Kinh nghiệm thiền quán Phần 1: Lời nói đầu Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Tháng Năm, năm 1965.

Tại Thái Lan, ngày 10, một trong những nhóm Peace Corps đầu tiên, uống rượu sâm-banh ở ba mươi ngàn dặm trên mặt biển Thái Bình, chúc mừng Tây phương sang gặp gỡ Đông phương. Vì tôi chưa đầy hai mươi mốt tuổi, Pan Am không bán rượu cho tôi. Những gì tôi biết về Phật giáo không đủ làm đầy những chiếc ly nhỏ bé bằng plastic ấy: một người đàn ông mỉm cười với cái bụng phệ, một ý niệm về tĩnh lặng, thở vào trong mọi vật.

Tháng Bảy, năm 1974.

Một khóa mùa hè tại viện Naropa, Boulder, Colorado; một thứ “đại hội nhạc trẻ Woodstock” đón mừng Đông phương sang gặp gỡ Tây phương. Lễ trao truyền chức giáo thọ cho tôi ở Hoa Kỳ. Giữa những phấn khởi, khao khát học hỏi của tất cả mọi người. Tôi cảm thấy gió tụ về, nâng tất cả lên; và tôi nghĩ: “Đây là sự khởi đầu của một việc gì đó.”

Tháng Giêng, năm 1993.

Một thế hệ sau, giáo pháp của Đức Phật thổi đều đặn, nhẹ nhàng vào văn hóa Tây phương. Khóa tu ba tháng vừa chấm dứt - khóa tu thiền quán thứ mười tám kể từ năm 1975. Một trăm người bước về với thế giới bên ngoài, một vài người mỉm cười lặng lẽ, một số khác bừng cháy với ngọn lửa kinh nghiệm được chân lý. Giữa đêm đông vắng lặng, màn ảnh máy điện toán của tôi sáng lên với những câu hỏi, thắc mắc của họ.

Tiếng gầm của con sư tử lớn kêu gọi chúng ta hãy thức dậy. Nếu biết nhìn cho sâu sắc, ta sẽ khám phá được tuệ giác và tình thương, chân tính của chính mình. Khích lệ bởi tiềm năng này, nhiều người trong chúng ta đã học cách nhìn, biết thắc mắc, và biết tự khám phá chính mình.

Khám phá là bước đầu tiên.

Rồi tiếp theo đó? Ngài Karmapa thứ 16 của Tây Tạng đã trả lời một cách hết sức đơn giản: “Chúng ta phải thực hành những gì mình biết.” Muốn giải thoát, chúng ta phải biết đưa những gì khám phá được vào sự tu tập.

Có nhiều người Tây phương đã tu tập thiền quán Phật giáo gần hai mươi năm. Có người ngồi thiền đều đặn mỗi ngày. Có người tham dự những khóa tu ba tháng, hoặc nhiều tháng... Có người tu tập lâu hơn nữa. Trong thời gian ấy, mỗi giây phút đều là một cơ hội.

Những gì sau đây bàn đến phạm vi rộng lớn của mọi đề tài, được liên tục nêu lên bởi các thiền sinh. Quyển sách này đã ra đời từ chính những câu hỏi thực tế, sâu sắc và đôi khi thẳng thắn ấy.

Joseph Goldstein
Barre, Massachusetts
Tháng Giêng, 1993




Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 2: I. Con đường tu tập - Phật Pháp - Dharma Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính “Đã hoàn tất những gì phải hoàn tất.”

Trong kinh điển Phật giáo, câu này bao giờ cũng gây phấn khởi cho tôi. Nó xuất hiện trong nhưng bài ca chứng đạo, là lời mà các vị tu sĩ cảm tác thốt lên trong phút giây giác ngộ. Những lời cảm tác ấy đem lại cho tôi niềm vui rất lớn, vì chúng nhắc tôi nhớ rằng: chúng ta thực sự có thể đi trọn con đường tu tap. Giây phút ấy chắc sẽ là nhiệm mầu lắm, khi ta có thể cất tiếng hát lên lời ca ấy: “Đã hoàn tất những gì phải hoàn tất.”

Nhưng chúng ta bao giờ cũng bị ám ảnh bởi một nỗi nghi ngờ: “Ta có thể đạt được giác ngộ không? Đức Phật có thể thực hiện việc ấy, nhưng còn tôi, liệu tôi có thể thực hiện việc ấy không?” Câu trả lời là: Bất cứ ai trong chúng ta đều có thể thực hiện việc ấy, nếu biết phương pháp.

Ta tu ttập đạo Phật là để khám phá ra phương pháp ấy, để có thể được tự tại và giải thoát. Trọng tâm của việc tu tập chỉ là để thực hiện bấy nhiêu đó thôi. Sự giải thoát sẽ đem lại những đức tính như là từ bi, an lạc, một tuệ giác thấy được rằng tất cả mọi vật đều có liên hệ mật thiết với nhau.

Chữ Dharma trong Phạn ngữ (Sanskrit), hay Dhamma trong tiếng Pali, là một danh từ rất rộng nghĩa. Nó bao trùm và chứa đựng tất cả. Một trong những nghĩa của Dharma là chân lý, là pháp, tức tự tính của vạn vật. Nó cũng có nghĩa là những yếu tố đặc biệt của một hiện tượng và những luật tự nhiên điều khiển hiện tượng ấy. Dharma cũng có nghĩa là những lời dạy của Đức Phật và con đường tu tập đưa đến giác ngộ. Vì thế cho nên danh từ Dharma bao trùm tất cả. Mọi sự vật trên đời này đều là Dharma, vì mọi vật đều phải tuân theo luật tự nhiên của chính nó.

Đức Phật đã nhìn thấy rất rõ rằng, những trạng thái khác nhau của tâm và những hành động khác nhau của thân sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác biệt. Tâm bất thiện sẽ tạo nên kết quả xấu, và tâm tốt lành sẽ có những kết quả tốt. Hiểu được sự thật này, ta sẽ có khả năng thấy được những gì trên đời này gây ra khổ đau cho ta, và những gì có thể mang lại tự do, hạnh phúc.

Trên con đường tu tập chân chánh không có vấn đề cưỡng bách, ép buộc. Đức Phật đã vẽ ra cho chúng ta một bản đồ tổng quát của thực tại. Khi chúng ta hiểu được cặn kẽ bản đồ ấy, ta có thể tự do chọn lựa con đường nào mình muốn theo. Đơn giản lắm! Nếu chúng ta muốn được hạnh phúc, và nếu chúng ta biết được những hạt giống của hạnh phúc thì cứ tiếp tục tưới tẩm chúng đi, rồi chắc chắn một ngày hạnh phúc sẽ đơm bông kết trái.

Sở dĩ chúng ta có được một sự chọn lựa vì Dharma là một thực tại của định luật tự nhiên. Nó là đường lối chuyển biến, vận hành của vạn vật. Nếu cuộc sống của ta chỉ là một tập hợp của những sự việc xảy ra theo kiểu rủi may, không theo một định luật vật lý hay tâm lý nào hết, thì ta sẽ không bao giờ quyết định được đường hướng của đời mình. Chúng ta sẽ chỉ là những chiếc lá vàng rụng bay lả tả, bị cuốn theo cơn lốc xoáy của cuộc đời.

Trong giai đoạn đầu tu tập, mặc dù chúng ta có thể cảm thấy tâm mình như là một con trốt sinh hoạt quay cuồng, nhưng dần dần năng lượng của thiền tập sẽ giúp ta phân định và sắp đặt tất cả. Theo thời gian, ta sẽ trở nên an ổn, vững vàng, và có thể định tâm để thấy được yếu tố nào mang lại an lạc hoặc gây ra khổ đau. Mọi việc trên đời này - hạnh phúc hay khổ đau - đều xảy ra theo quy luật. Sự tự tại của ta tùy thuộc vào sự sáng suốt trong chọn lựa.

Mục tiêu tối hậu của sự tu tập là làm sao để phát triển được những tính thiện trong tâm ta. Con đường tu tập là để chuyển hóa tâm thức, thanh lọc hết những tham, sân, si, sợ hãi, ganh tỵ, hiềm khích - các năng lực tiêu cưc gây nên khổ đau cho chính ta và cho thế giới chung quanh.

Tất cả chúng ta đều chia sẻ mục tiêu giải thoát rất cơ bản ấy, mà tiềm năng đó bao giờ cũng sẵn có trong tâm mỗi người. Trong những năm đầu tu tập ở Ấn Độ, toi theo học với ngài Munindra-ji, một trong những vị thầy của tôi tại Bồ-đề Đạo tràng, nơi Đức Phật đã thành đạo. Bồ-đề Đạo tràng là một ngôi làng nhỏ với nhiều ngôi chùa thật đẹp. Những khi tôi và ngài Munindra có dịp cùng nhau đi bộ ngang qua làng, ngài thường chỉ cho tôi những người dân làng mộc mạc từng là học trò của ngài. Đa số những người ấy đều đã đạt được một trình độ giác ngộ nào đó.

Có dịp nhìn thấy những người ấy là một khích lệ lớn cho tôi, vì nhìn bề ngoài thì không cách nào ta có thể đoán rằng họ có một trình độ tâm linh cao. Trông họ như những dân làng hiền hoà, đang sống một cuộc đời bình thường như mọi người khác. Đó cũng là lần đầu tiên tôi chứng ngộ được chân lý, mà ta thường hay nói, là giác ngộ không tùy thuộc vào giai cấp xã hội hay trình độ học thức của ta. Tất cả mọi người đều có những điểm chung căn bản là đang sống với đầy đủ tâm thức và thân thể. Tu tập là tỉnh thức và thanh lọc bản tâm của mình, vì lợi ích của bản thân và muôn loài chúng sinh.

Và ý thức ấy là một khuôn vàng thước ngọc, có thể dùng để đo lường, làm mẫu mực cho mọi hành động của ta. Việc mà ta sắp làm đây - bất cứ là hành động gì - liệu có giúp ta trên con đường giác ngộ, hay sẽ gây cản trở? Cho dù trong hoàn cảnh nào, trường hợp nào của cuộc sống, ta đều có thể tu tập. Khi ta ý thức đươc con đường giải thoát và thật tâm tu tập, thì dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra, ta vẫn tin chắc rằng rồi có một ngày sẽ được hát lên bài ca giác ngộ của chính mình: “Đã hoàn tất những gì phải hoàn tất.”


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 3: Nỗi sợ giác ngộ Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Một số thiền sinh xác nhận rằng có một nỗi sợ về giải thoát đã kiềm hãm họ trong sự tu tập, nhất là khi họ bắt đầu bước chân vào một lãnh vực xa lạ, chưa từng khám phá. Nỗi sợ về những điều không biết đã trở thành một chướng ngại, nó khiến ta không thể hoàn toàn buông xả.

Nhưng sự thật thì đó không phải là nỗi sợ về giác ngộ, mà là sợ những ý niệm về giác ngộ. Trong chúng ta, ai cũng có một quan niệm nào đó về giải thoát, như là: hoà tan vào một vầng sáng chói hoặc là hội nhập vào một tia chớp vô cùng trong vũ trụ... Tâm ta tạo dựng đủ mọi hình ảnh khác nhau về sự giác ngộ. Và đôi khi bản ngã cũng tạo nên một hình ảnh về cái chết của chính nó, khiến ta kinh hoảng.

Giải thoát có nghĩa là buông bỏ hết mọi khổ đau. Thế thôi! Trước viễn ảnh được giải thoát ra khỏi lòng tham lam, bạn có sợ hãi không? Bạn có sợ rằng mình sẽ không còn sân hận hay si mê nữa không? Có lẽ là không! Giải thoát có nghĩa là tự mở trói thoát ra khỏi những tâm tính nào đã từng ràng buộc và làm ta khốn đốn. Vì vậy mà giải thoát không phải là một điều gì huyền bí hay khó hiểu. Giác ngộ sẽ không làm cho ta trở nên một nhân vật kỳ diệu, siêu nhiên. Giác ngộ chỉ có nghĩa là thanh lọc tâm mình và buông bỏ hết những gì có thể gây ra khổ đau. Bạn thấy không, việc ấy vô cùng đơn giản và thực tế.

Bạn hãy tưởng tượng mình đang cầm trên tay một cục than hồng. Tôi chắc chắn rằng bạn sẽ không chút ngần ngại hay sợ hãi gì mà không buông bỏ ngay. Sự thật thì khi bạn vừa ý thức được rằng mình đang nắm giữ, lập tức bạn sẽ buông bỏ. Nhưng trong cuộc sống hằng ngày thì ít có ai ý thức được rằng chính mình đang nắm giữ khổ đau. Ngược lại, ta cứ tưởng rằng chúng đang trói giữ ta! Sự tu tập là làm sao thực hành được điều này: Ý thức được khổ đau khi chung khởi lên và khi ta nhận chúng là mình, để kịp thời buông bỏ chúng. Chúng ta có thể thực hiện được điều ấy bằng một kinh nghiệm giản dị và trực tiếp, ta theo dõi tiến trình ấy xảy ra thật nhiều lần, cho đến ngày nào ta thực sự hiểu được nó.

Đức Phật đã diễn tả giáo lý của ngài một cách thật vắn tắt và đầy đủ, rằng ngài chỉ dạy có một điều và mỗi một điều thôi: Khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau. Hiểu được sự thật này sẽ giúp ta giải thoát tâm mình và mở rộng ra với cuộc sống chung quanh, và rồi một ngày ta sẽ có thể mang từ bi vào cuộc đời để làm vơi bớt những khổ đau.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 4: Trí thông minh và sự tiến bộ Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Bất cứ ai cũng có thể giác ngộ. Tôi nghĩ, một điều vô cùng may mắn là sự tiến bộ trên con đường tu tập không hề tùy thuộc vào mức độ thông minh. Hiểu rõ được điều này là một cánh cửa mở rộng, nó đã giúp tôi rất nhiều trong những năm tu tập để trở thành một vị thầy.

Trong những năm tu tập và rèn luyện ở Ấn Độ với thầy Munindra-ji, tôi có cơ hội ngồi nghe những buổi tham vấn riêng giữa ngài với các thiền sinh khác để quan sát phương pháp dạy của ngài. Sau khi tham vấn, ngài thường trao cho mỗi thiền sinh một đề mục thiền quán thích hợp, tùy theo cá tính của mỗi người. Có lần ngài bảo tôi: “Phải rồi, đề mục này thích hợp với người trí, còn đề mục này thì dành cho hạng ngu đần.” Khi nghe những lời ấy, tôi cảm thấy hơi bất mãn về cách phân loại này. Xuất thân từ giới trung lưu, chịu ảnh hưởng của Tây phương, tôi cảm thấy việc xem ai đó như hạng ngu đần là một sự xúc phạm.

Nhưng về sau tôi hiểu được rằng, trên con đường tu tập thật ra không có lợi thế nào của sự thông minh cả. Có người thông minh, và có người thì không. Theo giáo pháp thì nếu bạn là người có trí tuệ bạn sẽ thực hành như thế này, còn nếu bạn hơi kem một chút bạn sẽ thực hành theo cách khác. Chỉ có vậy thôi! Trong quyển Thanh tịnh đạo luận (Visuddhimagga) của ngài Buddhaghosa đã tóm tắt hầu hết giáo lý của Đức Phật và có diễn tả những đề mục thiền quán khác nhau, nêu rõ mỗi đề mục là thích hợp với hạng người nào.

Sau nhiều năm hành đạo, tôi đã nhận thấy rõ những lợi thế mà trí thông minh có thể đem lại cũng như những nguy hiểm vô cùng của nó. Chúng ta đều biết là có những hang người chấp chặt hoặc tự hào về trí thông minh của họ. Đó là một cái bẫy ngã chấp rất lớn, có thể gây nguy hại cho ta và cả những người chung quanh. Nhưng trí thông minh cũng là một phước báu lớn, vì nó mang lại cho ta khả năng hiểu biết vô giá. Điều quan trọng mà bản thân tôi đã học được là: có nhiều đức tính phản ảnh sự cao thượng và vẻ đẹp của tâm hồn xác đáng hơn trí thông minh. Chẳng hạn, tình thương, lòng từ bi và sự tận tuy, chúng hoàn toàn không tùy thuộc vào chỉ số thông minh (IQ) cao hoặc thấp.

Vào thời Đức Phật, có một câu chuyện mà tôi rất ưa thích, kể về một người đệ tử rất đần độn của ngài. Tất cả những huynh đệ khác của ông trong tăng đoàn đều giác ngộ và đắc quả A-la-hán. Họ toàn là những người có trí thông minh xuất chúng. Vị đệ tử đần độn này vì cảm phục giáo lý của Đức Phật nên đã xin xuất gia. Ông ta có một trái tim thật chân thành, nhưng chỉ có mỗi một điều là trí hiểu biết của ông quá ư chậm chạp. Vì vậy, các huynh đệ đã dạy cho ông chỉ một bài kệ bốn câu của Đức Phật để ông ghi nhớ như là một phương pháp tu tập.

Người đệ tử đần độn ấy đã co gắng hết sức mình, ngày này sang ngày nọ, để cố ghi nhớ. Nhưng tội nghiệp là khi ông cố gắng học sang câu thứ nhì thì lại quên mất câu thứ nhất! Đầu óc ông chỉ có khả năng ghi nhớ mỗi một câu! Cuộc phấn đấu này cứ thế mà tiếp tục, nhưng ông ta không làm sao có đủ thông minh để nhớ trọn bốn câu. Cuối cùng, các huynh đệ của ông đành chịu thua và nói: “Như vậy là hết hy vọng. Ông nên rời tăng đoàn mà hoàn tục thì tốt hơn.” Người đe tử đần độn đáng thương nọ hoàn toàn nản chí. Ông cảm thấy thất vọng vô cùng vì đã đem hết lòng mình ra học đạo nhưng vẫn không thành.

Trong khi ông ta đang thất thểu trở về làng xưa với một tâm tư chán nản, Đức Phật biết rõ mọi việc nên liền đến cạnh bên ông. Ngài đưa tay vuốt đầu người đệ tử kém trí tuệ và an ủi. Sau đó, Đức Phật dạy cho ông một phương pháp tu tập thích hợp với trình độ của ông. Ngài nói: “Đây là đề mục thiền quán cho ông. Ông hãy lấy tấm khăn trắng này mỗi ngày ra đứng dưới ánh nắng mặt trời và lấy tay chà xát nó.” Phương pháp tu tập của ông là làm bấy nhiêu thôi.

Vâng lời Đức Phật, mỗi ngày ông ta cầm tấm khăn ra đứng dưới ánh nắng mặt trời và bắt đầu lấy tay chà xát. Dần dần, tấm khăn trắng trở nên dơ bẩn vì bụi đất và mồ hôi từ hai bàn tay của ông. Nhìn thấy hiện tượng này, trí nhớ của những kiếp tu tập xa xưa bừng tỉnh dậy, vì trong quá khứ ông cũng đã từng nhìn thấy những yếu tố bất tịnh của thân mình. Và khi ông tiếp tục quán chiếu tấm khăn dơ bẩn ấy, trong ông đột nhiên có một sự vô phân biệt phát khởi rất mãnh liệt và tâm ông bừng mở. Lúc ấy ông đạt được sự giác ngộ hoàn toàn. Chuyện kể lại sau khi ông giác ngộ, trí tuệ và mọi thần thông đều đến với ông, thêm vào đó là sự hiểu biết thông suốt Phật pháp.

Tôi cảm thấy rất thương mến và vô cùng gần gũi với người đệ tử đần độn ấy!


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 5: Một mùi vị duy nhất Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Giác ngộ đến chậm (tiệm) hay nhanh (đốn)? Có biết bao trường phái Phật giáo khác nhau đã phát sinh vì vấn đề này. Nhưng theo tôi thì sự giác ngộ vừa chậm mà cũng vừa nhanh, vì cả hai hoàn toàn không hề đối nghịch nhau.

Giác ngộ bao giờ cũng xảy ra nhanh và đột ngột. Khi điều kiện đầy đủ, nhân duyên thuận lợi, nó sẽ xảy ra. Nhưng con đường tu tập dẫn đến giây phút ấy thì bao giờ cũng chậm chạp và đều đặn. Chúng ta thực hành, chúng ta vun xới, bón phân cho thửa đất tâm, rồi một ngày bỗng nhiên tự nó sẽ bừng mở. Và rồi sau giây phút đốn ngộ, một lần nữa ta lại tiếp tục con đường tiệm tu để tam giác ngộ được thêm chín muồi.

Đức Phật đã nói rõ với chúng ta rằng, tự tính của tâm là thanh tịnh nhưng vì mải mê chạy theo vọng cảnh bên ngoài mà nó trở thành nhơ uế. Đức Phật dạy: “Tâm ta lúc nào cũng sáng chói, rực rỡ và toả chiếu, nhưng nó bị vẩn đục vì những bợn nhơ đến từ bên ngoài. Nhờ dẹp sạch và bứng nhổ hết gốc rễ của những bợn nhơ này mà tâm ta được giải thoát.”

Trong mọi truyền thống Phật giáo, phương pháp tu tập tuy có đổi thay, nhưng cốt tủy giáo lý của Đức Phật - về tự tính của khổ đau và ý thức giải thoát - thì bao giờ cũng chỉ có một. Bất cứ nơi nào Phật giáo truyền đến, sẽ phát sinh vô số hình thức tu tập khác nhau: Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Tích Lan (Sri Lanka), Kampuchia, Việt Nam... và nhiều nơi khác nữa. Ngài Munindra-ji có lần bảo tôi rằng, chỉ riêng ở Tích Lan ngài đã biết được đến hơn năm mươi phương pháp thiền quán khác nhau.

Thế nên ta đừng để bị kẹt vào quan niệm rằng chỉ có một con đường đúng duy nhất, hay chỉ có một phương pháp để tu tập Phật pháp mà thôi. Sự giải thoát và lòng từ bi phải luôn luôn là tiêu chuẩn cho mọi phương pháp tu tập. Còn tất cả những điều khác chỉ là phương tiện được vận dụng mà thôi. Trên con đường tu tập ta sẽ có biết bao nhiêu kinh nghiệm khác nhau. Ngay khi ta dừng lại ở một giai đoạn nào và nghĩ rằng “chính là nơi đây,” thì ta đã đánh mất đi sự nhiệm mầu của tính không rồi. Ta vô tình tạo thêm một quan điểm tuy mới nhưng cũng đầy thành kiến như mọi quan điểm khác.

Một vị thầy của tôi có nói một điều mà tôi thấy có thể áp dụng cho mọi phương pháp tu tập và mọi quan điểm: “Trừ khi một phương pháp có thể làm dịu mát đi ngọn lửa tham, sân, si, bằng không thì nó chỉ hoàn toàn vô dụng.” Ta nên lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc cho nhưng việc mình làm.

Một điều rất may mắn cho Phật pháp ở Tây phương là cơ hội để những người tu theo mọi truyền thống khác nhau có thể gặp gỡ và học hỏi lẫn nhau. Mỗi truyền thống lớn - như là Theravada (Nam tông), Mahayana (Bắc tông) và Vajrayana (Phật giáo Tây Tạng) - đều có biết bao điều hay đẹp để dâng tặng chúng ta. Như Đức Phật đã nói: “Phật pháp chỉ có mỗi một mùi vị duy nhất là mùi vị giải thoát mà thôi.”

Đối với tất cả chúng ta, sự thực hành luôn là chìa khóa của vấn đề. Có một câu chuyện rất lý thú về ngài Milarepa, một đại sư Tây Tạng. Vào cuối đời, ngài Milarepa chọn một người đệ tử thân tín nhất theo ngài đến một sườn núi xa xôi để trao truyền giáo pháp bí mật. Với tất cả tấm lòng chân thành và kính tin, người đệ tử cầu xin thầy truyền dạy pháp tu bí mật ấy. Ngài Milarepa cúi xuống, vạch mông ra và chỉ vào vết chai như da thuộc sau nhiều năm công phu ngoi thiền. Pháp tu bí mật của ngài chỉ có thế!

Mỗi người chúng ta đều trải qua những giai đoạn tu tập khác nhau. Sẽ có lúc ta cảm thấy tràn đầy năng lực, sẵn sàng tham dự những khóa tu thinh lặng và triệt để, có khả năng giúp ta quân bình tâm ý và mở ra những mức độ tâm linh mới. Rồi cũng có lúc ta cảm thấy như mất hết sinh lực, chán chường, không còn hăng hái tham dự những khóa tu tích cực như xưa. Vòng chu kỳ tròn khuyết, đầy vơi này có thể xảy ra sau một vài năm, hoặc vài tháng, hay có khi chỉ sau chừng vài ngày tu tập tích cực. Chu kỳ ấy thay đổi tùy theo trình độ tiến triển và hoàn cảnh riêng của mỗi người.

Tôi có biết một thiền sinh Tây phương sang Á châu tập thiền. Sau nhiều tháng, sự tu tap của anh ta đạt đến một giai đoạn khá chín chắn, nhưng không hiểu vì sao anh không thể tiến xa hơn nữa. Khi vị thầy hỏi thăm về tình trạng gia đình anh, anh nói lên một ý muốn mãnh liệt, muốn về thăm gia đình. Vị thầy khuyên anh nên thực hiện điều ấy. Sau khi gặp lại gia đình, tâm anh không còn bị sự mong muốn làm ngăn ngại nữa. Cuối cùng anh trở lại và hoàn tất khóa tu tập ấy.

Bạn hãy cẩn thận, đừng bao giờ có một quan niệm cứng ngắc nào về sự phát triển tu tập. Sẽ có lúc ta thích được ngồi quán chiếu tâm mình trong một hoàn cảnh thinh lặng yên tĩnh của môi trường tu học. Rồi cũng có lúc ta sẽ không cảm thấy sự tịch liêu ấy là cần thiết cho tu tập. Hay theo nhịp xoay của chu kỳ một cách thật tự nhiên và thư thả. Nếu vấn đề giải thoát là một hoài bão, khát khao của bạn, thì những thời gian tu tập tích cực sẽ rất là cần thiết và vô giá. Chúng có thể đem lại cho bạn năng lực, sức mạnh và trí tuệ vô cùng tận. Nhưng cũng có lúc vòng xoay đưa ta trở lại với cuộc sống hằng ngày. Vào giai đoạn này, ta sẽ có cơ hội để phát triển và thực tập những đức tính như rộng lượng, chân thật và từ bi nhiều hơn khi đang trong những khóa tu. Và những đức tính ấy sẽ trở lại hỗ tương và giúp ích cho ta rất nhiều trong những giai đoạn tu thiền tích cực.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 6: Tứ diệu đế Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Khi giáo lý của Đức Phật được truyền bá khắp nơi trên thế giới, có nhiều trường phái với nhiều lối giải thích khác nhau về Phật pháp được phát sinh. Mỗi trường phái chú trọng vào một điểm riêng, có một hệ thống luận giải riêng và những phương tiện khéo léo riêng biệt. Mac dù các truyền thống khác nhau ấy có thể hiểu khác nhau về một số điểm trong giáo lý Đức Phật, nhưng có một điểm chung trong giáo pháp mà bao giờ cũng là trọng tâm của mọi truyền thống. Đó là Tứ diệu đế, hay Bốn sự thật mầu nhiệm.

Đức Phật dạy, sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế là Khổ đế, sự thật về khổ đau, trong tiếng Pali là dukkha. Chữ dukkha có một nghĩa rất rộng, bao gồm cả khổ đau, bất an và sự bất toại nguyện. Đức Phật sau khi giác ngộ đã đối diện với sự thật về khổ đau trong cuộc đời một cách không sợ hãi, không ta thán. Ngài đã nhận diện những vấn đề của khổ đau hết sức rõ ràng: nỗi đau đớn của sinh, lão, bệnh, tử, buồn lo, thất vọng, ưu tư, sầu khổ vì xa lìa người mình yêu, vì gần gũi người mình không ưa thích, vì không có được điều mình muốn - tất cả những cái ấy đều là dukkha. Khi ta quán chiếu tự tính duyên khởi của mọi hiện tượng một cách sâu xa và tinh tế, ta sẽ bắt đầu thấy được bản chất cố hữu của chúng là khổ đau.

Chúng ta ai cũng biết rằng những cảm thọ đau đớn trong tâm và thân là khổ đau. Nhưng chúng ta cũng có thể kinh nghiệm được khổ đau ấy khi ta ý thức được sự ngắn ngủi tạm thời của mọi hiện tượng. Không có bất cứ một kinh nghiệm nào, cho dù tuyệt vời đến đâu, lại có thể đem đến cho ta một sự thỏa mãn sâu xa và trường cửu, vì chúng lúc nào cũng thay đổi. Sự biến chuyển không ngừng của các hiện tượng thường khiến tôi liên tưởng đến dòng nước đổ xuống từ thác cao. Dòng nước đổ xuống, tan tác, bất tận, mạnh mẽ, không ngừng nghỉ. Đó cũng là tự tính của mọi hiện tượng.

Thêm vào đó, Đức Phật đã diễn tả về một loại khổ đau thứ ba rất chi tiết trong một bài pháp nói về lửa: “Mắt đang bị lửa thiêu đốt, tai đang bị lửa thiêu đốt... Thân... tâm... đang bị lửa nào thiêu đốt? Lửa của tham lam, lửa của sân hận và lửa của si mê.”

Chúng ta khó có thể cởi mở sự thật khổ đau, vì lúc nào ta cũng muốn trốn tránh, tìm sự ẩn náu trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta thường đi tìm hạnh phúc và nương tựa vào những gì đem lại cho mình khoái lạc, mặc dù chính chúng cũng chỉ là tạm bợ và nhất thời mà thôi. Tất cả cũng chỉ vì phần đông chúng ta không biết thực tập phương pháp dừng lại và cởi mở ra với sự sống chung quanh, để có thể cảm nhận được những gì thực sự đang diễn ra.

Có một điều hơi mâu thuẫn về khổ đau, nhưng cũng rất nhiệm mầu, là khi ta càng tiếp xúc, càng tìm hiểu khổ đau thì tâm ta càng trở nên nhẹ nhàng và tự do hơn. Vì khi ta không còn chối bỏ hay trốn tránh sự thật nữa, tâm ta sẽ trở nên bao la hơn, cởi mở và an lạc hơn. Chúng ta cũng sẽ không còn bị sai khiến bởi lòng tham dục hoặc những đam mê, vì ta có thể nhìn thấy được rõ ràng tự tính của mọi vật như chúng đang thực sự hiện hữu.

Nhưng nếu chỉ nhìn thấy và hiểu được khổ đau trong cuộc đời này thôi vẫn chưa đủ! Chân lý thứ hai, Tập đế, nhận diện được nguyên nhân của khổ đau. Khổ đau bắt nguồn từ đâu? Danh từ kilesa trong tiếng Pali có nghĩa là cảm xúc khổ thọ, tức là những nỗi thống khổ trong tâm như tham lam, ghen tức, thù hằn, sân hận, sợ hãi... Những trạng thái tương tự như thế giày xéo tâm ta, chúng làm cho ta điêu đứng và gây ra trăm ngàn khổ đau.

Kilesa có thể biểu hiện trên nhiều bình diện khác nhau. Đôi khi chúng có năng lượng đủ mạnh để biến thành những hành động vô cùng bất thiện như là giết hại, trộm cắp, tà dâm, tự hủy hoại mình và làm hại người khác... Ta có thể thấy được năng lượng của kilesa biểu lộ thật rõ rệt mỗi khi ta quan sát những gì đang xảy ra khắp nơi trên thế giới: giết chóc, hãm hiếp, tra tấn, đói khát, thù hận... Những khổ đau này có goc rễ trong tâm mọi người, trong đó có cả bạn và tôi.

Chúng ta có thể làm vơi bớt phần nào những khổ đau trên cuộc đời này bằng cách giữ một giới hạnh trong sạch. Đức Phật có dạy cho chúng ta về Năm giới như là một phương pháp bảo vệ, giữ cho ta khỏi phạm vào những việc bất thiện. Năm giới ấy là: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không dùng những chất gây say. Bạn hãy tưởng tượng xem cuộc đời này sẽ đẹp biết bao nhiêu nếu ai cũng chỉ cần giữ một giới mà thôi: không giết hại sinh mạng!

Ở một mức độ thấp hơn thì kilesa là những tâm thức bất thiện nào có khả năng tạo nên lời nói hoặc tư tưởng có ảnh hưởng yếu hơn một chút. Và mức độ sâu kín hơn hết của kilesa, còn được gọi là những bất thiện tiềm ẩn, là khuynh hướng khổ đau sẵn có trong ta. Những khổ đau ấy hiện không có mặt trong giờ phút hiện tại, nhưng chúng có một tiềm nang khởi dậy khi gặp hoàn cảnh thích hợp. Ví dụ như khi một người bị đặt vào những hoàn cảnh khẩn trương, người ấy có thể thực hiện những hành vi bất thiện mà thường ngày không dám làm. Đó là do có sự bất thiện tiềm ẩn.

Đức Phật cũng nhấn mạnh đến một loại tâm bất thiện đặc biệt mà ta cần phải nhổ bỏ tận gốc, nếu ta muốn tận diệt nguyên nhân của khổ đau. Loại kilesa này được xem như là loại nguy hiểm nhất, đó là niềm tin cho rằng có một “cái tôi” thường hằng, bất biến. Ngày nào tâm ta còn bị ô nhiễm bởi tà kiến ấy, quan niệm sai lầm ấy, nó sẽ lôi kéo ta vào biết bao nhiêu những việc bất thiện khác nữa! Và khi ta có ý niệm sai lầm về một “cai tôi”, ta sẽ cố gắng bảo vệ nó, thoả mãn nó, rồi biết bao nhiêu hành động của ta chung qui cũng chỉ để phục vụ cho ý niệm sai lầm này. Nhà văn Wei Wu Wei có diễn tả cái tâm bất thiện ấy một cách thật gọn gàng và chính xác: “Giống như con chó ngồi sủa một cái cây, nhưng chỉ có điều là không có cái cây nào ở đó cả!”

Thiền tập có khả năng thanh lọc tâm ta sạch hết những tì vết của kilesa, những gì đã từng gây ra biết bao khổ đau trong cuộc đời, mà cũng là nền tảng của cái nhìn sai lầm về sự sống của ta. Nhờ năng lực của một ý thức tỉnh giác, ta sẽ có thể cảm nhận được, nếm được mùi vị của vô ngã - sự vắng mặt của “cái tôi”. Và ta sẽ hiểu được nó, không phải bằng lý thuyết hay qua ý niệm, nhưng bằng một kinh nghiệm trực tiếp ngay trong giây phút hiện tại này.

Thật ra, tuệ giác giải thoát ấy không có gì là mới lạ cả. Nó đã có từ thời Đức Phật và vô số những Đức Phật trước đó nữa. Sự hiểu biết này cũng chính là tự tính của Phật pháp. Nó đã được diễn tả qua tuệ giác của biết bao nhiêu người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Một dũng sĩ Nhật vào thế kỷ thứ 14 có viết:

Tôi không có mẹ cha,
Tôi lấy đất trời làm cha mẹ.
Tôi không nơi cư ngụ,
Tôi lấy sự tỉnh giác làm nhà.
Tôi không có tử sinh,
Tôi lấy sự ra vào của hơi thở làm lẽ sống chết.
Tôi không có thần thông,
Tôi lấy sự chân thật làm phép lạ.
Tôi không có bạn bè,
Tôi lấy tâm mình làm bằng hữu.
Tôi không có kẻ thù,
Tôi lấy thất niệm làm địch thủ.
Tôi không có áo giáp,
Tôi lấy từ tâm làm sự bảo vệ.
Tôi không có lâu đài,
Tôi lấy tâm bất động làm thành trì bao bọc.
Tôi không mang đao kiếm,
nhưng tôi chỉ cần một lưỡi gươm vô ngã mà thôi.

Chúng ta hãy là những dũng sĩ, lấy vô ngã làm thanh gươm trí tuệ. Thanh gươm báu ấy có khả năng xuyên qua những si mê và phá thủng được tấm màn vô minh mờ mịt.

Chân lý thứ nhất là Khổ đế, dạy cho ta về sự thật khổ đau và những mức độ khác nhau của chúng. Hiểu được chân lý thứ hai, tức Tập đế, ta sẽ nhận thức được các nguyên nhân của khổ đau và tập buông bỏ chúng. Ta sẽ làm lung lay và bứng nhổ hết những gốc rễ của phiền não trong tâm, nhất là ý niệm về một cái ngã.

Chân lý thứ ba của Tứ diệu đế là Diệt đế dạy rằng, mọi khổ đau có thể được chấm dứt, ta có thể trút bỏ được gánh nặng trên vai mình. Trong sự tu tập, thỉnh thoảng ta cũng có thể thoáng thấy được sự chấm dứt khổ đau ấy. Chúng ta có thể nếm được vị giải thoát này trong một khoanh khắc, khi một kilesa vừa biến mất. Khi ta vướng mắc vào những tình cảm phiền muộn, ta sẽ cảm thấy bị trói buộc, nóng nảy, nhỏ nhen; và khi ta vừa buông bỏ chúng, tức thì tâm ta sẽ được tự tại ngay. Chính vào giây phút ấy, ta nếm được mùi vị của giải thoát, mùi vị của sự chấm dứt khổ đau. Sự tự do ấy rất thật, vì nó là kinh nghiệm của chính ta chứ không phải chỉ là một ý niệm đẹp mơ hồ xa xôi nào đó. Cũng vậy, mỗi khi bạn có thể y thức được sự có mặt của một tư tưởng nào đó, thay vì bị nó lôi cuốn theo, tức là bạn đã kinh nghiệm được sự giải thoát của tâm mình.

Một kinh nghiệm tương tự với sự buông bỏ này là khi ta đi xem phim. Khi ngồi trong rạp, ta sẽ bị cuốn hút vào chuyện phim hấp dẫn. Nhưng khi xem xong bước ra khỏi rạp, ta có cảm giác rằng thực tại đã đột ngột thay đổi, một kinh nghiệm giác ngộ nho nhỏ: “À, thì ra đó chỉ là một cuốn phim thôi!”

Nhưng còn cuốn phim trong tâm ta thì sao? Bao giờ ta mới chịu bước ra khỏi rạp? Mỗi giây phút khi ta tỉnh giác và ý thức được những gì đang xảy ra đều là những giây phút giác ngộ. “À, đúng rồi, đó chỉ là một tư tưởng mà thôi. Chẳng phai là một chuyện gì ghê gớm như mình nghĩ!” Trong giây phút ấy, tất cả sẽ bừng mở.

Chúng ta cũng có thể kinh nghiệm sự chấm dứt của khổ đau qua một cách khác, khi ta đạt đến một trình độ gọi là “bình thản trước mọi sự thành tựu.” Một tâm tĩnh lặng bao giờ cũng vững vàng và quân bình trước bất cứ việc gì xảy đến. Chúng ta sẽ cảm thấy thư thái và cởi mở trước mọi thăng trầm của cuộc đời. Một tâm trầm tĩnh sẽ không bao giờ phản ứng mot cách quá khích. Trạng thái này cũng gần giống như tâm của một người đã hoàn toàn giác ngộ. Vì thế, mặc dù ta chưa thực sự bước ra khỏi cuộc đời, chưa được giải thoát trọn vẹn, nhưng ta vẫn có thể kinh nghiệm được trạng thái an lạc này.

Chúng ta cũng có thể kinh nghiệm sự chấm dứt khổ đau bằng cách quán chiếu những hiện tượng duyên sinh - nhận thức được sự vô sinh, do duyên khởi của chúng.

Chân lý thứ tư của Tứ diệu đế là Đạo đế, con đường đi đến sự giải thoát. Con đường tu tập do Đức Phật chỉ dạy rất trực tiếp và rõ ràng, mặc dù nó đòi hỏi một sự tin tưởng và kiên định, bền chí phi thường. Con đường tu tập ấy bao gồm sự đào luyện trong ba lãnh vực. Thứ nhất là trau dồi về giới luật, không làm hại đến ai. Nếu sự tu tập của ta không được đặt trên nền tảng của một tấm lòng tốt đối với bản thân và người khác, thì việc ấy cũng giống như chèo thuyền qua sông trong khi con thuyền vẫn còn cột chặt vào bến. Sự cố gắng của ta, cho dù có bền chí đến đâu, cũng không mang đến một kết quả nào. Chúng ta cần phải tu tập và rèn luyện khả năng sống chân thật và trong sạch.

Việc thứ hai chúng ta cần trau dồi là phát triển định lực và sự tỉnh giác. Đây là những công cụ của thiền quán và của sự sống, có khả năng làm cho ta tỉnh thức. Không có những yếu tố ấy, chúng ta cả đời sẽ chỉ hành động theo nhưng tập quán, thói quen tích tụ lâu đời lâu kiếp mà thôi!

Hai sự trau luyện ấy sẽ làm nền tảng cho sự phát sinh tuệ giác. Tuệ giác nhìn thấy được lý vô thường một cách rõ ràng, thấy được tính chất bị điều kiện chi phối của mọi hiện tượng, biết được rằng bất cứ sự việc gì có sinh thì phải có diệt. Khi chúng ta quán chiếu một cách sâu sắc, ta không còn bám víu nữa. Và khi ta không còn bám víu thì mọi khổ đau tự nhiên sẽ chấm dứt.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 7: Bảng chỉ đường Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Ta không thể tạo ra tình trạng vô điều kiện. Bất cứ một sự kiện nào khởi lên trong tâm và thân này đều là những hiện tượng có điều kiện. Tất cả những kinh nghiệm của ta sinh lên rồi diệt đi, cũng vì bị chi phối bởi điều kiện của nhân duyên.

Tình trạng vô điều kiện mà tôi muốn nói ở đây là trạng thái không có duyên khởi, không có khởi đầu và đứng ngoài mọi sự sinh diệt. Trạng thái vô điều kiện lúc nào cũng hiện hữu. Nó không phải là một cái gì được tạo thành qua thời gian. Thật ra thì nó không thể được tạo thành. Chúng ta có thể gọi đó là chân tính, là thực tại tuyệt đối, là Niết-bàn hay vô sinh gì cũng được - vì nó có vô số ten gọi. Và cũng như con đường lên núi không tạo thành ngọn núi, con đường tu tập của ta sẽ dẫn đến một sự giải thoát hoàn toàn nhưng tự nó không phải là sự giải thoát ấy.

Khi tu tập tức là ta bước đi trên con đường ấy, và khi nhân duyên đầy đủ tâm ta sẽ tự nhiên bừng mở. Sự bừng mở ấy có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Trên con đường này, thỉnh thoảng sẽ có những bảng chỉ đường giúp cho tất cả chúng ta, mặc dù mỗi người có thể được giác ngộ bằng cách khác nhau.

Đức Phật dạy rằng, tâm định sẽ phát sinh trí tuệ. Chúng ta có thể phát triển tâm định vững vàng bằng cách liên kết nó với một đối tượng nào đó đang có mặt, như là hơi thở chẳng hạn, và duy trì ý thức ấy. Khi sự chú ý của ta được vững vàng rồi, thì thay vì khó nhọc cố gắng giữ tâm mình trong giây phút hiện tại, tâm ta sẽ tự nhiên an trú ở đấy. Mặc dù cũng có những lúc tâm ta bị xao lãng, đi xa đối tượng, hoặc trôi dạt theo một ý nghĩ nào đó, nhưng năng lượng của chánh niệm và định lực sẽ lập tức mang ta trở về với hiện tại. Và nơi đó sẽ là chỗ an trú của tâm ta.

Với định lực là nền tảng, từ đó ta sẽ quán chiếu được thân tâm qua nhiều khía cạnh khác nhau, qua những giai đoạn kinh nghiệm khác nhau. Trong sự tu tập, sẽ có những lúc ta cảm thấy thật sáng suốt và hạnh phúc tràn ngập, chứng nghiệm được sự tỏa chiếu của tâm mình, nhìn thấy mọi vật tỏa sáng một cách phi thường. Nhưng điều đó cũng không tồn tại lâu. Sau đó, chúng ta phải tiếp tục mở rộng để đi sâu hơn nữa vào tuệ giác của khổ đau. Sự rộng mở ấy không phải là lý thuyết suông, vì tuệ giác về khổ đau bắt nguồn từ sự cảm nhận trực tiếp trong đời sống, cũng như trong chính sự tu tập.

Vì thế sẽ có lúc ta kinh nghiệm hạnh phúc bao la tràn ngập, và cũng có lúc ta kinh nghiệm khổ đau cùng cực. Nhưng rồi cuối cùng ta sẽ đến được một chốn tĩnh lặng thâm sâu. Vì đã trải qua mọi thăng trầm, tâm ta giờ trưởng thành, không còn gì để xao động nữa: không bám víu vào những gì dễ chịu, cũng không xua đuổi những gì khó chịu. Tâm ta đạt đến một sự quân bình tĩnh lặng, cũng giống như một dòng sông sâu vững vàng xuôi chảy. Và cũng từ nơi an tĩnh này, tâm ta sẽ có đầy đủ nhân duyên để hốt nhiên bừng mở và chứng ngộ được trạng thái vô điều kiện, vượt ngoài thân tâm, đạt đến giải thoát.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 8: Tha lực hay sự giúp đỡ Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Tỉnh thức trong mỗi giây phút - đó là sự diễn tả rất chính xác về con đường đi đến giải thoát. Nhưng con đường ấy cũng có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nưa. Đạo, hoặc sự tu tập nói chung, hiểu theo một nghĩa rộng là trau dồi và nuôi dưỡng những đức tính nào có thể nâng đỡ, dẫn dắt chúng ta đến giải thoát. Trong tiếng Pali có danh từ parami (ba-la-mật) nói đến mười đặc tính thiện mỹ trong tâm và những năng lực tích lũy mà chúng có thể đem lại là: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, bát-nhã, phương tiện thiện xảo, nguyện, lực và trí tuệ.

Trong Phật giáo ít khi tìm thấy danh từ ân sủng. Điều này khiến ta phải xét lại ý nghĩa của nó, mà cách hay nhất là nhìn lại kinh nghiệm của chính mình. Tôi cảm thấy rằng các ba-la-mật có một ảnh hưởng rất lớn và rất tương xứng với ý niệm về ân sủng hay tha lực. Đây không phải là một chủ thuyết thần học hay một ý niệm huyền bí nào hết, mà chính là những gì ta có thể thực sự cảm nhận và biết được.

Ý niệm về ba-la-mật gợi tôi nhớ đến một câu thơ của Dylan Thomas: “Một năng lượng chạy qua dây điện xanh chuyển hóa những bông hoa.” Ba-la-mật không đến từ bên ngoài chúng ta. Thật ra, chúng phát xuất từ những hạt giống thanh tịnh mà ta đã tích lũy lâu đời. Người Phật tử bao giờ cũng hiểu rang khi nương tựa vào một quyền lực siêu nhiên, điều đó không nhất thiết có nghĩa là phải dựa vào một nhân vật siêu hình nào đó. Thật ra thì nó có nghĩa là chúng ta đang nương tựa vào những năng lực thanh tịnh, mặc dù chung nằm bên trong nhưng vẫn hiện hữu bên ngoài cái ngã nhỏ bé của ta. Và đó mới chính là nguồn gốc của những ân phước và tha lực trong cuộc đời.

Suốt hành trình tiến hóa dài đằng đẵng của ta trong đời này, và có lẽ trong nhiều đời trước nữa, ta đã tích tụ được những năng lượng thanh tịnh trong tâm mình. Năng lượng ấy là do kết quả của những hành động từ ái, của sự hiểu biết thâm sâu, của tuệ giác. Dần dần, chúng biến thành sức mạnh của nghiệp báo, có khả năng mang lại những may mắn trong đời ta. Thế nên, chính sự tu tâm chứ không phải do bất cứ một động lực bên ngoài nào đã mang lại ân phước cho đời ta. Hãy phát triển và củng cố những ba-la-mật trong ta, và rồi một ngày ta sẽ hưởng được những hoa quả an lạc của chúng.

Galway Kinnel có viết một bài thơ diễn tả được ý niệm về một tha lực bắt nguồn từ nội tâm này thật đẹp:

Thánh Francis và hạt giống
Một mầm non
nhưng tiềm chứa tất cả,
cả những gì không bao giờ nở hoa, kết trái,
cả những gì nở hoa, từ bên trong, nhờ biết tự thương yêu.
Mặc dù đôi khi cũng cần thiết
dạy cho một vật biết được vẻ đẹp của chính nó,
đặt bàn tay lên chân mày
một đóa hoa
và dùng ngôn từ kể cho nó biết rằng
nó rất đáng yêu
cho đến một ngày nó lại nở hoa từ bên trong,
nhờ biết tự thương yêu;
Cũng như thánh Francis
đặt bàn tay lên vầng trán nhọc nhằn
cua hạt giống, và nói cho nó nghe bằng hành động và ngôn từ
về sự thương yêu bảo bọc của đất, và hạt giống
tưởng nhớ lại suốt thân dài,
từ cái mõm đầu thấm nhuần trọn vẹn đất lành
qua những rơm rạ, phân bón, đến phan đuôi xoắn tít tâm linh,
từ những chiếc gai nhọn cứng nhô ra từ xương sống
thông xuống một trái tim to rạn nứt
đến một màu tuyền xanh sữa đục mờ ảo rùng mình phun ra
từ mười bốn đầu núm vú trong mười bốn chiếc miệng bu mút
nằm phía bên dưới:
một hình thể dài và vẻ đẹp tuyệt vời, của hạt giống.

Tự do không thể nào tìm thấy được trong sự nhỏ nhoi và hạn hẹp của chấp ngã. Giáo pháp của Đức Phật đã đánh thức ta dậy để nhìn thấy một thực tại cơ bản khác hiện hữu bên ngoài cái ngã ấy. Khi những ba-la-mật được phát triển bằng sự tu tập - cũng như đã được nuôi dưỡng qua nhiều đời, nhiều kiếp - chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự phát sinh của dhammoja, tieng Pali có nghĩa là tinh túy của đạo pháp.

Trong những trạng thái thiền quán sâu thẳm, chúng ta sẽ có lúc thoát ra ngoài thế giới của ý niệm và bước vào dòng năng lực của chánh niệm. Dhammoja chính là dòng năng lực ấy, nó lúc nào cũng đưa đẩy ta tiến đến giải thoát. Nó là một cái gì vĩ đại to tát hơn là cái ngã nhỏ nhoi giới hạn.

Trong thời gian tu tập ở Miến Điện, tôi đã có dịp kinh nghiệm được dhammoja này thật mãnh liệt. Lúc ấy tôi mới đến Á châu được vài tháng. Tôi bị sụt cân và sức khoẻ sa sút rất nhanh. Có lần tôi yếu đuối đến độ trong khi đang ngồi thiền thì bị ngã nhào. Mặc dù trong lúc sức khoẻ suy yếu đến thế, năng lực của dòng chánh nhiệm trong tâm vẫn duy trì vững mạnh và sự thiền quán của tôi vẫn tiếp tục tiến triển tốt đẹp. Lúc đó dường như không có bất cứ một việc gì có thể ngăn chặn được đà tiến ấy. Kinh nghiệm này làm tôi nhớ đến câu chuyện về Đức Phật khi ngài viếng thăm những người bệnh hoặc kẻ hấp hối. Ngài thường khuyên họ: “Dù cho thân của ông có yếu đuối và bị nhiều đau đớn, hãy luôn giữ cho tâm được tỉnh giác và có chánh niệm.” Một lần nếm được mùi vị của dhammoja rồi, tôi hiểu rằng mình thực sự có thể thực hành được những gì Đức Phật dạy!

Ý niệm về tha lực cũng được bắt nguồn từ quan điểm Phật giáo cho rằng có nhiều chúng sinh hiện hữu trong những thế giới khác. Theo nền văn hóa Phật giáo cổ truyền, người ta tin rằng trong những cõi cao hơn thế giới loài người còn có chư thiên hay deva, có thể giúp đỡ, bảo vệ và hướng dẫn ta trong những hoàn cảnh khó khăn. Đức Phật dạy rằng, chư thiên giúp chúng ta qua sức mạnh những hạnh nguyện và lòng từ ái của chính chúng ta. Khi ta trau giồi và tôi luyện những giới đức và tình thương của mình, tức là ta đang mở rộng để đón nhận những năng lực tốt lành và sự giúp đỡ của các vị ấy.

Tin hay không tin vào vũ trụ quan của Phật giáo là tùy ở bạn. Vấn đề giải thoát của chúng ta không hề tùy thuộc vào ngoại vật. Bạn vẫn có thể đạt được giải thoát viên mãn cho dù bạn có tin vào sự hiện hữu của các chư thiên hay không. Nhưng theo lời Coleridge thì ta có thể chọn một thái độ khôn ngoan là: sẵn lòng tạm hoãn lại sự nghi ngờ của mình. Liệu chúng ta có nên cởi mở đối với yếu tố có thể có của những việc mình chưa hiểu rõ mà không quá bất tín hoặc cuồng tín hay không? Ngày nay có những chuyện ta cho là thông thường nhưng khoảng trăm năm trước đây vẫn được xem là những phép lạ!

Mặc dù những tha lực tiềm ẩn ấy, khi gặp điều kiện thuận lợi, cũng có thể giúp đỡ ta, nhưng chúng không bao giờ có thể thay ta hoàn tất công việc tu tập. Sự giúp đỡ bên ngoài, như chư thiên chẳng hạn, chỉ là phụ thuộc so với công năng tu tập của chính ta, tức những năng lực giải thoát do dhammoja và các ba-la-mật mang lại.

Quán niệm về những ba-la-mật trong ta cũng có thể là một trợ lực lớn cho sự tu tập. Vì sức mạnh của vô minh quá to tát nên đa số chúng ta ít ai tin vào khả năng giải thoát khổ đau của chính mình. Ta không bao giờ dám nghĩ rằng tâm ta lại có thể thanh lọc được hết tham, sân, si. Chỉ nhờ sự tích lũy lâu dài của các ba-la-mật mà ta mới có thể bước vào con đường tu tập, có đủ nghị lực và sự ham thích để tiếp tục hành trì công việc khó khăn nhưng tột cùng giải thoát này. Biết trân quý những ba-la-mật đang có trong ta sẽ làm phát khởi sự tự trọng và niềm an lạc. Nhiều khi, giữa những nổi trôi thăng trầm của sự tu tập, ta lại quên đi sức mạnh vô cùng của những ba-la-mật ấy đang có mặt trong ta. Và bạn hãy nhớ điều này, chỉ có những ba-la-mật ấy mới thực sự là nguồn gốc của mọi ân sủng trong đời ta.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 9: Vai trò của một vị thầy Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Con đường tu tập sẽ đưa ta đến giới hạn cuối cùng của thế giới quen thuộc này. Thường thì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta tự tạo cho mình một lãnh địa, sống trong một tháp ngà an ổn. Nơi đây mọi vật đều có vị trí riêng của nó, và ta cũng biết được rõ ràng vị thế của chính mình. Tâm ta lúc nào cũng phòng thủ để bảo vệ và duy trì cái thế giới nội tâm quen thuộc này. Nhưng bức thành trì an ổn đó lại giới hạn và giam giữ sự sống của ta trong những gì quen thuộc và dễ nhận diện. Và chung quanh ta còn có biết bao nhiêu thế giới của kinh nghiệm và sự sống khác nữa. Chúng nằm ngoài tập quán nhận thức có điều kiện của ta. Liệu chúng ta có can đảm và tâm huyết để thám hiểm cái thế giới xa lạ ấy không?

Một vị thầy, một người hướng dẫn, một thiện tri thức có thể là những trợ lực vô giá trên con đường tu tập. Những vị ấy có thể trình bày cho ta thấy những gì còn ẩn giấu, chỉ rõ con đường đi, và khơi dậy những khát vọng cao thượng trong ta. Khi vượt ngoài giới hạn của thế giới quen thuộc này, chúng ta sẽ kinh nghiệm hạnh phúc và khổ đau một cách mới lạ và bất ngờ. Đôi khi khổ đau có thể thúc giục ta tinh tấn để được giải thoát, nhưng cũng có lúc ta bị lún sâu vào vũng lầy của khốn khó mà không có lối thoát. Và cái bẫy của hạnh phúc lại còn nguy hiểm bội phần hơn thế nữa! Trên con đường tu tập cũng có nhiều nơi nghỉ chân rất thoải mái. Sau một thời gian tu tập, ta sẽ cam thấy an lạc hơn, hài hòa với mọi người hơn, thích nghi và dễ dàng chấp nhận hơn. Mối tương quan giữa ta và người khác sẽ trở nên tốt đẹp và cuộc sống cũng sẽ trở nên dễ dàng. Vì vậy, nhiều khi ta cứ muốn ở lại chốn vô sự, thoải mái này để được nghỉ ngơi mãi mãi.

Một vị thầy giỏi sẽ biết khi nào học trò mình bị mắc kẹt, dù là trong khổ đau hoặc trong bất cứ một thứ hạnh phúc nào còn bị điều kiện. Bằng những phương tiện khéo léo khác nhau, vị thầy biến chúng thành một thứ nhiên liệu cho ngọn lửa giác ngộ. Có những lúc chúng ta cần sự khuyến khích, nâng đỡ, ưu ái, và cũng có lúc cái ta cần là một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt. Tôi tôn trọng và học được rất nhiều từ phương pháp thứ hai này nơi ngài U Pandita Sayadaw, vị thiền sư Miến Điện của tôi. Bất cứ một kinh nghiệm nào của tôi trình lên với ông, cho dù có huy hoàng đến đâu, ông cũng không hề lộ một ve gì khâm phục. Mặc dù đôi lúc tôi cũng cảm thấy thất vọng, nhưng ông đã cho tôi một món quà quý giá là không bao giờ chấp nhận một cái gì thấp kém hơn là sự giải thoát thực sự.

Một vị thầy đáng kính nữa là ngài Nyoshu Khenpo Rinpoche đã chỉ cho tôi thấy sự tự do cao tột bằng một lối khác. Một lần tôi đến gặp ông để trình pháp. Tôi kể cho ông nghe những kinh nghiệm thiền quán đặc biệt mà tôi đã chứng nghiệm. Ông bảo: “Giá vàng thì có lúc lên, lúc xuống, nhưng bản chất của vàng thì bao giờ cũng vậy!” Kinh nghiệm thiền quán đến rồi đi, nhưng tự tính thanh tịnh của tâm thì vẫn tồn tại. Bằng ngôn từ hay bằng sự hiện diện của mình, một vị thầy sẽ không để cho ta bị mắc kẹt vào bất cứ một hình tướng tạm thời nào!

Trong mối tương quan thầy trò, ta thường gặp một vấn đề khó khăn là sự lẫn lộn giữa uy quyền và thẩm quyền. Trong đời sống, ở lãnh vực nào cũng vậy, chúng ta sẽ gặp những người có một trình độ hiểu biết cao hơn ta về một vấn đề nào đó. Chấp nhận sự khác biệt ấy sẽ giúp cho ta biết cởi mở để học hỏi nơi người khác. Nó giúp chúng ta lúc nào cũng giữ được một sơ tâm. Nhưng chấp nhận kiến thức của một người trong một lãnh vực nào đó không có nghĩa là ta trao hết quyền hành cho người ấy. Chúng ta vẫn có thể tiếp nhận sự hướng dẫn, những lời chỉ dạy, và khuyến khích của người khác, mà không cần phải phó mặc hết cái nhận thức về phải trái của mình cho họ!

Sự lẫn lộn này thật ra được bắt đầu ở cả hai bên. Vị thầy có thể có một trình độ hiểu biết nào đó, nhưng sự giác ngộ của các ngài vẫn chưa hoàn toàn trọn vẹn, cũng có lúc hành động của các vị ấy vẫn còn bị ảnh hưởng bởi vô minh. Còn những người học trò có khi lại quá vội vàng buông bỏ hết sự phán xét, phân biệt của mình với danh nghĩa khiêm tốn, nhẫn chịu. Chúng ta thường sai lầm khi cho rằng một người có tri thức, hiểu biết thông suốt trong một lãnh vực nào đó thì tự nhiên sự hiểu biết ấy cũng sẽ bao trùm hết mọi lãnh vực khác. Điều ấy có thể đúng nhưng cũng rất có thể sai!

Trong truyền thống Phật giáo nguyên thủy, vị thầy còn được xem là một kalyana-mitta, tức là một thiện tri thức, một người bạn lành về đạo lý. Một bậc chân thiện tri thức lúc nào cũng hành động vì lòng từ ái, vì sự thương xót chúng sinh còn nhiều khổ đau. Khi ta thấy được một thẩm quyền tự nhiên trong những vị thầy vì sự minh triết, trí hiểu biết, lòng từ bi của họ, và khi những hành động của các ngài được phát xuất từ đó, ta sẽ hương được lợi ích vô vàn từ sự chỉ dạy của các ngài. Mối liên hệ thầy trò có thể là một phước báu lớn lao nhất trong đời người học trò, nhưng nó cũng có những nguy cơ của sự lạm dụng. Nhận thức được hai khía cạnh ấy sẽ giúp ta có thể dễ dàng phân biệt được.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 10: Tứ như ý túc Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đức Phật có dạy về bốn con đường đưa ta đến thành công, đến sự viên mãn. Đức Phật gọi chúng là Tứ như ý túc, những con đường lúc nào cũng đưa ta tiến tới. Chúng là bốn phẩm hạnh đặc thù trong cá tính chúng ta, mà mỗi phẩm hạnh phản ảnh một sức mạnh đặc biệt. Nếu ta biết được phẩm hạnh nào là ưu điểm của mình, từ đó ta có thể dựa trên sức mạnh sẵn có mà phát huy và thực hiện được những gì cần làm.

Đôi khi người ta quan niệm rằng tu hành có nghĩa là sống mà không còn một sự say mê nào nữa, dập tắt hết những ngọn lửa trong tâm - nghĩa là phải có một thái độ lạnh lùng, hoàn toàn thụ động, xa lìa thế sự. Nhưng quan niệm này hết sức sai lầm! Vì mỗi một con đường đi đến giải thoát vừa kể trên đều đòi hỏi một sự đam mê phi thường, một ngọn lửa rực cháy trong tâm. Đối với chúng ta, những người mà niềm đam mê ấy đang khơi động, đạo pháp trở thành một lý tưởng tối thượng của đời mình.

Con đường thứ nhất để đi đến thành công, nuôi dưỡng chí tu hành của ta, là dục như ý túc - dục ở đây là một sự ham muốn thực hành, để thanh tựu một việc gì. Khi có phẩm hạnh này, ta sẽ biết rằng không có bất cứ một điều gì có thể ngăn trở mình được. Chúng ta không bao giờ cảm thấy toại nguyện, trừ khi nào ta đạt đến mục tiêu mình muốn. Đôi lúc, khi nghĩ về phẩm hạnh này, tôi liên tưởng đến lòng nhiệt thành và động lực phi thường của các nhà thể thao Thế vận hội, hay những nhạc sĩ đại tài, hoặc là bất cứ những ai đã thực hiện việc gì đến mức toàn mỹ. Phẩm hạnh của dục và lòng nhiệt thành là động lực chính thúc đẩy họ đi trên con đường đời: “Tôi sẽ làm việc ấy! Tôi sẽ thực hiện được việc ấy!” Và rồi với sức mạnh đó trong tâm, của một nghị lực không thối chuyển, họ sẽ thành công. Vì thế cho nên dục, tức một hoài bão và nhiệt tâm mãnh liệt, là một trong bốn con đường đưa ta đến thành công.

Con đường thứ hai là Tinh tấn như ý túc. Đây là một phẩm hạnh của nghị lực. Một người có đức tính cương quyết này lúc nào cũng cảm thấy bị thách thức bởi ý nghĩ “Công việc này đòi hỏi một nghị lực đáng kể. Và tôi sẽ thực hiện được việc ấy.” Những người như vậy thì chẳng những không sờn lòng trước khó khăn mà còn cam thấy phấn khởi vì sự thách thức. Họ quan niệm rằng: “Những việc gì đòi hỏi sự cố gắng để đạt đến thành công thì tôi sẽ làm được!”

Trước đây tôi có đọc một bài báo viết về cái chết của con ngựa đua nổi danh Secretariat. Bài báo ca tụng trái tim dũng cảm của con ngựa này, và diễn tả lại cái đảm khí của nó được biểu lộ một cách hùng tráng trong những cuộc đua như thế nào. Cũng vậy, khi hành động của ta xuất phát từ nơi ấy trong trai tim, gắng hết sức không chút nghi ngại, nó sẽ phát sinh một sức mạnh và một năng lực vô song!

Dipa Ma, một vị thầy của tôi ở Ấn Độ, là một thí dụ cho phẩm hạnh anh dũng không lùi bước này. Trong thời gian tu tập, có lúc bà bị bệnh và yếu đến nổi phải bò trên những nấc thang để đi lên thiền đường và tiếp tục ngồi thiền. Không gì khuất phục được bà. Lần cuối tôi gặp bà trước khi bà mất, Dipa Ma quay sang bảo tôi: “Chú biết không, chú nên thử gắng ngồi thiền trong hai ngày.” Nhưng bà không nói là một khóa thiền kéo dài hai ngày, ý bà là một lần tọa thiền kéo dài hai ngày liên tục! Chỉ ngồi thôi, hai ngày như vậy! Khi nghe bà nói thế, tôi phá lên cười vì biết rằng điều đó hoàn toàn ngoài khả năng mình. Bà nhìn tôi với một ánh mắt từ bi sâu xa và nói: “Chú đừng có lười biếng đấy nhá!”

Dipa Ma có một nghị lực đáng kính phục, và điều đó đem lại cho bà một kết qua chỉ có thể phát xuất từ tâm kiên cố. Những ai có đức tính này, với sức mạnh này, là những người có một khả năng tinh tấn, sẽ không bao giờ chán nản vì con đường quá dài hoặc quá gian nan. Cho dù hành trình có kéo dai nhiều tháng, hoặc nhiều năm, điều ấy không đáng kể - vì họ là những người có dũng lực.

Đức Phật cũng là một biểu tượng cho phẩm hạnh này. Trước khi thành đạo, khi vẫn còn đi tìm chân lý, ngài đã cương quyết như sau: “Nếu mục tiêu có thể đạt được bằng sự cố gắng của con người, tôi sẽ không bao giờ ngừng nghỉ hoặc thối chuyển cho đến ngày thành đạt. Cho dù chỉ còn lại gân, da bọc xương; cho dù máu thịt tôi khô cạn, tôi nhất định sẽ không thối lui sự tinh tấn của mình, cho đến ngày nào tôi đạt được những gì có thể đạt được bằng khả năng, bằng sự cố gắng và kiên chí của con người.”

Con đường thứ ba để đi đến thành công là tâm nguyện tu tập theo đạo Pháp, hay là Niệm như ý túc. Lòng yêu chân lý này sẽ giữ cho tâm ta lúc nào cũng miệt mài với sự tu tập. Tình yêu đó bao gồm một tâm thức thanh tịnh rất lớn và một nhiệt tâm vô bờ bến. Như lần đầu tiên biết yêu - theo thường tình thế gian - tâm bạn lúc nào cũng chỉ tưởng nhớ đến người mình yêu. Tình yêu đạo pháp cũng có một cường độ tương tự như thế. Tình yêu ấy sẽ biến thành con đường dẫn đến tuệ giác khi nó tràn ngập tâm ta. Chung ta lúc nào cũng tưởng nhớ và thực hành theo đạo pháp, và trên đời này không còn một chuyện gì khác là quan trọng hơn nữa. Tình yêu ấy giữ cho ta vững tiến. Nó chính là một tình yêu cao thượng nhất, quý giá nhất trong ta!

Con đường thứ tư dẫn đến thành công là phẩm hạnh của tư duy, tham cứu đạo lý, tức  Tư duy như ý túc. Có những người có sự ham thích mạnh mẽ, muốn thấu hiểu được những khía cạnh sâu xa nhất, uyên thâm nhất của Phật pháp. Họ không bao giờ bằng lòng với sự hiểu biết tầm thường nông cạn. Cái tâm tư duy ấy quán chiếu sự vô tận của vòng sinh tử luân hồi - samsara - sự vô bờ bến của các cõi sinh linh, và qua cái nhìn bao quát ấy, họ thấy được những vướng mắc trong cuộc sống. Một người với nhiệt tâm học hỏi sẽ thấy và hiểu được các nguyên nhân tiềm ẩn của khổ đau và ý thức được khả năng giải thoát của chính mình. Họ sẽ cảm thấy rất vui thú khi tham hiểm vào vùng bí mật thâm sâu nhất của tâm thức.

Bất cứ ai có được một trong bốn đức tính căn bản này, không chóng thì chầy rồi cũng sẽ đi đến giải thoát. Chúng ta có thể giải thoát được nhờ sức mạnh của lòng dục, tức cái tâm tham muốn và động năng thúc đẩy ta trên đường tu tập; ta cũng có thể đi đến giải thoát qua đức tinh tấn, cương quyết, một nghị lực không có gì ngăn trở nổi; ta có thể được giác ngộ nhờ sự say mê và lòng yêu quý đạo pháp; và ta cũng có thể kinh nghiệm được giải thoát bằng năng lực của quán chiếu, một nhu cầu tham cứu và hiểu biết. Một trong bốn đức tính ấy đều có thể là con đường đưa ta đến giải thoát.

Công việc của ta là làm sao nhận diện được đức tính nào là ưu điểm của mình, và dựa trên đó để làm nền tảng tu tập. Ta hãy nuôi dưỡng đức tính đó, phát triển nó và làm sao cho mỗi ngày được vững mạnh hơn. Sự thách thức lớn nhất cua đời ta là thực hiện được sứ mạng giải thoát, và làm sao để mang những đức tính giải thoát ấy hội nhập vào giây phút hiện tại. Con đường tỉnh thức hiện hữu trong mỗi giây, mỗi phút. Nó đang có mặt ngay bây giờ và ở đây. Ta có thể nào vừa giữ được tầm nhìn rộng lớn ấy, và cùng một lúc vừa hoàn toàn có mặt trong giây phút hiện tại này không? Trước những gì là chân thật, ta có cảm thấy khích lệ không? Ta nên nhớ rằng sự tu tập nay không phải chỉ cho riêng mình mà thôi, nó còn vì hạnh phúc và lợi ích của mọi loài chúng sinh. Đức Phật đã chỉ cho ta thấy rõ bốn con đường để đi đến giải thoát. Phần còn lại là tùy ở nơi ta!


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 11: II. Phương pháp tu tập - Mục tiêu, sự tinh tấn và buông xả Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Làm cách nào để có thể vừa có một mục tiêu cho sự tu tập, vừa cảm thấy hứng khởi vì con đường ta theo có chủ đích và phương hướng rõ rệt, mà lại không bị vướng mắc vào những phiền phức của sự nỗ lực và cố gắng? Đây là một câu hỏi chủ yếu cho bất cứ ai đang đi trên con đường tâm linh!

Bất cứ sự chọn lựa nào của ta trong cuộc đời này cũng đều liên quan đến một mục tiêu hoặc chủ đích nào đó! Một ý thức phương huớng rõ ràng sẽ giúp ta sáng suốt hơn trong việc chọn lựa con đường đưa mình đến mục tiêu mong muốn. Thế nên khi hiểu được mục đích của sự ngồi thiền, ta sẽ hiểu được ý nghĩa cao thượng của hành trình tu tập này. Và sự hiểu biết đó, đồng thơi cũng mang đến cho ta một sự khích lệ cũng như năng lực để tiếp tục con đường.

Giáo lý của Đức Phật là một khích lệ lớn cho chúng ta, ngài đã trình bày thật rõ ràng mục tiêu của con đường tu tập: đưa ta đến một trạng thái sáng suốt và tự tại hơn, dẫn đến một tâm thức thanh tịnh và an vui hơn. Nơi đó ta sẽ không còn bị chi phối bởi tham, sân và si.

Nếu bạn muốn làm tăng trưởng sự tinh tấn cũng như năng lực của mình cho hành trình vô tan này, bạn có thể thử một vài phương pháp quán niệm sau đây. Bạn hãy suy ngẫm về tự tính chất tạm bợ, không thường còn của mọi hiện tượng. Mặc dù chúng ta có thể chỉ hiểu được sự thật này về mặt lý thuyết mà thôi, vì muốn nhận biết sâu xa đòi hỏi phải có một chánh niệm thật sâu sắc. Hãy nhìn lại những kinh nghiệm của bạn, bây giờ chúng đâu cả rồi? Giây phút này bước sang giây phút khác, chúng biến mất. Có chăng, ta chỉ còn giư lại những ý niệm hoặc ký ức về chúng, nhưng những thứ đó cũng lại trở thành tạm bợ, ngắn ngủi. Hiểu được sự thật hiển nhiên về luật vô thường này rồi thì cái gì là chân giá trị trong cuộc đời bạn? Còn có điều gì đáng để cho bạn theo đuổi nữa chăng?

Cũng chính sự suy tư về lý vô thường này đã thúc đẩy Đức Phật ra đi tìm chân lý giải thoát. Ngài đã tự hỏi khi còn là một vị thái tử trong hoàng cung: “Vì sao ta lại săn tìm những đối tượng của sinh, lão, bệnh, tử khi chính ta vẫn còn bị chi phối bởi sinh, lão, bệnh, tử?”

Sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã khuyến khích và thúc giục những người khác nên cảm thấy sự cấp bách, vì biết rằng mọi hiện tượng rồi sẽ hoại diệt. Ngài dạy các đệ tử: “Có những cây cao và gốc cây, các ông hãy tu tập thiền quán ngay bây giờ, nếu không sẽ hối hận về sau.” Những cây cao và gốc của chúng là những địa điểm thuận lợi để ngoi thiền trong khí hậu vào thời ấy ở Ấn Độ.

Đức Phật đã thấy rõ rằng cuộc đời của ta ngắn ngủi như thế nào, cũng như sự giác ngộ và cơ hội để tu tập là quý báu và hiếm hoi biết bao! Nếu ta không biết sử dụng thời giờ của mình cho xứng đáng, sau này ta sẽ phải mang một nỗi ân hận ray rứt vì biết rằng mình đã bỏ lỡ điều quý giá nhất trên đời.

Bạn cũng có thể suy ngẫm về việc gì đầu tiên đã khiến bạn bước chân vào con đường tu tập. Phải chăng đó là một kinh nghiệm riêng tư sâu kín nào đó về khổ đau? Hay bởi lòng thương xót khi chứng kiến những đau đớn của người chung quanh? Hoặc từ một nỗi ưu tư, khắc khoải về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống nay? Đôi khi đâu đó trên quãng đường tu tập, chúng ta đã đánh mất đi cái cảm hứng ban đầu ấy. Hãy cố nối liền lại với nó, với tình yêu ban đầu của ta! Được như vậy, ta sẽ một lần nữa thắp lên ngọn lửa say mê và tinh tan trên hành trình đầy bất ngờ của giác ngộ và giải thoát.

Thiếu ngọn lửa đam mê ấy sẽ không có một việc gì có thể xảy ra. Chúng ta chỉ đơn giản sống và hành động theo những thói quen, tập quán cố hữu của mình. Thật hiếm ai có thể thoát ra được những thói quen này để có thể nhìn thấy thực tại một cách sáng suốt, mới mẻ, và biết chọn lựa bằng tuệ giác thay vì theo những phản ứng đã bị điều kiện hóa quá nặng nề.

Nhưng chỉ có sự tinh tấn thôi thì chưa đủ. Mặc dù phẩm hạnh ấy rất là quý báu, nhưng nó cũng có thể đưa ta đến sự lầm lạc nếu ta phát huy quá độ. Nếu không khéo, ta có thể vì quá cố chấp vào mục tiêu giác ngộ rồi trở nên đầy tham vọng, có một thái độ ganh đua tâm linh và đâm ra khắt khe về sự tiến bộ của mình. Khi ta nỗ lực và cố gắng với một sự khẩn thiết quá độ, có thể vì đó mà trở thành vô vọng. Bắt buộc một việc nào đó phải xảy ra ngay bây giờ chắc chắn sẽ làm mờ đi sự sáng suốt của ta, việc ấy có thể đưa đến sự thất chí, nản lòng và có khi là tuyệt vọng.

Sau khi đã ý thức được những trở ngại gây nên bởi loại nỗ lực và tinh tấn vừa kể (thường là bang kinh nghiệm đau thương của chính mình), có một số người đâm ra từ bỏ hết mọi ý niệm về mục đích. Đây cũng lại là một sai lầm khác! Khi ta không có mục tiêu và trở nên chấp rằng, tu tập chỉ đơn giản có nghĩa là trở nen tỉnh thức và chú ý trong giây phút hiện tại, mà không có một ý thức nào về mục đích, hoặc phát triển sự hiểu biết của mình, thì chúng ta đã vô tình đánh mất đi một nguồn năng lượng vô cùng của nghị lực và cảm hứng.

Điều quan trọng mà ta cần khám phá trong tu tập thiền quán - cũng như trong nhiều vấn đề khác nữa - là sự quân bình giữa tinh tấn và buông xả. Trên bề mặt thì hai đức tính này có vẻ như mâu thuẫn nhau! Làm sao ta có the vừa gắng sức theo đuổi một mục tiêu mà cùng một lúc vừa buông xả, chấp nhận những gì xảy ra theo sự khai mở tự nhiên của nó? Hiểu rõ được nghịch lý này là một khúc quanh quyết định, vì nó giúp ta nhận thức được trọn vẹn con đường tu tập của mình.

Buông xả không có nghĩa là nhẫn nhịn một cách thụ động, mà có nghĩa là biết buông bỏ, biết nương theo đạo pháp, theo sự thật của kinh nghiệm trong giây phút hiện tại này. Sự chấp nhận ấy sẽ khơi dậy nghị lực và giúp ta có thể tinh tấn mà không hề bị lay chuyển hoặc vướng mắc. Ta ý thức được sự khẩn cấp của vấn đề tu tập, nhưng vẫn biết linh động và hội nhập vào bất cứ những gì đang xảy ra trong hiện tai: cái này đang có mặt, tiếp đến sẽ là cái khác.

Trong những năm đầu tiên tu tập, tôi đào luyện đức tính buông xả này bằng cách tự nhắc nhở rằng: công việc của tôi trong khóa tu là ngồi thiền và đi kinh hành, ngồi va đi, ngồi và đi - rồi cứ để những gì xảy ra sẽ xảy ra. Bằng cách duy trì sự cố gắng của mình qua phương thức đơn giản ấy, tôi có thể chấp nhận và nương theo mọi thăng trầm trong sự tu tập. Có những lúc mọi sự đều trôi chảy, dễ dàng và tốt đẹp, nhưng cũng có những lúc chỉ gặp toàn đau đớn, khó khăn. Tôi vẫn cứ tiếp tục ngồi thiền và đi kinh hành, ngồi và đi. Và đạo pháp cứ tuần tự khai mở.

Vấn đề giữ quân bình giữa hai yếu tố tinh tấn và buông xả này có thể được hiểu theo một cách rất giản dị. Một đêm, tôi đi theo con đường nhỏ xuyên qua rừng dẫn từ nhà đến thiền đường ở cạnh đó. Trời tối đen như mực. Rõ ràng là tôi có một mục đích trong đầu: đi đến thiền đường phía bên kia bờ rừng. Ý muốn ấy tạo cho tôi một phương hướng, đặt tôi lên con đường mòn ấy và giữ cho tôi tiến bước. Nhưng nếu tôi không chịu chú ý đến mỗi bước chân trong mỗi giây phút, thì tôi có thể bị té ngã vì vấp vào đá hoặc những chỗ lồi lõm trên đường.

Hoặc như trong việc leo núi chẳng hạn. Ta cần biết quân bình phối cảnh của mình để có thể tiếp tục tiến tới, để duy trì lòng ham thích và nghị lực của ta. Ta phải ý thức được từng mỗi bước chân, mỗi vị trí miếng đất dưới chân, và cùng một lúc, tập trung cái nhìn vào đỉnh núi, mục tiêu mà mình muốn lên đến. Bằng cách giữ tầm nhìn cho rộng - ý thức về mục đích - và cùng một lúc, chú tâm vào giây phút hiện tại, ta sẽ tìm thấy được sự quân bình cũng như năng lực để hoàn tất con đường giải thoát.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 12: Tu tâm Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Có một cuộc tranh luận đã kéo dài từ hơn 2.500 năm nay về vấn đề tâm ta nằm ở nơi nào. Tâm nằm ở bộ óc chăng? Hay tâm ta nằm ở trái tim của mình?

Ở đây, tôi không cố gắng để đem lại một câu trả lời xác định nào, nhưng tôi nghĩ cũng có ích để biết rằng, đôi khi trong thiền quán, ta có thể cảm nhận một cách mãnh liệt rằng tâm thức được phát toả ra từ nơi trung tâm bộ tim của mình - không phải trái tim vật lý, mà là vùng năng lực tâm linh nằm ngay ở giữa ngực. Có thể là năng lực tâm linh ấy phát xuất từ bộ óc và ta cảm nhận nó ở trái tim, hay cũng có thể là nó bắt đầu nơi vùng trung tâm bộ tim và được chuyển đến bộ óc!

Trong ngôn ngữ của một số quốc gia Á châu, chữ tâm có thể dùng để chỉ trái tim hoặc bộ óc. Vấn đề đã được giải quyết hết sức thật giản dị! Bạn nên nhớ rằng khi chúng ta sử dụng danh từ tâm theo ngôn ngữ của Phật giáo, thì ta không chỉ nói riêng về bộ óc hay phần trí tuệ mà thôi. Tâm ở đây có nghĩa là thức: một quan năng cua tri giác giúp ta nhận biết được một đối tượng cùng với mọi cảm thọ, mọi cảm tưởng có liên hệ đến cái biết ấy, chúng có thể sinh khởi bằng nhiều cách phối hợp khác nhau, trong bất cứ giây phút nào. Với tuệ giác thiền quán ấy thì trái tim và bộ óc thật ra chỉ là một!

Nếu vậy thì sự tu tâm hay chuyển hóa ý thức là để làm gì? Thức, nói một cách đơn giản là cái biết. Nhưng trong mỗi giây phút của cái biết ấy có nhiều trạng thái tam thức khác biệt liên hệ với nó phát sinh theo. Giáo lý của Đức Phật có đề cập nhiều đến những trạng thái tâm thức này - những tâm bất thiện như là tham, sân, si, sợ hãi và những tâm thiện như là niệm, từ, bi và trí tuệ.

Chúng ta có thể hiểu sự tu tâm này qua pháp môn Tứ chánh cần mà Đức Phật đã chỉ dạy: Trong sự tu tập, ta cố làm sao để diệt trừ những tâm bất thiện đã sinh khởi; đối với những tâm bất thiện chưa sinh thì giữ cho chúng đừng sinh. Và cũng thế, ta cố gắng nuôi dưỡng, củng cố những tâm thiện đã có mặt, và tu tập, phát triển thêm những tâm thiện nào chưa sinh!

Đó cũng chính là công thức của sự chuyển hóa. Trước hết, ta cần quán chiếu kỹ cái tâm này của mình, xem nó thực sự là gì! Từ công phu quán chiếu ấy, ta sẽ phát triển được một trí tuệ phân biệt, nhận thức được những tâm nào là bất thiện, đưa ta đến khổ đau; và những tâm nào là thiện, đem lại cho ta hạnh phúc. Dựa trên chính nhận thức và kinh nghiệm của bản thân mình mà ta sẽ thực hành theo bốn phương pháp ấy. Và đó cũng chính là con đường rèn luyện tâm mà ta đang tu tập.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 13: Phương pháp thiền tập Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Ngồi cho thoải mái, giữ cho lưng thẳng nhưng không nên gồng cứng hoặc gắng sức quá. Nhẹ nhàng nhắm mắt lại và ghi nhận cảm giác của hơi thở khi không khí đi ngang qua mũi hay ở môi trên. Cảm giác của hơi thở vào thấy rất đơn giản và tự nhiên. Chú ý đến cảm giác của hơi thở ra xem như thế nào. Bạn cũng có thể chọn theo dõi cảm giác lên xuống của ngực hoặc bụng khi hơi thở ra vào.

Dù bạn có chọn theo dõi cảm giác của hơi thở ở bất cứ một nơi nào cũng vậy, ở mũi hay là sự di động của ngực hoặc bụng, bạn phải luyện tập sao cho mình có thể ý thức được rõ ràng giai đoạn đầu tiên nhất của hơi thở vào. Và tiếp tục duy trì sự chú ý của mình cho đến trọn một hơi thở vào ấy. Rồi sau đó, ghi nhận giai đoạn đầu tiên nhất của hơi thở ra và duy trì sự chú ý của ta cho đến cuối hơi thở ra ấy.

Điều quan trọng là đừng bao giờ trở nên tham lam quá. Chúng ta bất cứ ai cũng có khả năng cam nhận được trọn vẹn một hơi thở. Nhưng nếu ta cố gắng hơn thế, nếu chúng ta có ý nghĩ rằng mình sẽ chú ý hơi thở trong vòng nửa giờ, thì chừng ấy ta sẽ không thể nào kham nổi. Duy trì sự chú ý chuyên nhất trong một khoang thời gian dài như vậy là chuyện hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tâm ta, và vì vậy mà ta sẽ dễ trở nên chán nản, thối chí. Hãy nối liền và duy trì sự chú ý của mình với một hơi thở mà thôi... rồi sau đó mới thêm một hơi thở nữa. Bằng cách ấy, ta có thể thực hành trong khả năng của mình, và tâm ta sẽ trở nên an định dễ dàng và giản dị hơn.

Đôi lúc sẽ có những đối tượng khác khởi lên - như cảm thọ của thân, tư tưởng, hình ảnh, cảm xúc. Ghi nhận xem chúng xuất hiện và biến đổi ra sao bằng một ý thức cởi mở. Thường thì chúng ta dễ trở nên xao lãng, lạc giữa những sự phô bày của kinh nghiệm và đánh mất đi sự chú ý của mình. Vừa khi ý thức được việc ấy, ta hãy trở về với trạng thái đơn thuần của chánh niệm.

Trong giai đoạn đầu, ta chỉ nên chú tâm vào hơi thở mà thôi, nên chọn đó làm đề mục chính. Đề mục ấy tuy căn bản nhưng không phải là duy nhất. Định tâm theo lối ấy sẽ giúp ta ổn định được sự chú tâm của mình, giữ cho ta được tỉnh thức và có chánh niệm. Đem tâm mình trở lại với một đề mục chính, thí dụ như là hơi thở, đòi hỏi một sự cố gắng, một công phu. Và công phu ay sẽ tạo nên một năng lượng. Chuyện ấy cũng giống như khi ta lặp đi lặp lại một động tác thể dục để rèn luyện bắp thịt vậy. Bạn kiên nhẫn tập luyện và rồi thân bạn sẽ được cường tráng. Trở về với đề mục chính của mình là một loại thể dục của tâm linh. Khi ta cứ tiếp tục trở lại với hơi thở của mình, lần nữa rồi thêm lần nữa, dần dần tâm ta sẽ trở nên mạnh mẽ và vững vàng. Mức độ của năng lượng trong ta cũng từ đó mà gia tăng theo. Và đến khi nào ta đạt được một ý thức không cần đề mục, chừng ấy ta sẽ cảm nhận được sự vật một cách tinh tế và mạnh mẽ.

Những lúc nào bạn cảm thấy có một sự gò bó hay căng thẳng trong việc thực tập của mình, bạn nên giữ cho nó được thoải mái và nới rộng phạm vi ý thức của mình ra. Hãy tạm gác hơi thở qua một bên và thay vào đó chỉ can giản dị ghi nhận bất cứ những gì xảy ra nơi sáu cánh cửa giác quan (năm giác quan vật lý cùng với tâm ý) như nghe, thấy, xúc chạm, ngứa ngáy, suy nghĩ... Hoặc là bạn cũng có thể an nghỉ trong cái ý thức mênh mông và tư nhiên của mình, và chỉ chú ý đến sự sinh diệt của những âm thanh đang xảy ra chung quanh mà thôi. Khi ta nới rộng tâm điểm phạm vi ý thức của mình ra bằng cách ấy, nó có thể giúp cho tâm ta trở lại quân bình và rộng lớn hơn.

Bạn cũng có thể sử dụng phương pháp ghi nhận bằng tâm để duy trì chánh niệm. Nghệ thuật ghi nhận bằng tâm, như là một công cụ thiền quán, đòi hỏi một sự thực hành và trải nghiệm. Đặt tên cho những đối tượng của kinh nghiệm khi chúng sinh lên có thể giúp cho chánh niệm bằng nhiều cách khác nhau.

Sự ghi nhận ấy phải được thực hành thật nhẹ nhàng, như một lời nói khẽ trong tâm, nhưng với một sự chính xác và chắc chắn đủ để ta co thể liên kết trực tiếp được với đối tượng. Ví dụ, bạn có thể đặt tên cho mỗi hơi thở của mình, và gọi thầm trong tâm là “vào, ra” hoặc “phồng, xẹp”. Thêm vào đó, bạn cũng có thể ghi nhận tất cả những hiện tượng khac xảy ra trong khi ngồi thiền. Khi có một tư tưởng khởi lên, ta ghi nhận “suy nghĩ”. Nếu có một cảm thọ nào ở thân trở nên nổi bật, ta có thể niệm thầm trong đầu: “đụng chạm, rung động, căng thẳng, ngứa ngáy”, hay là bất cứ một cảm giác nào đó mà bạn ghi nhận được. Khi có một âm thanh hoặc hình ảnh nào nổi bật, thì ta ghi nhận “nghe” hoặc “thấy”.

Sự ghi nhận ấy tự nó cũng có thể được xem như là một hiện tượng xảy ra trong tâm, mặc dù nó có khả năng giúp cho ta khỏi bị thất niệm. Việc gọi tên, cũng giống như là đóng tấm khung chung quanh một bức hình, giúp ta nhận diện đối tượng được rõ ràng hơn và giúp sự quan sát của ta được chính xác hơn.

Phương phap ghi nhận bằng tâm này còn giúp cho chánh niệm theo một cách khác nữa. Nó cho ta thấy khi nào ý thức của mình chỉ là một phản ứng của thói quen và khi nào là chánh niệm thực sự. Ví dụ, có thể chúng ta cảm nhận được một cái đau đang có mặt nơi thân, nhưng nhận thức ấy cũng đã bị qua màng lọc của tâm ghét bỏ. Nếu không có phương pháp ghi nhận này, thường thì ta không thấy được sự ghét bỏ đó, và nó có thể trở thành một bức màn tinh vi che phủ trên cái đau. Ngoài ra, cách ghi nhận của ta cũng có thể tiết lộ cho biết rất nhiều về trạng thái tâm thức. Bạn ngồi yên và niệm thầm trong đầu “đau, đau” nhưng có lẽ bằng một giọng đay nghiến trong mỗi sự ghi nhận. Giọng điệu ghi nhận ấy cho ta thấy rõ ràng trạng thái thực sự của tâm mình. Điều thật lạ kỳ là ta chỉ cần giản dị thay đổi cách ghi nhận của mình thôi, thì trạng thái của tâm cũng sẽ thay đổi theo! Phương pháp ghi nhận sẽ tôi luyện phẩm chất của chánh niệm, của một trạng thái ý thức thuần tuý không phản ứng trong ta.

Phương pháp ghi nhận bằng tâm này cũng có thể giúp năng lực tinh tấn của ta được vững mạnh thêm. Vì sự ghi nhận ay đòi hỏi một cố gắng đặc biệt nên có người sẽ cảm thấy khó khăn trong giai đoạn đầu. Nhưng nỗ lực cuối cùng của ta chắc chắn sẽ chiến thắng được mọi sự lười nhác và buông thả trong ta. Khi ta có thể nhẹ nhàng ghi nhận được mỗi đối tượng khi chúng sinh khởi, điều đó sẽ khơi động được nguồn năng lượng và giữ cho sự tu tập của ta mỗi ngày được tiến triển và thâm sâu hơn.

Ghi nhận bằng tâm là một phương tiện khéo léo giúp cho ta lúc nào cũng duy trì được nghị lực, sự tinh xác và chánh niệm. Bạn hãy tập thử phương pháp này trong lần ngồi thiền tới, mặc dù lúc đầu bạn khó có thể duy trì được lâu. Hãy đơn giản ghi nhận những gì đang xảy ra ngay khi bạn ý thức được chúng: phồng, xẹp; suy nghĩ, suy nghĩ; đau, đau; phồng, xẹp. Đóng khung mỗi giây phút kinh nghiệm lại bằng một ghi nhận nhẹ nhàng trong tâm. Hãy quán sát sự khác biệt về phẩm chất của sự chú ý trong bạn.

Bạn hãy kiên nhẫn trong việc thực tập sử dụng phương pháp này. Đôi khi có người ghi nhận bằng một giọng điệu ồn ào quá, vô tình làm lu mờ đi kinh nghiệm thực sự của mình. Lại có người cố gắng quá sức, trở nên căng thẳng và gò bó. Hãy để sự ghi nhận của mình nhẹ nhàng rơi xuống chạm vào đối tượng, như một cánh bướm đậu lên một đóa hoa, hoặc là để cho nó nổi lên theo đối tượng, như một bong bóng nước nổi lên vậy. Hãy nhẹ nhàng, thoải mái, vui chơi với nó!

Bạn hãy trải nghiệm phương pháp ghi nhận này và tự tìm cho mình một kỹ thuật riêng để áp dụng. Có một lần trong khi đi kinh hành, tôi bước những bước chân thật chậm rãi và có ý thức, và rút ngắn những ghi nhận của mình lại chỉ còn mẫu âm đầu tiên mà thôi. Thay vì niệm thầm trong đầu dỡ, bước, đạp, tôi chỉ niệm d, b, đ, d, b, đ... Những ghi nhận ấy dường như trôi lướt nhẹ nhàng tự nhiên trên mỗi động tác của bước chân. Dù vậy, mục đích của sự ghi nhận - là giữ cho tâm mình được định và trụ lại trong suốt thời gian của một bước chân hay hơi thở - vẫn được đáp ứng đầy đủ.

Bạn hãy tự thử nghiệm để tìm cho mình một phương pháp. Nếu có lúc nào bạn cảm thấy sự ghi nhận gây trở ngại nhiều quá, hay là nó chậm chạp quá không theo kịp với sự thay đổi chung quanh, bạn hãy tạm dừng sự ghi nhận lại một thời gian. Thử xem sao! Thí nghiệm với âm lượng, với sư gọi tắt, rút ngắn lại. Nhớ rằng đây chỉ là một công cụ, và hãy tự tìm cho mình một phương pháp sử dụng nào thích hợp nhất. Quan sát xem nó có duy trì được một sự chú ý kéo dài không! Bạn hãy tự chứng nghiệm lấy tác dụng của sự ghi nhận. Hãy mềm dẻo và tận hưởng niềm vui của sự khám phá.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 14: Pháp lý nintendo Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Chắc bạn cũng nhận thấy rằng khi làm một việc gì mà ta ưa thích, ta có thể sống trong hiện tại một cách thật dễ dàng! Thí dụ như khi chơi thể thao, xem phim, đọc sách... hoặc ngay cả khi chơi nintendo (một thứ trò chơi điện tử hiện rất thông dụng).

Vì sao ta có thể tập trung tâm ý thật dễ dàng vào những sinh hoạt này, mà khi thiền tập tâm ta lại trở nên xao lãng và bất an đến thế? Một điều không ngờ là câu hỏi tầm thường đó có thể đưa ta đến một tuệ giác rất uyên thâm về khổ đau và giải thoát.

Cái mà ta gọi là “tâm” đó là một quan năng nhận thức tự nhiên và thuần túy - nó vô hình, trong suốt và linh động. Trong Phật giáo Tây Tạng nó còn được gọi là “sức mạnh nhận thức của một tính rỗng lặng”. Nhưng thật ra tâm không phải chỉ duy có sự nhận thức mà thôi! Vì trong mỗi giay phút kinh nghiệm sẽ có những phẩm tính đặc biệt khác, còn được gọi là tâm hành, sinh lên cùng với nó và tô màu thêm cho nhận thức ấy. Tỷ dụ như tham, sân, thương yêu, chánh niệm, định, trí tuệ, và nhiều đức tính khác nữa, đều là những tâm hành sinh lên và diệt đi trong những thời khắc khác nhau, và mỗi tâm hành có một công năng riêng biệt của nó.

Trong khi chúng ta làm những việc khác nhau, sẽ có những tâm hành khác nhau hoạt động. Như khi đang chơi nintendo chẳng hạn, chúng ta phải thực sự có mặt ngay lúc đó với trò chơi, nếu không chắc chắn sẽ thua. Tâm ta khi đó phải thật vững vàng và tập trung. Lúc ấy, yếu tố định khá vững mạnh. Thêm vào với định là một đặc tính khác của tâm, cũng giữ vai trò vô cùng trọng yếu là tâm hành của tưởng. Tưởng có công năng nhận diện, đặt tên và ghi nhớ mỗi hình dạng bằng cách chọn ra những điểm đặc thù của nó. Nhờ vào năng lực của tưởng mà chúng ta nhận ra được mỗi hình dạng của đối tượng mình kinh nghiệm là đàn bà hoặc đàn ông, là cây thông, là máy điện toán, hay xe hơi... và vô số vật khác nữa. Hai yếu tố định và tưởng giữ cho ta có mat trong hiện tại và chú tâm vào bất cứ trò chơi nào của cuộc sống đang xảy ra với ta.

Nhưng trong thiền quán thì khác! Muốn phát triển trí tuệ, chúng ta cần cộng thêm yếu tố niệm vào công thức định và tưởng. Niệm đi xa hơn là việc chỉ đơn giản nhận diện những gì đang xảy ra. Nó không phải chỉ có công năng giữ cho tâm ta được vững vàng mà thôi; qua năng lực quán chiếu sâu sắc của nó, chánh niệm có thể phô bày được chân tính của mọi vat.

Mải mê chú tâm theo dõi một cuốn phim hoặc chơi nintendo sẽ không làm phát lộ được tính chất tạm thời của những hiện tượng. Những lúc ấy chúng ta không nhìn thấy được tự tính vô thường và bản chất vô thực thể của vạn vật, của mọi biến cố. Và ta cũng không nhận thấy được tự tính rỗng lặng của tâm thức. Tâm hành của định và tưởng sinh lên trong mỗi giây phút, ngay cả khi tâm ta đang bị lôi cuốn theo dòng tư tưởng, ta vẫn có khả năng nhận biết được vấn đề gì mình đang suy nghĩ. Nhưng duy chỉ có chánh niệm mới có thể phát lộ được rằng ta đang suy nghĩ. Đó là một điểm khác biệt rất quan trọng. Tưởng tự nó không đưa đến trí tuệ về vô thường và vô ngã, vì nó hay lôi kéo ta dính mắc vào nội dung và câu chuyện của sự việc đang xảy ra. Chính chánh niệm giúp ta thoát ra khỏi câu chuyện ấy và ghi nhận được sự sinh diệt tiếp nối liên tục của những cảm thọ, tư tưởng và ngay cả của chính ý thức nữa.

Nếu ta hiểu được ba tâm hành quan trọng này - định, tưởng và niệm - một cách thật rõ ràng, thì sự quân bình của chúng sẽ trở thành một không gian của sự giải thoát.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 15: Chấp nhận Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Trong khi hướng dẫn thiền, chúng tôi thường khuyên các thiền sinh nên tập phát triển cho mình một “tâm mềm dịu và rộng lớn”. Nhưng có một lần, khi tôi sử dụng từ ngữ ấy trong lúc dạy thiền ở Úc châu, tôi khám phá ra rằng từ ngữ “tâm mem dịu” có một ý nghĩa đối với người dân ở đó hoàn toàn khác với ý tôi muốn nói. Vì vậy mà tôi nghĩ cần thiết phải làm sáng tỏ việc này.

Khi chúng tôi đề cập đến một “tâm mềm dịu và rộng lớn” là ý muốn nói đến đức tính chấp nhận. Ví dụ như khi bạn đang theo dõi hơi thở trong khi ngồi thiền và bạn cảm thấy có một sự gì chống chọi hay căng thẳng. Cảm giác chống cự này có thể là dấu hiệu báo với bạn rằng, có một sự việc nào đo đang có mặt trong kinh nghiệm mà bạn đã không ghi nhận hoặc không cho phép nó xảy ra. Có lẽ bạn đã không cởi mở đối với một số cảm thọ nào đó đang có mặt nơi thân, nó có thể là một sự khó chịu, hoặc một cảm xúc tiềm ẩn nào đó. Hay có thể bạn đang quá vướng mắc vào những kỳ vọng của mình, bằng sự nỗ lực và cố gắng quá mức, bạn muốn kinh nghiệm trong hiện tại của mình phải khác với những gì chúng thực sự đang hiện hữu.

Mềm dịu có nghĩa là rộng mở ra với những gì đang có mặt, an trú trong chúng. Những lúc đó bạn hãy thử câu “thần chú” này: “Không sao cả. Bất cứ việc gì cũng không sao hết. Hãy để cho tôi cảm nhận nó.” Một tâm mềm dịu là như thế! Bạn có thể mở rộng kinh nghiệm của mình, bằng một ý thức chấp nhận, cho phép, và thực sự có mặt với bất cứ một việc gì đang chiếm ưu thế: một cơn đau, một ý nghĩ, một cảm xúc, hay bất cứ một việc gì khác.

Phương cách làm cho tâm ta được mềm dịu gồm có hai bước. Bước thứ nhất là trở nên tỉnh thức và chú ý đến bất cứ việc nào đang chiếm ưu thế nhất trong giờ phút này. Đó cũng là một kim chỉ nam cho mọi phương pháp thiền quán! The nên bước đầu tiên là tập cho ta biết nhìn và cởi mở.

Bước thứ nhì là ghi nhận xem mối tương quan giữa ta với những gì đang xảy ra như thế nào. Thường thì chúng ta có thể có mặt với một hiện tượng nào đó đang khởi lên, nhưng bằng phản ứng của thói quen. Nếu ưa thích, ta sẽ có khuynh hướng muốn nắm giữ và trở nên quyến luyến. Và nếu không ưa thích, vì nó đem lại một khổ đau nào đó, ta sẽ có khuynh hướng co rút lại, muốn xua đuổi vì sợ hai, vì tức giận hoặc vì khó chịu. Cả hai cách phản ứng này đều hoàn toàn trái ngược với sự chấp nhận mà tôi muốn nói.

Phương pháp dễ dàng nhất để có sự an tĩnh là đừng bao giờ muốn làm cho sự việc khác đi. Thay vì cố tạo nên một trạng thái nào khác, ta hãy cứ giản dị để cho bất cứ một việc gì đang xảy ra có được không gian riêng của nó. Nếu bạn ngồi thiền sau một ngày bận rộn, tâm bạn cảm thấy hỗn độn và loạn động, hãy cố gắng để nhìn thấy trạng thái ấy đúng như nó đang có mặt và chấp nhận nó. Bạn cũng có thể đóng khung trọn kinh nghiệm ấy của thân và tâm bằng cách ghi nhận trong tâm: loạn động, loạn động. Thay vì hoạch định một chương trình đe thay đổi tính chất của nó, bạn có thể sử dụng chìa khóa đơn giản này để mở rộng và an trú với bất cứ năng lượng nào đang có mặt.

Nhưng điều ấy không có nghĩa là ta hoặc trở nên vô tâm hoặc phải sống với những tư tưởng khó chịu, bực mình. Với sự chấp nhận thực sự, ta sẽ an trú trong chánh niệm tự nhiên và có thể ý thức được những gì đang có mặt trong giờ phút này.

Làm thế nào để tâm ta trở nên mềm dịu? Việc ấy cũng không có gì khó lắm, nhưng vấn đề là làm sao để ta nhớ thực hiện nó. “Không sao hết, hãy cứ để tôi cảm nhận nó.” Lúc ấy mọi việc sẽ tự nhiên trở nên an ổn. Sở dĩ tâm ta vẫn cảm thấy có sự chống cự là vì ta chưa thực sự biết chấp nhận đó thôi!

Trong ngôn ngữ thiền, người ta thường đề cập đến việc buông xả tất cả: buông bỏ tư tưởng, buông bỏ cảm xúc, buông bỏ nỗi đau đớn... Nhưng cách nói ấy cũng không hoàn toàn đúng hẳn, vì nói buông bỏ là hàm ý ta cần phải làm một điều gì đó. Có một cách diễn đạt khác thích hợp hơn mà ta có thể thực tập là “Hãy để sự việc xảy ra đúng như bản chất tự nhiên của nó.” Bạn hãy để cho sự việc đúng như chúng đang hiện hữu. Mọi việc tự nó đến rồi tự nó sẽ đi. Chúng ta chẳng cần làm một việc gì để khiến cho nó đến, hay khiến nó đi, hoặc là buông bỏ nó. Hãy để cho nó tự biểu lộ bản chất tự nhiên vốn có.

Muốn được như vậy, chúng ta cần phải nắm vững một bài học tuy hơi khó khăn nhưng rất thiết yếu trong thiền tập, mà thật ra cũng là quan trọng trong mọi phương diện khác của sự sống. Mục đích của sự tu tập không phải để có những cảm thọ dễ chịu va trốn tránh những cảm giác khó chịu. Mục đích của thực tập chánh niệm là để đạt đến tự do. Chừng nào chúng ta thanh lọc hết những khổ thọ trong tâm như tham lam, sân hận và si mê, chúng ta sẽ chấm dứt được khổ đau. Cho nên, vấn đề quan trọng trong thiền tập không phải ở chỗ ta kinh nghiệm được cảm thọ dễ chịu hay khó chịu, mà là ở cách chúng ta phản ứng với cảm thọ ấy như thế nào. Nếu ta đối diện chúng bằng một ý thức sáng tỏ - nghĩa là chỉ giản dị ghi nhận và quan sát chúng - thì trong giây phút tỉnh thức ấy ta đang thanh lọc tâm mình. Vì ngay lúc đó ta không còn bị vướng mắc vào lòng ham muốn cảm giác dễ chịu, lòng ghét bỏ những gì khó chịu, và sự si mê không nhìn thấy rõ những gì đang thực sự xảy ra.

Trong hành trình của thiền tập, không phải lúc nào ta cũng cảm thấy dễ chịu, vui thích. Có nhiều khi ta cảm thấy rất bất an, nhưng việc đó không sao cả. Điều chúng ta muốn là làm thế nào để có thể cởi mở với tất cả mọi kinh nghiệm của thâm tâm này. Đôi khi ta cảm thấy hạnh phúc, tươi mát và hứng khởi, và cũng có lúc ta cảm thấy khổ đau một cách vô cùng thấm thía.

Phải có một sự can đảm và cương quyết lắm ta mới đủ nghị lực để đối điện với tất cả những khía cạnh của con người mình. Trong tâm ta lúc nào cũng có những ngõ ngách đen tối mà từ xưa đến giờ mình không muốn nhìn tới, hay muốn khám phá. Nhưng sớm muộn gì rồi chúng cũng sẽ xuất hiện. Đôi khi, chỉ mỗi việc năng lực được tích tụ trong lúc tu tập cũng có thể khiến ta cảm thấy căng thẳng và khó chịu rồi. Mọi kinh nghiệm bất an trong cuộc sống đều là một phần của thiền tập. Tự do không thể có được nếu không có chúng. Tu tập là cởi mở, là lâu dài, và quan trọng hơn hết, là giải thoát.

Hiểu biết được sự thật này là một giai đoạn chuyển tiếp khó khăn. Bạn có thể nào thành thật chấp nhận rằng, ngay bây giờ đây, bạn tu tập không phải vì những cảm giác an lạc hay không? Bạn có thể giải trừ được những điều kiện kiên cố trong tâm, lúc nào cũng nói với bạn rằng chỉ có những cảm thọ dễ chịu mới được chấp nhận không? Những gì xảy ra trong thiền tập hoàn toàn trái ngược với những thói quen có điều kiện lâu đời ấy, cũng vì chúng mà ta đã bị trôi lăn trong khổ đau. Trong thiền quán, chúng ta mở rộng ra với tất cả những gì dễ chịu lẫn khó chịu, bằng một thái độ chấp nhận thành thật và quân bình.

Nhiều năm trước, tôi có mướn một căn nhà nhỏ vào những tháng hè trên một ngọn đồi ở Ấn Độ. Đó là một căn nhà gỗ nhỏ cất trên cao, nhìn xuống phong cảnh đẹp tuyệt vời và vô cung yên tĩnh. Nơi đây, tôi dự định sẽ bỏ ra bốn tháng để hành thiền một cách rốt ráo.

Khoảng vài tuần sau khi tôi đến ngụ nơi ấy, một nhóm nữ hướng đạo sinh của thành phố Delhi đến dựng trại ngay khoảng đất trống bên dưới căn nhà của tôi. Họ gắn những loa phóng thanh và mở nhạc thật to mỗi ngày từ 6 giờ sáng cho đến 10 - 11 giờ đêm. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi! Tôi định sẽ khiếu nại lên vị Thị trưởng thành phố, và tôi đã soan thảo rất nhiều lá thư bày tỏ sự bất mãn trong đầu mình, nhưng có điều là ngoài tôi ra thì sự ồn ào ấy hình như chẳng làm phiền một ai khác.

Đó là một thử thách rất lớn cho sự an tĩnh của tôi. Sau khi trải qua hết những giai đoạn chống đối, giận dữ, bất mãn... đến một lúc tâm tôi tự nhiên buông bỏ hết. Trong hoàn cảnh ấy thật ra không có gì cần phải làm. Với sự chấp nhận, mọi việc đều trở nên tốt đẹp. Những huyên náo, ồn ào van còn nơi đó, nhưng không sao cả. Cuối cùng, tôi để mặc cho nó hiện hữu như trong thực tế.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 16: Không thấy được khổ đau là khổ đau Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Muốn đối phó với những kinh nghiệm khó chịu một cách hiệu quả thì trước hết ta phải biết đến sự có mặt của chúng. Rất nhiều khi, vì không nhận diện được khổ đau mà chúng ta bị trói chặt vào khổ đau. Khi nhìn thấy chúng rõ ràng và chính xác, ta sẽ có thể cởi mở với bất cứ hình thức nào của khổ đau. Và chính thai độ cởi mở, chấp nhận ấy sẽ giúp ta giải tỏa hết những bất an trong tâm thức.

Giả sử như trong thân bạn có những sự khó chịu và căng thẳng, nếu như không ý thức được điều ấy, bạn sẽ mang cảm xúc đó với bạn đi khắp nơi mà không hay biết. Những cảm giác khó chịu ấy sẽ điều kiện hóa con người bạn, cảm xúc của bạn. Đến khi nào sự bất an ấy trong thân trở nên đủ mạnh để chiếm một ưu thế, bạn sẽ bắt đầu để ý đến nó. Và nếu bạn có thể chấp nhận nó, thì theo sau sẽ là một cảm giác yên nghỉ. Bằng một cái nhìn sáng tỏ và sự chấp nhận, năng lượng của chúng sẽ đem lại cho ta một cảm giác nhẹ nhàng và thảnh thơi.

Cảm thọ đau đớn có thể còn đó, nhưng bây giờ thì thái độ của bạn đã thay đổi rồi. Mối tương quan của bạn đối với khổ thọ ấy bây giờ được phát xuất từ một điều kiện an lạc, chứ không còn vì sự si mê hoặc thiếu chánh niệm nữa. Quá trình ấy có thể xay ra trên cả hai lãnh vực của khổ thọ: thân và tâm.

Trước đây, có một việc xảy ra đã khiến tôi cảm thấy hổ thẹn khá sâu đậm. Mặc dù tôi biết rằng mình đang kinh nghiệm một trạng thái vô cùng khó chịu, nhưng tôi vẫn không thực sự biết được cảm thọ ấy là gì. Và ngày nào tôi chưa thể nhận diện được nó thì nỗi khổ của tôi vẫn thật lớn lao!

Tôi đã thử hết mọi cách có thể nghĩ đến, để cố thoát ra khỏi tình trạng đau đớn này. Sau một thời gian khốn khổ như thế, cuối cùng tôi tự hỏi: “Chuyện gì đang xảy ra?” Tôi dừng lại, nhìn kỹ tâm mình và chợt nhận thấy rằng: “À, thì ra đây chính là một cảm thọ hổ thẹn!” Ngay trong giây phút nhận diện ấy cùng với sự bằng lòng chấp nhận nó, mọi khổ đau tự nhiên biến mất!

Khổ đau trong tiếng Pali là dukkha, cũng có nghĩa là không được toại nguyện, là khó chịu. Tôi thấy được sự hổ thẹn là một cảm thọ sinh lên trong lúc ấy do một số điều kiện nào đó. Không có gì là sai trái khi ta chỉ thuần túy cảm nhận nó. Khi ấy nó sẽ tự động biến mất. Và việc ấy dễ làm hơn là ta đi thu xếp, sắp đặt lại cuộc sống để trốn tránh những khổ thọ trong đời mình.

Lại còn một trường hợp khác mà cũng vì ta không thấy được khổ đau nên mới có khổ đau. “Không biết là hạnh phúc” hoặc “Giả mù pha mưa” có lẽ là những câu châm ngôn thông dụng nhất xưa nay. Cái tuệ giác mà những câu châm ngôn ấy muốn nói là khi ta không biết rằng hành động của mình là bất thiện, thì nó sẽ không thể ảnh hưởng đến ta. Như là ta có thể dựa vào sự si mê, vô ý của mình, bằng một cách nào đó, để giải tội cho mình vậy! Nhưng sự thật thì hoàn toàn ngược lại.

Thà rằng bạn làm một chuyện bất thiện mà biết được nó bất thiện, còn hơn là làm mà không ý thức được điều ấy. Theo quan điểm đạo Phật thì cái biết là một hạt giống của trí tuệ - từ cái biết sẽ đưa đến cái hiểu, và rồi đến một lúc nhờ cái hiểu ấy ta sẽ tự kiềm chế lại những hành động bất thiện của mình. Cho nên, cái biết có khả năng làm vơi đi tính chất bất thiện của các hành động. Nếu ta không biết đó là một việc làm bất thiện, trạng thái si mê ấy sẽ làm cho sự bất thiện càng lúc càng trở nên nặng nề, phức tạp hơn. Si mê là một năng lực vô cùng đã tạo nên biết bao khổ đau trên cuộc đời này, ban chỉ cần mở bất cứ một tờ báo hằng ngày nào ra xem thì sẽ thấy rõ điều đó.

Khi chúng ta không thấy được điều xấu trong những việc mình làm, ta sẽ không phân biệt được giữa thiện và bất thiện, và từ đó ta sẽ bị nô lệ một cách vô thức cho những thói quen và sự ham muốn. Thiếu tuệ giác phân biệt, ta sẽ không bao giờ có khả năng chọn lựa sáng suốt. Cho nên, ý thức được yếu tố khổ đau trong những hành động bất thiện bao giờ cũng đem lại cho ta sự tự do hơn là cứ mặc tình để vướng mắc và đi nhận những hành động ấy làm mình.

Tất cả những gì tôi muốn nói ở đây là: khi bạn cởi mở với những khổ đau trong cuộc sống, bạn hãy cứ vững lòng tin - vì bạn cũng đang mở rộng tâm mình đón nhận sự hiểu biết.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 17: Tiếp xúc với cái đau Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Chúng ta đối phó với những khó chịu của tinh thần và cảm xúc như thế nào thì ta cũng có thể đối phó với cơn đau thể chất của mình như thế đó. Tiếp xúc được với cái đau nơi thân, cũng như học cách cởi mở với chúng là việc vô cùng quan trọng. Vì ta đối xử với cơn đau của mình trong khi ngồi thiền ra sao, thì cách ta đối xử với những khó khăn trong cuộc sống cũng giống y như thế.

Đức Phật đã nhắc nhở chúng ta về một chân lý hết sức hiển nhiên là khi đã sinh ra thì tất nhiên ai cũng phải chịu kết quả của sự trưởng thành, hư hoại và chết. Đã mang thân người thì chúng ta có thể tin chắc rồi có lúc mình sẽ phải chịu đau đớn và bệnh hoạn, cũng như thân này rồi một ngày sẽ mất. Phần lớn trong sự tu tập thiền quán của ta là để có thể cởi mở với sự thật đó ngay bây giờ - không phải chỉ giản dị nghĩ về chúng, mà là kinh nghiệm chúng một cách trực tiếp và sâu sắc.

Nếu có một cơn đau trỗi lên trong khi thiền tập, bạn có thể thử vài phương pháp quán niệm sau đây. Trước hết, hãy ghi nhận phạm vi tổng quát của vùng cảm xúc - như đầu gối hay lưng chẳng hạn. Chỉ đơn giản ý thức được cảm xúc ấy một cách toàn diện, hãy giữ cho tâm mình trở nên thoải mái, nhẹ nhàng ở với cảm xúc ấy nơi thân. Tiếp đến, bạn hãy quán sát thật chính xác đặc tính của cảm thọ ấy. Nó như thế nào? Nóng? Nặng nề? Nhức nhối? Quặn thắt? Hay một cảm giác nào khác? Khi ta ghi nhận được rõ ràng tính chất của những gì mình đang cảm xúc, tâm ta sẽ trở nên an định hơn.

Sau khi đã nhận diện được cảm xúc nào đang thực sự có mặt, bước tiếp theo sẽ đưa ta đi sâu hơn chút nữa. Hãy tập trung sự chú ý của bạn vào ngay bên trong vùng cảm giác ấy, chính xác ngay nơi điểm nào mà cường độ cảm xúc mạnh nhất. Ghi nhận hết những gì đang xảy ra nơi điểm cảm xúc ấy. Thường thì cảm xúc ấy sẽ biến đổi, và rồi sẽ có một điểm cảm xúc mới trở nên mạnh mẽ hơn. Bạn hãy chú ý đến điểm mới xuất hiện đó, và tiếp theo sẽ có một điểm mơi nữa. Giống như bạn đang chơi trò nối liền những điểm cảm xúc lại vậy.

Và khi nào tâm ta cảm thấy mệt mỏi, hãy đem nó trở về chú ý đến toàn thể vùng cảm xúc, hoặc là chú ý đến hơi thở. Thường thì việc thay đổi luan phiên sự chú ý giữa hơi thở và cái đau, mỗi lần khoảng 5 phút, vẫn là phương pháp hữu hiệu nhất. Vì tâm ta có khuynh hướng tránh né, thối lui, hoặc trở nên nhàm chán khi ta kinh nghiệm một cảm giác khó chịu nào đó qua lâu. Nếu ta không biết cách đối phó với cái đau một cách khéo léo thì nó có thể làm cho tâm ta trở nên mỏi mệt, rồi chánh niệm và sự tinh tấn cũng theo đó mà suy giảm. Thay đổi sự chú ý giữa hơi thở và cảm giác đau sẽ giữ cho ta được tỉnh táo và linh động.

Sự thay đổi xen kẽ này cũng giúp cho nghị lực của ta phát triển theo một cách khác nữa. Khi cơn đau đang mạnh, tâm ta lúc đầu sẽ có khuynh hướng trụ vào đó mà không cần một sự cố gắng nào. Tâm ta rất khó bị xao lãng khi đang có một cảm giác đau mạnh. Nhưng vì ta không phải cố gắng nhiều để chú ý đến cái đau nên nghị lực cũng theo đó mà trở nên yếu ớt. Nếu thỉnh thoảng ta lại đem sự chú ý trơ về với hơi thở, mặc dù khi ấy cái đau vẫn còn trội hơn, ý chí và nghị lực của ta sẽ được phát triển mạnh mẽ. Thỉnh thoảng trở về với hơi thở sẽ củng cố và làm tăng trưởng nghị lực của ta. Rồi khi trở lại quán chiếu cái đau nơi thân, ta sẽ có thể kinh nghiệm được chúng trên một bình diện mới khác lạ hơn.

Sự tích tụ quan trọng này sẽ giúp cho xung lực (momentum) của ta được mạnh mẽ thêm, và cũng nhờ đó mà sự tu tập được sâu thẳm hơn. Nó tác động cũng giống như một máy phần tử gia tốc (particle accelerator) trong ngành vật lý nguyên tử vậy. Những chất điểm (particles) di chuyển mỗi lúc một nhanh, cho đến khi chúng có khả năng tách đôi được một hạt nguyen tử. Trong thiền quán, chúng ta sẽ tích tụ năng lượng của chánh niệm cho đến khi đủ mạnh để nhìn thấy thực tại trên nhiều bình diện hoàn toàn khác nhau.

Sự tăng trưởng của xung lực ấy phát xuất từ một chánh niệm thường trực và một nghị lực đều đặn mang tâm ta trở về với đề mục căn bản của thiền quán. Ép buộc sự chú ý của ta phải bỏ cái đau để trở về với hơi thở dĩ nhiên là sẽ phản tác dụng. Nhưng nếu ta biết dẫn dắt tâm mình một cách tự nhiên, ta sẽ bảo tồn và tích tụ được năng lượng, cho đến khi ta có thể sử dụng sức mạnh nội tâm ấy để khám phá được những tuệ giác sâu xa hơn.

Khi chúng ta có thể cởi mở và tiếp xúc với cái đau trong thien tập, ta sẽ khám phá những sự dính mắc vi tế của mình vào nó. Ta sẽ thấy được những ác cảm và sợ hãi đối với cái đau, cũng như theo dõi được tâm mình lên án và ghét bỏ chúng. Tất cả chúng ta đều đã từng đối xử vơi những khổ thọ của mình theo cách vô ích như thế, không hề đem lại cho ta một sự an lạc nào. Và khi ta biết thực tập duy trì chánh niệm, sự chuyển hóa nhiệm mầu sẽ bắt đầu xảy ra trong ta.

Khi tôi mới bắt đầu tập ngồi thiền, cái đau nơi đầu gối nhức nhối khôn cùng, khiến tôi không tài nào ngồi yên được đến 10 phút. Sự khó chịu ấy bắt tôi phải nhúc nhích và thay đổi vị thế ngồi liên tục. Thế rồi tôi nghĩ thầm: “Chắc là mình nên ngồi trên ghế.” Nhưng vì tôi khá cao nên một chiếc ghế bình thường là quá thấp, tôi phải đặt vài viên gạch dưới mỗi chân ghế để nâng nó lên một chút. Rồi đến lượt mấy con muỗi đến vo ve, quấy rầy. Thế là tôi lại phải giang một chiếc mùng phủ lên trên ghế. Chẳng mấy chốc, tôi đã biến chỗ ngồi thành một ngôi báu để sự thiền tọa được dễ chịu, thoải mái hơn. Có nhiều lần vị thiền sư của tôi, ngài Munindra-ji, ghé qua thăm chỗ tôi ngồi, làm tôi cảm thấy hổ thẹn vô cùng.

Mặc dù trong thời gian đầu rõ ràng là sức chịu đựng cái đau của tôi chẳng là bao nhiêu, nhưng dần dà nhờ công phu tu tập tâm tôi trở nên vững mạnh và bớt sợ sệt. Tôi học được cách trở nên thư thái đối với cái đau, thay vì căng thẳng hoặc gồng người chịu đựng mỗi khi nó khởi lên.

Khi ta thay đổi mối tương quan của mình đối với cái đau trong lúc ngồi thiền, ảnh hưởng của điều đó sẽ lan ra rất xa. Những khó khăn trong lúc ngồi thiền sẽ dạy cho ta phương pháp để đạt được tự do trong những hoàn cảnh bất an khác của cuộc sống. Chúng ta đối xử với giây phút hiện tại này ra sao, ngay lúc này đây, với sự khó chịu, với cái đau, với những điều bất như ý như thế nào? Tôi nhận thấy có một điều khá thú vị là bao giờ cũng vay, những hoàn cảnh mà ta cho rằng không thể chịu nổi, thường là do chính sự chống cự của ta làm cho trở thành không thể chịu nổi! Vấn đề khó khăn không phải do hoàn cảnh, mà vì ta bất lực không thể sống chung với chúng, không cởi mở được với chúng mà thôi.

Nhưng dù sao chúng ta cũng cần phải ý thức được khả năng và giới hạn của mình trong mỗi hoàn cảnh. Đôi khi, cũng có những kinh nghiệm rất mãnh liệt mà ta không thể nào hoàn toàn cởi mở với chúng được. Có lúc ta cần phải lui lại một thời gian, hay là tiến lại gần một cách từ tốn, chậm chạp hơn. Giữ được sự quân bình này là một chìa khóa rất trọng yếu cho sự tu tập. Bao nhiêu là đủ, trước khi chúng ta từ bỏ đường lối nhẹ nhàng, ôn hoà của mình và đóng kín cửa lại, trước khi ta có thể nói rằng, “Bấy nhiêu đó là đủ rồi”? Nới rộng giới hạn của mình ra nhiều khi lại làm cho ta trở nên dũng mãnh hơn. Bằng phương pháp tu tập đơn giản này, ta sẽ phát triển được một tâm lực kiên cố, một khả năng đối diện với những hoàn cảnh khổ đau trong cuộc đời. Sức mạnh ấy chắc chắn sẽ chuyển hóa sự sống của ta.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 18: Sự tiến triển trong thiền tập Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Thói quen lúc nào cũng phòng vệ của ta, với mục đích tránh né khổ đau và ôm chặt khoái lạc, cũng biểu lộ ra trong sự tu tập theo một cách khác nữa. Nhiều khi ta hiểu thiền tập một cách sai lầm là: nếu cảm thấy an lạc tức là đang tiến bộ, còn nếu bị đau đớn có nghĩa là đã thất bại. Ta thường nghĩ rằng, khi ngồi thiền mà cảm thấy đau đớn tức là mình đã không thực hành đúng, còn nếu có được những cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, bay bong thì ta là một thiền sinh giỏi.

Thật ra, quan niệm đó cũng rất khó buông bỏ. Nguồn gốc của sai lầm ấy tuy rất đơn giản nhưng cũng vô cùng kiên cố, vì chúng ta bao giờ cũng ưa thích những gì dễ chịu và ghét bỏ những gì đau đớn!

Sự tiến bộ của ta hoàn toàn không tùy thuộc vào mức độ an lạc hoặc khổ đau, mà là ở chỗ ta có thể cởi mở được với những gì đang xảy đến hay không. Khi con đường tuệ giác bắt đầu khai mở, thường thì ta sẽ trải qua một giai đoạn tu tập mà khổ thọ chiếm phần ưu thế. Chúng chỉ là một đặc tính riêng biệt của giai đoạn tu tập đó. Cũng như những cảm thọ dễ chịu, nhẹ nhàng khoan khoái, tĩnh lặng sẽ là những đặc điểm của một giai đoạn khác trên đường tu tập. Trong những giai đoạn khác nhau sẽ có những kinh nghiệm khác nhau khởi lên. Thế thôi!

Con đường giải thoát sẽ dẫn ta qua nhiều chu kỳ giống như thế. Một kinh nghiệm dễ chịu hoặc khó chịu tự nó không xác định được trình độ cao hay thấp trong sự tu tập. Chúng ta có thể đang ở vào giai đoạn cuối của một khổ thọ nhưng sự tu tập của ta lại tiến triển sâu xa hơn giai đoạn bắt đầu của trạng thái hỷ lạc.

Vì thế, cảm thọ đau đớn hay hỷ lạc không cho thấy sự tu tập đang tiến triển đến đâu. Mục tiêu mà ta muốn đạt đến là sự hiểu biết và thương yêu chứ không phải một cảm giác thích thú lâu dài nào đó. Nhưng đa số chúng ta còn phải mất bao lâu nữa mới hiểu được điều này?

Tôi sẽ kể cho bạn nghe một chuyện buồn nhỏ trong kinh nghiệm thiền tập của tôi. Khi tôi đang tu tập ráo riết sau khoảng một vài tháng ở Ấn Độ, toàn thân tôi đột nhiên tan biến thành một vùng ánh sáng rung động, toả chiếu. Cứ mỗi lần tôi ngồi xuống, vừa nhắm mắt lại là vùng năng lượng của ánh sáng này tràn ngập toàn thân. Nó vô cùng nhiệm mầu, tôi cảm thấy tuyệt vời. “À! tôi đã đạt được rồi!”

Sau mấy tháng ấy, tôi trở về Hoa Kỳ một thời gian. Khi trở lại Ấn Độ, tôi hoàn toàn tin chắc rằng cái thân ánh sáng ấy cũng sẽ trở lại với tôi. Tôi bắt đầu thực hành thiền tập một cách tích cực như xưa, nhưng cái vùng ánh sáng rung động ấy đã đi đâu mất! Chẳng những cái thân ánh sáng ấy không còn nữa, mà bây giờ người tôi lại cảm thấy như là một khối sắt thép vặn vẹo đau đớn. Khi tôi ngồi cố gắng đem sự chú ý của mình đi sâu vao khối thép rắn chắc ấy, tôi gặp phải biết bao nhiêu là áp lực và sự căng thẳng, bao nhiêu là những cảm giác khó chịu.

Hai năm kế tiếp là một thời gian vô cùng thất vọng và khó khăn nhất trên con đường tu tập của tôi. Vì sao thế? Vì tôi đã không còn thực sự có chánh niệm. Tôi cứ ngỡ rằng mình đang đối diện trực tiếp với cái đau, với sự khó chịu. Nhưng sự thật thì tôi đã không bao giờ chấp nhận chúng. Tôi đã không hoàn toàn cởi mở được với thực tại trước mắt. Sự thật thì tôi cố gắng tu tập vì mong đạt lại được một cái gì đã mất - cái cảm giác tỏa chiếu, dễ chịu tuyệt vời ấy. Phải mất cả hai năm trời tôi mới hiểu được rằng, sự tu tập không phải là để cho ta đạt được một cái gì hết, dù cho nó có huyền diệu đến đâu.

Những gì chúng ta kinh nghiệm trong quá khứ đã qua mất rồi. Nó đã chết, có chăng chỉ là một thây khô. Chúng ta đâu cần phải lôi kéo cái thây khô ấy theo mình trong cuộc sống để làm gì? Hãy thực tập cởi mở với bất cứ việc gì đang hiện hữu trong giây phút này, bất cứ điều gì đang có mặt. Cho dù đó có là một cảm giác náo nức, thanh nhẹ, hoặc sắt thép vặn vẹo. Không sao cả! Và cuối cùng, khi tôi đã ý thức được chân lý ấy sau hai năm chống cự vất vả, sự tu tập của tôi lại bắt đầu tiếp tục tiến triển như xưa. Bạn không cần phải mất hai năm trời để tìm ra chân lý ấy. Hay cẩn trọng, đừng để cho mình bám víu vào một kinh nghiệm nào đó trong quá khứ và cố gầy dựng lại. Đó không phải là sự tu tập chân chánh. Thật ra, đó chính là sự dọn đường cho khổ đau. Chỉ đơn giản là hãy cởi mở, ôn hoà và giữ chánh niệm với những gì đang có mặt. Đó mới thật là con đường tu tập giải thoát.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 19: Tính tự nhiên và sự tu tập Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Đôi khi người ta thối lui trên con đường tu tập vì sợ rằng sự tu tập sẽ làm mất đi lòng say mê và sự tự nhiên trong cuộc sống. Họ thắc mắc không hiểu rằng tỉnh giác và tự nhiên, hai đức tính ấy có tương hợp với nhau không, hay là cái này sẽ tiêu diệt cái kia. Câu hỏi đó rất lý thú, vì nó vạch cho ta thấy một sự hieu biết về tính tự nhiên theo tập quán, mà theo tôi thì nó lại chẳng tự nhiên chút nào.

Chúng ta thường quan niệm rằng những hành động nào không có sự chú ý, không chuẩn bị trước thì mới là chân thật tự nhiên. Nhiều khi ta còn cho rằng như vậy chúng mới được tinh nguyên. Nhưng sự thật có phải vậy không? Vì chúng rất có thể chỉ là những hành động phụ thuộc vào các phản ứng có điều kiện mà thôi. Bạn nghĩ xem, một tâm chân thật, rộng lớn và tự nhiên có khi nào lại tạo nên những hành động như vậy không? Có thể là đôi khi. Nhưng phần nhiều thì tất cả những tập quán, thói quen lâu đời của tham dục, giận dữ, sợ hãi và si mê đều khiến chúng ta hành đong thiếu suy nghĩ như thế. Và chúng ta lại gọi đó là chân thật và tự nhiên. Biết bao nhiêu lần bạn chợt ý thức được mình đang làm một việc gì đó, mà không hề nhớ là mình đã bắt đầu từ lúc nào. Đó không phải là một sự tự nhiên! Chúng là những hành động máy móc, cũng giống như một người có bệnh mộng du vậy.

Tính tự nhiên chân thật sẽ biểu lộ một cách rất rõ rệt trong sự tu tập. Vì nó là bản tính tự nhiên của mọi hiện tượng, cua đạo pháp, của mọi tiến trình trong sự sống. Khi ta có được một năng lượng của niệm và định rồi, ta sẽ bắt đầu kinh nghiệm được một quá trình diễn biến mau lẹ, không ngừng nghỉ của mọi hiện tượng, tự chúng sinh lên rồi tự chúng diệt đi.

Khi ta đang ngồi thiền và có một tư tưởng xuất hiện. Ta có mời nó đến không? Chắc là không. Đôi khi cũng có thể, nhưng đa số thì tư tưởng tự chúng đến mà chẳng cần ai mời gọi hết. Cảm giác khởi lên, âm thanh xuất hiện. Khi ta càng an trú được trong tiến trình sống của mình bao nhiêu, một diễn biến của thân tâm, ta sẽ càng cảm nhận được sự nhiệm mầu của nó bấy nhiêu.

Nhịp điệu này của sự sống, của thực tại là một phước báu rất lớn. Nó là một hòa âm tuyệt vời của dàn hợp xướng gồm những hiện tượng cùng kết hợp. Đây mới chính là ý nghĩa chân thật, sâu xa của sự tự nhiên, và cũng chính là tự tính của ta. Bạn hãy chiêm nghiệm điều tôi nói, sự tự nhiên ấy khác biệt với những hành vi máy móc có điều kiện kia biết là bao nhiêu!

Hiểu theo nghĩa này thì sự tỉnh thức mới chính thật là chìa khóa của tính tự nhiên. Và chánh niệm là một phương tiện giúp chúng ta tiếp xúc được với sự tiếp nối tự nhiên liên tục trong những sinh diệt của mọi hiện tượng.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 20: Trở về quê xưa Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Sự cảm nhận được tính tự nhiên ấy rất gần gũi với một kinh nghiệm khác trong sự tu tập mà bạn can biết đến. Kinh nghiệm này xảy ra khi tâm bạn chuyển hướng từ việc tập trung sự chú ý vào nội dung của kinh nghiệm sang quá trình diễn tiến của kinh nghiệm.

Nội dung của kinh nghiệm thì hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Chúng phụ thuộc những điều kiện của hoàn cảnh, những sự kiện riêng biệt trong kinh nghiệm của mỗi người. Bậc cha mẹ thường chỉ biết đến con cái mà thôi, học trò chỉ nghĩ đến bài thi, người nghệ sĩ luôn hướng đến nhưng đối tượng của họ.

Vài năm trước, tôi có tham gia việc thiết kế và xây cất một ngôi nhà. Vào mỗi giai đoạn xây cất, khi tôi lái xe vòng quanh khu tôi ở, tự nhiên tôi bị thúc đẩy phải lưu ý đến cái phần mà tôi đang xây cất ấy ở những ngôi nhà khác. Có khi cả tuần tôi chỉ biết đến mái ngói mà thôi, rồi tuần kế tiếp tôi chỉ chú ý đến mặt ngoài của ngôi nhà, rồi sang đến cửa sổ, cửa ra vào... Trong đời sống cũng vậy, chúng ta thường bị dính mắc vào phần nội dung và những quan tâm đặc biệt như thế, chúng có thể là một số tư tưởng và cảm xúc đặc thù nào đó, những hình ảnh và câu chuyện về ta hoặc người khác, hoặc những chi tiết về hoàn cảnh hiện tại của mình.

Rồi một sự chuyển hóa sẽ tự nhiên từ từ xảy đến cho ta trên con đường tu tập. Khi ta có thể quan sát các hiện tượng xảy ra trong mỗi giây phút và thấy được tự tính của chúng rõ ràng, ta sẽ ghi nhận được việc gì thực sự xảy ra cho một tư tưởng, một cảm giác. Dần dà cái tiến trình đổi thay ấy sẽ trở thành đối tượng của sự quán chiếu. Và từ cái nhìn mới đó, những gì biến đổi không thực sự còn là quan trọng nữa, vì ta đã có thể nhìn, tiếp xúc và kinh nghiệm một cách thật sâu sắc cái tính chất tạm bợ, nhất thời của mọi hiện tượng. Đó cũng là cảm giác của một người trở về quê xưa: từ bỏ lãnh vực của ý niệm, nội dung để đi vào một lãnh vực cơ bản hơn của sự sống, của hiện hữu nhiệm mầu này.

Cái cảm giác trở về quê xưa ấy sẽ đem lại cho ta một nhận thức rằng, mọi hiện tượng trong cuộc sống này đều có liên hệ với nhau. Cũng như cái nội dung thay đổi là tùy thuộc nơi mỗi cá nhân độc lập, nhưng cái tiến trình đổi thay cơ bản ấy thì áp dụng chung cho tất cả. Một khi chúng ta đã nhập được vào dòng hiện tượng sinh diệt ấy rồi, ta sẽ có thể kinh nghiệm được tất cả mọi sự sống khác quanh ta. Tiếp xúc với cái nhiều sẽ tạo cho ta một ý thức về cái duy nhất, về mối liên hệ tương quan chằng chịt giữa mọi vật với nhau. Và khi đã hiểu được tiến trình sống nơi ta rồi thì ta cũng sẽ hiểu được tiến trình ấy ở bất cứ một người nào khác.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 21: Năng lượng Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Khi định lực của ta được tăng trưởng nhờ công phu thiền tập, toàn thể tự tính kinh nghiệm của ta cũng sẽ thay đổi theo. Ta sẽ bắt đầu nhìn thực tại theo một cách mới. Một khám phá quan trọng của tôi trong thiền tập là kinh nghiệm được cả thân tâm này như một hệ thống năng lượng.

Ở giai đoạn đầu của sự tu tập, ta thường cảm giác rằng thân này là một khối kiên cố và rắn chắc, khi ngồi thiền hay khi sinh hoạt hằng ngày cũng vậy. Nhưng khi công phu thiền tập tiến triển và định lực đem lại cho ta một cái nhìn thâm sâu hơn, cái kinh nghiệm về một khối cứng rắn ấy sẽ dần dần phai mờ và tan bien đi. Thay vào đó, chúng ta sẽ bắt đầu cảm nhận và ý thức được thân này như là một khối năng lượng, một dòng sông cảm thọ trôi chảy không ngừng nghỉ.

Ta có thể nhận biết được dòng năng lượng này bằng cách chú tâm vào những điểm khác nhau trong thân, cảm nhận được những kinh nghiệm khác nhau. Những điểm khác nhau ấy cũng gọi là các trung tâm năng lượng. Ví dụ, nếu ta tập trung tâm ý vào trung tâm quả tim, ở giữa ngực, ta sẽ có được một cảm xúc đặc biệt. Nếu ta tập trung vào trung tâm sinh dục, ta lại kinh nghiệm được một cảm xúc hoàn toàn khác biệt. Và ta cũng có thể tập trung vào những trung tâm khác như ở cổ họng, chân mày, đỉnh đầu, hay bất cư một nơi nào trong thân thể. Lúc đầu tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy rằng, tất cả mặc dù cùng chung một dòng năng lượng, nhưng mỗi vùng khác nhau trên thân thể lại có những “mùi vị” khác biệt đến thế.

Ngoài việc cảm nhận được hệ thống năng lượng này, mà chúng ta gọi chung là thân-tâm, ở những trung tâm khác nhau, ta cũng có thể kinh nghiệm được chúng ở những tần số dao động khác nhau nữa! Khi ta tu tập và định lực trơ nên kiên cố, tần số của dòng cảm giác cũng sẽ trở nên tinh tế hơn. Cũng giống như khi ta tiếp tục gia tăng tần số của một dao động kế (oscillator) cho đến khi nào dòng cảm giác trở nên thật lặng êm và tinh khiết. Có đôi khi cảm giác ấy trở nên tinh tế đến mức nó dường như biến mất hẳn, và lúc đó ta chỉ còn nhận thức được sự trôi chảy của một dòng sông tâm thức mà thôi.

Khi sự tu tập được sâu sắc, bạn sẽ rút ra một kết quả khá lý thú từ kinh nghiệm về dao động này. Nó là một sự kiện rất vi tế trên con đường tu tập của ta. Ở giai đoạn đầu của sự tu tập, chúng ta thường có một ý thức phân biệt rất rõ ràng về những khổ thọ và lạc thọ trong thân. Thí dụ như năng lượng của tình dục là một khoái cảm lớn của thân. Và lẽ dĩ nhiên cũng còn nhiều loại lạc thọ khác nữa. Nhưng khi sự tu tập tiến triển, và khi tần số của những xúc cảm trở nên cao hơn và tinh khiết hơn, chúng ta sẽ được tiếp xúc với trung thọ - không vui cũng không khổ - nhiều hơn là với những lạc thọ.

Nhưng điều lý thú là, ta sẽ khám phá ra rằng những cảm thọ trung tính ấy, thật ra lại đem đến nhiều hạnh phúc cho ta hơn là những cảm thọ sung sướng hoặc dễ chịu. Khám phá ấy là một sự giác ngộ, vì chúng ta thường có khuynh hướng cho rằng những trung thọ thì hoàn toàn vô vị. Nhưng sự thật thì chúng lại rất là vi tế và tinh vi. Khi nào chánh niệm của ta được trở nên tinh tế hơn, chúng ta sẽ có thể cùng rung động với chúng một cách toàn vẹn hơn.

Tiến trình này, ban đầu là ta cảm nhận những năng lượng mạnh rồi dần dần chuyển sang những năng lượng trung hòa hơn, cũng giống hệt với kinh nghiệm thiền quán về đề mục Tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ và xả. Khi chúng ta quán niệm ba vô lượng tâm đầu tiên, từ, bi và hỷ, ta sẽ có những cảm giác vui sướng, an vui - chúng có thể là những hạnh phúc rất tuyệt vời. Đến khi ta quán chiếu về tính xả, nó sẽ làm phát sinh ra những trung thọ, và chính kinh nghiệm này sẽ đưa ta vào một trạng thái của hạnh phúc toàn vẹn hơn.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 22: Tuệ giác Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Tuệ giác của thiền quán thuộc về trực giác chứ không thuộc về nhận thức. Trực giác ở đây không có nghĩa là một cảm giác mơ hồ về một vật gì, mà ngược lại nó có nghĩa là một cái thấy rõ ràng, trực tiếp và kinh nghiệm được sự vật như chúng đang thực sự có mặt.

Như khi bạn đang ngồi thiền và theo dõi hơi thở, đột nhiên tâm bạn lắng yên xuống trong một không gian mới lạ và tươi mát. Mặc dù khoảnh khắc ấy rất ngắn ngủi, nhưng bạn có thể cảm nhận được một sự an lạc và tĩnh lặng rất sâu. Lúc ấy, thay vì cố gắng để theo dõi hơi thở, bạn sẽ an trú trong hơi thở một cách êm ả và tự nhiên.

Đó chính tuệ giác phát xuất từ một kinh nghiệm trực tiếp với tự tính của tĩnh lặng và an lạc. Bạn không phải nghĩ ngợi hay là suy tư về chúng. Bạn biết rằng đóa hoa thủy tiên màu vàng là vì bạn đã từng thấy nó như vậy. Bạn biết được tự tính của tĩnh lặng và an lạc là vì bạn đã từng cảm nhận được chúng trong tâm mình.

Có rất nhiều kinh nghiệm tương tự như thế, và mỗi kinh nghiệm lại có nhiều mức độ khác nhau. Mỗi lần chúng ta nhận thức chúng trực tiếp là mỗi lần chúng ta được mở ra với một cái nhìn mới, một sự sống mới. Đó chính là minh triết, là tuệ giác.

Nhưng thường thì tâm ta hay trở nên kích động mỗi khi có một kinh nghiệm mới lạ. Lúc ấy ta lại khởi lên ý nghĩ: “Xem kìa, mình đang thật là an lạc. Thích quá!” Hoặc ta lại bận rộn dùng trí năng để suy luận và phân tách về tính vô thường, về khổ đau, hoặc bất cứ một cảm giác đặc biệt nào đó trong kinh nghiệm của mình.

Vì vậy mà lúc nào ta cũng phải hết sức cẩn trọng. Nếu ta không sớm y thức được những việc ấy để rồi bị dính mắc - mà những suy tư, phân tích về đạo pháp đôi khi cũng rất lý thú và hấp dẫn - tự chúng sẽ trở thành những chướng ngại cho sự phát triển tuệ giác của ta. Nhiều khi người ta bị mê hoặc bởi những ý niệm của giáo lý, hoặc bóng dáng của một tuệ giác chân thật, mà quên rằng mình đã và đang có nó.

Thế nên, bạn hãy phân biệt rõ ràng giữa trí tuệ của trực giác và ý niệm về nó. Ý thức được sự khác biệt ấy sẽ giúp bạn tránh khỏi những trở ngại và sự chậm trễ không cần thiết. Bạn đừng lo nghĩ về việc sau này ta sẽ tìm những lời nào để truyền đạt lại tuệ giác của mình. Tâm ta rất ít khi gặp khó khăn trong việc tìm kiếm chữ nghĩa. Hãy an trú trong hiện tại với mỗi hiện tượng khởi lên. Nếu được vậy, toàn thể hành trình tu tập sẽ tự nhiên hiển lộ.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 23: III. Giải thoát tâm thức - Những trở ngại: Một tấm vải bẩn Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Hầu hết chúng ta đều có những lúc cảm thấy bị khuất phục trước những năng lực bất thiện trong tâm. Làm sao để vượt thắng chúng và tự tin hơn nhờ những thành công ấy là một phần quan trọng trong sự tu tập của ta. Sau đây là một vài lời khuyên có thể giúp bạn đối phó với những năng lực bất thiện ấy bằng một đường lối quân bình.

Trong những giai đoạn khó khăn, việc đầu tiên bạn có thể tự nhắc nhở mình là sự thật bạn cũng đã tích tụ được một số năng lực mạnh mẽ của sự thanh tịnh và giải thoát trong tâm. Dù vậy, giữa một trận bão của tâm hồn, của sợ hãi, sân hận và tham vọng, thì thật khó có thể nhớ đến hoặc tin được sự thật ấy. Nhưng đó vẫn là sự thật. Nếu không thì làm sao bạn có thể mang được thân người trong kiếp này? Bạn nên hiểu rằng thân người quý báu này chính là kết quả của những hành động tốt lành trong quá khứ.

Và sự kiện ta hiện đang đi trên con đường tu tap, con đường của tỉnh thức, càng chứng tỏ thêm rõ ràng hơn những năng lực thanh tịnh ấy trong ta. Ngài Dilgo Khyentse Rinpoche, một trong những vị tu sĩ Tây Tạng nổi tiếng của thế kỷ này đã viết: “Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi rằng, có bao nhiêu người trong số hàng tỷ người sống trên trái đất này nhận thấy sự quý báu, hiếm hoi được sinh ra làm người? Rồi có bao nhiêu trong số những người ý thức được sự quý báu đó biết sử dụng cơ hội ấy để tu tập Phật pháp? Và rồi bao nhiêu trong số người đã khởi sự, sẽ tiếp tục con đường mình theo?” Chiêm nghiệm sự tu tập của mình theo cách đó sẽ làm phát sinh được một niềm vui sướng và tự tin trong ta.

Khi sự tu tập được thâm sâu, sẽ có lúc ta cảm thấy dường như cường độ của những tính bất thiện trong tâm mỗi lúc lại càng trở nên mạnh mẽ hơn. Nhưng sự thật không phải vậy, chúng ta chỉ ý thức về chúng nhiều hơn mà thôi. Khi sự tu tap phát triển, chúng ta có thể sẽ cảm thấy như bị tràn ngập, áp đảo bởi vô số những chướng ngại tinh thần khác nhau. Chúng như khởi lên cùng một lúc, khiến ta thấy bất an, lười biếng, giận dữ, nghi ngờ, tham lam, ganh tỵ, tự phụ... đủ hết cả. Và nhiều khi tưởng chừng như tâm mình không còn chứa đựng gì khác hơn ngoài những khổ thọ ấy.

Trong kinh, Đức Phật có dùng một thí dụ để giải thích hiện tượng này. Giả sử như bạn có một tấm vải dính đầy bụi bẩn, thì sẽ không có một điểm bẩn đặc biệt nào nổi bật lên cả. Nhưng khi tấm vải ấy được giặt sạch đi, mỗi một vết bẩn còn sót lại đều sẽ trở nên nổi bật. Tương tự như thế, khi tâm ta trở nên trong sáng nhờ thiền tập, những chướng ngại tự chúng sẽ biểu lộ ra một cách rõ ràng hơn.

Vì thế bạn hãy nhớ luôn giữ cho mình một cái nhìn quân bình những khi đối diện với tư tưởng và cảm xúc trong tâm. Điều quan trọng là phải nhan thấy được những khó khăn ấy khi chúng vừa mới phát khởi. Hãy nhớ rằng, tuệ giác giúp ta thấy được những khó khăn ấy được phát xuất từ tính thanh tịnh trong tâm ta.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 24: Tư tưởng Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Thiền quán không phải là suy nghĩ về một việc gì. Chúng ta đã quá quen sử dụng tư tưởng, suy luận trong mọi lãnh vực của đời sống. Phần lớn hoặc có thể là trọn cuộc đời của ta đều nằm nơi đó, cho dù ta có ý thức được điều ấy hay không.

Nhưng thiền quán là một tiến trình hoàn toàn khác biệt, vì nó không dính dáng gì đến những suy luận hoặc tư tưởng của mình. Thiền quán không phải là suy nghĩ về một việc gì. Qua tiến trình liên tục quán chiếu trong thinh lặng, một loại hiểu biết mới, sâu xa hơn sẽ phát sinh.

Trong mục tiêu của thiền quán thì không có gì là thực sự đáng để cho ta suy nghĩ đến cả: không phải tuổi thơ của ta, những mối tương quan của ta, cũng không phải là một quyển tiểu thuyết đồ so nào đó mà ta muốn viết... Nhưng việc ấy không có nghĩa là những tư tưởng ấy sẽ không khởi lên. Sự thật thì chúng sẽ xảy đến rất thường xuyên. Nhưng ta không cần phải chống lại, tranh đấu với chúng, hay là phê phán lam gì. Ta chỉ cần giản dị không chạy theo những tư tưởng ấy, một khi vừa ý thức được rằng chúng đang khởi lên. Càng ý thức được mình đang suy nghĩ sớm bao nhiêu, ta càng thấy được cái tự tính rỗng không của tư tưởng nhanh bấy nhiêu.

Tư tưởng của ta nhiều khi có một sức quyến rũ vô cùng. Giờ thiền tập sẽ trôi qua rất nhanh những khi chúng ta ngồi mơ mộng, có khi chưa kịp hay biết gì thì thời gian đã hết. Có thể giờ ngồi thiền hôm đó rất thú vị, nhưng đó không phải là thiền tập. Trên con đường tu tập, chúng ta cần để ý đến những sự lạc hướng này, nếu có. Bạn nên nhớ rằng tuệ giác mà chúng ta muốn được phát khởi một cách tự nhiên và bằng trực giác từ mot chánh niệm tĩnh lặng.

Mặc dù thiền quán không phải là suy nghĩ, nhưng thiền quán vẫn có thể là ý thức rõ ràng về sự suy nghĩ của mình. Tư tưởng có thể là một đối tượng rất hữu ích trong thiền quán. Chúng ta có thể tap trung năng lượng của sự quán chiếu vào chính tư tưởng để thấy được tự tính của nó. Nhờ vậy mà ta sẽ ý thức được tiến trình của suy nghĩ thay vì bị vướng mắc vào nội dung của chúng.

Trong giáo lý nhà thiền, chúng ta thường hay đề cập đến sự nguy hiểm của việc nhận những hiện tượng đang xảy ra làm mình. Sự nhận diện sai lầm ấy sẽ giam giữ ta trong khuôn khổ tình trạng của chính mình. Muốn hiểu được điều này, bạn hãy quan sát sự khác biet giữa khi ta bị vướng mắc vào tư tưởng và khi ta có một chánh niệm rõ ràng về chúng.

Những khi chúng ta bị lạc trong sự suy nghĩ của mình thì sự nhận diện sai lầm này rất là kiên cố. Chỉ chừng một khoảnh khắc thôi, tư tưởng sẽ có thể tràn ngập và lôi cuốn ta trôi xa thực tại hàng ngàn dặm. Chúng ta nhảy lên một chuyến xe của sự liên tưởng mà không hề ý thức được mình đã lên xe, và dĩ nhiên cũng không biết nó sẽ đưa mình về chốn nào. Rồi đến một lúc, ta giật mình tỉnh dậy và thấy rằng ta đang suy nghĩ miên man, rằng ta đã chu du đến một nơi xa xôi nào đó... Khi ta “xuống xe”, có thể nơi ấy là một trạng thái tinh thần hoàn toàn khác biệt với lúc ta khởi hành. Bạn thấy không, khi ta không ý thức được rằng mình đang suy nghĩ, tư tưởng sẽ mang ta phiêu du qua biết bao nhiêu thế giới xa lạ!

Như thế, tư tưởng là gì? Vì lý do gì mà khi ta không ý thức được về nó thì nó lại có một mãnh lực điều kiện hóa cuộc sống của ta đến thế? Và nó lại hoàn toàn biến mất trong khoảnh khắc ta vừa chú ý đến? Chúng ta phải đối phó với những tư tưởng diễu hành liên tục trong tâm này như thế nào?

Bây giờ, bạn hãy bỏ ra vài phút và nhìn thẳng vào những tư tưởng nào đang có mặt trong tâm, ngay giây phút này. Đây là một bài tập, cho nên bạn có thể nhắm mắt lại và tưởng tượng như mình đang ngồi trong một rạp hát và nhìn lên một màn ảnh trống không. Chỉ đơn giản chờ những tư tưởng khởi lên. Vì bạn chẳng làm gì khác hơn là chờ đợi, nên bạn sẽ nhanh chóng ý thức được những tư tưởng nào sinh khởi. Chúng thực sự là gì? Sau khi ghi nhận được chúng thì việc gì sẽ xảy ra? Tư tưởng cũng giống như những món đồ của một nhà ảo thuật, chung có vẻ rất thật khi ta bị lôi cuốn, mê hoặc, nhưng vừa khi ta khám xét kỹ lưỡng thì chúng lập tức biến mất!

Nhưng còn những tư tưởng mạnh có khả năng chi phối ta thì sao? Trong khi ngồi thiền ta theo dõi, theo dõi và theo dõi chúng, rồi đột nhiên - vụt một cái - mất hết, ta bị mắc kẹt vào một ý nghĩ. Thế là nghĩa lý gì? Những tâm thức nào, những loại ý nghĩ nào lại có khả năng bắt dính ta hết lần này đến lần khác, và khiến ta quên rang chúng chỉ là những hiện tượng trống rỗng đi ngang qua mà thôi?

Đức Phật dạy rằng chúng ta được tạo nên, uốn nắn và sai xử bởi chính ý nghĩ của mình. Nếu đó là sự thật thì chúng ta cần theo dõi chúng một cách cẩn thận, xem ta mắc kẹt chỗ nào, cái gì đã quyến rũ ta, bắt ta nhận chúng làm mình để rồi tạo nên khổ đau? Một điều bất ngờ là chính ta đã vô tình ban cho những tư tưởng ấy một quyền hạn vô cùng, chúng bắt ta phải “làm cái nay, nói như thế này, nhớ đến điều này, tính toán như thế này, phê phán như thế kia...” Nhiều khi có thể làm ta điên lên được!

Chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào và bị chúng sai xử ra sao, việc ấy tùy thuộc vào sự hiểu biết của ta về những gì đang xảy ra. Nếu chúng ta có thể an trú trong hiện tại và nhìn thấy được sự sinh diệt của tư tưởng, thì bất cứ loại tư tưởng nào xảy lên cũng không quan hệ. Vì bản chất của chúng là trống rỗng, là vô ngã, và đôi khi chúng ta còn có thể nhìn thấy được tự tính vô thường của chúng nữa. Từ đó, cái mãnh lực có thể làm rung chuyển cả thế giới, mà đã từng tạo nên và sai khiến ta, sẽ trở thành một năng lượng nhỏ nhoi, không còn đủ sức để tạo nổi một gợn sóng lăn tăn trong ta. Chúng như những hạt sương buổi sáng sẽ tan nhanh dưới ánh mặt trời.

Nhưng trong cuộc sống hằng ngày, đâu phải lúc nào ta cũng có thể ngồi yên theo dõi tư tưởng của mình. Chúng ta có thể bị dính mắc hoặc bắt buộc phải suy nghĩ để quyết định một việc gì trước khi hành động. Trong cả hai trường hợp, điều chủ yếu là chúng ta phải nhận thức rõ ràng được giữa tư tưởng thiện và bất thien, để biết những việc nào nên thực hiện và việc nào không. Vì tư tưởng bao giờ cũng có một ảnh hưởng nghiệp quả rất lớn. Chúng là đầu mối dẫn dắt ta. Ý nghĩ sẽ đưa đến hành động, rồi từ hành động sinh ra mọi hậu qua. Chúng ta nên đầu tư vào những loại tư tưởng nào? Công việc của ta là nhận diện chúng rõ ràng để có thể chọn những điều nào nên thực hiện và những điều nào hãy để yên.

Việc nhận diện tư tưởng đòi hỏi một năng lượng chánh niệm lớn, vì ý nghĩ khó nắm bắt vô cùng. Nếu ta theo dõi chúng chỗ này, chúng sẽ len lỏi biến sang một nơi khác. Nhưng khi sự tu tập của ta tiến triển, có hai điều kỳ diệu sẽ xảy ra. Thứ nhất, tâm ta sẽ thực sự trở nên tĩnh lặng hơn. Thay vì như một dòng nước lũ cuồn cuộn chảy, những tư tưởng sẽ khởi lên ít hơn, và nhờ vậy mà ta sẽ có được một cảm thọ an tĩnh và thanh thản hơn. Thứ hai, khả năng quán chiếu của ta sẽ trở nên bén nhạy và kiên cố hơn. Ta có thể nhận diện những tư tưởng một cách rõ ràng hơn và ít bị chúng lôi đi một cách vô ý thức. Khi thôi nhận tư tưởng làm mình và không còn ban cho chúng chủ quyền nữa, tâm ta sẽ an trú trong một trạng thái thanh thản, giản dị và an lạc.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 25: Quan điểm và ý kiến Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Nếu bạn theo dõi tư tưởng một cách sâu sắc, bạn sẽ nhận thấy rằng chúng ta thường có khuynh hướng chấp giữ một loại tư tưởng làm mình. Loại tư tưởng mà tôi muốn nói ở đây là quan điểm và ý kiến. Nhưng chúng ta cũng cần nên phân biệt rõ ràng giữa việc có quan điểm và ý kiến với việc cố chấp vào chúng. Vì khi người ta thấy rằng sự cố chấp có thể tạo nên những chia rẽ và xung đột thì họ vội vàng kết luận rằng phải buông bỏ hết mọi quan điểm của mình. Nhưng việc ấy sẽ đưa ta đến một tình trạng nan giải, vì sự buông bỏ ấy hoàn toàn không thể nào thực hiện được.

Vấn đề giải thoát ở đây là làm sao ta đừng cố chấp vào ý kiến của mình, đừng bao giờ có những thành kiến kiểu “như đinh đóng cột”. Làm thế nào ta thực hiện được việc ấy? Muốn nhận thấy được sự cố chấp vào những quan điểm này, bạn hãy thử chú ý đến những trạng thái cảm xúc của mình trong đời sống hằng ngày. Trong một ngày, ta có thể suy nghĩ về nhiều vấn đề khác nhau, rồi đột nhiên sẽ có một ý kiến cố định về một cá nhân hoặc một hoàn cảnh nào đó khởi lên, và ta cố chấp vào đó, tin chắc rằng nó là sự thật.

Khi ta cố chấp vào những ý kiến ấy, thay vì đơn giản thấy được chân tướng của chúng chỉ là những tư tưởng sinh lên rồi diệt đi, tâm ta sẽ siết chặt nó lai. Cũng giống như một lời buộc tội, một ý thức cho rằng mình là phải, là đúng. Và cũng chính vì vậy mà ta bị giam hãm trong một không gian nhỏ hẹp của tiểu tâm, của sự đối đãi, phân chia.

Nếu chúng ta ý thức được lúc nào tâm ta bắt đầu sự cố chấp, khi nào ta bắt đầu phê phán, buộc tội, thì điều đó có thể trở thành một dấu hiệu báo cho ta biết rằng mình đã chuyển từ việc có một ý kiến sang việc bị dính mắc vào nó. Chúng ta có the sử dụng “máy ra-đa” chánh niệm để nhận thấy những dấu hiệu của khổ đau, dính mắc ngay khi chúng vừa khởi lên.

Cũng như bất cứ một sự luyện tập nào khác, hệ thống báo động này sẽ càng lúc càng được hoàn mỹ hơn nếu ta sử dụng nó thường xuyên. Mọi việc có thể đang trôi chảy thuận buồm xuôi gió, rồi đột nhiên bạn nhận thấy một dấu chấm lạ xuất hiện trên màn ảnh ra-đa của chánh niệm. Bạn cảm nhận trong thân tâm mình đang có một cam giác đông cứng chung quanh một sự việc gì đó. Chính ngay lúc ta nhận diện được dấu chấm ấy là khi ta phải dừng lại. Dấu hiệu đó là một món quà vô giá: nó báo cho ta biết rằng có một việc gì đang xảy ra và ta bị mắc ket.

Khi chúng ta không còn cố chấp vào ý kiến và quan điểm của mình nữa, ta sẽ trở nên tự do hơn. Ta sẽ quan sát mọi hoàn cảnh một cách bình thản hơn. Chúng ta sẽ có thể lắng nghe được quan điểm của người khác, và nhờ đó mà bất cứ tình trạng nào cũng có thể trở nên cởi mở và dễ dàng cảm thông hơn.

Vì vậy mà vấn đề giải thoát không bao giờ là hiện tượng ồn ào, có pháo nổ hoa đăng. Nó là tiến trình chậm rãi từng bước một, tháo gỡ dần dần từng chút một những gút mắt trong tâm ta.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 26: Lời phán xét thứ 500 Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Ý kiến và quan điểm, nếu kiên cố quá sẽ trở thành một sự phán xét. Và đây cũng là một trong những yếu tố có thể điều kiện hóa kinh nghiệm của ta. Chúng ta tự phán xét mình và phán xét người khác, ít khi để cho một sự kiện nào đi qua mà không phê phán. Mặc dù loại tư tưởng này hoạt động rất thầm lặng trong cuộc sống bận rộn hằng ngày, nhưng nó sẽ hiện lên thật rõ rệt khi chúng ta theo dõi tâm trong lúc ngồi thiền. Nhiều lúc ta có cảm tưởng như là tâm mình không còn làm việc gì khác hơn là phê phán!

Có lẽ, cũng như mọi người khác, ta đã bị cái tâm phán xét không ngừng ấy làm khốn khổ không ít. Nhưng bạn nên nhớ rằng, trong sự tu tập ta bao giờ cũng chú trọng vào việc thay đổi mối tương quan giữa ta với vấn đề hơn là cố thay đổi chính vấn đề ấy. Sau đây là ba phương pháp mà ta có thể áp dụng để thay đổi mối tương quan giữa ta với tâm phán xét. Có một vài phương pháp là “cây nhà lá vườn”, nên bạn sẽ không tìm thấy chúng trong kinh điển. Tôi đã phát kiến ra những phương pháp ấy trong thời gian phải tranh đau với “những đợt tấn công của tâm phán xét” trong sự tu tập của chính tôi.

Một lần, khi đang thiền tập trong một khóa tu, tôi đã kinh nghiệm được sự khó chịu của tâm phán xét này thật rõ ràng. Lần đó tôi đang ngồi trong phòng ăn của trung tâm tu học, từ vị trí ấy tôi có thể nhìn thấy mọi người đi ra vào lấy thực phẩm. Mặc dù bề ngoài thì tôi có vẻ như đang chú tâm vào miếng ăn của mình, nhưng ánh mắt tôi để ý đến tất cả mọi việc xảy ra chung quanh. Tôi rất ngạc nhiên khi nhận thấy rằng tâm tôi có từng lời phán xét cho mỗi người đi vào phòng ăn.

Tôi không thích cách người ta đi đứng thiếu chánh niệm, hoặc là số lượng thực phẩm người ta lấy, hoặc là cách người ta ăn uống, hoặc là cách ăn mặc của họ... Tôi cảm thấy vô cùng khó chịu khi thấy mình có biết bao nhiêu lời phê phán ngập tràn trong tâm. Điều tôi kể bạn nghe có quen thuộc không?

Phản ứng đầu tiên của tôi đối với sự khám phá mới đó là đâm ra bực tức với chính mình. Trước hết, tôi lên án tất cả những lời phê phán ấy là “bất thiện”, rồi lại tự cho mình là xấu vì đã có những ý nghĩ như thế. Nhưng sau một thời gian, tôi hiểu rằng quay sang phán xét sự phán xét cũng chẳng ích lợi gì!

Phương pháp đầu tiên mà tôi dùng để đối phó với tâm phê phán là sử dụng chánh niệm. Với chánh niệm, tôi cố gắng ghi nhận thật rõ sự biểu hiện của tâm phê phán như thế nào, thấy được những tầng lớp tiếp nối nhau của tư tưởng với một ý thức sáng tỏ. Khi áp dụng chánh niệm như vậy, tôi nhận thấy rằng ta sẽ trở nên bớt dính mắc vào chúng hơn.

Nhưng trong những trường hợp đặc biệt, đôi khi ta cũng cần phải có những biện pháp hơi khác thường một chút. Thế cho nên tôi có phát kiến thêm hai phương pháp khác nữa để đối phó với tâm phán xét. Trước hết, tôi bắt đầu đếm những ý nghĩ phê phán khi chúng vừa khởi lên. Mỗi khi có một ý tưởng phê phán nào trong tâm, tôi đếm: “Phê phán 1, phê phán 2, phê phán 3... phê phán 500...” Cho đến một lúc, tôi phải phá lên cười. Tôi bắt đầu nhìn những tư tưởng “bất thiện” ấy bằng một ánh mắt thư thái hơn, không tin vào chúng và cũng không phản ứng chống cự lại chúng. Một tư tưởng phán xét khởi lên, ta có thể nhận diện nó, mỉm cười và rồi buông bỏ nó. Thật là một làn gió tươi mát thổi vào tâm ta.

Phương pháp thứ hai tôi sử dụng những khi có nhiều tư tưởng phán xét khởi lên liên tục và nhanh chóng là kèm theo sau mỗi lời phê bình câu “bầu trời màu xanh.” Chg hạn, “Anh chàng đó lấy nhiều đo ăn quá - bầu trời màu xanh.” “Tôi không ưa cách họ đi đứng - bầu trời màu xanh.”... “Bầu trời màu xanh” là một ý nghĩ có tính chất trung hòa, nó đến và đi mà không gây nên một phản ứng nào trong tâm. Khi cộng nó thêm vào cuối mỗi câu phê bình, nó nhắc nhở tôi rằng hãy để cho sự phê phán của mình đi qua như là ý nghĩ về “bầu trời màu xanh” vậy, vô thưởng vô phạt!

Thế nên, thay vì chống cự hoặc tranh đấu với sự phê phán của mình, hoặc bất cứ một loại tư tưởng nào khởi lên thường xuyên khác, chúng ta có thể học cách không phản ứng, không để cho chúng làm khó chịu, và nhiều khi còn có thể mỉm cười với chúng.

Bạn hãy thử thí nghiệm với một ý tưởng nào từng làm cho bạn khó chịu nhất. “Tự thù ghét 1, tự thù ghét 2... tự thù ghét 590... tự thù ghét 10.000...” Rồi đến một lúc bạn sẽ bắt đầu mỉm cười. Sự thật là như vậy!

Và nụ cười ấy báo hiệu một sự chuyển hóa vô cùng quan trọng trong mối tương quan giữa bạn với những vấn đề khó khăn. Những vấn đề ấy hoàn toàn trống rỗng, chúng không là của ai, vì chúng cũng không có một gốc rễ nào. Chúng được nuôi dưỡng nhờ vào sự liên he với ta. Cũng chính vì ta không ưa nó mà nó tiếp tục xuất hiện. Đến khi ta thôi không còn ghét bỏ một việc nào thì sẽ không có gì là vấn đề nữa.

Trong kinh nghiệm tu tập, tôi đã từng theo dõi những cốt truyện kinh hoàng nhất trong tâm trí mình. Được rồi, thì chúng đang có mặt, sinh lên và sẽ diệt đi. Nếu ta biết đối xử với chúng một cách bất bạo động, không để bị đồng hóa, thì nội dung của chúng không có gì là quan trọng. Ta sẽ có được một sự tự do lớn khi ý thức rằng: Dưới sự quán chiếu của chánh niệm, nội dung của chúng hoàn toàn là vô nghĩa.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 27: Tính tự phụ và tâm so sánh Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Một phương pháp hữu hiệu khác để trau luyện tư tưởng là chú ý đến tính tự phụ. Trong tâm lý học Phật giáo, “tự phụ” có một nghĩa đặc biệt: nó là một tâm hành tự so sánh mình với người khác. Những khi chúng ta cho rằng mình tốt hơn, bằng hoặc thua sút một người nào, đó là chúng ta đang biểu lộ tính tự phụ. Sở dĩ ta gọi tâm tính ấy là tự phụ là vì tất cả những tướng trạng của chúng - dù đó là “Tôi tốt hơn”, “Tôi kém hơn,” hay “Tôi cũng chỉ như thế” - đều phát xuất từ ảo tưởng về một cái ngã. Thật ra, chúng chỉ là những cảm giác về một cái ngã, cái tôi mà thôi.

Có một điều đáng buồn và cũng có một điều đáng mừng liên quan đến tính tự phụ. Thật ra thì hai việc ấy chỉ là một mà thôi, đó là sự tự phụ sẽ không bao giờ có thể bị nhổ tận gốc rễ, trừ khi ta đạt đến một sự giác ngộ viên mãn. Cho dù một ngày nào đó, ta có thể thấy được sự thật rằng tự tính của mọi kinh nghiệm là vô ngã, không có một cái “tôi” nào đứng phía sau những kinh nghiệm, nhưng tập quán của tâm so sánh vẫn sẽ còn tiếp diễn mãi. Cho dù chúng ta hiểu được rằng tính tự phụ tự nó không phải là “tôi”, nhưng nó vẫn cứ tiếp tục hiện hữu cho đến ngày nào ta đạt được giác ngộ hoàn toàn. Vì vậy cho nên việc đáng buồn là tâm tự phụ có lẽ sẽ còn ở với ta dài lâu lắm.

Còn điều đáng mừng là ta đừng bao giờ nản lòng hoặc tư chỉ trích mỗi khi cảm thấy mình có một sự tự phụ. Vì dù sao thì loại tư tưởng này cũng sẽ còn ở với ta lâu dài, cho nên biết làm bạn với nó thì bao giờ cũng tốt hơn. Khi có những ý nghĩ so sánh khởi lên, ta có thể nhan diện chúng - “Ồ, cũng lại là nó” - mà không chút ngạc nhiên. Khi đã nhận diện và hiểu được chúng rồi, ta sẽ có thể bắt đầu chấp nhận.

Liều thuốc giải độc cho tính tự phụ là sống trong chánh niệm và thấy được tính chất tạm thời của nó. Những khi tâm ta bị mắc kẹt vào sự so sánh tức là ta đang bị vướng mắc vào ý niệm về nhân và ngã. Ta tự trói buộc mình vào một ảo tưởng, vào trong giới hạn của ý niệm về ta và người khác. Sở dĩ chúng ta có một sự so sánh như vậy là vì ta không thấy được rằng tất cả mọi hiện tượng, trong đó có cả ý tưởng về ta và người khác, đều đang sinh lên và diệt đi không ngừng nghỉ. Cũng vì không thấy được tính chất vô thường của những tư tưởng ấy mà ta bị sa vào chiếc bẫy nội dung của chúng. Tâm so sánh sẽ tan biến tức thì khi ta nhìn thẳng vào nó bằng con mắt chánh niệm.

Tôi còn nhớ một kinh nghiệm về tâm so sánh này khi lần đầu tiên tham dự khóa tu thiền với một vị thầy Miến Điện, ngài U Pandita Sayadaw. Đó là lần đầu tiên ngài viếng thăm Hoa Kỳ để hướng dẫn một khóa tu rất nghiêm túc và gắt gao. Chúng tôi ai cũng hơi lo lắng vì không biết nhiều về vị sư từ Á châu này và cũng muốn tu tập hết sức mình. Chúng tôi đã làm việc khá cực nhọc trong một hoàn cảnh rất nhiều đòi hỏi.

Sau một vài tuần, tôi để ý thấy có một vài thiền sinh ghi chép những điều gì đó vào so tay của họ. Và rồi mỗi ngày tiếp theo lại có thêm người mới sử dụng sổ tay. Điều này rất khác thường trong một khóa thiền tập theo truyền thống vipassana, vì lúc nào vị thiền sư cũng yêu cầu tất cả mọi người không nen đọc hay viết trong suốt khóa tu. Và cũng vì mọi người phải tuyệt đối giữ im lặng, cho nên tôi cũng chẳng dám hỏi họ lý do.

Tâm tôi bắt đầu suy nghĩ: “Chắc chắn là ngài U Pandita đã bảo những người ấy làm như vậy. Không biết đến chừng nào ngài sẽ bảo mình đây?” Rồi thì tôi bắt đầu để ý thấy những người sử dụng sổ tay toàn là những người mà tôi đã sắp vào hạng thiền sinh giỏi. Ngày qua ngày, tôi vẫn đi vào gặp ngài U Pandita để trình pháp, nhưng ngài chẳng nói gì với tôi về chuyện sổ tay hay là giao phó cho một bài thiền tập nào khác thường hết. Tôi bắt đầu cảm thấy thua sút và thiếu kém. Chắc chắn rằng tôi không phải là một trong những thiền sinh “giỏi” rồi!

Sau một thời gian, tất cả mọi người ai ai cũng bắt đầu viết trong sổ tay của họ, ngay cả những người mà tôi cho rằng không được giỏi lắm. Lúc đó tôi lại tự nghĩ rằng: “Chắc có lẽ sự tu tập của mình tiến bộ nhiều nên mình không cần đến sổ tay làm gì!”

Tâm tôi nhảy tới lui giữa hai quan điểm - thiền sinh giỏi, thiền sinh dở, thiền sinh loại nào? Những việc ấy làm tôi gần như điên lên được. Đến cuối khóa thiền, tôi khám phá ra rằng ngài U Pandita không hề yêu cầu ai giữ một quyển sổ tay nào hết! Người ta làm như vậy vì họ muốn ghi nhớ những kinh nghiệm của mình, để có thể trình lại cho ngài một cách chính xác mà thôi.

Vì vậy mà nhận diện được tâm so sánh ấy là một điều rất hữu ích. Cái tính tự phụ cho rằng “Tôi tốt hơn” hay “Tôi dở hơn” người khác, khi không được nhận diện rõ ràng sẽ trở thành nguyên nhân của khổ đau. Tính tự phụ luôn luôn phân cách, ngăn chia ta với người khác, và củng cố thêm cái tôi nhỏ hẹp của mình.

Khi ta có chánh niệm về những cảm thọ và ý nghĩ so sánh này, ta có thể làm bạn với chúng mà không sợ bị dính mắc hoặc đồng hóa. Lúc ấy, tâm tự phụ sẽ tự nhiên trở thành những tư tưởng trống rỗng, ta không cần phải bác bỏ hoặc tin vào chúng nữa. Tất cả sẽ đi qua như những chiếc lá rơi lả tả trong gió mùa thu, và bầu trời tâm ta lúc nào cũng an nhiên và tự tai.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 28: Giải thoát những cảm xúc Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Làm sao để có thể đối phó hữu hiệu với mọi hình thức của tư tưởng - như là ý kiến, phê phán và so sánh - là vấn đề chủ yếu và một thách đố rất lớn trong sự tu tập. Và còn một thử thách khác, có lẽ lớn lao hơn nữa, là học cách uyển chuyển khéo léo theo đời sống cảm xúc.

Trong mọi lãnh vực của kinh nghiệm, từ thiền tập cho đến cuộc sống hằng ngày, cảm xúc bao giờ cũng là một phần rất khó hiểu và ta khó tránh khỏi sự dính mắc vào chúng. Sự khó khăn này có hai nguyên nhân. Thứ nhất, cảm xúc chỉ là một biểu hiện trong tâm, không có hình thể nào nhất định. Chúng không có một biên giới rõ rệt, cũng không có một cam nhận nhất định nào về sự bắt đầu và chấm dứt. Cảm xúc không xác thực như là cảm giác, nó cũng không được định nghĩa rõ ràng như tư tưởng. Ngay trong những khi chúng ta cảm nhận chúng thật mạnh mẽ, ta cũng không thể phân biệt chúng một cách minh bạch.

Chướng ngại thứ hai là sự kiện chúng ta đã bị điều kiện hóa quá nặng nề đến mức nhận chúng là mình. Khi bạn đang có những cảm xúc mạnh mẽ như là yêu, giận, kích thích hay buồn chán... bạn hãy để ý đến ý tưởng kiên cố về một cái “tôi” lúc nào cũng đi kèm. Nhìn thấy được tự tính vô thường và rỗng tuếch của những cảm giác ở thân và ngay cả ở tư tưởng, việc ấy tương đối còn dễ dàng hơn, vì chúng đen và đi rất nhanh; nhưng thấy được tự tính vô ngã của cảm xúc, điều ấy mới thực sự là khó! Sự thật thì đối với đa số chúng ta, ý niệm về một cảm xúc không có chủ nhân là một điều điên rồ, ngu xuẩn, là một sự kiện hết sức mâu thuẫn. Vì cảm xúc bao giờ cũng đã được xem như là một đặc tính cá nhân và rất riêng tư của mỗi người chúng ta.

Như vậy thì có một phương cách nào khác để giúp ta hiểu được cái địa hình phức tạp, cầu kỳ và biến thiên của thế giới cảm xúc này không? Tôi nghĩ có ba bước có thể giúp ta làm được việc ấy.

Bước đầu tiên là làm sao nhận diện được chính xác mỗi cảm xúc khi nó vừa khởi lên và thấy được những sự khác biệt tinh tế của chúng. Có một lúc, trong khi tu tập tôi đã trải qua một giai đoạn cảm thấy buồn vô cùng. Cảm xúc ấy kéo dài nhiều ngày. Tôi quan sát nó trong chánh niệm, ghi nhận “buồn, buồn...” nhưng hình như vẫn có một sự gì đó trong kinh nghiệm ấy cứ dính mãi với tôi.

Sau một thời gian, tôi bắt đầu theo dõi cảm xúc ấy kỹ lưỡng hơn, quan sát nó cặn kẽ hơn. Sau cùng tôi khám phá ra rằng đó không phải là một nỗi buồn nào hết, nó thật ra chỉ là một cảm thọ bất an. Đặc tính của hai cảm thọ ấy bề ngoài có vẻ rất giống nhau, nhưng khi ta quan sát cho thật chính xác, chúng lại hoàn toàn khác biệt. Vừa khi tôi nhận diện được việc gì đang thực sự xảy ra, cơn sóng của nỗi buồn đó cũng bắt đầu lắng dịu. Chúng ta sẽ không thể nào chấp nhận được một cảm xúc hoàn toàn, trừ khi nào ta có thể nhìn thấy được nó một cách đúng thật, và cũng vì vậy mà ta bị cách xa thực tại và rồi cuối cùng cảm thấy như mình bị mắc kẹt.

Cũng có đôi khi vì những cảm xúc quá khó chịu, quá đau đớn mà ta không cho phép mình chấp nhận chúng. Ta tìm đủ mọi cách, ý thức hoặc vô ý thức, để khỏi phải đối diện với chúng. Cái tập quán phủ nhận ấy có thể xảy ra đối với những cảm xúc như là sợ hãi, hổ thẹn, lo lắng, cô đơn, thịnh nộ, buồn chán, ngượng ngùng... và còn nhiều nữa. Chúng ta cố gắng bằng đủ mọi cách, mọi phương pháp mình có thể nghĩ ra, để thay đổi hoàn cảnh thay vì chỉ đơn giản là sống với cảm thọ ấy.

Chúng ta phải bận rộn làm bao nhiêu việc để khỏi cảm thấy sợ hãi hoặc trống vắng, cô đơn trong cuộc sống này? Chỉ vì không biết mở rộng ra với mọi phạm vi của cảm xúc, không thấy được rằng chúng tự sinh và tự diệt, mà chúng ta bị thúc đẩy có những hành động không chắc gì sẽ đem đến hạnh phúc, nhưng lại giam giữ ta trong cuộc trốn chạy khổ đau không ngừng ấy. Biết bao nhiêu loại nghiện ngập nguy hại có thể được ngăn ngừa nếu ta biết cách tiếp xúc với những cảm thọ khó chịu hoặc đau đớn của mình. Nhận diện và chấp nhận những cảm xúc của mình khi chúng khởi lên, nhất là nhưng khổ thọ, sẽ giúp ta mở rộng tâm mình ra để có thể kinh nghiệm được điều mà các tu sĩ ngàn xưa thường gọi là vạn niềm vui và vạn nỗi khổ.

Một vấn đề khác trong việc nhận diện cảm xúc là ta phải thấy được rằng, nhiều khi chúng khởi lên thành nhóm giống như dải ngân hà vậy. Thường thì chúng ta có thể ý thức được một cảm xúc nào đang nổi bật nhất, nhưng lại bỏ sót những cảm xúc tinh tế khác tiềm tàng bên dưới. Và chính những cảm xúc bị bỏ quên ấy lại nuôi dưỡng cái bên trên như một dòng nước ngầm. Ví dụ, ta có thể cảm thấy rất giận dữ và có chánh niệm về cái giận ấy, nhưng ta lại không thấy được cái cảm xúc nghĩ rằng mình đúng đang tiềm tàng ở phía bên dưới. Ngày nào ta vẫn chưa ý thức được những trạng thái đồng minh ấy, các cảm xúc thân hữu đi kèm theo nó, ta sẽ còn bị kẹt vào những khổ thọ ấy lâu dài lắm.

Nhận diện rõ ràng và biết chấp nhận những cảm xúc khác nhau khi chúng khởi lên sẽ dẫn ta đến bước thứ hai trong việc đối phó với những cảm xúc mạnh. Văn hóa Tây phương vô tình thường xem nhẹ phương pháp thứ hai này, mặc dù nó là một trong những nền tảng của hạnh phúc trong cuộc sống chúng ta. Tôi muốn nói đến khả năng phân biệt sáng suốt giữa những cảm xúc thiện và bất thiện. Phương thức phân biệt này rất đơn giản: Cảm xúc hoặc trạng thái này của tâm sẽ gây nên khổ đau cho ta và người khác, hay tạo nên hạnh phúc và an lạc?

Trong tâm ta có những trạng thái rất là hiển nhiên: thiện và bất thiện. Chữ thiện trong Phật giáo chỉ về những việc nào dẫn ta đến hạnh phúc, tự do; và bất thiện là những việc nào sẽ đưa ta đến khổ đau. Trong chúng ta ai cũng đồng ý rằng tham, sân, si là những trạng thái không ai muốn, và từ bi, bao dung, cảm thông là những đức tính quý báu. Đôi khi, sự khác biệt của chúng rất tinh tế và khó phân biệt, nhất là khi những cảm xúc hoặc trạng thái bất thiện của tâm lại trá hình dưới những hình thức thiện. Chúng ta rất có thể nhận lầm một nỗi ưu sầu, thương tiếc hoặc ngay cả sỉ nhục là cảm xúc từ bi. Hoặc ta có thể lẫn lộn cảm xúc lãnh đạm, dửng dưng với một sự bình thản, tĩnh lặng. Chúng có vẻ giống nhau, nhưng thật ra là có bản chất rất khác biệt và gây ra những hậu quả hoàn toàn khác nhau.

Trong xã hội, chúng ta thường được khuyên là phải biết tôn trọng những cảm xúc của mình. Điều ấy đúng về phương diện là ta phải biết nhận diện, chấp nhận và cởi mở đối với chúng. Nhưng nếu chỉ có bấy nhiêu thôi thì chưa đủ. Chúng ta cần phải tiến thêm một bước nữa, quán chiếu xem tâm thức ấy là thiện hay bất thiện. Nó sẽ mang lại cho ta an lạc và tự do hay chỉ gây thêm khổ đau? Chúng ta thực sự muốn nuôi dưỡng nó hay cần buông bỏ nó? Bao giờ chúng ta cung có một sự chọn lựa, mặc dù rất nhiều khi chúng ta vô tình bỏ qua cơ hội quý báu ấy.

Sự phân biệt sáng suốt đó sẽ đem lại cho ta một quyền lực vô song. Chúng ta không ai có thể chọn lựa được loại cảm xúc nào sẽ khởi lên trong tâm. Nhưng một khi chúng có mặt rồi, ta hoàn toàn tự do trong việc chọn mối tương quan giữa ta với chúng. Nếu ta không ý thức được cảm xúc nào đang có mặt, hoặc không biết rõ nó là thiện hay bất thiện, ta se tiếp tục phản ứng theo tập quán cố hữu của mình. Và rồi ta sẽ cứ mãi vướng mắc trong khổ đau mặc dù đang đi tìm hạnh phúc. Ý thức được những điều này, chúng ta sẽ có thể tạo cho mình một cơ hội để chọn lựa sáng suốt và có được một sự tự do trong nội tâm.

Bước thứ ba vừa khó khăn nhất mà cũng vừa có công năng giải thoát nhất. Bước này là tập làm sao để ta vẫn có thể mở rộng với mọi cảm xúc mà không bị chúng đồng hóa. Đồng hóa với cảm xúc - khi ta nhận nó là mình - là một việc dư thừa. Hãy ghi nhận cảm giác thu nhỏ lại mỗi khi bạn tự đồng hóa mình với một cảm xúc nào đó mà bạn đang kinh nghiệm: “Tôi giận,” “Tôi buồn,” “Tôi vui,” “Tôi lo au.” Những giây phút bị đồng hóa ấy là một tập quán cộng thêm vào, một ước lệ đã gây nên biết bao điều khó xử, khổ đau trong cuộc sống của ta.

Dưới cái nhìn của một thiền sinh thì tất cả mọi trạng thái của tâm thức, trong đó có cả cảm xúc, đều sinh lên và diệt đi mà không có một thực chất nào cả. Chúng hoàn toàn rỗng tuếch. Chúng phát khởi khi nào có đầy đủ điều kiện, đủ duyên, và tàn hoại khi những hợp duyên này tan rã. Những cảm xúc ấy không tùy thuộc bất cứ một người nào hoặc xảy đến cho bất cứ một ai.

Trong thực tế thì mỗi trạng thái của tâm thức, hoặc cảm xúc, tự nó biểu lộ chính nó. Lòng tham dục là chủ thể tham dục, tâm sợ hãi là chủ thể sợ hãi, tình yêu là chủ thể thương yêu... Nó không phải là bạn, cũng không phải là tôi. Bạn có thấy được sự khác biệt giữa cái kinh nghiệm của “Tôi giận” và kinh nghiệm của “Đây là sự giận dữ” không? Trong sự khác biệt nhỏ bé ấy, cả một thế giới tự do bừng mở. Dĩ nhiên, điều quan trọng là ta đừng bao giờ sử dụng ý niệm vô ngã như một phương tiện để chối bỏ. Vì vô ngã phát xuất từ sự chấp nhận và thành thật với chính mình.

Cũng như trong kinh điển Phật giáo Tây Tạng có diễn tả, tâm thức hay cảm xúc giống như mây bay qua bầu trời, chúng không có quê hương, không có cội nguồn. Nhận một cảm xúc là mình thì cũng giống như trói buộc một áng mây. Chúng ta có thể học cách giải thoát mọi cảm xúc, và để cho mọi hiện tượng thanh thản tự nhiên trôi qua bầu trời mênh mông của tâm.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 29: Cảm xúc nô lệ, cảm xúc giải thoát Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Bạn có thể hỏi rằng: “Vâng, tôi thấy được giá trị của việc không đồng hóa với cảm xúc, không nhận chúng là ‘tôi’, nhưng làm sao tôi có thể thực hiện được việc ấy?”

Tôi đồng ý với bạn, thực hiện việc ấy không phải dễ. Vì ta rất dễ bị dính mắc vào những cảm xúc, bị lôi cuốn bởi năng lượng của chúng, lạc trong sự suy nghĩ về chúng. Và trong sự dính mắc ấy, ta lại tạo nên một ý thức kiên cố về một “cái tôi”: “Tôi giận quá!”, “Tôi buồn quá!”... hoặc gì gì đó.

Sự tu tập của ta là để lúc nào cũng có thể cởi mở với mọi cảm xúc mà không hề cộng thêm vào đó một ý niệm nào về “tôi”, về “của tôi”. Đó là một thách thức rất lớn. Có một phương pháp giúp ta được vững vàng trong cơn bão tố của cảm xúc. Đó là nhìn thấy được ba thành phần của nó.

Ví dụ, khi chúng ta nổi giận, thứ nhất là phải có một hoàn cảnh nào bên ngoài kích thích làm cho cơn giận khởi lên. Có người nào đó làm hoặc nói một điều gì mà ta không thích, hoặc ta cảm thấy nguy hại cho mình hay người khác. Thứ hai là phản ứng của ta đối với hoàn cảnh đó, hay nói cách khác là ta có một cơn giận. Và thứ ba là mối tương quan giữa ta với cơn giận ấy.

Thường thì ta bị mắc kẹt nhiều nhất vào hai phần đầu: ngoại cảnh và phản ứng của ta đối với nó. Có một việc gì xảy ra, và ta nổi giận. Khi ta giận, ta bắt đầu suy nghĩ về chuyện đã xảy ra. Những tư tưởng ấy sẽ làm ta giận hơn, và khiến ta suy nghĩ về nó nhiều hơn nữa... Thường thì bao giờ cũng là những ý nghĩ trách cứ, tự bào chữa, và khổ đau. Vì vậy mà ta cứ lẩn quẩn trong một vòng tròn khổ đau không thoát ra được.

Nếu ta muốn tìm một lối thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn ấy, thì thay vì chú ý đến hoàn cảnh và phản ứng của mình, ta hãy chú tâm đến phần thứ ba, tức mối tương quan giữa ta với cảm xúc, có thể là một cơn giận, hay sự sợ hãi, hay bất cứ một cảm xúc nào khác... Ví dụ, giữa cơn lốc xoáy của một cơn giận bạn có thể tự hỏi: “Tôi đang bị mắc kẹt vào cơn giận này như thế nào? Tôi bị nó sai sử ra sao? Tôi đã đồng hóa với nó như thế nào?”

Khi đặt những câu hỏi như vậy , kết quả sẽ hoàn toàn khác hẳn với khi ta cố tìm hiểu nguyên nhân bên ngoài của nó. Vì lúc ấy chúng ta không còn tạo nên những sợi dây trách móc để tự trói buộc mình với ngoại cảnh, với phản ứng của ta, với cảm xúc ấy. Và vì không còn suy nghĩ về nguyên nhân của cơn giận, nên ta không còn nuôi dưỡng nó thêm nữa.

Nhưng bạn nên nhớ rằng không phải ta đặt câu hỏi để mong tìm một câu trả lời hay một sự giải đáp nào về mặt tri thức. Muc đích chỉ là giúp ta thay đổi cái nhìn của mình, biết chịu trách nhiệm về những gì đang xảy ra trong tâm. Khi ta đặt câu hỏi “Tôi bị mắc kẹt vào nó như thế nào?” là ta đã bước ra ngoài cơn giận và nhìn lại mối tương quan giưa ta với nó. Ngay giây phút đó, rất có thể khối giận ấy sẽ tan rã, không cần ta phải chối bỏ, đè nén hoặc xua đuổi nó.

Có một lần tại trung tâm thiền ở Barre, Massachusetts, tôi nổi giận với một người vì anh ta đã làm một việc mà tôi cho rằng rất là nguy hại. Cơn giận ấy rất là mãnh liệt, và tôi niệm thầm trong tâm: “Giận, giận, giận...” Toàn thân tôi bị chấn động mạnh. Việc ấy diễn ra trong suốt mấy tiếng đồng hồ. Mỗi khi tôi nghĩ về chuyện ấy, cơn giận lại trở nên dữ dội hơn.

Tôi đi ngủ với cơn giận ấy. Và năng lượng cùng với ảnh hưởng của nó trên thân thể đã đánh thức tôi dậy thật sớm. Tôi giật mình khi thấy rằng, tôi thức dậy với một cơn giận có cùng một cường độ như hôm trước. Tôi bắt đầu tự hỏi: “Chuyện gì đây? Tại sao tôi lại bị mắc kẹt vào cảm xúc này đến như vậy?” Ngay lúc đó, tôi không đặt câu hỏi một cách máy móc. Tôi thực sự muốn biết việc gì xảy ra, tại sao tâm tôi lại bị dính mắc và đồng hóa với cơn giận đến thế!

Ngay vừa lúc tôi đặt những câu hỏi ấy, chuyển hướng cái nhìn của mình, toàn thân tôi bỗng trở nên nhẹ nhàng, và cơn giận biến mất. Thật như là một phép lạ! Ngày hôm đó tôi lại nói chuyện với người đã làm tôi nổi giận. Chúng tôi đã có thể nói thẳng đến vấn đề một cách dễ dàng và hữu ích, vì cơn giận và sự trách móc không còn có mặt.

Thế nên, không phải ta trốn tránh việc đối diện với hoàn cảnh bên ngoài, nhưng nếu ta có thể làm cho tâm mình được thông suốt trước thì giải pháp cũng sẽ đến một cách tự nhiên.

Có lẽ lần đầu tiên khi bạn áp dụng phương pháp đơn giản này, không để bị đồng hóa với cảm xúc của mình, sẽ không được hoàn hảo lắm. Nhưng cũng như mọi sự tập luyện khác, chúng ta cần phải kiên tâm và có một sự ham muốn. Mỗi khi chúng ta chặt đứt được sợi dây xiềng xích của cảm xúc, ta sẽ kinh nghiệm được một sự tự do vô cùng, tâm ta sẽ trở lại thênh thang và biết chấp nhận như xưa.

Lần sau, nếu bạn có bị vướng mắc trong một cảm xúc mạnh mẽ, hoặc đau đớn, bạn hãy tự hỏi mình ba điều: “Hoàn cảnh bên ngoài là gì?”, “Tôi phản ứng ra sao, tôi cảm thấy như thế nào?”, và “Mối tương quan của tôi với cảm xúc này như thế nào? Tôi bị mắc kẹt ra sao?”

Từng bước một, qua từng trường hợp một, chắc chắn rồi một ngày chúng ta sẽ biết được thế nào là thực sự được tự do.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 30: Dùng cây dù của bạn Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính Có nhiều cách khác nhau để đối phó với những cảm xúc mạnh, nhất là khi ta không có thời gian hoặc không gian để theo dõi và quán chiếu nó. Đôi khi rút lui khỏi hoàn cảnh ấy lại là một giải pháp hữu hiệu nhất. Chúng ta lùi lại và chờ sự việc lắng dịu xuống. Nhưng nếu vấn đề vẫn cứ tiếp tục dai dẳng, lúc ấy ta sẽ trở lại và đối diện với những người mà ta đang gặp khó khăn để tìm một sự cảm thông.

Cũng nên nhớ rằng, có nhiều sự việc hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của ta. Ý thức ấy rất hữu ích. Trong những năm đầu tu học, một vị thầy đã dạy tôi những điều mà đến nay vẫn còn rất giá trị. Chúng đã giúp tôi tránh được những khổ đau không cần thiết. Ngài dạy: “Ta không thể chịu trách nhiệm về tâm ý của người khác. Ta chỉ có thể chịu trách nhiệm về tâm ý của chính mình thôi.” Mặc dù chúng ta có cố gắng truyền thông rõ ràng và khéo léo đến người khác, hoặc có lòng từ bi với những khổ đau của họ và cố gắng để xoa dịu, nhưng cuối cùng rồi ta cũng không thể kiểm soát được những hành động, phản ứng của họ. Biết được sự thật ấy rồi, ta sẽ buông bỏ chúng dễ dàng hơn. Khi tâm ta trở nên tĩnh lặng, ta sẽ có thể đối diện với những hoàn cảnh bất như ý hoặc khó chịu mà vẫn không bị động. Ta biết cách đáp lại thay vì chỉ phản ứng theo thói quen.

Nhưng bạn nên nhớ rằng, cũng có những hoàn cảnh đòi hỏi ta phải có một sự đáp ứng mạnh mẽ và cứng rắn. Không phải lúc nào ta cũng phải thụ động và chấp nhận mọi hoàn cảnh khó xử. Đôi khi ta phải biết sử dụng cây dù của mình!

Sharon Salzberg là một người bạn đồng tu với tôi. Khi chúng tôi mới bắt đầu theo học thiền ở Ấn Độ mấy năm trước đây, bà đã có một kinh nghiệm đáng sợ. Bà cùng với một người bạn đi vào Calcutta để viếng thăm một vị thầy của chúng tôi, bà Dipa Ma. Khi họ ra về, cả hai mướn một chiếc xe kéo để đến một ga xe lửa gần đó. Khi chiếc xe kéo băng theo một ngõ tắt, ngang qua một hẻm nhỏ tối tăm, bỗng có một kẻ lạ mặt nhào lên xe một cách thô bạo và cố lôi Sharon xuống xe. Giây phút ấy vô cùng kinh hoàng. Người bạn của Sharon cuối cùng có thể xoay xở xô tên ấy ra khỏi xe và cả hai thoát đến trạm xe lửa bình an vô sự.

Khi họ về đến Bồ-đề Đạo tràng (Bodh Gaya), nơi tất cả chúng tôi đang cư ngụ, Sharon kể lại cho vị thầy của chúng tôi, ngài Munindra-ji, về việc vừa xảy ra. Ông lắng nghe thật chăm chú, theo dõi mọi chi tiết. Đến khi hết câu chuyện, thầy nói: “Ồ, này cô. Với tất cả lòng từ bi của cô, đáng lẽ cô phải cầm lấy cây dù của mình và đập cho tên ấy vào đầu một cái thật mạnh!”

Có nhiều khi đó là những gì chúng ta cần phải làm. Nhưng lấy cây dù đập xuống đầu người đàn ông ấy thì chẳng có gì là khó khăn hết. Cái khó là làm sao có thể hành động với trọn tâm từ bi của mình. Tu tập là ở chỗ đó.

Tính chất cương quyết và cứng rắn đó, biết sử dụng cây dù khi mọi phương pháp khác đều thất bại, ta cũng có thể đem áp dụng vào thiền tập, nhưng nó phải được sử dụng một cách cẩn trọng và chính xác. Khi có một điều bất thiện trong tâm cứ trở đi trở lại, chúng ta hay tìm một chốn vững vàng trong tâm mình, và từ nơi đó giữ một thái độ cương quyết không để bị nó chi phối. Thái độ đó cũng giống như là khi ta sử dụng cây dù của mình - một lưỡi gươm trí tuệ - và nói rằng: “Đủ rồi” hoặc “Không phải lúc này.”

Hành động mạnh bạo này trong tâm không phải là để trốn tránh hoặc xua đuổi những gì khó chịu mà ta không muốn trải qua. Vì nếu chúng ta làm, ta phải làm với một tâm từ ái chứ không phải bằng một ác cảm. Đây cũng là chỗ mà người ta thường hay lầm lẫn, họ sử dụng lưỡi gươm của phẫn nộ thay vì là lưỡi gươm của trí tuệ phân biệt. Trí tuệ bảo rằng: “Tâm thức này hoặc cảm xúc này là xấu, là bất thiện. Tôi đã nhìn thấy nó biết bao nhiêu lần rồi. Bây giờ tôi buông bỏ nó.”

Chúng ta lúc nào cũng cần phải có một sự quân bình đúng đắn thì những phương tiện khéo léo của ta mới có thể thực sự là khéo léo. Thường thì người ta hay phan xét và kết án những việc làm của mình và của người khác, vì vậy mà họ cần phải tập biết chấp nhận, mềm dịu và để cho sự việc xảy ra đúng như bản chất thực sự của nó. Nhưng một điều quan trọng không kém là phải lam sao khám phá được sự vững vàng và cương quyết trong ta, một dũng sĩ trong tâm, để ta có thể dùng năng lực đó cắt xuyên qua những tâm thức bất thiện bằng một phương pháp thích hợp và đầy từ ái.


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh nghiệm thiền quán Phần 31: Sợ Joseph Goldstein - Nguyễn Duy Nhiên dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính “Chỉ có mỗi một điều đáng sợ là chính cái sợ ấy.”

Đó là những lời đầu tiên tổng thống Franklin Delano Roosevelt nói với dân tộc đang bị vây khốn của ông. Những lời ấy đã được lặp lại nhiều lần và vẫn còn rất quen thuộc với những kẻ hậu sinh như chúng ta. Lời ấy đáng ghi nhớ vì ông đã nhắc nhở dân Hoa Kỳ rằng, sự nguy hiểm ghê gớm không phải do tình trạng từ bên ngoài của một nền kinh tế đang suy sụp, mà từ một năng lực trong tâm ta.

Là một thiền sinh, chúng ta nên tìm hiểu vấn đề này sâu xa hơn một chút. Chúng ta có nên