔ LAI Đoàn Trung Còn Chúa Trịnh Căn
 
Tạo thành nhờ có sức thiên thành,
Thắng cảnh thừa lương rất hữu tình.
Hoa ánh đài lan màu điểm ngọc;
Xuân vầy dặm liễu thức pha xanh.
 
Tinh hà vẻ rạng ngàn tầng gấm;
Sơn thủy đồ phong mấy bức tranh.
So với Viên kiều đây ý cũng,
Xiết đâu khen ngợi khí chung linh.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 18: NHỚ CẢNH CHÙA ĐỌI Đoàn Trung Còn Già, yếu, xa xôi bấy đến nay,
Làng chơi loáng thoáng lại buồn thay.
Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá,
Sư cụ nằm chung với khói mây.
Dặm thế ngõ đâu từng trúc ấy,
Thuyền ai khách đợi bến dâu đây?
Chuông trưa vẳng tiếng, người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc cây.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 19: UNG HỒ SƠN TỰ Đoàn Trung Còn Vịnh cảnh chùa núi Ung Hồ
Đường Thi
Không sơn tịch mịch, đạo tâm sanh,
Hư cốc siêu dao dã điểu thanh.
Thiền thất tòng lai vân ngoại thưởng,
Hương đài khởi thị thế trung tình?
Vân gian đông lĩnh thiên trùng xuất;
Thọ lý nam hồ nhất phiến minh.
Nhược sử Sào, Do đồng thử ý;
Bất tương la tích dịch trâm anh.
 
Diễn nôm (Huyền Mặc Đạo Nhân)
Non không vắng vẻ khởi lòng lành,
Hang trống treo xa, tiếng chóc rinh.
Nhà sãi vốn vui ngoài tục cảnh;
Đài hương há lộn đám trần tình?
Núi theo giấc khói ngàn trùng mọc;
Hồ rạng chòm cây một tấm thanh,
Có lẽ Sào, Do đồng ý ấy;
Chẳng đem dây vướng đổi trâm anh.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 20: THƠ NGUYỄN BỈNH KHIÊM Đoàn Trung Còn 1.
Giàu chểnh chện, khó lơi thơi,
Vận chuyển lưu thông há của ai.
Vũng nọ ghê khi làm bãi cát,
Chồi kia có thuở lọt hòn thai.
 
Khôn ngoan mới biết thăng rồi giáng;
Dại dột nào hay tiểu có đài.
Đã khuất bao nhiêu thì lại tủi,
Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai.
2.
Giàu ba bữa, khó hai niêu,
Yên phận thì hơn hết mọi điều.
Khát uống trà mai hơi ngọt ngọt,
Sốt kề hiên nguyệt gió hiu hiu.
 
Giang sơn tám bức là tranh vẽ,
Hoa cỏ bốn mùa ấy gấm thêu.
Thong thả hôm, khuya nằm, sớm thức,
Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.
3.
Giàu sang người trọng, khó ai nhìn,
Mấy dạ yêu vì kẻ lỡ làng.
Thuở khó dẫu chào, chào cũng lảng.
Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thì quen.
 
Quen hiềm dan díu đều làm bạn,
Lảng kẻo lân la nỗi bạ men.
Đạo nọ, nghĩa này trăm tiếng,
Nghe lui thinh thỉnh lại đồng tiền.
4.
Thấy dặm thanh vân bước ngại chen,
Được nhàn ta xá dưỡng thân nhàn.
Ba gian am quán lòng hằng mến,
Đòi chốn san hà mặt đã quen.
 
Thanh vắng thú quê giàu bao nã,
Dữ lành miệng thế mặc chê khen.
Mai kia chửa dễ thu nên muộn,
Xuân nọ tin hoa cũng mấy phen.
5.
Tháng mãn đã qua, ngày đã rồi,
Hãy yên thửa phận mới nên vui.
Bóng hoa lay động am chư Phật,
Măng trúc còn tươi bếp mới sôi.
 
Náo nhiệt công danh nhiều thỏa chí,
Thư nhàn sơn dã mới hay mùi.
Làm người chớ thấy tài mà cậy,
Có nhuệ bao nhiêu lại có đồi.
6.
Được thua thấy đã ít nhiều phen,
Để rẻ công danh đổi lấy nhàn.
Am Bạch Vân rồi nhàn hứng,
Dặm hồng trần vắng ngại chen.
 
Ngày chầy họp mặt hoa là khách,
Đêm vắng hay lòng nguyệt ấy đèn.
Chớ chớ thờ ơ, nhìn mới biết,
Đỏ thì son đỏ, mực thì đen.
7.
Chửa dễ ai là Phật Thích Ca,
Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua.
Lòng vô sự trăng in nước,
Của thảng lai gió thổi hoa.
 
Kìa khách xuân xanh khi trẻ,
Mấy người đầu bạc tuổi già.
Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách,
Được thú ta đà có thú ta.
8.
Giàu, khó đành hay chỉn phận mình,
Mấy đường gai góc biếng đua tranh.
Cơm ăn chẳng quản mùi xa, bạc,
Áo mặc nề chi tấm rách, lành.
 
Đạp gối mong nhiều người ẩn dật,
Bận lòng lại tưởng cái công danh.
Cho nên nấn ná trong lều cỏ,
Nhân mát ngồi xem thuở thái bình.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 21: VỊNH NÚI NGŨ HÀNH Đoàn Trung Còn Bà Bang Nhãn
Cảnh trí nào hơn cảnh trí này,
Bồng Lai âu cũng hẳn là đây!
Núi chen sắc đá màu phơi gấm,
Chùa nực hơi hương khói lộn mây.
 
Ngư phủ gác cần ngơ mặt nước,
Tiều phu chống búa dựa lưng cây.
Nhìn xem phong cảnh ưa lòng khách,
Khen bấy thợ trời khéo đắp xây?
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 22: ĐỀ CHÙA BÀ ĐANH Đoàn Trung Còn Vua Lê Thánh Tôn ngự chơi chùa Bà Đanh, nghe trong chùa có tiếng tiểu nữ tụng kinh vang lanh lảnh. Vua ngự đề lên vách hai câu thơ:
 
Tới nơi thấy cảnh thấy người,
Tuy vui đạo Phật, chưa nguôi lòng trần.

Vua lấy hai câu ấy làm đầu đề, bắt các quan tụng thần vịnh ra thơ. Quan Tao Đàn Phó nguyên soái là Thân Nhân Trung phụng chỉ vịnh rằng:

Ngẫm sự trần duyên khéo nực cười,
Sắc không tuy Phật, hãy lòng người.
Chày kình một tiếng tan niềm tục;
Hồn bướm ba canh lẫn sự đời.
Bể ái ngàn trùng mong tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng chửa khơi vơi.
Nào nào Cực Lạc là đâu nữa?
Cực Lạc là đây chín rõ mười.

Vua đưa cho tiểu nữ xem, tiểu nữ chê hai câu 3, 4, thiếu ý cảnh, bèn sửa lại:

Gió thông đưa kệ tan niềm tục,
Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời.

Vua khen hay, bèn đưa nàng về cung, đi đến cửa Đại Hưng chợt biến mất. Vua lấy làm lạ, bèn xây dựng một cái lầu, gọi là Vọng Tiên Lâu để làm di tích.

Hiện giờ còn có miếu thờ đề là Vọng Tiên Quán ở phố Hàng Bông, trong thành phố Hà Nội.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 23: ĐỀ CHÙA TIÊN Đoàn Trung Còn Chúa Trịnh
Chợt khỏi Thiên Trù thoắt rẽ lên,
Cửa hàng thăm thẳm một đường trên.
Chở mây quanh quất lồng hương Phật,
Gõ đá vang lừng lối nhạc Tiên.
Bảo cái đùn đùn trên bảo tọa,
Kim quang chềm chểm trước kim liên.
Thanh xa dấu cũ còn ghi để,
Quến được xe loan biết mấy phen.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 24: ĐỀ TRUYỆN THỊ KÍNH Đoàn Trung Còn Yên Đổ

I

Động phòng thôi đã đến tăng phòng,
Người ở Thiên phương bái Phật phương.
Chồng cũ mong nàng đầu nhuốm trắng;
Con nuôi gọi bố miệng hoe vàng.
Ba sanh ân ái hai hàng lệ;
Chín đợt từ bi một nén hương.
Trần mộng tỉnh ra thân thiếp đó,
Mảnh thơ xin giải để làm gương.

II

Món nợ giai nhân nặng khối sầu,
Những người mắt tục biết chăng đâu.
Cái duyên bạn lứa thương chàng Thiện,
Gieo vạ thầy tăng oán Thị Mầu.
Hồn bướm mơ màng ngàn dặm một,
Nghĩa vò chăm chút sáu năm thâu.
Tấm thân đã hóa, thơ còn để,
Nhắn khách thuyền quan dễ khéo tu.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 25: VỊNH CẢNH HỘI CHÙA THẦY Đoàn Trung Còn Trích tiểu thuyết Duyên nợ văn chương

Huyền Mặc Đạo Nhân

Cảnh sắc thanh u núi một chòm,
Ngoài đời gác mặc tiếng om sòm
Chợ Trời ngước mặt đèo cao vọi;
Hang Thánh nhô đầu động tối om.
Khách tới cầu Tiên treo lóp ngóp;
Người vào lạy Phật cúi lom khom.
Mộng trần mơ tưởng nơi huyền diệu,
Tìm được chân thân xác đã khòm!
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 26: TẶNG VÂN TUYỀN ĐẠO CÔ Đoàn Trung Còn Trích trong Hồng Phấn văn chương
 của một số độc giả Nữ giới Tòng thơ đề tặng
vào lúc Đạo Cô làm chủ bút.
 
I

Lê thị A. T.

Lòng đạo, lòng văn cũng một lòng,
Đem mà tô điểm vẻ non sông.
Hư vô tuy gởi nơi rừng tía,
Từ mẫn nào quên chốn bụi hồng.
 
Chày mõ nện sương tan tục lự,
Ngọn đèn khêu nguyệt rặng chân không.
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát,
Mấy tiếng chuông mai gọi tiếng cồng.
 
II

Cao Thành Văn

Tài tử nào phân gái với trai,
Đạo cô ai dễ biết là ai?
Hồi chuông cảnh tỉnh vang trần giới,
Tiếng mõ chiêu hồn dậy Phật đài!
 
Đọ tuổi cổ nhân chừng dưới một;
Sắp hàng kim đại hẳn trên hai!
Nghe danh lựa phải từng quen mặt,
Đôi chữ Vân Tuyền đã thuộc tai.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 27: THIỀN MÔN LÃNG TÍCH Đoàn Trung Còn Thanh Sơn

Trải nếm mùi trần chán đắng chua,
Tương rau đạm bạc bữa cơm chùa.
Rèn lòng cửa Phật cơn sa sác,
Nóng một đường đời nỗi được thua.
Tủi kiếp trầm luân làn sóng dập,
Tỉnh hồn đọa lạc tiếng chuông khua.
Hai mươi năm lẻ từng lao khổ,
Trải nếm mùi trần chán đắng chua.

Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 28: III. CÁC THỂ VĂN BIỀN NGẪU Đoàn Trung Còn (biền văn dụng niêm, biền văn dụng vận) VĂN TẾ ÂM HỒN Ở KONTUM
Bài này đọc trong lễ chẩn tế
khi khánh thành chùa Sắc Tứ Báo Ân,
không rõ của ai.
Hỡi ôi!
Số kiếp dở dang,
Căn duyên trắc trở.
Đìu hiu gió thổi,
nắm xương vàng lắm nỗi đắng cay;
Nghi ngút hương bay,
lễ đạm bạc mấy lời than thở!!
Các vong xưa:
Trú ngụ Kon Tum,
Vốn người dưới chợ.
Từng nghĩ đó ruộng nhiều đất tốt,
băng non xanh mong lúa lẫm, tiền kho;
Nào ngờ đâu nước độc ma thiêng,
xông đất đỏ vốn dễ ăn khó ở!
Trước những tưởng xa quê ngại cảnh,
ít người càng đùm bọc lấy nhau;
Sau chẳng dè rừng rậm non sâu,
nhiều bệnh ngặt vướng mang khó gỡ!
Cũng có kẻ áo ràng xiêm buộc,
mong đền bồi nợ nước ơn vua;
Cũng có người quần vận yếm mang,
lo toan tính của chồng công vợ.
Cũng có kẻ theo đường thương mại,
phải đeo mang buôn Mọi, bán Lèo;
Cũng có người kiếm kế sanh nhai,
lên lăn lóc làm thầy, làm thợ.
Cũng có kẻ thiên phương bách kế,
nghịch đạo nhà trốn tránh ẩn thân;
Cũng có người một lỗi hai lầm,
trái luật nước đọa đày cấm cố.
Nhớ đến kẻ tay bùn chân lấm,
sống không nhà, thác lại không mồ;
Nghĩ lại mình máu đỏ đầu đen,
nín cũng hổ, nói ra cũng hổ!
Phạm hai chú bước cao, bước thấp,
gánh ra đi, biếng nổi chân đi;
Chiếu nửa manh thiếu trước thiếu sau,
quăng xuống lỗ, ra ngoài miệng lỗ.
Tủi cho kẻ mới đi mới chạy,
kiếp ba sanh ước cũng trăm năm;
Thương cho ai đạn lạc tên bay,
bỗng một phút ra người thiên cổ!
Thảm những lúc trăng mờ bóng xế,
gội nắng mưa lạc nấm xiêu mồ;
Thương mấy khi thỏ lặn ác tà,
ai nhang khói ngày đơm tháng giỗ!
Âm thầm tủi đất không che xác,
nghiêng ngửa kìa xương cốt còn phơi;
Ngậm ngùi thương cây chẳng tránh mồ,
lăn lóc đó thi hài bộc lộ!
Thảm cho kẻ bỏ thì thương, vương thì nặng,
non thề biển hẹn, mối chung tình
đành để lại giang san;
Tủi cho ai nằm bên lạnh, tránh bên khô,
mang nặng đẻ đau, nắm gan ruột
cũng liều cùng thủy thổ!
Thấy nay được lầu son gác tía,
xe qua ngựa lại, việc làm ăn
trăm sự dễ dàng;
Nhớ xưa còn nước biếc non xanh,
vượn hú chim kêu, công khai phá
ngàn điều cực khổ.
Ôi thôi nay!
Hàng xứ chăm nom, nước nhà chiếu cố.
Trong rừng rú, kẻ có công, người có của,
phát bờ, phát bụi, khi khói hương
rằm lớn vía to;
Giữa thành không, giàu làm kép, hẹp làm đơn,
lập miễu, lập chùa, khi thăm viếng
Thanh Minh tảo mộ.
Xin nhớ chữ tử sanh hữu mạng,
sống thác đều máy tạo vần xoay;
Chớ quên câu họa phước vô môn,
vinh nhục cũng cơ trời định số.
Kiếp gió bụi ba sanh vốn nợ,
đừng nghĩ chi núi thảm rừng sầu;
Chí anh hùng bốn biển là nhà,
đâu thôi cũng quê cha đất tổ.
Thuyền Bát-nhã câu kinh giải thoát,
tỉnh phiền ba giã chốn âm ty;
Bóng Bồ-đề giọt nước nhành dương,
hết oan trái về nơi Tịnh độ.
Giữa rừng tía, nhang chong đèn rạng,
xin chứng cho lễ bạc lòng thành;
Dưới suối vàng, sống khôn thác thiêng,
nên gắng lấy phù trì ủng hộ.

Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 29: KHAO THẦN ÔN DỊCH Đoàn Trung Còn Phạm Thái

Thượng thừa Phật Tổ,
Hạ sắc pháp sư.
Thỉnh Lưu, Quan, Triệu, Trương sở cứ:
Quản Đông, Tây, Nam, Bắc các phương.
Chánh chưởng ngũ hành:
thuộc kim, mộc, thủy, hỏa, thổ khí;
Phục thi ngũ sắc:
trước thanh, hoàng, xích, bạch, hắc y.
Đương niên hành khiển,
cho tới ngũ phương sứ giả, các bộ ôn binh.
Kẻ ra tay vực nước chốn nhung trường,
thệ chí ấy với nước non mà chẳng quản;
Người vâng mạng phòng biên nơi thú khổn,
phú thân này cho cây cỏ cũng không nề.
Đỉnh phú xuân muôn kiếp tạc danh;
Doành ái mộ ngàn thu vẹn tiết.
Người quyết chí để trọn nghì phu phụ, thuyền
ái ân chèo dòng biếc linh đinh;
Kẻ căm gan cho vẹn đạo quân thần, gươm
trung nghĩa liếc sương nghiêm lóng lánh.
Thúy Ai gương thu soi tiết chánh;
Hạ Lôi gió bấc thổi hồn trung.
Buồm cần vương cuốn ngược gió nam,
cung thủy tổ, doành phù âm chạy bắc;
Cờ bát loạn phất tàn nắng hạ,
bộ kim cang, nền bảo tọa về Tây.
Cơ âm dương ấy mới gọi là ghê,
Kiếp kim cổ bỗng xui nên như thế.
Phụng huyện nọ ai buông búa oán,
ngựa tê phong thét động đỉnh Tiêu San;
Bảo châu kia kẻ múa gươm thù,
cung xạ đẩu bắn lọt ngàn Thiên Lãnh.
Doành Lô sóng cuộn, nổi lớp cang thường;
Non Tản đá xây, vững nền tiết nghĩa.
Khách của ngọc, người rơm,
miền núi thẳm, ma thiêng nước độc,
để hồn bay cho đá thảm hoa sầu;
Kẻ lợi ruồi, danh ếch,
chốn sông khơi, gió thét mưa gầm,
đem phách lạc mặc mây sầu trăng ủ!
Bên trời góc biển, tặng khách cô đơn,
Cháo Phật cơm Thần, mớm loài quả độc.
Lại có kẻ gặp khi hung khiểm,
vì cơ hàn nên nổi phân ly;
Cũng có người vì lúc thương hàn,
dù bùa thuốc chẳng phương hiệu nghiệm.
Có sanh có diệt, tạo hóa khôn lường;
Kẻ ở kẻ về, nhân tình chạnh cảm.
Thuyền Phạm Lãi, Ngũ Hồ, buồm tách gió,
vui nước trời một sắc đua xanh.
Gươm Lão Quân, Lục Trí, cán vung mây,
loài gian ác hai lòng khôn thứ.
 
Ở đâu về đó, kẻ Bắc người Nam,
Cứ lịnh theo đây, hình nghiêm phép trọng.
Cấp cấp như luật lịnh!
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 30: PHỔ KHUYẾN LÀM CHÙA Đoàn Trung Còn Ông nho Côi Trì
(Nhân làng làm chùa, nhờ ông viết bài văn này để quyên giáo Thập phương.)

Từng mảng nghe rằng:
Ở lành thì lại gặp lành,
then báo ứng quỷ thần khép mở;
Làm phúc ắt là được phúc,
khuôn tài bồi tạo hóa đúc tô.
Việc từ bi xem cũng nhiệm mầu;
Đường phương tiện phải cùng san sẻ.
Ngôn niệm:
Bản ấp... tên Long tự...
Danh lam dấu cũ;
Thắng địa nền xưa.
 
Hang Bồng Lai Phương Trượng mở mang ra,
tranh Ma Cật sẵn dán giăng vầng thảo thụ;
Cảnh Thứu Lĩnh, Tào Khê thu nhặt lại,
thơ Thiếu Lăng từng vờn vẽ khách yên hà.
Mõ trúc phong lóc cóc dạo từng hồi,
giục giã đàn chim về lắng kệ;
Khánh thạch giản lanh canh khua mấy tiếng,
rủ rê bầy cá đến nghe kinh.
Vẫn là tay thiên thượng đặt bày,
muôn trượng đỉnh Phù Dung coi biếc biếc;

Nếu chẳng có nhân công trau chuốt,
một trùng non Đâu Suất đứng xanh rì.
Tuy trông vào đôi chữ tịch tà,
dạ quân tử phải ghi làm thiết thạch;
Song nhác thấy một đường khuyến thiện,
lòng nhân nhân sao nở để kinh chăn.
Rắp rủ nhau nhất độ kinh doanh,
hồ thu thủy lại thêm vầng phách thỏ;
Ví không cậy thập phương tư cấp,
cừu thiên kim nào phải chiếc dịch hồ.

Vậy nên:

Mượn chữ nam vô, khuyên lòng cố hữu.
Việc doanh tạo, kẻ giúp công, người giúp của,
dù Đông Ngô, Tây Sở, nơi xa xôi còn gắng sức nữa đồng châu.
Lòng tín thành, nhiều làm phúc, ít làm duyên,
đã Bắc Đẩu, Nam Tào sổ ghi ký khắp chua tên nào lậu bút.
Vẫn là đạo không không sắc sắc;
Phải miễn mình niệm niệm tâm tâm.
Chớ nói điều Phật bất cầu ai,
niềm hòa khí bỏ lạnh lùng trong tấc đất;
Rồi thấy buổi thiên vô tư phú,
bóng từ vân che mát mẻ cả phương trời.
Khương mấy nhà tích thiện có thừa,
dòng bách thế dõi tuôn như bích thủy;
Danh những kẻ lập công không nát,
bia thiên thu còn đứng với thanh san.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 31: PHỔ KHUYẾN KẾT HẠ Đoàn Trung Còn                       Phổ Chiêu Thiền sư
                          (1777-1814)

Từng mảng rằng:                     
Chữ hiếu ấy trước chưng trăm nết,
kìa Nho sử còn ghi;
Đạo hằng dù trên trả bốn ơn,
nọ Phật kinh hãy tạc.
Làm nhân tử phải vẹn bề hiếu tử,
há thiên tâm có phụ kẻ đạo tâm.
 
Đức Phật ta:
Mở giáo Nam châu, vâng truyền Tây thổ.
Nước tịnh rảy cành dương thánh thót,
rập tàn nhà lửa cháy bừng bừng;
Bè từ chèo biển giác lênh đênh,
chở lặng sóng ơn tuôn cuộn cuộn.
Tai trí huệ nghe thấu lời thiện ác,
Mắt quang minh dòm suốt chốn u minh.
Kìa xem cơ nước chảy hoa tàn,
hồn kim cổ bóng ngựa câu thấp thoáng.
Thì phải sợ sương đông chớp sáng,
đám lợi danh hình lửa đá lập lòe.
Gương âm dương soi vạn cổ không lòa,
cân họa phước nhắc hai đồng chẳng mếch.
Đức A Nan Mông Sơn thí thực,
vậy thân sau khỏi chốn luân hồi.
Đức Mục Liên phá ngục độ thân,
mà mạng được vẹn bề báo đáp.
Ấy kẻ trước mở lòng ra thế nhẽ,
huống người sau tìm đạo chẳng noi ru?

Sãi tôi nay:

Cẩn giữ lẽ thường, tin cầm nghĩa cả.
Đạo giải quá thấy lời kinh Thủy Sám,
nước cam lồ nhờ rảy sạch bụi trần;
Chữ tu nhân nghe câu kệ Kim Cương,
gươm bảo huệ mượn dứt không niềm tục.
Vậy phải hò làm việc phước,
dám xin mở tấm lòng hằng!
Nay phổ khuyến.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 32: QUAN ÂM TỐNG TỬ VĂN Đoàn Trung Còn Cụ Ba Voi

Nông nổi chân bèo khách địa,
phận phù sanh về với kiếp thiêu hôi;
Ngậm ngùi gốc tử cố hương;
lời vĩnh quyết theo cùng dòng mặc lệ!
Khuất mặt gọi để sau làm dấu;
khấu đầu vâng dẫn trước xin thưa:
Thuở thác sanh vào chốn hoa tông,
phận xử nữ dám lòa gương hiếu kính;
 
Khi tác hợp nhờ tay nguyệt lão,
bạn lương nhân bao trễ dạ trinh thuần.
Nghĩ một bề trọn đạo nghi gia;
để dôi đức đành lòng nguyện thất.
Duyên kết tóc mới nên lời nguyện ước,
chỉ đào lá thắm trăm năm;
Nỗi cắt râu ai rắp mối oan khiên,
cầu Thước sông Ô đôi bến.
Cầm ngọc đã đành ngang khúc phượng,
lầu hồng thêm để thẹn gương loan.
Mai chia cành, chạnh nổi phu thê,
chếch mác buồn duyên ngàn dặm nguyệt;
Dâu ngã bóng, cảm tình phụ mẫu,
dở dang cửa đức một chồi hoa!
Hẳn sanh xưa chưa trọn đường tu;
nên nợ cũ còn theo quả kiếp?
Hương mật đảo luống trông vời Bắc Đẩu,
tiếng quyên đứt nối buổi tàn canh.
Nước giải oan còn khơi suối Tây thiên,
giấc bướm đi về nơi Lạc thổ.
Đã ly biệt lỗi cùng nhất nhật;
phải tu hành độ lấy tam sanh.
Ngẫm duyên xưa mình xót một mình,
cả lòng quyết thay xiêm đổi áo;
Tới cảnh lạ bước dừng nửa bước,
bạch thầy xin thắp nến, dâng nhang.
Mặt vâng chữ Kính là tên;
tai lắng lời răn để dạ.
Bèo bọt trôi về bể Thích,
biết thân này đã chắc Phật hay Tiên;
Sồng nâu ngã xuống màu thiền,
đành quả ấy phải nguyền non với nước.
Miễn con trẻ vui về thú tịnh;
họa trời già xét đến niềm trai.
Tưởng cảnh nhà khi trận nhạn ghét sương,
hiếu, nghĩa đôi đường còn tủi tý;
Lắng tiếng kệ thuở chày kình nện nguyệt,
sắc, không hai chữ sẽ nguôi lần.
Thiện căn hằng khuya sớm vun trồng;
Phúc ấm họa mai sau trọn vẹn.
 
Dưa muối chốn người ưa với cảnh,
dám để hơi trần chướng lọt vào;
Trăng hoa khen nhà khéo sanh con,
bỗng đem mối phong tình buộc lại!
Nghiệp còn nặng, lòng từ khôn lẽ chối;
tình có ngay mắt tục dễ ai tin.
Phép công hổ tiếng tiểu Tăng,
giọt nước cành dương bao rửa bụi;
Khoán cũ nặng lòng sư trưởng,
đóa mây đỉnh Thứu cũng tuôn sầu!
Rắp bạch sòng cho rõ mặt nhân gian;
song tu trót kẻo thẹn lòng Thượng giới.
Dây chân dám dày sân Tĩnh địa,
giữ chiền ra tựa mái Tam quan;
Vốn lòng từ chẳng thẹn nén chân nhang,
niệm lạy về nơi Cửu tự.
 
Bể khổ chìm bao được nổi;
nợ trần trả chửa hay xong.
Nhai sương mớm tuyết chịu cho ai,
ngoài chín tháng đôi tay con nhện mọn.
Dãi gió dù sương liều với kiếp,
trong ba thu một xác cái ve gầy.
Xa xôi bao quản cửa Già Lam;
tươi héo khôn nài cơ tạo hóa.
Cảnh vắng nào thầy, nào tiểu,
giọt nước đồng thánh thót thuở trăng khuya;
Đèn tàn bên mõ, bên con,
mồ hôi đá đầm đìa cơn gió thoảng.
Giấc trần mộng nằm lâu cũng mỏi;
bạn kim sanh đến thế là thôi.
Lỗi sanh nên phải bước bèo mây,
đôi gánh cù lao chồn lại nặng;
Vụng hóa chưa tròn duyên thông suối,
một thơ thê oán gởi về không.
Đã cam kiếp ấy chốn sông Ngân;
bao biết thân sau vào cửa phúc.
 
 
Hồn hồ điệp từ đây muôn kiếp,
nước non diệu vợi biết con đâu;
Nghĩa minh linh cũng gọi một ngày,
hương khói mai sau đành chán đấy.
Tình dài vắn thêm rầu khúc vượn;
Đường xa xôi nên mượn cánh hồng.
 
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 33: IV. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo đối với dân ta Đoàn Trung Còn Đời sống của dân tộc Việt Nam ta mà được thâm trầm, thuần nhã, thanh đạm, tinh vi, một phần lớn là nhờ được sức cảm hóa của ngôi Tam Bảo vậy. Đạo lý từ bi của đức Phật truyền sang xứ ta kể ra đã trên dưới hai ngàn năm, một nền đạo lý trọng sự hỷ, xả, ái, mẫn; khuyên sự thương các chúng sanh như thương mình, một nền đạo lý dung hợp với tâm trí của mọi hạng người; chẳng luận già, trẻ, gái, trai, sang, hèn, tại gia hoặc xuất gia, con thuyền Bát-nhã đều độ thoát cho hết, ngọn đuốc quang minh đều soi sáng cho hết mà dẹp đi những mối chướng ngại si mê.

Ai có quan tâm mới thấy rõ cái ảnh hưởng thâm thúy, êm đềm ấy phát lộ ra trong cuộc sanh hoạt của dân ta, từ lời nói đến hành vi hằng ngày. Người viết bài này đã từng đi đó đi đây, đã từng giao tiếp với các hạng người trong khắp ba Kỳ, đã nhận thức cái ảnh hưởng ấy mà sanh ra một mối cảm mến thắm thiết, dịu dàng.

Nay muốn chỉ ra cái ảnh hưởng thâm trầm, thuần nhã của đạo Phật để cống hiến cho chư độc giả thiện tâm, tưởng nên nương theo những lời ăn tiếng nói của quốc gia ta, những câu ca dao bắt vần, cùng những áng văn thơ của các hàng thi nhân, văn sĩ, thì quý vị sẽ nhận ra một cách dễ dàng vậy. Tuy gần đây, dân tộc ta tiếp xúc với văn minh, tập tục và tôn giáo người Âu Tây mà cái ảnh hưởng ấy có bề phai lạt đi ít phần trong một thiểu số người ở thị thành, chứ cái tinh thần đạo Phật vẫn vững bền trong hầu hết chốn dân gian, vẫn trường tồn ở nơi thôn dã.

Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 34: A. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo trong lời ăn tiếng nói Đoàn Trung Còn Một người dân bình thường ở nước ta trong cuộc sống hằng ngày đều rất trọng tội, phước; cho nên tự họ không muốn gây ra những tội ác bằng tay chân, bằng lời nói, bằng tâm ý, mà lại còn khuyên can mỗi khi thấy người khác sắp phạm sai lầm, và rất buồn mà thấy những ai làm đau khổ kẻ chung quanh. Cái lòng trắc ẩn ấy phổ cập đến hạng cầm thú và cả loài thảo mộc nữa.

Không nói đến người đã từng thọ giới nhà Phật thì giữ thân, lời nói, tâm ý đều dè dặt và thanh cao đã đành, mà một người tầm thường ăn buổi mai lo buổi chiều, không biết chữ mà xem kinh kệ, không mấy khi rỗi rãnh mà đến lạy Phật, lạy thầy, người ấy cũng vẫn thâm nhiễm sự từ bi, hỷ xả tự lâu đời của dân tộc, cũng biết thương người như thương thân vậy.

Nhờ thấm nhuần những lý tội, phước, luân hồi, nghiệp báo từ khi còn nhỏ, người Việt Nam ta không dám ăn ở sai lạc đối với những lý công bằng, tinh vi ấy. Cái lòng hiền hậu đó thường phát lộ ra lời ăn tiếng nói. Chính họ chịu lấy ảnh hưởng thâm trầm của đạo Phật mà không hay biết. Họ thường dùng những danh từ trong văn chương, trong kinh điển đạo Phật, thế mà họ vẫn cho là những danh từ thông dụng xưa nay. Lắm lúc họ dùng có sai lạc, nhưng sự đó càng tỏ ra rằng ảnh hưởng ngôi Tam Bảo thấm nhuần vào tâm trí của họ tự lúc bé thơ!

Mỗi khi thấy ai ăn ở nhân đức, hay cứu giúp người trong cơn hoạn nạn, tật bệnh, người bình dân thường hay bảo rằng: “Tội nghiệp, ông ấy hiền từ hết sức!” Mỗi khi lâm cơn nguy biến mà cầu cứu ai thì họ nói: “Tội nghiệp, ông ra ơn giúp tôi một lần. Ông làm sự ấy bằng cất năm bảy cảnh chùa.” Tỏ lòng biết ơn với ai thì họ thốt lên rằng: “Kiếp sau, nguyện làm thân trâu ngựa mà trả nghĩa sâu.”

Mong ai mở lòng quảng đại thì họ van rằng: “Xin mở lòng Bồ Tát, tỏ đức hiếu sanh, ra tay tế độ.”

Mỗi khi thấy ai ở ác, họ cũng dùng nhiều danh từ về đạo Phật mà họ cho là rất thấm thía, xác đáng. “Anh ấy làm chuyện ác đó bằng phá chùa phá miếu. Tội ấy dù tu mấy kiếp cũng chẳng đền bù. Chừng thác, đố chạy đâu cho khỏi Địa ngục.” Thấy ai nới láo nói xược, họ trách rằng: “không sợ quỷ sứ cắt lưỡi.”

Thấy ai ăn nói ngang tàng, hay gây gổ thì họ bảo: “hay sân si”. Thấy những con gái trắc nết, họ than rằng: “Không sợ vào địa ngục.” Hoặc họ đọc lên câu tục ngữ này: “Có chồng mà lại lấy trai, thác xuống âm phủ, cưa hai nấu dù.”

Thấy những kẻ nói năng êm dịu mà lòng độc dữ, họ bảo rằng: “Thật là khẩu Phật tâm xà.”

Thấy ai ăn ở hiền đức hưởng sự giàu sang, họ nói rằng: “Có phước, tu nhân tích đức.” Thấy ai tướng tốt, uy nghi, thuần hậu, họ khen rằng: “tiên giáng thế”.

Về đường tình ái, họ cũng dùng lắm danh từ trong văn chương nhà Phật: “Có duyên ngàn dặm cũng gần, vô duyên dù gặp mấy lần cũng xa.” “Nhân duyên tiền định, duyên nợ ba sanh...”

Thấy ai có tài mà sa sút, lâm cơn hoạn nạn, thì họ thương mà than rằng: “Tài mạng tương đố, bạc mạng, nghiệp chướng”. Hoặc họ an ủi rằng: “Tại phần số, gặp bước phong trần, song cũng có ngày vinh hiển, thôi đừng phiền não, phiền muộn.”

Trong sự buồn về gia thế, về nỗi phu thê, tình phụ tử, người bình dân ta hay than trách rằng: “Tội báo oan gia, tiền căn hậu báo, rõ ràng là cảnh Địa ngục.”

Than phiền những cảnh dời đổi trong đời, những sự thành bại quá mau, họ gọi rằng: “Cơn dâu bể, tuồng ảo hóa, bể khổ bến mê, bể trần, bể trầm luân.”

Sống trong cuộc đời bình dị, họ cho là: “muối dưa đắp đổi tháng ngày.”

Có ăn năn sự lỗi, họ đổ cho là: “Ma dắt lối, quỷ đưa đường.”

Buồn rầu mãi không khuây, họ than rằng: “lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.”

Thấy những đám đông đảo, họ bảo: “đông như La-hán, hằng hà sa số...”

Muốn biện minh lòng ngay thật của mình cho khỏi người ta nghi oan, họ kêu lên: “Chín phương trời, mười phương Phật...”

Thấy ai ngồi im lìm chẳng cử động, họ bảo là “ngồi từ bi”.

Uống nước gì ngon mà họ khoái chí, thì họ cho là: “nước cam lồ”.

Ai cầu nguyện sự chi rất khó, thì họ khuyên nên “ăn chay, nằm đất”. Có khi họ dùng tiếng ấy một cách mỉa mai đối với hàng phong lưu trong cơn rủi bước, lạc đường.

Cũng có lúc họ nói cợt mà chỉ ra sắc đẹp lộng lẫy của hàng phụ nữ: “Dù cho Phật Bồ Tát cũng phải sa!”

Tóm lại, dù vui, dù buồn, dù sướng, dù khổ; ở trong cảnh thường, hay cảnh biến, dù ăn nói nghiêm trang hay giễu cợt, dù khen tặng hay than van, người bình dân ta thường dùng một cách vô tâm những danh từ nhà Phật mà họ từng quen thuộc từ lúc lên ba!

Cái ảnh hưởng thuần lương, thâm thúy ấy lại càng tỏ ra trong những khi họ hừng chí, xúc cảm đối với nước non, đối với ái tình, thương cha nhớ mẹ mà ngâm bắt vần thành những bài ca dao chất phác, ngộ nghĩnh, êm đềm.

Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 35: B. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo trong những câu ca dao Đoàn Trung Còn Đạo lý từ bi của Phật rất dễ cảm hóa tấm lòng thanh bạch của nam nữ thanh niên. Mỗi khi rỗi rãnh việc đồng áng hay việc dệt vải quay tơ, hoặc nhằm những ngày lễ Phật, Tết Nguyên Đán, rằm tháng giêng, mồng tám tháng tư, rằm tháng bảy, cùng là nhằm những ngày vía Phật, những ngày rằm, mồng một, thì hàng thiếu niên hoặc theo cha mẹ, hoặc rủ nhau đi chùa. Bấy giờ nơi am thanh cảnh tịnh, ngoài thì hoa đẹp, cỏ thơm, không khí mát mẻ, khỏe khoắn, nhẹ nhàng, trong thì mấy tượng Phật đầy vẻ từ hòa dường như đang tìm những sự tùy phương mà tế độ chúng sanh, cùng với khói trầm nghi ngút khiến cho lòng trần thấy dứt mà lòng đạo phấn chấn lên. Rồi đến khi viếng thầy, một vị hòa thượng cao niên, ăn nói hiền hòa, nhu mì, tùy thuận căn cơ mà khuyến khích hoặc an ủi mình, thì người thanh niên ta rất lấy làm cảm mến, dường như trút sạch gánh ưu sầu, phiền muộn. Lại có khi được nghe vị pháp sư giảng câu kinh, nghĩa kệ; từ trên ngôi cao, những lời khuyên làm lành, lánh dữ, tu phước, trồng duyên, rót vào tai mình một cách cao thượng, thanh tao, người thanh niên cùng người bình dân nam nữ ta lắm khi ứa lệ vì quá cảm cái sự hiền lành.

Sau khi ấy, trở về nhà, hoặc nằm trên võng mà ru em, hoặc trong khi giã gạo đôi ba bạn muốn hò ăn nhịp cho quên sự lâu dài, hoặc đương khi thả thuyền theo rạch nhằm lúc trăng trong mà động đến nguồn thơ, bấy giờ họ mới ca hát bắt vần cho vui. Những câu ca dao ấy phần nhiều là về hiếu, về tình, về tình hiếu xen lẫn, có khi cũng bàn qua vài việc thế sự luận đàm. Trong khi cảm hứng ấy, họ không quên ngôi cổ tự, họ vẫn nhớ vẻ mặt từ hòa của đức Phật, đức Bồ Tát, họ vẫn mến cái đức thuần hậu của vị hòa thượng hoặc vị pháp sư, và họ còn canh cánh bên lòng những lý thiện phước từ trong kinh kệ đưa ra.

Cho nên trong nhiều câu ca dao có thấm nhuần tinh thần của ngôi Tam Bảo.

Như về hiếu thì:

Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

Đã đành thọ phép Di Đà,
Hiếu trung giữ trọn, gian tà mặc ai
 
Vô chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ, công phu không đành.
 
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, hơn là đi tu.
 
Như về tình thì:
Ngó lên am tự chùa vàng,
Tu thì đặng đó, bỏ nàng ai nuôi?
 
Anh đi lưu thú Bắc Thành,
Bỏ em khô héo như nhành từ bi.
 
Chữ rằng phú quý tại thiên,
Vì ai nên nỗi bạn hiền gian nan.
 
Người đời ai khỏi gian nan,
Gian nan có thuở, thanh nhàn có khi.
 
Phải chi lên đặng Ngọc Hoàng,
Lén coi sổ bộ duyên nàng về ai.
 
Bé thơ chi đó dỗ dành,
Chẳng qua duyên nợ, bậu đành hay không?
Tượng linh dù rách cũng thờ,
Lỡ duyên anh chịu, mong chờ tin em.
 
Sông dài cá lội biệt tăm,
Phải duyên phu phụ, ngàn năm cũng chờ.
 
Trên trời vần vũ,
Dưới âm phủ đá dựng tư bề.
Làm sao cho trọn chữ phu thê,
Đây chồng đó vợ, ra về có đôi.
 
Sóng bên doi bỏ vòi bên vịnh,
Anh với nàng trời định đã lâu.
 
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Tơ duyên vắn vỏi, thiếp chàng xa nhau.
 
Thân em buôn bán tảo tần,
Lòng anh sao nở tỵ trần xuất gia.
 
Đặt bàn thệ nguyện giữa trời,
Sao hôm có lặn, còn lời sao mai.
 
Phải chi cao đất thấp trời,
Hỏi thăm duyên nợ đổi dời thế nao.
 
Chim bay về núi Điện Bà,
Phân chồng rẽ vợ, ai mà chẳng thương.
Nghĩ nào mà lại tuôn rơi,
Thắp nhang mà lạy Phật trời định phân.
 
Về tình, hiếu xen lẫn thì:
 
Lưu ly nửa nước nửa dù,
Nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên.
 
Mình hòa, phụ mẫu không hòa,
Căn duyên để vậy, hay là dứt đi?
 
Về thế sự luận đàm hoặc về các mối cảm đối với nhà Phật thì:
 
Chuông già đồng điếu chuông kêu,
Gái khôn trai dỗ lâu ngày cũng xiêu.
 
Tưởng là chùa rách Phật vàng,
Hay đâu chùa rách chứa đàng quỷ ma.
 
Tội người, vô số Di Đà,
Còn mang chuỗi hột, áo già làm chi.
 
Con vua thì được làm vua,
Con sãi ở chùa thì quét lá đa.
 
Muốn đi tu, công phu chưa có,
Muốn ở chùa, chuông mõ cũng không.
Đã đành cắt tóc đi tu,
Một ngày cửa Phật, mười thu cõi trần.
 
Tai nghe chuông mõ vang vầy,
Ghé vô am tự nghe thầy giảng kinh.

Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Tam Bảo văn chương Phần 36: C. Ảnh hưởng của ngôi Tam Bảo trong những áng văn thơ Đoàn Trung Còn Chẳng riêng gì hạng bình dân, chẳng riêng gì trang niên thiếu, mà ngay trong hàng thượng lưu trí thức, trong bậc trung niên và lão thành cũng chịu ảnh hưởng tinh vi của đạo Phật nữa. Bậc sĩ phu của ta đã từng cảm mến giáo lý từ bi của đạo thiền, và các hàng tao nhân mặc khách, các tay thi bá, văn nhân đều thừa hưởng tinh thần nhà Phật. Cho nên trong các áng văn thơ, trong tuồng, truyện từ xưa đến nay, ta thường thấy có lắm danh từ của nền văn chương Phật học.

Lại có nhiều chương, nhiều đoạn nương sức tiếp trợ của một nhà chùa, mượn sự cứu hộ của một nhà sư, nhờ sức tế độ của một đức Phật, của một đức Bồ Tát mà thành ra thâm thúy và nghiêm trang. Kìa như một tay anh hùng vì háo nghĩa, giết phường ỷ thế hiếp cô, tự bó tay để cho người ta làm tội, rồi vượt ngục, vào tá túc nơi nhà chùa xem kinh đọc kệ:

Vừa may mà gặp chùa này,

Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương.

Lại như một trang thư sinh lỗi lạc, nhưng gặp lúc cùng đồ, thân mang bệnh ngặt, thế mà được các sư nuôi nấng cho trong mấy năm trường:

Ai đi, chùa bần bạc đã không bốn vách,
Còn cậu tôi bệnh trầm kha lại giáp ba năm...
Thưa thưa, lòng kính thành bái tạ cao tăng,
Dặm diêu viễn trông chừng làng hạnh...
Diêu viễn, trông chừng làng hạnh,
Cúi đầu từ, đài kính cửa Không...

Lại nữa, như một trang thục nữ, muốn giữ tròn chữ trung, chữ hiếu, chữ tiết, chữ trinh, bèn gieo mình xuống ngọn thủy triều, thì:

Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,
Sóng thần đưa đẩy vào trong bãi rày...
Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay.
Quan Âm thương đứng thảo ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa...

Đó là những chương, những đoạn trong thơ văn, truyện tích, nhờ sức từ bi của Tam Bảo, tô điểm cho thêm phần trân trọng. Lại còn biết bao thơ, tuồng, truyện, lấy lý nhân duyên, nghiệp quả, lấy tiền căn hậu báo, lý hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai của nhà Phật mà làm đề; thâm ý của thi nhân, văn sĩ là muốn nêu gương lánh dữ làm lành cho nhân dân. Ấy nhờ cảm cái tinh thần đạo Phật mà các vị ấy cọng tác vào cuộc chấn hưng nền thuần phong mỹ tục trong nước đó.

Ngoài sự nương vào ngôi Tam Bảo mà lấy tích và làm đề cho những áng văn chương, các bậc thi nhân, văn sĩ ta lại còn nhờ ảnh hưởng của Phật, Pháp, Tăng trong sự hành văn của mình nữa. Trong mỗi áng văn, thơ, ta đều thấy rất nhiều danh từ văn chương nhà Phật.

Về việc này, ta có thể phân các thi nhân, văn sĩ của ta ra hai nhóm. Một nhóm những người chưa từng đọc qua kinh sách nhà Phật, và một nhóm vốn đã làu thông đạo lý diệu huyền. Nhóm thứ nhất nhờ cảm mến giáo lý từ bi do các sách ngoài hoặc do xã hội Việt Nam mình đã từng chịu ảnh hưởng lâu đời của Tam Bảo mà hay dùng những danh từ nhà Phật trong lúc hành văn. Còn nhóm thứ hai thì nhờ có hâm mộ triết học nhà Phật, thường viếng chùa, xem kinh, cho nên trong sự hành văn thường dùng danh từ nhà Phật mà văn chương có bề lưu loát, thâm trầm và siêu việt hơn.

Như Nguyễn Đình Chiểu (Đồ Chiểu), Bùi Hữu Nghĩa (Thủ khoa Nghĩa) không mấy khi xem kinh Phật; còn Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm và tác giả vô danh của quyển Quan Âm Thị Kính thì rất hâm mộ văn chương Phật học, rất tinh thông về Phật lý. Tuy vậy, bên nào cũng có được ảnh hưởng nhà Phật trong thi văn của mình.

Dưới đây, muốn làm rõ những ảnh hưởng ấy, tôi xin trích ra những đoạn văn trong các quyển: Lục Vân Tiên, Kim Thạch Kỳ Duyên, Kim Vân Kiều, Cung Oán Ngâm Khúc và Quan Âm Thị Kính.

 
Trong Lục Vân Tiên ta thấy:
 
Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.
 
Trực rằng: chùa rách Phật vàng,
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
 
Những lăm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.
 
Dù cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
 
Có thân phải khổ với thân,
Thân ôi thân biết mấy lần chẳng may.
 
Thỉnh ông Phật Tổ A Di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
 
Dù cho tài trí bậc nào,
Gặp cơn nguy biến biết sao mà nhờ.
 
Oan gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Nên, hư có số ở trời,
Bôn chôn sao khỏi, đổi dời sao xong.
 
Người đời như bóng phù du,
Sớm còn, tối mất, công phu lỡ làng.
 
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là.
 
Con xin sang lạy Lục Ông,
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
 
Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha.
 
Người ngay, Trời Phật cũng vưng,
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
 
Khi khuya nằm thấy Phật Bà,
Người đà mách bảo nên già tới đây.
 
Đoạn này đến thứ ra đời,
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đem nằm thấy ông Tiên,
Đem cho chén thuốc, mắt liền sáng ra.
 
 
Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con thảo, lòng thành ngày nay.
Xưa nay những đứa vô nghì,
Dù cho có sống làm gì nên thân.
 
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
 
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
 
Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nổi mà mong tới đòi.
 
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
 
Trong Kim Thạch Kỳ Duyên ta thấy:
Nghiêng vai, ngửa vái Phật Trời,
Đương cơn hoạn nạn, độ người trầm luân.
Gần đây nọ sẵn am vân,
Vào đó họa nhờ thang thuốc.
 
Ưng ai chư phương Phật, ơn chín Trời mười Phật,
cứu nạn sĩ siêu sanh.
 
 
Tôi nói thật, sau nhẫn dù gặp vận thới hanh,
lòng khẩn nguyện sùng tu Phạm võ.
 
Oan kết theo hồn Tinh Vệ,
Lụy rơi hóa huyết Đỗ Quyên.
Mênh mông sóng thảm bủa đầu thuyền,
Lai láng gió sầu xao mặt nước.
 
Phú quý tợ môn tiền tuyết,
Còn ân tình như thảo thượng sương.
 
Chữ dinh hư hữu số,
Tình chung thỉ bất vong
Công danh như bào huyễn.
Phú quý tợ phù vân.
 
Hoa viên kíp tới, mặt ngọc tỏ trình,
Cơn rứa chừ, đỏng đưa một chiếc thuyền tình.
 
Dù Kim Ngọc là Phật, Bồ Tát đi nữa,
Là cũng phải:
Chìm đắm mấy con sóng sắc, chớ.
 
Tôi có nghe trên chùa Thiên Trúc làm chay,
Chừ, thắt thẻo ruột tằm quá đói.
Lần hồi chân gượng phải đi,
 
Họa là nhờ cửa từ bi,
Ngõ đặng qua cơn khổ não.
 
Vẳng nghe mõ cá chuông kình,
Gượng lần bước tới ngõ đành hóa duyên.
Tham những giàu sang trước mắt,
Ai dè cực khổ sau lưng.
 
Mình làm ra sự tệ,
Trời thật có mắt coi.
 
Trong Truyện Kiều ta thấy:
 
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
 
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cũng người một hội một thuyền đâu xa.
 
Ví chăng duyên nợ ba sanh,
Làm chi những thói khuynh thành trêu ngươi.
 
Tái sanh chưa dứt hương thề,
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
 
Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
 
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
 
Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao?
Số còn nặng nghiệp má đào,
Người dù muốn quyết, trời nào đã cho
 
Đánh liều nhắn một hai lời,
Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
 
Kiếp xưa đã vụng đường tu,
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi.
 
Vẻ chi chút phận bèo mây,
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi.
Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho.
 
Người này nặng kiếp oan gia,
Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho?
Khi chè chén, khi thuốc thang,
Đem lời phương tiện, mở đường hiếu sinh.
 
Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!
 
Lãnh lời nàng mới theo sang,
Biết đâu địa ngục, thiên đường là đâu.
 
Tìm đâu cho thấy cố nhân,
Lấy câu vận mạng, khuây dần nhớ thương.
 
Bể trần, chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời.
 
Sinh rằng: Thật có như lời,
Hồng nhan bạc mệnh, một người nào vay.
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
 
Phật tiền, thảm lấp sầu vùi,
Ngày pho thủ tự, đêm nhồi tâm hương.
Cho hay giọt nước cành dương,
Lửa lòng, tưới tắt mọi đường trần duyên.
 
Sớm khuya lá bối phướn mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
 
Đầu xanh đã tội tình gì,
Má hồng đến quá nửa thì, chưa thôi.
 
Người sao hiếu, nghĩa đủ đường,
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
 
Sư rằng: Phúc họa đạo trời,
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cỗi phúc, tình là dây oan.
 
Sư rằng: Song chẳng hề chi,
Nghiệp, duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều.
 
Khi nên trời cũng chiều người,
Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau.
 
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
Tiền Đường thả một bè lau rước người.
 
Trước sau cho vẹn một lời,
Duyên ta mà cũng phúc trời dư không.
 
Tấm thành đã thấu đến Trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.
 
Còn nhiều hưởng thọ về sau,
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
 
 
Một nhà chung chạ sớm trưa,
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng.
 
Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa.
 
 
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
 
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi.
Dở dang, nào có hay gì,
Đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi.
 
Gẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
 
Trong Cung oán ngâm khúc ta thấy:
 
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rẫy nguội lần lửa duyên.
 
Kìa thế cuộc như in giấc mộng,
Máy huyền vi mở đóng khôn lường.
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền định, khá thương lọ là.
 
Gót danh lợi bùn pha sắc sậm,
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
 
Mùi tục lụy, lưỡi tê tân khổ,
Đường thế đồ, gót rỗ khi khu.
 
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh.
 
Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.
 
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì.
 
 
Ngày mượn thú tiêu diêu cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong.
Đa mang chi nữa đèo bòng,
Vui gì thế sự mà mong nhân tình.
 
Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm, đuốc huệ làm duyên.
 
Hẳn túc trái làm sao đây tá?
Hay tiền nhân hậu quả xưa kia?
Hay thiên cung có điều gì,
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.
 
Miếng cao lương phong lưu nhưng lạm,
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.
 
Trong Quan Âm thị Kính ta thấy:
 
Nhân sanh thành Phật dễ đâu,
Tu hành, cứu khổ rồi sau mới thành.
Ai hay bền dạ làm lành,
Chứng minh trong chốn minh minh cũng tường.
 
Có phen thề thốt dưới trăng,
Một rằng thế thế, hai rằng sinh sinh.
 
Vì đâu phút hợp, phút ly,
Kiếp này đã lỡ, chắc gì kiếp sau?
 
Có khi dốc chí tu hành,
Lánh mình trần tục, nương mình thiền môn.
Độ trì nhờ đức Thế Tôn,
Lỡ làng thuở trước, vuông tròn mai sau.
 
Cửa thiền sẽ lén chân coi,
Trông lên sư cụ vừa ngồi tụng kinh;
Mưa hoa rảy khắp bên mình,
Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu
 
Chán vùng danh lợi, phiền hoa,
Chắp tay xin đến thiền già quy y.
 
Đoái trông thế sự nực cười,
Như đem trò rối mà chơi khác gì.
Phù vân một đóa bay đi,
Khi thì áo trắng, lúc thì chó đen.
Chật đường hồ thỉ như nen,
Cân đai cố phục người quen với mình.
 
Chẳng thèm ra áng công danh,
Mà đem thân thế làm hình dịch chi.
Cho nên mến cảnh từ bi,
Dám xin nhờ đức tăng ni mở lòng.
 
Kìa bào, kìa ảnh phút qua,
Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm bao.
Lựa là tranh trí thấp cao,
Kẻ xem khoái chí, người gào thất thanh.
 
Lấy ai làm nhục làm vinh,
Trăm năm là áng ngàn xanh rì rì.
 
Vâng lời, lãng cảnh ngọc phương,
Khêu đèn Bát-nhã, đóng chuông Tam thiền.
Này gươm trí huệ mài đây,
Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi.
 
Lấy chi làm chuyện giải phiền?
Quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa.
 
Chữ rằng: nhẫn nhục nhiệm hòa,
Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu,
 
Nhưng, thời trong dạ hiếu sanh,
Phước thì làm phước, dơ đành tiếng dơ.
 
Dẫu xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phước cứu cho một người.
 
Miền Bát-nhã tìm vào mây khói,
Nương bè từ vượt khỏi sông mê.
 
Đuốc quang minh đốt cháy thành sầu,
Biển khổ hạnh cháy lên Đại giác.
 
Từ những lời ăn tiếng nói, những câu ca dao, những danh từ trong các văn thơ, tuồng, truyện... ta thấy rằng người Việt Nam ta thấm nhuần tinh thần nhà Phật một cách đằm thắm, sâu xa. Từ trên tới dưới, từ già chí trẻ, từ nam tới nữ, dù có xem kinh điển nhà Phật hay không, dù có thường viếng chùa lễ Phật hay không, ai nấy đều thấm nhuần tinh thần từ bi hỷ xả của Phật, cũng như các đạo lý nhân quả, luân hồi trong các kinh Phật. Nhờ vậy mà sự sống của dân tộc ta được êm ái, hiền hòa và thuần túy.

Vậy thì từ đây, mong rằng những vị chưa từng xem qua kinh điển nhà Phật nên để ra chút ít thời gian mà tìm hiểu về Phật lý, điều ấy rất dễ giúp cho mình dung hòa cõi đời với cõi đạo, rất dễ làm cho mình an ổn thân tâm, và có công hiệu nhất trong việc khuyên lơn, an ủi để mình vững chí mà tiến bước lên trong những công việc ích mình lợi người.

Và cũng mong rằng những vị đã xem qua kinh sách nên xem cho nhiều hơn, và tùy sức mình mà thi hành theo giáo lý của đức Phật, để cho hạt giống Bồ-đề càng ngày càng mở mang ra vậy.

Nam Mô A Di Đà Phật

 Saigon 1-10-1946

Đoàn Trung Còn
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có.