Bản đồ tu Phật - Tập 1 Phần 1: Lời tựa (Tập 1) Thích Thiện Hoa Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
Họ có cảm tưởng như đi lạc vào rừng rậm, tìm không được lối ra, mặc dù trong số ấy có nhiều người đã quy y lâu ngày hay đã ở chùa nhiều năm. Lại có người lại đơn giản hóa sự tu hành: họ chỉ thực hành qua loa một vài việc cho có lệ, và cho như thế là tu rồi. Có người chấp nhặt ở một phương pháp tu hành này, rồi bài xích tất cả phương pháp khác mà họ cho là quấy. Thậm chí có người hiểu nghĩa chữ “tu” một cách mơ hồ hay sai lạc, rồi dựa vào đó mà thực hành một cách mù quáng, sai đường, và đôi khi lại còn trở lại công kích những kẻ đi đường là khác!
Đứng trước tình trạng buồn thảm ấy, ai lại chẳng đau lòng! Vì thế chúng tôi bạo dạn soạn loạt bài này, để cống hiến cho quý vị nào còn bỡ ngỡ trên bước đường tu hành, một “bản đồ” chỉ đường tu về cõi Phật.
Trong loạt bài này chúng tôi in thành từng tập sách nhỏ, chúng tôi sẽ tuần tự đề cập đến những điểm quan trọng sau đây:
1. Thanh toán những quan niệm chật hẹp sai lầm, những sự bài xích lẫn nhau của các tôn phái về chữ “tu”;
2. Giải thích và phân tách rành rõ về nghĩa chữ “tu”;
3. Nhấn mạnh vào sự cần yếu của sự tu hành, đối với hết thảy mọi người, mọi giai cấp trong xã hội, và chỉ rõ về cách “tu” của quảng đại quần chúng;
4. Trình bày về lối tu thông thường, nhưng cần yếu của giới Phật tử, xuất gia và tại gia từ xưa đến nay;
5. Trình bày về lối tu chuyên môn riêng biệt của các tôn phái Phật giáo (mười tôn). Các lối tu này nhằm mục đích đi sâu vào đạo, nên các tu sĩ xuất gia rất cần biết rõ;
6. Trình bày cách tu rộng lớn của Đại thừa Bồ-tát trong mọi ý nghĩ, lời nói, cử chỉ và hành động, vv;
7. Cuối cùng, giải rõ về lối tu của năm thừa, phân biệt so sánh lối tu của Đại thừa và Tiểu thừa để quy về Nhất thừa.
Chúng tôi trông mong, sau khi đọc xong loạt bài này, quý vị độc giả sẽ có một ý niệm rõ ràng về ý nghĩa của sự tu hành, một quan niệm tổng quát, chính xác về các lối tu, và sẽ lựa một đường lối tu hành thích hợp với hoàn cảnh, khả năng, hoài bão của mình, và sẽ vui vẻ tự bảo: “Từ đây về sau chắc chắn không còn sợ lạc đường nữa, vì ta đã có trên tay một bản đồ chỉ rành rẽ đường tu về cõi Phật.”
Sa-môn Thích Thiện Hoa
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 1 Phần 2: Phần mở đầu: Thanh toán những quan niệm sai lầm và chật hẹp về chữ “tu” Thích Thiện Hoa Chữ “tu” có lẽ là một chữ đã có từ lâu lắm trong danh từ của người Trung Hoa và Việt Nam. Thế mà cho đến ngày nay còn không biết bao nhiêu người, cả trong giới Phật tử lẫn người ngoài còn quan niện chữ “Tu” một cách sai lầm, chật hẹp, mập mờ...
Ít ai hiểu được một cách đúng đắn, toàn diện chữ “Tu”. Người đứng ở khía cạnh này của chữ “Tu” công kích người đứng ở khía cạnh kia, người cho mình tu như thế này là đúng, kẻ khác bảo như thế là sai. Người này chấp chặt quan niệm thế này là phải, kẻ nọ chấp chặt quan niệm trái ngược lại, cuối cùng không ai biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là chánh, đâu là tà, đâu là hay, đâu là dở.
Những quan niệm sai lầm hay chật hẹp của người đời về chữ “Tu” không thể kể xiết được. Dưới đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một số quan niệm sai lầm hay chật hẹp thông thường nhất, cần đả phá mà thôi. Đại loại chúng ta thường nghe phát biểu những ý kiến sau đây:

1. Trong thời khoa học, văn minh và vật chất này mà tu cái gì?

Người nói như thế là có ý nghĩ rằng, chỉ trong thời đại dã man, lạc hậu người ta mới tu, chứ không ngờ rằng càng văn minh, người ta càng tu và càng tu người ta càng tiến bộ. Cũng có thể những người phát biểu ý kiến như trên, nghĩ lầm rằng thời đại này là thời đại chỉ để dành cho vật chất, là thời đại độc quyền của vật chất chứ tinh thần không có chỗ đứng nữa. Nhưng xét cho đúng, thì không có thời đại nào có thể gọi là văn minh mà không chú trọng đến tinh thần. Vật chất càng phát triển mạnh, thì tinh thần càng phải được đề cao, để giữ cán cân thăng bằng cho xã hội nhân loại, nếu không thì sự sụp đổ không thể tránh khỏi được.

2. Già mới tu, chứ còn trẻ mà tu cái gì?

Những người thốt ra câu nói này đã hiểu lầm chữ “Tu”. Họ xem nhà chùa như một nhà dưỡng lão, dành riêng cho ông già, bà cả không còn đủ sức để vật lộn với đời, nhựa sống sắp héo khô, hay mùi đời đã nếm trải, chán chường rồi, không còn thấy có sinh thú nữa. Họ cho rằng tu hành là một cách an hưởng cảnh già trong khi chờ chết, chứ người trẻ trung ai lại đi tu. Còn hạng thanh niên thì phải tranh đấu với đời, để tận hưởng những lạc thú, chứ sao lại lo chuyện tu hành?
Họ không ngờ rằng, người già hay trẻ gì cũng cần phải tu, và sự trẻ trung hăng hái cũng cần cho sự tu hành như cho bao nhiêu việc khác ở đời. Vả lại, chắc gì chúng ta còn có một tuổi già để tu hành hay tử thần đã tàn nhẫn đến gõ cửa ngay khi chúng ta còn ở tuổi hoa niên?

3. Những người tật nguyền, bệnh hoạn, côi cút mới tu, chứ còn khỏe khoắn lành mạnh, làm ăn được mà tu cái gì?

Nói như thế là quan niệm rằng, nhà chùa cũng giống như một bệnh viện, một dưỡng đường, một nhà thương điên hay một nhà tế bần để cho những kẻ bị đời sa thải, vào chùa để nương nhờ tấm thân. Họ không ngờ rằng tu cũng rất cần cho những người khỏe mạnh, có năng lực, có tài ba lỗi lạc, chứ không riêng cho hạng người tật nguyền, yếu đuối, côi cút...

4. Tu là phải xuất gia như chư Tăng, ni, chứ ở tại gia, vợ còn, con đủ mà tu cái gì?

Những người nói như thế là vì đã quan niệm một cách sai lầm rằng, tu là nhiệm vụ của những người thoát trần, lìa tục, dành riêng cho những hạng Tăng, ni là những người chán đời, yếm thế. Họ không hiểu rằng: Tu không phải chỉ có một hình thức là bỏ nhà đi ở chùa, mà chính ở đâu cũng tu được, và cũng không phải chỉ dành riêng cho hạng Tăng, ni mà tất cả mọi người đều cần phải tu.

5. Tu phải ở núi, ở non, ở am, ở cốc, chứ ở chùa cao, Phật lớn, ngay giữa thành thị, đâu có phải là chơn tu?

Người nói như thế, vì tưởng rằng tu là phải xa lánh đời, trốn đời, không còn liên lạc gì với xã hội nữa. Tu như thế là đứng về phương diện tiêu cực, chỉ lo riêng phần mình. Chứ còn tu một cách tích cực, thì phải nhập thế, độ sanh, hoằng truyền chánh pháp.

6. Tu là phải ép xác, ăn chay nằm đất, ăn ngọ, ngủ ngồi... vv, mới là chơn tu?

Nói như thế là hiểu chữ tu một cách phiến diện, hình thức, lấy những hình tướng không quan trọng hay sai lạc mà cho là chính yếu. Phật đâu có dạy tu là phải ép xác? Chính ngài là người đầu tiên bài xích lối tu này nhất. Ăn chay như phái Đại thừa là một hình thức tu đã đành, nhưng không ăn chay, như phái Tiểu thừa, đâu phải là không tu. Ăn ngọ thì tốt, nhưng không ăn ngọ cũng không phải là không tu được. Còn ngồi để tham thiền, niệm Phật thì mới quý, chứ ngồi mà ngủ, thà là nằm ngủ còn khỏe hơn. Luật của Phật đâu có cấm nằm và bắt ngủ ngồi? Nếu ngủ ngồi mà thành Phật được, thì hóa ra những kẻ ngủ gật đều thành Phật cả hay sao?

7. Có người nói: “Những người tuyệt cốc, chỉ ăn hoa quả, khoai, chuối mới là chơn tu?”

Nếu cho người chỉ ăn hoa quả là chơn tu, thì những người ăn cơm là không chơn tu hay sao? Thế thì đức Phật khi còn tại thế, mỗi ngày đều mang bình bát đi khất thực, làm sao thành Phật được? Và tất cả các đệ tử của Ngài, từ Tổ Ca-diếp trở xuống, có một vị nào cử cơm đâu? Vả lại xét cho cùng, ăn cơm hay ăn hoa quả cũng giống nhau cả, vì lúa cũng là một giống quả, cũng là loài thảo mộc. Cử một thứ quả này mà ăn một thứ quả khác, thì cũng chẳng khác gì nhau. Những người làm như hình thức trên, chẳng qua vì thiếu học, không biết nên tu như thế nào, vả lại có tánh lập dị, muốn cho những kẻ hiếu kỳ chú ý, nên mới làm như vậy.

8. Có người nói: “Tu như ông đạo ớt, đạo sả... kia mới thật là chơn tu, vì chỉ độ ớt, ăn muối tiêu, muối sả... chứ tu gì mà còn ăn đồ ngon bổ?”

Những người nói như thế, cũng như những người tu như thế, rõ ràng là không hiểu gì về chữ “Tu” hết. Nếu ăn ớt chẳng hạn là chơn tu, thì những con chim sáo, chim nhồng chắc đã thành Phật cả rồi.

9. Có người nói: “Tu sao còn đau, còn uống thuốc?”

Nói như thế là hiểu lầm đạo Phật với đạo Tiên. Người tu theo đạo Tiên thường phô trương rằng họ có phép thuật trường sanh, dùng sức nội công, luyện thần khí làm cho thân không già, không bệnh. Những điều ấy chúng ta nghe cho biết vậy, chứ chưa có thể chứng thực được. Nhưng theo giáo lý đạo Phật thì thân này là giả tạm, vô thường chỉ tạm dùng trong một thời gian để tu hành, cũng như chiếc thuyền tạm dùng để đưa người qua sông, rốt cuộc rồi cũng phải hư hoại. Mọi sinh vật trên đời đều phải tuân theo luật vô thường: Sanh, già, bệnh, chết. Chính xác thân của đức Phật cũng không vượt ra ngoài bốn trạng thái ấy, huống chi là những người thường như chúng ta?

10. Những người đi khất thực, đầu không đội nón, che dù, chân không đi giày dép, không ngồi ghế, chẳng nằm ván... vv, mới thật là chơn tu.

Về việc tu hành, Phật chế có đến 84.000 pháp môn, mà khất thực chỉ là một trong các hạnh. Nếu chỉ có hành khất là chơn tu, thì còn vô số pháp môn khác không phải là chơn tu hay sao? Còn che dù, đội nón, mang giày, guốc, ngồi ghế nằm ván, Phật đâu có ngăn cấm? Trong 10 giới Sa-di, hai trăm năm mươi giới Tỳ-kheo, năm mươi tám giới Bồ-tát, không có một giới nào Phật cấm che dù, đội nón, mang guốc, ngồi ghế và nằm ván cả. Chỉ trừ khi vào Phật điện hay nghe pháp.

11. Ngoài ra còn có một số người hẹp hòi, chấp chặt pháp môn của mình tu là đúng, còn bao nhiêu pháp môn của người khác là sai.

Người tu pháp môn tịnh độ, họ cho chỉ có mình là theo đúng chánh pháp và tu như thế mới thành Phật được, ngoài ra những người tu theo bao nhiêu pháp môn khác hay làm các Phật sự khác đều cho là lạc đường, là không phải tu.
Người trì giới cho rằng trì giới mới là tu, còn các pháp môn khác đều không có hiệu quả. Người tu thiền chỉ cho có tu thiền mới chứng được Phật quả, còn bao nhiêu pháp môn khác đều vô bổ, chẳng đưa đến đâu cả. Người tu theo hạnh Bồ-tát làm việc lợi tha, từ thiện xã hội,... vv, cho như thế mới là tu, và bài xích các lối tu khác.
Các quan niệm, thái độ trên đều là hiểu phiến diện hẹp hòi, vì chưa hiểu rốt ráo toàn diện chữ “Tu”. Tình trạng này, trong Nhiếp Đại Thừa luận có thí dụ, như người mù rờ voi, rờ được phần nào thì cho phần ấy là con voi. Nếu tu chỉ có một pháp môn như họ chấp, thì đức Phật nói Tam tạng kinh điển, Ngũ thừa Phật giáo và 84.000 pháp môn để làm gì?
12. Cuối cùng, có người cho rằng tu sẽ làm cho con người nhu nhược, dễ bị người lấn áp, bóc lột, nếu tất cả dân chúng trong nước đều tu, thì nước sẽ mất.

Nói như thế thì quan niệm người tu hành chẳng khác gì một cục đất, mặc tình cho ai muốn lăn đi đâu thì lăn, bóp méo vo tròn như thế nào cũng được. Thật ra, tu đâu có phải là khiếp nhược, đầu hàng, yếu đuối, mà trái lại là hùng lực, là dõng mãnh, là tinh tấn, không sợ đau, không sợ chết, không sợ hy sinh. Đức Phật Thích-ca đã dám rũ bỏ tất cả để theo chí nguyện của mình, xuất gia tìm đạo, trải bao gian khổ, vượt bao trở ngại, đâu có nhu nhược, có bị ai lấn át được đâu? Đời Lý, đời Trần, mà toàn dân đều theo Phật giáo, có phải là những thời đại yếu hèn đâu? Nước Nhật Bản ngày nay mà phần lớn dân chúng là Phật tử lại là một nước đứng trong hàng ngủ những nước hùng cường nhất thế giới. Tóm lại, tất cả các quan niệm sai lầm hay chật hẹp nói trên, đều do ở chỗ chưa rõ biết một cách đầy đủ, chính xác toàn diện chữ “Tu”.
Để quý độc giả có một ý niệm đúng đắn, toàn diện, rõ ràng về vấn đề này, chúng tôi xin lần lượt trình bày ở những chương sau, tất cả những ngành ngọn, từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu, từ thấp đến cao, trong đường lối tu hành mà chúng tôi đặt dưới một đầu đề chung là “Bản đồ tu Phật”.
Với bản đồ này, quý vị độc giả, nhất là độc giả Phật tử sẽ nhìn thấy một cách tổng quát, toàn diện những đường lối tu hành đi đến cõi Phật, và nếu muốn, quý vị sẽ lựa chọn một lối đi thích hợp với mình, nên loạt bài này còn có tên thứ hai là “Chọn đường tu”. Hay nếu quý vị đã dấn bước trên một đường lối nào rồi, thì với bản đồ chỉ dẫn này, quý vị cũng có thể định hướng được vị trí mình đang đi, và còn bao xa nữa thì đến đích. Cuối cùng, cũng với bản đồ này, quý vị có thể biết rõ được ai là kẻ lạc lối, ai là kẻ đồng hành với mình, và ai là kẻ mặc dù không cùng đi với một đường, nhưng cuối cùng cũng sẽ đến đích như mình, vì đường lối tu hành đến quả Phật không phải chỉ có một mà rất nhiều, chỉ khác nhau ở chỗ rộng hẹp, gần xa, cao thấp, mau chậm, dễ khó mà thôi.

Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 1 Phần 3: Chương I : Giải thích nghĩa chữ “Tu” Thích Thiện Hoa “Tu” là một tiếng nguồn gốc chữ Hán, dịch nghĩa thông thường là “Sửa”. “Tu” có ba phương diện: tu tâm, tu thân và tu bổ. Nghĩa là sửa tâm cho tốt, sửa thân cho đẹp và sửa nhà cửa ruộng vườn... vv, cho được thạnh lợi.
Nghĩa chữ “Tu” rất rộng, có thể áp dụng cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần, cá nhân lẫn đoàn thể, thông thường lẫn chuyên môn. Đã nói là “Sửa” thì bất luận những cái gì xấu xa hư dở đều phải sửa. Mà ở đời có cái gì là hoàn toàn, không hư không dở? Nhất là đối với bản thân, mỗi chúng ta có biết bao nhiêu điều xấu xa hèn dở, cần phải sửa:
* Sửa cái dở thành hay: Như bỏ cờ bạc, rượu trà, đàng điếm, phóng túng, trở lại lo cho gia đình, xã hội là tu.
* Sửa cái xấu trở lại cái tốt: Như bỏ sát nhơn hại vật, trộm cướp (xéo xắt, cân non, đong thiếu, lấy thừa...) dâm loạn, nói dối (nói lời hung dữ, hổn ẩu, nói cộc cằn thô tục, nói thêm bớt, nói đâm thọc, thèo lẻo, dua nịnh...) trở lại nhơn từ, lễ nghĩa, ngay thẳng, chân thật, bố thí, giúp người, là tu.
* Sửa tà theo chánh: Như bỏ mê tín, dị đoan, xin xăm, bói quẻ, đốt giấy tiền vàng mã, lên đồng, xuống bóng, trở về chánh đạo là tu.
* Sửa quấy trở lại phải: Như bỏ ngổ nghịch với bề trên, bất hiếu với cha mẹ, dâm nộ, hung ác... vv, trở lại thuận hòa, hiếu đạo... vv, là tu.
* Sửa vọng thành chơn: Như bỏ tánh xảo quyệt, dối trá, lường gạt trở lại chơn thật, trung chính là tu.
* Sửa vọng thức thành Bốn trí: Như nhận thấy được vì tám món vọng thức mà chúng sanh phải trầm luân mê muội, và chư Phật được tự tại giải thoát là do chuyển tám thức ấy thành Bốn trí. Nay chúng ta cũng noi theo Phật, chuyển vọng thức thành trí tuệ: sửa thức thứ tám trở lại Đại viên cảnh trí, sửa thức thứ bảy trở lại Bình đẳng tánh trí, sửa thức thứ sáu thành Diệu quán sát trí và sửa năm thức trước trở lại Thành sở tác trí, như thế là tu.
* Sửa phiền não thành Bồ-đề: Như bỏ tham lam, sân hận, si mê, tật đố, thất tình, lục dục trở lại thành Bồ-đề thanh tịnh, là tu.
* Sửa sanh tử trở lại Niết-bàn: Như ngược dòng sông mê sanh tử luân hồi về nguồn Niết-bàn tịch tịnh, là tu.
* Sửa triền phược trở lại thành giải thoát tự tại: Như bỏ thê thằng tử phược, cảnh hồng trần hệ lụy, bước lên đường giải thoát, tự tại như Thái tử Tất-đạt-đa, là tu.
* Sửa phàm thành Thánh: Như bỏ tư tưởng, hành vi và tánh tình ô nhiễm của phàm phu, trở lại trong sạch như thánh hiền, là tu.
* Sửa chúng sanh thành Phật: Như chuyển cái tánh vô thường, chấp ngã, bất tịnh, phiền não thành ra bốn đức Niết-bàn: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, là tu.
Tóm lại, tu là sửa cái hư vọng dối trá trở lại “Chơn”, sửa những cái xấu xa tồi tệ mục nát trở lại “Mỹ”, sửa cái tội ác tàn bạo trở thành “Thiện”. Tu không có cầu kỳ và rất thực tế như vậy, thì ở thời đại nào, xứ sở nào, hạng người nào lại chẳng nên tu?
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 1 Phần 4: Chương II: Con đường tu thông thường của quảng đại quần chúng Thích Thiện Hoa Người đời, dù sống trong hoàn cảnh nào, ai cũng ước ao đạt được chân, thiện, mỹ. Do lòng ước ao đó mà chữ “Tu” đối với mọi người rất cần thiết. Chưa nói đến những hạng người đi theo một tôn giáo này hay một tôn giáo khác mới gọi là tu, những người thường không theo tôn giáo nào cũng có cách tu của họ.

1. Trong phạm vi cá nhân, đối với họ, “tu” cả ba phương diện: Đức, Trí và Thể.

Đức: Họ chú trọng sửa chữa những tật xấu của tâm tánh như: tham lam, sân hận, khinh mạn, cống cao, nghi ngờ, dối trá, nịnh bợ, bỏn sẻn, khó khăn, lười biếng, buông lung, nhỏ mọn, tiểu nhơn… vv. (Xem quyển “Tu tâm dưỡng tánh”). Họ cố bài trừ những tánh xấu ấy và thay thế vào những đức tánh tốt đẹp như: từ bi, hỷ xả, nhu hòa, nhẫn nhục, tin tưởng, ngay thật, vị tha, cần mẫn, hăng hái, quảng đại, quân tử… vv. Họ cố kềm hãm, ngăn chận những hành vi tội lỗi như sát nhân, hại vật, trộm cướp, tà dâm và thay thế bằng những hành vi đẹp đẽ như cứu người, độ vật, bố thí, trung trinh... vv, như thế là tu về Đức.
Trí: Về phương diện trí dục, họ cố gắng trau giồi trí tuệ, mở mang kiến thức, phá tan thành kiến hẹp hòi, thêm nhiều sáng kiến để có thể phán đoán các việc hay dở, lợi hại,... vv, vượt qua mọi trở ngại khó khăn, cùng bí, như thế là tu về Trí.
Thể: Về phương diện thân thể, họ cố gắng luyện tập cho thân thể được khỏe mạnh, nở nang, dẻo dai, để có thể chịu đựng bền bỉ trước những sự tấn công của bệnh tật, lao nhọc, những cuộc vật lộn với đời để mưu sống, như thế là tu về Thể.
Không những mỗi người chỉ cần lo tu dưỡng thân tâm, mà còn phải tu bổ những vật sở hữu của mình nữa. Họ sửa sang nhà cửa hư dột, may vá lại quần áo rách nát, (tu bổ) vun xới lại ruộng vườn hoang phế (sửa), tu bổ lại đường sá cầu cống hư sập... vv, như thế đều gọi là “Tu” cả.
Tóm lại, mỗi cá nhân, bất luận lớn bé, già trẻ, trai gái, giàu nghèo, sang hèn, đều phải lấy việc tu luyện thân tâm (tu tâm, tu thân), sửa sang (tu bổ) những vật sở hữu làm trọng. Nếu xem thường vấn đề này, thì cuộc đời của những kẻ ấy chẳng bao lâu sẽ trở thành mục nát xấu xa và sẽ bị đào thải một cách mau lẹ ra khỏi cuộc sống.

2. Trong phạm vi đoàn thể: Nếu muốn tồn tại và tiến triển, thì tu luyện cũng phải được xem là vấn đề chánh yếu.

Một gia đình có tu thì được hòa thuận, yên vui hạnh phúc. Trái lại, một gia đình thiếu tu, thì cha mẹ thường xung đột, con cái bất hòa, anh em ly cách, chồng vợ chia lìa, nghĩa là gia đình sẽ trở thành địa ngục trần gian. Một xã hội có tu, thì dân chúng được an cư lạc nghiệp, nhà không cần đóng cửa, của rớt ngoài đường không mất, phong tục được thuần lương, nước nhà được thạnh trị. Trái lại, một xã hội không tu thì trộm cướp hoành hành, mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, giàu bóc lột nghèo, nước nhà loạn lạc. Một thế giới có tu, thì hòa bình được thực hiện, thế giới được đại đồng, trần gian sẽ trở thành Cực Lạc. Trái lại, thế giới không tu thì giặc giã hoành hành, thế giới bất bình đẳng và trần gian sẽ trở thành địa ngục.
Vấn đề tu quan trọng như thế, cho nên không thể không tu, mặc dầu mình không theo một tôn giáo nào cả. Đã sống là phải tu, hoặc tu cách này hay cách khác. Không tu thì không thể sống được, không tu thì xem cuộc sống như đồ bỏ, và cuộc sống sẽ trở thành đồ bỏ thật sự, vì có ai săn sóc tới nữa đâu?
Để tóm tắt đoạn này, chúng ta hãy nhớ lại câu nói của thánh nhơn sau đây:
“Tâm có tu thân mới tốt, thân có tu thì gia đình mới được chỉnh đốn, gia đình có tu quốc gia mới thạnh trị, quốc gia có tu thì thế giới mới hòa bình an lạc”. (Tâm chánh nhi hậu thân tu, thân tu nhi hậu gia tề, gia tề nhi hậu quốc trị, quốc trị nhi hậu thiên hạ bình).
Vậy muốn thế giới hòa bình an lạc thì bắt đầu từ mỗi cá nhơn của chúng ta cần nghĩ và thực hành ngay việc tu dưỡng thân tâm. Xem qua đoạn này, quý vị hãy nhận xét kỹ về lối tu này có thực tế và cần thiết cho chúng ta không?
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 1 Phần 5: Chương III: Con đường tu thông thường của Phật tử (Tu phước Hữu lậu và Vô lậu) Thích Thiện Hoa Đoạn trước đã nói đến sự cần thiết của sự tu đối với người thế gian. Đến đây xin nói đến sự tu của người Phật tử. Pháp môn của Phật nhiều không kể xiết, thì sự tu hành của người Phật tử cũng nhiều không kể xiết. Chúng tôi sẽ tuần tự nói đến các lối tu, từ thấp đến cao của người Phật tử. Trong bài này xin nói trước đến con đường tu thông thường mà bất luận ở tầng bậc nào, khi đã tự xưng là Phật tử, đều không thể bỏ qua được. Con đường tu này là một con đường tu phổ thông cho cả Phật tử tại gia lẫn xuất gia, Tiểu thừa lẫn Đại thừa, sơ cơ lẫn thuần thục. Nó gồm các sự tướng chính yếu sau đây: Quy y, thọ giới, thờ Phật, lạy Phật, cúng Phật, ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, sám hối, làm chùa, tạo tượng, đúc chuông, bắc cầu, làm đường, bố thí... vv, làm các việc này đều gọi là tu cả.
Vẫn biết đã là Phật tử thì phải thực hành các điều nói trên, nhưng không phải người nào cũng thực hành với một tâm lý, một ý nghĩa, hay một mục đích giống nhau, mà trái lại với nhiều tầng bậc, rộng hẹp, cao thấp khác nhau, và do đó, lợi ích của sự tu hành cũng chia làm hai loại: phước hữu lậu và vô lậu. Dưới đây chúng tôi sẽ tùy theo trình độ hiểu biết và tâm lý của hành giả mà chia ra hai hạng Phật tử khác nhau, trong khi thực hành lối tu thông thường này.

1. Quy y là một phương pháp tu: (bỏ mê theo ngộ hay bỏ tà về chánh)


a. Có người quy y với tâm lý là ký bán cho thánh thần, để tánh mạng được phò hộ, bảo đảm, hay để cầu được mạnh khỏe ăn chơi. Có người quy y vì sự truyền thống của ông bà đã mấy đời theo đạo Phật, hoặc vì sự quyến rủ của bạn bè, hay sợ vì mất cảm tình với người thân. Có người quy y vì tuân theo một phong trào, hoặc một thị hiếu nhất thời, hay vì thời cuộc hoàn cảnh bắt buộc, thấy chung quanh mình ai cũng quy y thì mình cũng quy y cho luôn.
Những người quy y như trên, vì do một tâm lý tầm thường, nên chỉ được hưởng phước báo ở cõi nhơn thiên, thuộc về phước hữu lậu thế gian, chỉ hưởng có hạn định trong một thời gian mà thôi.

b. Hạng ngưòi thứ hai này, vì hiểu đạo lý phát tâm mộ đạo cầu giải thoát mà quy y. Họ không cầu mạnh giỏi, không vì tập tục của gia đình, không vì cảm tình, không vì để làm vui lòng người thân, không vì thời thế, hoàn cảnh, không vì thị hiếu mà quy y. Họ chỉ có một mục đích là trở về với Phật tánh sáng suốt, với Pháp tánh từ bi, bình đẳng, với tự tánh Tăng thanh tịnh hòa hiệp của mình. Hạng người quy y này, vì tâm trong sạch với mục đích cao thượng, nên hưởng phước vô lậu xuất thế gian, không có cùng tận.

2. Thọ giới là một phương pháp tu: (Ngăn ngừa các tội lỗi)

a. Có người thọ giới vì bắt buộc, không thể tránh được, có người thọ giới vì tự ái hay kiêu hãnh, tự bảo những người kia thọ giới được, thì ta lại thua họ, không thọ giới được hay sao? Có người thọ giới với tâm lý vì danh lợi, vì địa vị v.. v... thọ mà không giữ giới.
Thọ giới trong những trường hợp, hay với những tâm nhiễm ô như trên, chưa phải là thọ giới một cách đúng đắn. Nếu vì hoàn cảnh bắt buộc mà thọ giới, thì sự thọ giới ấy chỉ gây thêm khổ sở cho người thọ giới mà thôi. Nếu vì tự ái, ngã mạn hay khinh thường mà thọ giới, thì sự giữ giới khó có thể lâu bền được. Vì những lý do đó mà hạng người thọ giới nói trên chỉ hưởng được phước báu nhỏ nhoi, hạn cuộc phước hữu lậu thế gian mà thôi.

b. Hạng người sau này vì mục đích tránh tội lỗi, cầu giải thoát mà thọ giới. Với hạng người này sự giữ giới là một bổn phận, là một sự cần thiết. Họ hiểu rằng người có giữ giới thì mới tránh được tội lỗi, khỏi bị pháp luật trừng phạt trong hiện tại, khỏi bị quả báo xấu xa trong tương lai. Giới chẳng qua là những điều răn dạy, ngăn ngừa các tội lỗi, là những kỷ luật, mà một cá nhơn hay một đoàn thể, nếu muốn yên ổn, tiến bộ, đều phải tuân theo, cá nhơn có giữ giới thì cá nhơn được tự tại giải thoát, gia đình có giữ giới thì gia đình mới có hạnh phúc, quốc dân có giữ giới thì quốc dân mới thạnh trị, nhơn loại có giữ giới thì thế giới mới hòa bình an lạc.
Người Phật tử thọ giới và giữ giới với tâm niệm trong sạch, chơn chánh và cao thượng như thế, thì sẽ hưởng được phước vô lậu xuất thế gian, không có cùng tận.

3. Thờ Phật là một phương pháp tu: (Phật giả ngự trị tại nhà để nhớ, Phật thiệt thường ngự trị tại tâm. Phật tử ra vào trông thấy, để tập theo đức tánh của Phật)

a. Có người thờ Phật với tâm lý như thờ một vị thần linh để cầu ban ơn, giáng phước. Thấy nhà kia thờ ông độ mạng, nhà nọ thờ bà Mẹ sanh để cầu cho trong gia đình được mạnh giỏi bình an, lại thấy nhà khác thờ ông Thổ thần để giữ gìn đất đai, phò hộ cho được mua may bán đắc, thì mình cũng thờ Phật để được Phật gia hộ cho mua may bán đắc, đất đai được yên ổn, con cái được ăn chơi. Hoặc có người vì thời cuộc, vì hoàn cảnh bắt buộc hoặc vì tự ái, thấy nhà bên cạnh thờ Phật thì mình lại chịu thua hay sao? Thế là họ thỉnh Phật về thờ, nhưng chỉ được vài tháng đầu, rồi về sau không ngó ngàng gì đến nữa. Thờ Phật với tâm lý và mục đích tầm thường như thế, thì hưởng phước báo cũng tầm thường mà thôi, nghĩa là chỉ được hưởng phước báo hữu lậu của cõi người như mạnh giỏi, yên ổn tạm thời chứ không được phước vĩnh viễn.

b. Có người thờ Phật vì cảm phục đức cao dày, quý trọng trí tuệ sáng chói muôn đời của đấng Giác ngộ mà thờ, chứ không phải vì mục đích danh lợi. Họ hiểu rằng thờ Phật là thờ chân lý cao siêu, thờ cái gương cao quý sáng chói của những đức tính tốt đẹp như từ bi, bình đẳng, trí tuệ, thanh tịnh, tinh tấn, để hàng ngày cố gắng tập luyện noi theo cho được như thế.
Người thờ Phật với quan niệm trong sạch đúng đắn, với mục đích cao thượng như thế, sẽ được phước báo vô lậu, không bao giờ hết.

4. Lạy Phật là một phương pháp tu: (Diệt trừ ngã mạn, cống cao và tỏ lòng tri ân đức Phật)

a. Có người lạy Phật với tâm lý cầu cạnh, van xin Phật ban ơn giáng phước cho gia đình được bình an, khoẻ mạnh, buôn may, bán đắc, một vốn mười lời. Có người lạy Phật để cầu mong Phật kết tóc se tơ cho mình, có người lạy Phật để cầu mong Phật gia hộ cho mau thăng quan tiến chức,... vv. Lạy Phật với những tâm niệm nhiễm ô như thế, nếu có được toại nguyện, thì sự toại nguyện ấy cũng chỉ là được hưởng nhất thời mà thôi, chứ không thể được hưởng phước rộng rãi lâu dài.

b. Người lạy Phật với quan niệm trong sạch chơn chánh, thì xem như đó là một phương pháp sửa mình, biết phục thiện, nép mình dưới đức độ cao dày của đấng Giác ngộ, chứ không ngã mạn, cống cao, lạy Phật lại là để tỏ lòng tri ân sâu xa của mình đối với đấng cha lành đã cứu độ cho không biết bao sinh linh ra khỏi cảnh trầm luân khổ hải. Người đã hiểu biết ý nghĩa lạy Phật, thì không bao giờ bạ đâu lạy đó, không lạy bình vôi, ông táo, không lạy ma quỷ, không lạy những kẻ cường bạo, vô luân. Người lạy Phật với tâm niệm thanh tịnh cao cả vì mục đích sửa mình, chứ không vụ lợi thiển cận, không vì phiền não ô nhiễm thúc đẩy như trên, sẽ được hưởng phước báo xuất thế gian vô lậu.

5. Cúng Phật là một phương pháp tu: (Tu phước )

a. Có người cúng Phật như đi lễ một ông quan (cầu lợi) với tâm lý lo lót, hối lộ hay mua chuộc tội lỗi và cứ tưởng rằng hễ lễ vật của mình càng to bao nhiêu thì Phật lại vui lòng bấy nhiêu. Có người cúng Phật với tâm lý khoe khoang (cầu danh) để mọi người chung quanh đều biết mình giàu có, rộng rãi, chứ không có một chút thành tâm nào cả. Câu chuyện đứa bé đem đất sét cúng Phật mà được Phật độ, cũng đủ chứng tỏ sự cúng bái chú trọng ở lòng thành kính, chứ không phải ở vật thực. Người cúng Phật với tâm niệm nhiễm ô như trên, tất nhiên chỉ hưởng được phước báo giàu sang thuộc về hữu lậu ở trần gian mà thôi, chứ không được phước vô lậu thanh tịnh.

b. Người cúng Phật với tâm niệm trong sạch chơn chánh, không phải mục đích để lo lót cầu đảo (vì lợi), cũng không cần ai biết đến lễ vật của mình (vì danh). Họ cúng Phật cốt để tỏ lòng thành kính tri ân. Câu chuyện một bà lão chỉ cúng Phật một dĩa dầu nhỏ mọn, mà thắp suốt đêm không hết, hay người ăn xin cúng gói muối, bà Hoàng hậu cúng ba xe vàng,... vv, cũng đủ chứng tỏ rằng, với lòng thành kính thì dù là vật hèn hạ nào cũng trở thành quý báu cả.
Người cúng Phật với một tấm lòng trong sạch thành kính như thế, sẽ được phước báo xuất thế gian vô lậu thanh tịnh.

6. Ăn chay là một phương pháp tu: (Trừ tâm sát hại, nuôi lớn lòng từ bi)

a. Có người ăn chay để đổi bữa cho ngon miệng, có người ăn chay để cho được mạnh khỏe hay vì bệnh hoạn, thầy thuốc cấm ăn mặn, có người ăn chay để cầu tài, cầu lợi, cầu danh vọng, địa vị hoặc trả lời nguyện,... vv, có người ăn chay vì tự ái, không muốn thua sút người khác đang ăn chay... vv. Sự ăn chay vì những lý do trên, tuy vẫn có lợi ích, nhưng chưa phải là ăn chay theo quan niệm chính đáng, cao thượng, nên chỉ được phước báo hữu lậu ở cõi trần gian này mà thôi.

b. Có người ăn chay vì lòng từ bi, không muốn sát hại sinh vật, không muốn sinh vật phải đau khổ vì miếng ăn của mình. Sự ăn chay vì lý do này, rất lợi ích cho sự tu hành, vì nó làm tăng trưởng lòng nhân từ, làm hiện rõ đức tánh bình đẳng giữa muôn loài, và phù hợp với bản tâm thanh tịnh. Chỉ có lối ăn chay này mới có ý nghĩa và bền lâu. Chứ nếu vì sức khỏe, vì trả lời nguyện hay vì khoe khoang, tự ái mà ăn chay, thì khó có thể giữ được lâu bền, một khi sức khỏe đã bình phục, lời nguyện đã xong, hay tánh khoe khoang, tự ái được thỏa mãn. Người ăn chay với quan niệm cao cả trong sạch vì lòng từ bi bình đẳng, sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, không bao giờ hết.

7. Niệm Phật là một phương pháp tu: (Trừ tâm tán loạn, trở lại được thanh tịnh)

a. Có người niệm Phật với tâm lý ích kỷ tiêu cực, hẹp hòi, chỉ cầu cho được lợi ích riêng mình, vì thế phước báo cũng ít ỏi, nhỏ nhoi, hữu hạn thuộc về hữu lậu.

b. Người niệm Phật đúng cách, bao giờ cũng hiểu rằng niệm Phật như thế là để ghi nhớ những đức tướng của chư Phật, chư Bồ-tát, là để xóa lấp dần những ý nghĩ, những nhớ tưởng thấp thỏi, xấu xa của chúng sanh và thay thế vào đó những tư tưởng, đức tánh cao đẹp của chư Phật. Người hiểu cao hơn một bậc nữa, thì niệm Phật là để nhắc nhở cho mình nhớ lại tánh Phật (khả năng thành Phật) sáng suốt ngự trị sẵn trong mỗi chúng ta, như một viên ngọc quý, và cần phải trau chuốt, mài giũa hằng ngày cho nó sáng chói ra. Người niệm Phật với quan niệm cao thượng tốt đẹp như thế là hợp với bản tâm thanh tịnh của mình nên được phước vô lậu thanh tịnh, không bao giờ dứt tuyệt.

8. Tụng Kinh là một phương pháp tu: (Tụng kinh là để cho ba nghiệp được thanh tịnh)

a. Có người tụng kinh để cầu phước, cầu an, cầu tài, cầu lộc, cầu lợi, cầu danh. Có người tụng mà không để ý mình đang tụng gì, cứ nghêu ngao cho hết giờ, hết buổi, miệng đọc, tay quạt, mắt láo liên hết chỗ này qua chỗ khác, thiếu hẳn lòng thành kính. Tụng như thế chỉ được phước hữu lậu ở cõi trần gian này mà thôi.

b. Người tụng kinh đúng đắn, trước tiên phải có lòng thành kính, chú tâm vào những câu kinh mà mình đang tụng. Họ tụng để nhớ những lời Phật dạy và để cho những người chung quanh cùng nghe lời Phật dạy, cho nên họ cố gắng tụng một cách rõ ràng, nghiêm chỉnh, đúng đắn, không lầm lẫn. Họ tụng để cầu thanh tịnh ba nghiệp (thân, khẩu, ý) để thâu nhiếp vọng tâm, sanh định và phát huệ. Người tụng kinh với tâm thanh tịnh như thế, sẽ được phước vô lậu xuất thế gian, hưởng hoài không hết.

9. Trì chú là một phương pháp tu: (Để tiêu nghiệp chướng và làm cho thân tâm đưọc thanh tịnh)

a. Có người xem trì chú như là một phép thuật thần bí, chỉ cốt để trừ tà, trị bệnh, cầu tiêu tai giải ách. Với những quan niệm trì chú như thế, người tu hành sẽ được lợi lạc ở trần gian thuộc về phước hữu lậu.

b. Người trì chú đứng đắn, nhận thức rằng đây là một phương tiện tu để đoạn hoặc hiển chơn. Nhờ trì chú mà tâm được định, nhơn định mà phát huệ, nhờ huệ mà phá trừ hết vô minh, phiền não. Người trì chú với quan niệm trong trắng như thế, xứng với bản tâm thanh tịnh của mình, không xen lộn vào một chút gì phiền não ô nhiễm, nên được phước báo vô lậu thanh tịnh, hưởng mãi không cùng.

10. Sám hối là một phương pháp tu: (Ăn năn các lỗi lầm đã qua và ngăn ngừa tội lỗi sắp đến)

a. Có người sám hối với tâm niệm cầu xin tha thứ tội lỗi của mình với Phật như với một quan tòa. Và khi sám hối xong, họ có cảm tưởng được tha tội, vui vẻ trở về với nếp sống cũ, và rồi lại gây tạo tội lỗi nữa như trước! Có người sám hối để trả lễ. Có người sám hối vì thói quen, theo lệ, chứ chẳng có thành tâm thiện chí hối cải gì hết. Sám hối như thế được phước báo hữu lậu, lợi ích rất ít cho việc tu hành của mình.

b.- Người sám hối đúng ý nghĩa, trước tiên phải rất thành thật với mình. Họ trịnh trọng đến trước Phật để xin Phật chứng minh cho sự ăn năn, hối cải của mình, cho lời thệ nguyện quyết tâm bỏ lỗi trước và không tái phạm về sau, chứ họ không đến trước Phật vì lòng mong ước được Phật ân xá hay giảm tội, vì đức Phật không phải là một vị thần linh có nhiệm vụ cầm cân nẩy mực cho những tội phước ở đời. Theo thuyết nhơn quả thì không có người thưởng phạt, mà trong mỗi nguyên nhơn đã ngầm chứa một mầm thưởng phạt, nguyên nhơn lành thì kết quả tốt, nguyên nhơn dữ thì kết quả xấu. Sám hối là cốt để đừng quá thắc mắc, quá ưu tư với lỗi trước, làm loạn động sự yên tỉnh của lòng mình và nhất là để đừng phạm lại lỗi ấy về sau nữa. Nói một cách giản dị, thì sám hối cốt để diệt trừ tội lỗi và làm cho ba nghiệp được thanh tịnh. Sám hối với tâm niệm chơn chánh như trên thì được phước vô lậu, hưởng mãi đến vô tận.
Các lối tu thông thường trên đây, như đoạn đầu đã nói, không phải chỉ để dành riêng cho những người Phật tử sơ co, mà cho tất cả mọi Phật tử. Chỉ khác là đối với hàng sơ cơ thì thời gian thực hành ít hơn người đã ở lâu năm trong đạo. Sự thực hành nhiều hay ít còn tùy theo hoàn cảnh, sức lực và lòng phát nguyện. Nhưng điều quan trọng là cần phải hiểu rõ ý nghĩa của lối tu đó, rồi phát tâm Bồ-đề rộng lớn mà tu hành, thì kết quả mới rộng lớn và tốt đẹp. Muốn hiều rõ ý nghĩa và phương pháp tu thông thường này, quý vị nên đọc “Phật học phổ thông” khóa thứ nhất. Mỗi khi thực hành các lối tu đó, nếu chúng ta nhằm mục đích cao thượng, tâm niệm trong sạch, có những ý nghĩa rộng rãi, vị tha, từ bi, bình đẳng, ...vv thì mặc dù chúng ta thực hành ít mà phước báo vẫn nhiều và lâu dài (phước vô lậu). Trái lại, nếu chúng ta không hiểu rõ ý nghĩa đúng đắn của các lối tu đó hay nếu chúng ta đem một tâm lượng nhiễm ô, hẹp hòi, vị kỷ, nhắm một mục đích thiển cận mà tu hành, thì lẽ dĩ nhiên, chúng ta vẫn hưởng được phước báo, nhưng phước này không được lớn lao và lâu bền (phước hữu lậu).
Chúng tôi xin tóm tắt ở đoạn này. Nếu chúng ta đem tâm niệm phiền não nhiễm ô (tham, sân, si...) mà tu hay làm các việc phước thiện, thì sẽ được phước báo hữu lậu, chỉ giàu sang phú quí ở trần gian. Trái lại, nếu chúng ta đem tâm niệm trong trắng, tốt đẹp, thanh tịnh, cao thượng (từ bi, trí huệ ...vv) mà tu, hoặc làm các điều phước thiện, thì sẽ được phước báo vô lậu thanh tịnh, hưởng hoài không hết. Vậy, nếu quí vị là một độc giả đang đi tìm hiểu đạo Phật và muốn trở thành một Phật tử, thì chúng tôi mong quí vị hãy đọc lại kỹ ý nghĩa của các lối tu thông thường này, rồi phát tâm rộng lớn, cao thượng mà tu hành. Chúng tôi tin chắc rằng nếu quí vị làm theo lời khuyên của chúng tôi, thì mặc dù là người mới bước chân lên đường đạo, nhưng quí vị sẽ tiến rất nhanh và gặt được quả tốt đẹp rất sớm. Nếu quí vị là một Phật tử đã thực hành, lâu năm các lối tu hành đó, thì quí vị hãy đối chiếu xem xét lại trong các lối tu hành nói trên, quí vị thuộc vào hạng người thứ nhất hay thứ hai (nghĩa là hạng người nói ở mục a hay mục b) thì quí vị sẽ thấy mình được phước hữu lậu, giàu có sang trọng ...vv ở trần gian hay phước vô lậu thanh tịnh thuộc về xuất thế gian. Nếu trong cả các lối tu đó, quí vị thuộc vào hạng người thứ hai (mục b), thì chúng tôi xin bái phục quí vị, vì quí vị sẽ được giải thoát trong nay mai, nếu không thì cũng chắc chắn sẽ vãng sanh Tịnh độ. Nếu trong các lối tu đó, phân nửa quí vị thuộc về hạng người dưới (mục b), thì quí vị là một Phật tử trung bình. Nếu quí vị là một Phật tử nằm dưới mức trung bình quá (chỉ có một vài điểm giống hạng b thôi) thì quí vị hãy mau mau cải đổi lại tâm niệm tu hành của mình. Nhưng xin đừng hoảng hốt. Quí vị còn đủ thời giờ để cải đổi. Đức Phật có dạy: “Biển khổ mênh mông, nhưng nếu chúng ta quay đầu lại, thì bờ giác ngộ ở đấy rồi”.
Quí vị còn đủ thì giờ để làm cái cử chỉ quay đầu đó.
Trước khi ngừng bút, tôi xin quí vị hãy suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi trả lời câu hỏi sau đây: Con đường tu hành thứ hai trong BẢN ĐỒ TU PHẬT này có xa thực tế không? và đối với chúng ta có cần thiết không?

Xin chào quý vị và hẹn sẽ gặp lại trong “Bản đồ tu Phật” tập 2.

Nhập liệu : Chúc Huy Nguyễn Minh Hoàng

Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 2 Phần 6: Lời nói đầu (Tập 2) Thích Thiện Hoa (nhà xuất bản Hương Đạo tái bản tháng 11 năm 1971)

MƯỜI CON ĐƯỜNG TU CHUYÊN MÔN CỦA GIỚI TU SĨ

Trong tập thứ nhất của Bản đồ tu Phật, chúng tôi đã chỉ rõ con đường tu hành thông thường của quảng đại quần chúng và của giới Phật tử tại gia rồi. Bắt đầu từ tập thứ hai này, chúng tôi sẽ tuần tự nói đến mười con đường chuyên môn của giới tu sĩ, tức là mười tông phái trong Phật giáo.

Cách tu hành từ đây có phần khó hơn các lối tu trước, phải tốn nhiều thì giờ và mất nhiều công phu tu tập. Vì thế, chỉ những người ít bị cuộc đời hằng ngày ràng buộc như giới tu sĩ, hay những ai muốn đi sâu vào đạo mới hy vọng thực hành có kết quả.

Tuy thế, đã là Phật tử hay muốn thành Phật tử chơn chánh, chúng ta không thể mù mờ về những giáo phái của đạo Phật được. Mặc dù trong giới Phật tử ngày nay có một số đông vì cuộc đời ràng buộc chưa thể có đủ thì giờ và hoàn cảnh để thực hành trọn vẹn một trong mười tông phái trên, nhưng chúng ta hãy cứ tìm hiểu và làm theo phần nào để gieo nhân, rồi một ngày kia, khi đã đủ nhân duyên hãy tu tập hoàn bị hơn.

Thật ra trong rừng giáo lý mênh mông bát ngát của Phật giáo, không biết bao nhiêu là đường ngang ngả dọc, chứ không phải chỉ có 10 con đường này mà thôi. Nhưng đây là những con đường chánh, những đại lộ có thể đưa bộ hành đi đến đích mà không sợ lạc đường. Người học Phật biết được 10 con đường lớn này có thể nói là đã thấy được gần toàn diện khu rừng Phật giáo.

Theo các kinh sách Phật giáo, người ta thường liệt kê các tông phái trên theo thứ tự như sau:

Câu-xá tông, Thành thật tông, Luật tông, Pháp tướng tông, Tam luật tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Mật tông (hay Chân ngôn tông), Thuyền tông và Tịnh độ tôn. Nhưng sắp đặt như trên là đứng về phương diện thuần nghiên cứu, dựa trên giáo sử, đi từ Tiểu thừa đến Đại thừa.

Trong ‘Bản đồ tu Phật’ này, chúng tôi căn cứ theo trình độ hiểu biết, hoàn cảnh và nhu cầu thiết thực của đa số Phật tử Việt Nam, sắp đặt 10 tông theo thứ tự dưới đây. Chúng tôi sẽ tuần tự biên soạn và xuất bản theo thứ tự ấy, để quí vị Phật tử hiện đang cần những tông trên có trước những tài liệu mà nghiên cứu tu hành.

Luật tông (thuộc cả Tiểu thừa và Đại thừa)
Tịnh độ tông (thuộc Đại thừa)
Thiền tông (thuộc cả Tiểu thừa và Đại thừa)
Duy thức tông (thuộc Đại thừa, cũng gọi là Pháp tướng tôn)
Mật tông (thuộc Đại thừa, cũng gọi là Chơn ngôn tôn)
Pháp Hoa tông (thuộc Đại thừa, cũng gọi là Thiên Thai tôn)
Hoa Nghiêm tông (thuộc Đại thừa, cũng gọi là Hiền Thủ tôn)
Tam luật tông (thuộc Đại thừa, cũng gọi là Tánh không tôn)
Câu-xá tông (thuộc Tiểu thừa, cũng gọi là Hữu tôn)
Thành thật tông (thuộc Tiểu thừa)

Tóm lại, trong 10 tông này, Luật tông và Thiền tông thông cả Đại thừa và Tiểu thừa; Câu-xá tông và Thành thật tông chỉ thuộc về Tiểu thừa; sáu tông còn lại thuộc về Đại thừa.

Tuy Phật giáo có chia ra nhiều tông phái, hay nhiều con đường tu hành như trên, nhưng người tu hành muốn đi theo con đường nào cũng đều đến một mục đích là thành đạo, chứng quả. Cũng như nhà có nhiều ngõ, đi ngõ nào cũng đều vào nhà được cả. Tuy nhiên, ngõ có rộng, có hẹp, có dài, ngắn khắc nhau; con đường tu hành có khó, dễ, dài, ngắn không đồng. Hành giả kỹ lưỡng chọn lựa con đường nào thích hợp với hoàn cảnh của mình mà tu hành, mới mau thâu hoạch được kết quả tốt đẹp.

Trong mỗi tông, đều có rất nhiều kinh sách và phương pháp dạy bảo tu hành cũng rất tinh vi, có nhiều từng bực, thứ lớp. Hành giả phải tận tâm học tập và nghiên cứu mới thây suốt được, rồi hạ thủ công phu một cách kiên nhẫn dẻo dai, mới được thành công.

Hiện nay Phật giáo Việt Nam, kinh sách của 10 tông phái thì có tông rất nhiều, như Tịnh độ tông, Luật tông, Duy thức tông; có tông rất hiếm kinh sách như Mật tông, Tam luận tôn... Nói là hiếm, chứ không phải là không có, nếu muốn nghiên cứu hay tu hành thì tông nào cũng vẫn có đủ kinh sách để cung cấp cho chúng ta. Khổ một nỗi là những kinh sách ấy bằng chữ Hán, lý nghĩa lại rất thâm huyền súc tích, nếu không có một cái vốn Hán học vững vàng thì cũng khó mà thấu suốt được. Thêm nữa, chúng ta lại ít có những vị hướng dẫn uyên bác, chuyên môn để đưa đường chỉ lối. Có lẽ vì thế mà ở Việt Nam chúng ta, ít có Phật tử chuyên tu về một môn phái nào rõ rệt.

Nhận thấy cái khuyết điểm ấy, nên chúng tôi với khả năng và sức hiểu biết còn hạn lượng, cố gắng giới thiệu những con đường tu chuyên môn nói trên, tạm thời làm người hướng dẫn trong những bước đầu. Và chúng tôi hy vọng rằng nhờ những bước đầu đó, quí vị độc giả sẽ ham thích học hỏi và đi sâu dần vào các con đường tu, hướng dẫn những người đi sau, tạo thành những môn phái riêng biệt như ở Trung Hoa ngày xưa, và nhất là Nhật Bản bây giờ, mà tông phái nào cũng thịnh hành, có rất đông môn đồ như Thiền tông (mà tổ đình là chùa Tổng Trì); Tịnh độ tông (tổ đình là chùa Tăng Thượng); Pháp tướng tông (tổ đình là chùa Dược Sư, v.v.) Nếu Phật giáo Việt Nam mà được cái phong cách sung mãn hùng hậu như thế, thì vận mệnh đất nước đến thời kỳ rạng rỡ, hưng thịnh rồi vậy.

Soạn giả

THÍCH THIỆN HOA




Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 2 Phần 7: Luật tông Thích Thiện Hoa CON ĐƯỜNG TU PHẬT THỨ NHẤT TRONG 10 TÔNG

Luật tông

1. Duyên khởi lập tông

Tông này dùng Luật làm chỗ căn cứ, nên gọi là Luật tông. Đức Phật khi còn tại thế, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chế ra nhiều loại giới luật để răn dạy đệ tử, hóa độ chúng sinh. Sau khi Ngài nhập Niết-bàn, các đại đệ tử của Ngài, như Ưu-ba-li là vị tinh thông về giới luật, đứng lên pháp tọa trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất, để tụng đọc lại những giới luật mà đức Phật đã chế ra. Lần kết tập này chưa biên chép thành kinh điển, nên ngài Ưu-ba-li phải đọc đi đọc lại đến 80 lần, đến nỗi mỗi người trong hội nghị đều thuộc lòng. Do đó, mới có tên gọi là “bát thập tụng luật”. Về sau, tuần tự theo thời gian, nguyên thủy Phật giáo lần hồi chia ra làm nhiều nhánh, hay bộ phái. Mỗi bộ phái đều theo một bộ luật riêng. Trong số các bộ luật này, bộ được nói đến và áp dụng nhiều nhất là các bộ: Thập tụng, Tứ phần, Tăng ký, Ngũ phần.

Những bộ luật này được truyền sang Trung Hoa và phiên dịch ra Hán văn. Đến đời Đường, ngài Trí Thủ luật sư chú giải các bộ ấy, và đệ tử của ngài là Đạo Tuyên luật sư, nhận thấy trong các bộ ấy, bộ luật Tứ phần là thích hợp với căn cơ người Trung hoa, nên đã căn cứ vào bộ luật này để lập ra Luật tông. Ngài ĐạoTuyên là người ở Chung Nam sơn, nên người đời cũng gọi tông này là “Chung Nam sơn tôn”, để phân biệt với các Luật tông khác, như của các ngài Pháp Lệ bên phái Hữu tướng bộ, hay ngài Hoài Tố ở Đông Pháp.

Trong các tông này, chỉ có Luật tông của ngài Chung Nam sơn là thạnh hành hơn hết và được truyền bá cho đến bây giờ, vì nó dung hòa cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa.

2. Tông chỉ và đặc điểm của Luật tôn

Phàm một tổ chức, một công việc gì đúng đắn cũng đều phải tuân theo những quy luật nhất định. Hơn tất cả, sự tu hành lại càng phải tuân theo những giới luật nghiêm minh. Như chúng ta đã biết trong giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh. Nghiệp định đoạt tất cả đời sống của chúng ta. Nghiệp có ba loại: nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các ác, thì ta không thọ quả báo sanh tử luân hồi. Không có quả báo sanh tử luân hồi thì tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật. Giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chế ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tử chúng ta:

Giữ giới không sát nhơn hại vật, hiện đời không làm người hung dữ, khỏi bị tù tội, về sau khỏi đọa trong ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và khỏi bị người giết hại, đó là tu.

Giữ giới không trộm cướp, thì hiện đời làm người lương thiện, khỏi bị giam cầm xiềng xích, đời sau không mắc quả báo, bị người giựt của cướp đồ, đó là tu.

Giữ giới không tà dâm, hiện thời thành người tốt, gia đình mình và người không bị rầy rà đánh đập, khổ sở vì ghen tương, đó là tu.

Giữ giới không nói dối, không nói láo xược, thèo lẽo, thêm bớt, đâm thọc, không nói hung ác và thô tục, thì không bị người khinh khi, lại được sự kính trọng, đó là tu.

Giữ giới không cờ bạc, hút xách, rượu chè, thì khỏi mất tiền, thiếu nợ, khỏi say sưa, làm điều tội lỗi và khỏi bị người khinh bỉ, trí huệ tăng trưởng, đó là tu.

Nói một cách tổng quát, giữ một giới là ngăn ngừa một điều tội lỗi, và thêm một điều tốt; giữ nhiều giới là ngăn ngừa được nhiều điều tội lỗi và thêm được nhiều điều tốt. Bởi thế, nên giữ giới luật là phương pháp tu không xa thực tế và rất cần thiết cho các Phật tử cầu đạo giải thoát.

Nhờ giữ giới luật không làm các việc tội lỗi, nên tâm được “định”; do tâm định nên phát sanh ra trí tuệ sáng suốt. Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh, si ám và minh tâm kiến tánh thành Phật.

Người tu tại gia có giữ giới, mới thành Phật tử chơn chánh. Người xuất gia thọ Sa-di, có giữ giới mới là chơn tu. Thầy tỳ-kheo có giữ giới mới là Tỳ-kheo thanh tịnh. Bồ-tát có giữ giới mới là chơn Bồ Tát. Bởi thế nên trong ba môn vô lậu học (giới, định, huệ), “giới” là đứng đầu hết cả.

Tông này sở dĩ lập ra là nhằm vào lợi ích thiết thực và chắc chắn của giới luật, như đã trình bày ở trên.

3. Các loại giới luật

Giới luật có nhiều từng bực, tùy theo căn cơ, tùy theo giới tu sĩ, tùy theo sự phát nguyện của kẻ tu hành mà áp dụng. Nhưng nói một cách tổng quát thì giới luật có thể phân chia làm hai loại lớn là: giới luật của Tiểu thừa và giới luật của Đại thừa.

Những giới luật nào có tánh cách tiêu cực, tư lợi, chỉ có mục đích chính là tránh tội lỗi cho riêng mình là thuộc về giới Tiểu thừa. Tất nhiên trong khi giữ giới cho riêng mình, thì người khác cũng được lợi, như giữ giới không trộm cướp, thì mình được lợi là kềm giữ lòng tham, mà người khác cũng được lợi là khỏi phải bị cái khổ vì tiếc của đã mất. Mặc dù thế, giới không trộm cướp cũng chỉ liệt vào giới Tiểu thừa, vì trong khi giữ cho mình; còn cái lợi cho người chỉ là ảnh hưởng gián tiếp của người ấy. Những giới như: Ngũ giới (năm giới chế cho người tại gia); Bát quan trai giới (tám giới chế cho người tại gia tập sống như người xuất gia); Sa-di và Sa-di-ni giới (10 giới chế cho người mới xuất gia); Thức-xoa (sáu điều nữ học giới); Tỳ-kheo giới (250 giới) và Tỳ-kheo-ni giới (348 giới) là những giới thuộc về Tiểu thừa.

Những giới luật nào có tánh cách tích cực, nhằm vào mục đích lợi tha hơn tư lợi thì thuộc vào Đại thừa giới. Những giới thuộc Đại thừa như: 10 giới trọng và 48 giới khinh của Bồ-tát; Tam tụ tịnh giới (gồm có: Nhiếp luật nghi giới là không làm các việc ác; Nhiếp thiện pháp giới là làm những việc lành; Nhiêu ích hữu tình giới là làm ích lợi cho chúng sinh, như làm các việc có tánh cách từ thiện, xã hội, v.v...)

Nếu đứng về phương diện hành trì mà phân loại, giới luật lại có thể chia làm hai phần lớn: một thuộc về chỉ trì, nghĩa là ngăn dứt các ác nghiệp; một thuộc về tác trì, nghĩa là hành động theo các thiện nghiệp.

Về chỉ trì, có hai bộ giới bổn:

Tỳ-kheo giới bổn, gồm có 250 giới, chia làm tám nhóm là: 1/ Ba-la-di (bốn giới), 2/ Tăng tàn (13 giới), 3/ Bất định (hai giới), 4/ Xả đọa (30 giới), 5/ Đơn đọa (90 giới), 6/ Đề-xá-ni (bốn giới), 7/ Chúng học (100 giới), 8/ Diệt tránh (bảy giới). Hai trăm năm mươi giới này, có thể chia thành tám nhóm như trên, nhưng cũng có thể tùy nghi chia là năm nhóm (ngũ thiên), sáu nhóm (lục tụ), hay bảy nhóm (thất tụ).

Tỳ-kheo-ni giới bổn gồm có 348 giới chia làm bảy nhóm là: 1/ Ba-la-di (tám giới), 2/ Tăng tàn (17 giới), 3/ Xả đọa (30 giới), 4/ Đơn đọa (178 giới), 5/ Đề-xá-ni (tám giới), 6/ Chúng học (100 giới), 7/ Diệt tránh (bảy giới). Ba trăm bốn mươi tám giới này, có thể chia làm bảy món như trên, nhưng cũng có thể tùy nghi chia thành năm nhóm, sau nhóm hay bảy nhóm như bên tăng.

(Ghi chú: Chúng tôi chỉ giới thiệu những danh từ của các giới luật tăng, ni chứ không nói rõ hơn, vì theo luật Phật, người thọ giới ở cấp bực nào thì chỉ biết giới luật của cấp bậc ấy mà thôi.)

Giới Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni trên này gọi là Cụ túc giới, nghĩa là những giới đem lại người thọ vô lượng giới hạnh phước đức. Nhưng 250 hay 348 giới chưa phải nhiều. Đó chỉ là mới tóm thâu những giới luật chính, làm giềng mối cho sự trì phạm mà thôi. Nếu kể cho hết giới luật thì về “lượng” sánh đồng hư không, về “cảnh” lại lan khắp cả pháp giới. Nếu kể về bực trung, thì bên Tăng có đến 3.000 oai nghi, 80.000 tế hạnh; bên Ni có đến 80.000 oai nghi 120.000 tế hạnh.

Vì sao Phật lập ra nhiều giới như thế? Vì mỗi một giới là ngăn ngừa một điều tội lỗi, mà con người chúng ta là phàm phu, từ tâm niệm cho đến hành vi, có không biết bao nhiêu điều tội lỗi, nên Phật phải chế ra có vô số giới luật để ngăn ngừa.

Về tác trì, gồm có 20 kiền-độ. Kiền-độ nghĩa là phẩm loại, điều luật (Khanda). Hai mươi kiền-độ là: Thọ giới kiền-độ, Thuyết giới kiền-độ, An cư kiền-độ, Tự tứ kiền-độ, v.v. Sự chia ra Chỉ trì và Tác trì là cốt cho dễ phân biệt trong khi giữ giới, chứ thật ra nói một cách rốt ráo thì trong chỉ có tác, trong tác có chỉ, không thể nói một cách dứt khoát được.

4. Các danh từ và phương pháp thực hành cần biết

Như chúng ta đã thấy ở trên, giới luật của Phật chế ra rất nhiều; do đó, danh từ chuyên môn và cách thức giữ giới cũng rất phức tạp. Vậy muốn giữ giới được kết quả, trước tiên phải biết những điều sau đây:

Sao gọi là “danh, chủng, tánh, tướng”? Danh là tên (danh từ) nghĩa là tên mỗi giới, như “bất sát sinh, bất thâu đạo”, v.v. Chủng là chủng loại, hay nhóm; như chúng ta đã thấy ở phần chia các giới của Tăng, Ni: Ba-la-di, Tăng tàn, v.v. Tánh là tâm tánh, là tánh chất ở bên trong; như người giữ giới, trong tâm niệm không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng, v.v., hoặc thấy người phạm cũng không sanh tâm vui mừng hay liên tưởng đến. Giữ gìn tâm tánh ở bên trong được thanh tịnh như vậy, gọi là “tánh giới”. Tướng là hình tướng ở bên ngoài; như bên trong đã không nghĩ đến sát sanh, trộm cướp (tánh giới) v.v., mà bên ngoài cũng không thực hiện những điều tội ác ấy, gọi là “tướng giới”.

Tóm lại, mỗi khi phạm một điều tội lỗi, người giữ gìn giới phải biết tội ấy tên là gì (danh), sát hay đạo, v.v., thuộc về loại nào (chủng) Ba-la-di hay Tăng tàn, v.v., thuộc về nội tâm (tánh) hay ngoài thân (tướng), và cuối cùng hành giả phải biết tội ấy, theo luật, phải trị phạt như thế nào mới được thanh tịnh?

Sao gọi là “khai, giá, trì, phạm”? Khai là mở, cho làm. Giá là ngăn cấm, không cho làm. Như khi Phật còn tại thế, Ngài cấm các vị Tỳ-kheo leo cây; đó là “giá”. Nhưng về sau, có vị Tỳ-kheo đi vào rừng, bị ác thú rượt, mà không dám leo lên cây để tránh, vì sợ phạm giới, và cuối cùng phải bị ác thú hại. Từ đó Phật dạy “nếu có duyên sự thì được leo cây” như thế gọi là ‘khai’. Một thí dụ thứ hai: người Phật tử phải giữ gìn không uống rượu; đó là “Giá”. Nhưng khi bị bịnh nặng, nếu cần rượu hòa vào thuốc, uống mới lành bệnh, thì tạm được dùng; đó là “Khai”. Nhưng trước khi uống, phải bạch với chư Tăng.

Trì là giữ gìn; như khi đã thọ giới mà giữ gìn cho được thanh tịnh thì gọi là “Trì”. Phạm là phạm giới; như đã thọ giới rồi mà không giữ gìn giới thì gọi là “Phạm”.

Tóm lại, trong khi tu hành giữ giới luật, hành giả luôn luôn quan sát mỗi một hành vi hằng ngày của mình, xét xem một cách sáng suốt thế nào là “Trì”; thế nào là “Phạm”; trong trường hợp nào, và giới nào được “Khai”; trong trường hợp nào và giới nào không được “Khai”, v.v... Nói một cách tổng quát, khi đã thọ giới thì phải “Trì”. Nếu không “Trì” là “Phạm”. Tuy thế, nếu vì lòng từ bi, vì lợi ích chung, hay vì trí tuệ thúc đẩy, thì có thể “Khai” mà không phạm tội. Nhưng nếu vì tâm nhiễm ô, vì phiền não thúc đẩy mà “Khai” thì là “Phạm”.

Sao gọi là “chỉ trì, tác phạm và tác trì, chỉ phạm”? Chỉ trì là nói về phương diện các điều ác quyết giữ gìn không gây tội lỗi. Tác phạm là nói về phương diện các điều ác, đáng lẽ phải giữ gìn, mà lại không giữ được, cho nên phải phạm tội lỗi. Tác trì là nói về phương diện các điều thiện cần phải làm, mới là giữ giới. Chỉ phạm là nói về phương diện các điều thiện, nếu đình chỉ không làm, là phạm giới. Thí dụ: Về tội ăn trộm, nếu không làm là chỉ trì, nếu làm là tác phạm. Trái lại, về hạnh bố thí, nếu làm là tác trì, nếu không làm là chỉ phạm.

Sao gọi là tánh tội và giá tội, hay tánh giới và giá giới? Tánh tội là tội sẵn có trong bản tánh chúng sanh, như sát, đạo, dâm, vọng. Bổn tánh này có sẵn trong tâm tánh chúng sanh từ vô thỉ đến nay, hễ có chúng sanh là có chúng nó. Mỗi người, không cần ai dạy bảo, không cần học tập, đều biết sát, đạo, dâm, vọng. Vì thế cho nên gọi là tánh tội.

Giá tội là tội không sẵn có trong bản tánh, nhưng do hoàn cảnh, do tập nhiễm mà phát sinh; như tội uống rượu chẳng hạn. Nói một cách tổng quát, ngoài bốn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng, còn bao nhiêu tội khác đều thuộc giá tội cả.

Tánh giới là giới từ bản tánh, để ngăn ngừa bổn tánh tội là sát, đạo, dâm, vọng. Giới này rất quan trọng, nhưng cũng rất khó giữ. Giữ được bốn giới này thì sự tu hành tất sẽ kết quả và con đường giải thoát chắc chắn sẽ chờ đón hành giả.

Giá giới là để ngăn ngừa tội lỗi do hoàn cảnh huân tập mà phát sinh. Những giới này ít quan trọng hơn những giới trên. Nhưng muốn giữ được tánh giới một cách ít khó khăn, phải cần giữ giá giới. Như người muốn đốn cây đại thụ, trước tiên phải chặt dần ngành ngọn; như người dụng binh giỏi, trước khi muốn chiếm một đô thị lớn, phải ngăn chận các con đường đi vào đô thị ấy.

5. Kết luận

Như chúng ta đã rõ, mục đích của giáo pháp mà đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta là để được minh tâm, kiến tánh và thành Phật. Tất cả các tông phái, mặc dù có chủ trương và đặcđiểm khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng cũng đều là một: Giác ngộ và thành Phật.

Luật tông cũng không đi ra ngoài mụcđích trên, mặc dù phương pháp có khác. Phần nhiều các tông khác thì phải hiểu rồi mới tu; Luật tông, trái lại, chủ trương: hãy tu đi rồi sẽ hiểu, hãy giữ gìn giới luật cho nghiêm chỉnh, thì tâm sẽ định tĩnh, thanh tịnh; tâm đã thanh tịnh, thì trí huệ sẽ sáng suốt, chân tâm sẽ hiện bày, Phật tánh sẽ phát lộ.

Thật là một chủ trương rất thiết thực, mà kết quả lại chắc chắn! Những kẻ học rộng biết nhiều mà không giữ giới cũng chẳng khác gì ngọn đèn trước gió, có thể sáng lắm, nhưng không biết sẽ tắt khi nào. Trái lại, kẻ học ít biết hẹp mà giữ giới một cách chân thành, thì cũng như ngọn đèn có ống khói, khi mới thắp còn lu, nhưng không tắt, và càng cháy lâu càng sáng tỏ.

Vì những lý lẽ trình bảy ở trên, Luật tông đều thích hợp với mọi căn cơ, nhất là với những căn cơ chậm lụt. Ở đời chúng ta thường thấy phần nhiều những người có căn trí lanh lẹ, hiểu nhanh biết lẹ, nhưng vì hay ỷ vào sức mình, không chịu đặt mình vào khuôn phép kỷ luật, nên cuối cùng, chẳng thu hoạch được kết quả gì tốt đẹp cả. Trái lại, những kẻ có căn trí tầm thường, nhiều khi chậm lụt nữa, nhưng lại dễ thành công trên đường đời cũng như trên đường đạo, vì họ biết thủ phận, chịu khó khép mình vào kỷ luật, không tự mãn, tự cao. Những đệ tử của Phật, có ai có một địa vị xã hội hạ tiện (đi gánh phân) và một căn trí thấp thỏi như ngài Ưu-ba-li? Thế mà ngài Ưu-ba-li đã trở thành một đại đệ tử của Phật, đã thành một bậc hiền thánh, chỉ nhờ nghiêm trì giới luật! Chúng ta đây, địa vị xã hội và căn trí chắc chắn không kém ngài Ưu-ba-li, lẽ nào chúng ta không thu hoạch được thành quả tốt đẹp như ngài, nếu chúng ta cũng tập nghiêm trì giới luật như ngài?

Trước khi chấm dứt về tông này, chúng tôi xin mời quí Phật tử hãy suy xét kỹ lưỡng và tự trả lời mấy câu hỏi giản dị sau đây: Tu như thế này có cầu kỳ, xa thực tế không? Đối với mình, con đường tu về Luật tông trong “Bản đồ tu Phật” này có cần thiết, thích hợp với mình không?

HẾT PHẦN LUẬT TÔNG


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 2 Phần 8: Tịnh độ tông Thích Thiện Hoa CON ĐƯỜNG TU THỨ HAI TRONG 10 TÔNG

Tịnh độ tông

Con đường tu thứ hai trong 10 tông là Tịnh độ tông. Tông này thuộc về Đại thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật để cầu vãng sanh về cảnh Tịnh độ của Phật A-di-đà. Do đó, tông này mới có tên là Tịnh độ tông.

Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dễ tu, dễ chứng, rất thích hợp với đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, cũng có thể tu chứng được cả. Nếu đem so sánh với con đường đi, thì tông này là một đại lộ bằng phẳng, rộng rãi mát mẻ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường.

Bởi những lẽ ấy, từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt Nam chúng ta, ngày xưa cũng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tông này. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn tập sách nhỏ này để giới thiệu “con đường tu hành thứ hai” trong mười tông phái của Phật giáo.

1. Duyên khởi lập tông

Tịnh độ tông căn cứ vào những kinh điển gì để thànhlập? – Kinh điển mà Tịnh độ tông đã y cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu đến thôi. Đó là các bộ:

Kinh Vô Lượng Thọ: Kinh này chép lại 48 lời thệ nguyện của Phật A-di-đà, ấy là: Sau khi thành Phật, Ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Ngài.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Kinh này chép rõ 16 phép quán và chín phẩm, để được vãng sanh về cõi Tịnh độ.

Kinh Tiểu bổn A-di-đà: Kinh này lược tả cảnh giới cõi Cực Lạc (Tịnh độ) khiến người sinh lòng hâm mộ, phát nguyện tu theo pháp môn “trì danh niệm Phật” cho đến “nhất tâm bất loạn” để được vãng sanh về cõi ấy.

Ba kinh trên này là ba kinh chính; cổ nhân thường gọi là “Ba kinh Tịnh độ”. Ngoài ra còn các kinh khác như:

Kinh Bửu Tích, chép việc đức Phật vì vua Tịnh Phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn “trì danh niệm Phật” để dạy cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc.

Kinh Đại bổn A-di-đà, kinh Thập lục quán, kinh Ban Châu niệm Phật, kinh Bi Hoa, kinh Phương Đẳng, kinh Hoa Nghiêm, v.v...

Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Đông Tấn nhờ ngài Huệ Viễn đại sư ra công hoằng dương, tông này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như ngài Đàm Loan, ngài Đạo Xước, ngài Thiện Đạo, v.v..., đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.

2. Bốn loại tịnh độ

Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Đứng về phương diện tính chất, từ tế đến thô, có thể chia làm bốn loại Tịnh độ sau đây:

Thường tịch quang Tịnh độ: Đây là cảnh giới mà pháp thân Phật an trụ. “Thường” là không thay đổi, không sanh diệt tức là Pháp thân Phật; “Tịch” là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; “Quang” là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quí báu của Phật là thường, tịch và quang, cho nên gọi là “Thường tịch quang Tịnh độ”. Cảnh tịnh độ này không hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh “thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh”, nên gọi là “thường tịch quang Tịnh độ”. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi, thì thân và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà tạm gọi là có thân có độ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về thân thì gọi là “Pháp thân”, còn đứng về độ, thì gọi là “Thường tịch quang Tịnh độ”.

Kinh Tịnh Danh, về lời sớ, có chép: “Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi “Thường tịch quang Tịnh độ”.

Thật báo trang nghiêm Tịnh độ: Hành giả phải trải qua ba vô sô kiếp tích công lũy đức, do phước báo tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn thật, nên gọi là “Thật báo trang nghiêm Tịnh độ”. Cảnh giới Tịnh độ này, là chỗ ở của Báo thân Phật.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ về lời sớ có chép: “tu tập chơn thật, cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là “Thật báo trang nghiêm”. Bên Đại thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên Đại thừa Biệt giáo, thì đây là cõi của các bậc từ Thập địa cho đến Đẳng giác Bồ Tát.

Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Đây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), nhưng còn dư lại hai hoặc là vô minh hoặc là trần sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là “hữu dư”. Đã là “hữu dư” tức chưa phải hoàn toàn cứu cánh, nên gọi cõi Tịnh độ này là “Phương tiện hữu dư Tịnh độ”.

Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Đây tức là cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà ở Tây phương. Đã gọi là Tịnh độ, hay Cực Lạc, tất nhiên có đủ các đức thanh tịnh, trang nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiên nhơn (thánh) cùng sống chung với các chúng sanh mới vãng sanh, chưa chứng được quả thánh (còn phàm) nên gọi là “phàm thánh đồng cư Tịnh độ”.

Vì phần đông tín đồ Phật giáo Việt Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà, nên ở đây chúng tôi xin căn cứ theo kinh “Tiểu bổn A-di-đà”, thuật lại lời đức Phật Thích-ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: “Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Vị giáo chủ ở thế giới ấy là Phật A-di-đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có bảy lớp câu lơn (tường hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có “hồ thất bảo” đầy “nước tám công đức”. Đáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm bằng thất bảo.Trên không trung, hòa lẫn trong những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu do Phật hóa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng pháp nhiệm màu.Cảnh giới Cực Lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A-di-đà là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ Tát, thánh chúng chung nhau tạo thành”.

Chữ A-di-đà, người Trung Hoa dịch là “Vô lượng thọ”, hay “Vô lượng quang”, nghĩa là đức Phật này sống lâu không lường và hàoquang sáng chói không lường.

3. Ba yếu tố để cầu sanh về tịnh độ

Muốn được vãng sanh về cõi Tịnh độ nói trên, hành giả phải chuẩn bị đủ ba yếu tố sau đây là: Tín, Hành và Nguyện. Ba yếu tố này thường được gọi ba món tư lương; nếu thiếu một món nào cũng không thể tu hành có kết quả.

Thế nào là Tín? Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được. Đức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Tin là mẹ sanh ra các công đức”. Nhờ đức tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu được.

Tin có ba phần:

Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy Hằng sa thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin rằng do lòng từ bi muốn cứu khổ sanh tử luân hồi cho chúng sanh mà Phật Thích-ca nói pháp môn niệm Phật để chúng sanh thực hành theo mà được vãng sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của đức Phật Thích-ca không hư dối, đức Phật A-di-đà và cảnh Tịnh độ đều có thật.

Tin pháp: Tin rằng pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyện của Phật A-di-đà có đầy đủ hiệu lực để cứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà.

Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp môn này. Tin rằng nếu mình thật hành đúng như lời Phật Thích-ca đã chỉ dạy trong kinh A-di-đà, chuyên trì danh hiệu Phật A-di-đà cho đến “nhất tâm bất loạn” thì khi lâm chung chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.

Thế nào là “nguyện”? Nguyện là lời hứa hẹn, sự ao ước, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là như sức hút của đá nam châm, là như cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, là như cái chong chóng của chiếc máy bay. Nguyện là như động cơ thúc đẩy cho người tu hành mau đến mục đích.Nguyện quan trọng như thế, nên hành giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà.

Để có một ý niệm về chữ nguyện, chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện trong 48 lời nguyện của Phật A-di-đà khi Ngài còn làm PhápTạng Tỳ-kheo:

“Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương, một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm nếu không đặng vãng sanh, thời ta thề không thành bậc Chánh giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh pháp”.

“Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp giới phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, một lòng phát nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, nếu như ta không cùng với đại chúng vây quanh hiện ra ở trước mắt, thời ta thề không thành bậc Chánh giác”.

“Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thời ta thề không thành bậc Chánh giác”.

Thế nào là “Hành”? Hành là thực hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ là ước ao mong muốn hảo huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, tín, nguyện, hành ba yếu tố căn bản này bao giờ cũng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đứng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.

4. Phương pháp tu về tịnh độ

Sau khi đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rõ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp môn niệm Phật là một pháp môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật cũng có nhiều cách, nhiều loại, mà chúng tôi xin dẫn một ít phương pháp ra sau đây:

Trì danh niệm Phật: Trong lối niệm Phật này, hành giả chỉ chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Phật A-di-đà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngủ, hành giả phải nhớ niệm luôn, không cho xen hở. khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi đi ngủ, hành giả cần phải theo phương pháp “kinh hành niệm Phật” (xem nghi thức kinh hành niệm Phật có phụ sau đây) hay “tọa thiền niệm Phật” (xem nghi thức tọa thiền có phụ sau đây). Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hướng cầu sanh về Tịnh độ.

Tham cứu niệm Phật: Trong lối tu này, hành giả phải tham khảo cứu xét, suy nghiệm câu niệm Phật, như khi niệm “Nam-mô A-di-đà Phật”, hành giả phải quán sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là ai niệm, v.v... Nhờ sự chuyên tâm chú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, sóng vọng tưởng dần dần chìm lặng, nước định tâm hiện bày, hành giả được “nhất tâm bất loạn”, đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh giới của Phật. Phép niệm Phật này giống phép tham cứu câu “thoại đầu” bên Thiền tông, nên gọi là tham cứu niệm Phật.

Quán tượng niệm Phật: Trong lối tu này, hành giả chăm chú quán sát hình tượng của Phật. Hành giả ngồi trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quán sát các tướng tốt mà liên tưởng đến các đức tánh của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật thì liên tưởng đến trí huệ, khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật thì liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ xả của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành giả phai dần, nhờ quán từ bi của Phật mà tánh Sân của hành giả bớt dần... Hễ quán thêm một đức tánh của Phật, thì một tánh xấu của hành giả được bớt đi. Tánh xấu của hành giả như vết mực, tia sáng mặt trời càng chiếu nhiều và càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng Phật, mà các đức tánh như từ bi, hỷ xả sẽ thanh tịnh lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng sanh về cõi Phật.

Quán tưởng niệm Phật: Trong lối tu này, hành giả ngồi yên một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành giả vẫn quán tưởng như có đức Phật A-di-đà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, cũng tưởng mình ngồi trên tòa sen, được Phật tiếp dẫn. Hành giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi cũng không dừng nghỉ, cho đến khi nào mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy được Phật, tức là phép quán đã thuần thục. Khi lâm chung, hành giả chắc chắn sẽ được vãng sanh Tịnh độ. Kinh Quán Phật tam-muội chép rằng: “Phật vì phụ vương, nói pháp quán tưởng bạch hào...”. Quán tưởng bạch hào nghĩa là quán tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu giữa hai chân mày của Phật như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu-ly. Đây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.

Thật tướng niệm Phật: Thật tướng niệm Phật là pháp niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, bình đẳng như không hư giả, cho nên gọi là “thật tướng”.

Trong năm phép niệm Phật trên này, bốn phép trước đều thuộc về Sự, có niệm, có tu; còn phép thứ năm (thật tướng niệm Phật) thuộc về Lý, không còn niệm, còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo. Nhưng, hành giả luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự, Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn phép niệm Phật trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bỉ thử, không hữu, không vô. Đến chỗ này, kinh A-di-đà gọi là “được nhất tâm bất loạn”. Kinh Tứ thập nhị chương cũng chép: “niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm”.

Trong năm phép niệm Phật trên này, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ thường lựa pháp môn Trì danh, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào cũng tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.

5. Lợi ích của phép niệm phật

Lợi ích của phép niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về Lý.

Lợi ích về sự:

a/ Niệm Phật sẽ trừ được các phiền não: Những người gặp các cảnh khổ như tử biệt sanh ly, nhà tan của mất, tai nạn bất thường, v.v., sanh các phiền não; nếu biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khổ đau sẽ dần dần tiêu tan hết. Vì sao lại có kết quả tốt đẹp như thế? Vì tâm ta cũng như dòng nước luôn luôn chảy, nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở thành đục bẩn, nếu chúng ta pha vào những chất thơm tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Tâm ta nếu chỉ nhớ nghĩ đến những tai nạn, khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì cố nhiên ta sẽ nhớ Phật, quên đau khổ. Đem sự nhớ Phật này thế cho cái nhớ sự khổ đau, một giờ niệm Phật thì đổi được một giờ sầu khổ, một ngày niệm Phật thì đổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, buồn phiền đau khổ sẽ giảm đi chừng ấy. Cho nên cổ nhân có câu: “một câu niệm Phật giải oan khiên”.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp vừa qua, tôi đã đem phương pháp niệm Phật này chỉ cho một số đồng bào bị lảng trí vì thất tình hay mất của, và kết quả thu lượm rất tốt đẹp.

b/ Niệm Phật sẽ trú được niệm chúng sanh: Chúng sanh hằng ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si, v.v., miệng thốt ra những lời ác độc, thân thực hành những ý niệm xấu xa. Đó là những ác nghiệp trên nữa. Như thế niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh. Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì niệm chúng sanh dứt sạch.

c/ Niệm Phật sẽ làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn: Bệnh tật của chúng ta một phần do thể xác, nhưng một phần cũng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn, bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã, v.v. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bịnh, mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng tâm can chúng ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thân tâm ta sẽ được nhẹ nhàng, dễ chịu. Những người yếu tim nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim, thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ, may nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sự hồi hộp lo nghĩ sẽ giảm đi. Do đó mà ăn được, ngủ yên, và bệnh mau bình phục.

d/ Niệm Phật, tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ: Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bốn phía bị gió tạt, không sáng được. Nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ chiếu sáng, như ngọn đèn tỏa ánh sáng vậy.

đ/ Niệm Phật khi lâm chung sẽ được sanh về Tịnh độ: Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta đã thấy nhiều lợi ích thiết thực trong đời sống hiện tiền, về phương diện thể chất lẫn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến “nhất tâm bất loạn” thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ, được luôn luôn thấy Phật, nghe pháp, làm bạn với thánh hiền Tăng, và có nhiều thiện duyên, để tiếp tục tu hành cho đến quả Phật.

Lợi ích về lý:

Khi hành giả niệm Phật được “nhất tâm bất loạn”, thì các vọng tưởng hết, chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là Thường, thanh tịnh vắng lặng là Tịch, sáng suốt vô cùng là Quang. Cảnh “Thường tịch quang Tịnh độ” là đây, chứ không đâu khác. Lại nữa chơn tâm không hoại diệt là “Phật Vô Lượng Quang” và đó cũng tức là “Thanh tịnh diệu pháp thân của Phật A-di-đà”.

Tóm lại, người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật A-di-đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa. Bởi thế nên kinh chép: “Tự tánh A-di-đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.

6. Sự quy ngưỡng và cầu sanh về tịnh độ của các vị Bồ Tát và tổ sư

Chúng ta đừng tưởng rằng pháp môn Tịnh độ là một pháp môn dễ dàng, giản dị chỉ để cho những người căn trí thấp thỏi, hẹp hòi tu hành mà thôi. Thật ra, mặc dù pháp môn này không đòi hỏi hành giả có một sự hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng; nhưng vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn, nên từ xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ Tát và tổ sư đã thực hành pháp môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Văn-thù-sư-lợi là một vị Bồ Tát có một trí huệ tối thắng, không ai sánh kịp, thế mà cũng phátnguyện sanh về nước Cực Lạc của Phật A-di-đà. Như ngài nguyện:

“Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời,
Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại,
Diện kiến bỉ Phật A-di-đà
Tức đắc vãng sanh An Lạc sát”.

(Tôi nguyện đến khi lâm chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mắt thấy được Phật A-di-đà, liền được vãng sanh về cõi An Lạc).

Các vị Bồ Tát như ngài Phổ Hiền, Quán Âm, Đại Thế Chí cũng đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ. Sau nữa, các vị đại sư danh tiếng ở Trung Hoa, như ngài Đàm Loan, ngài Đạo Xước, ngài Thiện Đạo, ngài Thừa Viễn, ngài Pháp Chiếu, ngài Thiếu Khương, ngài Tĩnh Am, v.v., đều dùng pháp môn này để tự độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay.

7. Kết luận

Chúng ta đã biết qua tông chỉ, đặc điểm của phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh độ tông. Đến đây, chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ lưỡng, xem con đường tu về Tịnh độ tông này, có thiết thực lợi ích và có thích hợp với mình hay không. Trong giây phút quan trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu nhận thấy con đường này rõ ràng không thích hợp với mình, thì chúng ta có quyền chờ đợi và lựa chọn một tông khác. Nhưng nếu nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi ích chắc chắn cho đời ta trong hiện tại và mai sau, thì ta đừng chần chờ gì nữa, hãy hạ thủ công phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món tư lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh tấn thực hành các phương pháp niệm Phật.

Với một thái độ thiết tha chân thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn”.



HẾT PHẦN TỊNH ĐỘ TÔNG




Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 2 Phần 9: Nghi thức tọa thiền niệm Phật Thích Thiện Hoa Hành giả súc miệng, rửa tay sạch sẽ, y phục tề chỉnh, ngồi trước bàn Phật hoặc ở trong phòng riêng hay trong mùng, chỗ nào mát mẻ và không muỗi, là tiện hơn hết. Hành giả ngồi kiết già hay bán già cũng được, ngồi thẳng lưng, cổ ngay, đầu hơi nghiêng tới, đôi mắt mở một phần ba, tay bỏ xuôi theo chân và đọc thầm hai bài chú như sau:

Chú ngồi kiết già

Kiết già phu tọa
Đương nguyện chúng sanh
Thiện căn kiên cố
Đắc bất động địa.
Án phạ tất ra a ni, bác ra ni, ấp đa da tá ha (ba lần).

Chú tọa thiền

Chánh thân đoan tọa
Đương nguyện chúng sanh
Tọa Bồ-đề tòa
Tâm vô sở trước.
Án phạ tất ra a ni, bác ra ni, ấp đa da tá ha (ba lần).

Hành giả bắt đầu hít vô và thở ra mười hơi thật dài và mạnh. Khi thở ra, hành giả phải tưởng: bao nhiêu các phiền não trược khí trong người đều bị tống ra theo hơi thở này. Khi hít vào, hành giả phải tưởng: những thanh khí tươi sáng của vũ trụ, của chơn lý, được thấm vào thân tâm, làm cho hành giả được nhẹ nhàng sảng khoái.Xong rồi hành giả trở lại thở thật nhẹ và dài, chắp tay ngang ngực và đọc thầm các bài như sau:

Bài cúng hương

Giới hương, Định hương dữ Huệ hương
Giải thoát, Giải thoát tri kiến hương
Quangminh vân đài biến pháp giới
Cúng dường thập phương Tam Bảo tiền.
Nam-mô Hương cúng dường Bồ Tát ma-ha-tát (ba biến)

Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (ba biến)

Vô lượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thật nghĩa.
Nam-mô thập phương thường trụ Tam Bảo (ba lần)

Hành giả tay trái ký thẳng, tay mặt cầm chuỗi và đọc các bài chú như sau:

Chú cầm chuỗi niệm Phật

Bồ-đề nhứt bá bát
Diệt tội đẳng hà sa
Viễn ly tam đồ khổ
Xích sắc biến liên hoa.
Án phệ lô dá na, mạ lạ, mạ lạ tá phạ hạ. (ba lần)

Ái hà thiên xích lãng
Khổ hải vạn trùng ba
Dục thoát luân hồi khổ
Tảo cấp niệm Di-đà.
Nam-mô Tây phương Cực Lạc thế giới, Đại từ Đại bi, tiếp dẫn đạo sư A-di-đà Phật. (niệm nhiều ít tùy ý)

Hành giả không niệm ra tiếng, chỉ dùng tâm tưởng niệm danh hiệu của Phật A-di-đà. Niệm mỗi câu, tai hành giả đều nghe rõ ràng sáu tiếng, không lu mờ một tiếng nào. Niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” đếm một; niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” đếm hai; cho đến mười câu thì lần một hột chuỗi. Hành giả bắt đầu đếm một lại, cho đến mười câu thì lần một hột chuỗi nữa.Trong khi đếm, nếu niệm ít mà nhớ thành nhiều thì hành giả phải bắt đầu đầu đếm lại một; hay đã niệm nhiều mà nhớ thành ít, thì cũng bắt đầu đếm lại một; hoặc quên không biết đã niệm được bao nhiêu rồi, cũng bắt đầu đếm lại một. Khi niệm Phật xong, tiếp niệm bốn vị thánh như sau:

Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát (10 biến)
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ Tát (10 biến)
Nam-mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (10 biến)
Nam-mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát (10 biến)

Bài sám

Đệ tử chúng đẳng tùy thuận tu tập
Phổ Hiền Bồ Tát thập chủng đại nguyện:

Nhứt giả lễ kỉnh chư Phật
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hối nghiệp chướng
Ngũ giả tùy hỷ công đức
Lục giả thỉnh chuyển Pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hằng thuận chúng sanh
Thập giả phổ giai hồi hướng.

Hồi hướng

Niệm Phật công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện Pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.

Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thế
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (một xá)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (một xá)
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (một xá)

Hành giả đọc bài kệ xả già như sau và duỗi dài hai chơn ra độ ba phút cho máu chạy đều rồi mới đứng dậy.

Xả già phu tọa
Đương nguyện chúng sanh
Quán chư hạnh pháp
Tất quy tấn diệt.




Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Bản đồ tu Phật - Tập 2 Phần 10: Nghi thức kinh hành niệm Phật Thích Thiện Hoa Hành giả nào thường bị bịnh hôn trầm (ngủ gật) hoặc ngồi lâu hay tê mỏi, v.v., thì nên dùng phương pháp Kinh hành niệm Phật này. Nghĩa là hành giả vừa đi xung quanh bàn Phật vừa niệm Phật (đi từ trái qua mặt).

Trước nhất hành giả phải đốt hương đèn trên bàn, đứng trước Phật đọc bài tán thán công đức Phật, rồi lễ Tam Bảo, theo nghi thức như sau:

Như Lai diệu sắc thân
Thế gian vô dữ đẳng
Vô tỷ bất tư nghị
Thị cố kim đảnh lễ.

Như Lai sắc vô tận
Trí huệ diệc phục nhiên
Nhứt thế pháp thường trụ
Thị cố ngã quy y.

Đại trí đại nguyện lực
Phổ độ chư quần sanh
Linh xả nhiệt não thân
Sanh bỉ thanh lương quốc.

Ngã kim tịnh tam nghiệp
Quy y cập lễ tán
Nguyện cộng chư chúng sanh
Đồng sanh An Lạc sát.

Chí tâm đảnh lễ Thường Tịch Quang Tịnh độ, A-di-đà Như Lai, Thanh tịnh diệu pháp thân, biến pháp giới chư Phật. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ Thật báo trang nghiêm độ, A-di-đà Như Lai, vi trần tướng hiển thân, biến pháp giới chư Phật. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ Phương tiện thánh cư độ, A-di-đà Như Lai, giải thoát tướng nghiêm thân biến pháp giới chư Phật. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ Tây phương An Lạc độ, A-di-đà Như Lai, Đại thừa căn giới thân, biến pháp giới chư Phật. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ Tây phương An Lạc độ, A-di-đà Như Lai, thập phương quá vãng thân, biến pháp giới chư Phật. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ Tây phương An Lạc độ, Giáo hạnh lý tam kinh, cực y chánh tuyên dương, biến pháp giới tôn pháp. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ Tây phương An Lạc độ, Quan Thế Âm Bồ Tát, vạn ức tử kim thân, biến pháp giới Bồ Tát. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ Tây phương An Lạc độ, Đại Thế Chí Bồ Tát, vô biên quang trí thân, biến pháp giới Bồ Tát. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ Tây phương An Lạc độ, Thanh tịnh đại hải chúng, Phước trí nhị nghiêm thân, biến pháp giới thánh chúng. (một lạy)

Đứng chắp tay nguyện (chủ lễ xướng): “Ngã kim phổ vị tứ ân tam hữu, pháp giới chúng sanh, tất nguyện đoạn trừ tam chướng, qui mạng sám hối.”

Quỳ gối chắp tay sám hối

Chí tâm sám hối:

Đệ tử... (pháp danh), cập pháp giới chúng sanh, tùng vô thỉ lai, vô minh sở phú, điên đảo mê hoặc, nhi do lục căn tam nghiệp, tập bất thiện pháp, quảng tam thập ác, cập ngũ vô gián, nhứt thiết chúng tội, vô lượng vô biên, thuyết bất khả tận. Thập phương chư Phật, thường trụ thế gian, pháp âm bất tuyệt, diệu hương sung tắc, pháp vị dinh không, phóng tịnh quang minh chiếu xúc nhứt thiết, thường trụ lý, biến mãn hư không.

Ngã vô thi ai, lục căn nội manh, tam nghiệp hôn ám, bất kiến bất văn, bất giác bất tri; dĩ thị nhơn duyên, trường lưu sanh tử, kinh lịch ác đạo, bá thiên vạn kiếp, vĩnh vô xuất kỳ.

Kinh vân: Tỳ-lô-giá-na biến nhứt thiết xứ, kỳ Phật sở trụ, danh Thường Tịch Quang.

Thị cố đương tri, nhứt thiết chư pháp, vô thi Phật pháp. Nhi ngã bất liễu, tùy vô minh lưu, thị tắc ư Bồ-đề trung, nhi khởi cải hồi, phụng đối chư Phật, A-di-đà thế pháp giới chúng sanh, tam nghiệp lục căn vô thỉ sở tác, hiện tác đương tác, tự tác giáo tha, kiến văn tùy hỷ, nhược ức bất nghi, nhược phú nhược lộ, nhất thiết chúng tội, tất giai thanh tịnh.

Ngã sám hối dĩ, lục căn tam nghiệp, tịnh vô hà lụy, sở tu thiện căn, tất diệc thanh tịnh, giai tất hồi hướng, trang nghiêm Tịnh độ, phổ dữ chúng sanh, đồng sanh An Dưỡng.

Nguyện: A-DI-ĐÀ PHẬT, thường lai hộ trì, linh ngã thiện căn, hiện tiền tăng tấn, bất thất tịnh nhân, lâm mạng chung thời, thân tâm chánh niệm, thị thính phân minh, diện phụng A-di-đà, dữ chư thánh chúng, thủ chấp hoa đài tiếp dẫn ư ngã nhứt sát-na khoảnh, sanh tại Phật tiền, cụ Bồ Tát đạo, quảng độ chúng sanh đồng thành chủng trí. (một xá)

Tội tùng tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
(xá rồi đứng dậy)

Nam-mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma-ha-tát (đọc ba lần, mỗi lần một lạy rồi đứng dạy, đọc tiếp)

A-di-đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-di,
Hám mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam-mô Tây phương Cực Lạc thế giới, đại từ đại bi, tiếp dẫn đạo sư A-di-đà Phật.

Nam-mô A-di-đà Phật (bao nhiêu lần tùy ý)

(Hành giả đi xung quanh bàn Phật từ trái qua mặt, hoặc ba vòng hoặc bảy vòng tùy ý, vừa đi vừa niệm Phật)

Nam-mô Đạibi Quán Thế Âm Bồ Tát. (ba lần)
Nam-mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (ba lần)
Nam-mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (ba lần)
Nam-mô Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ Tát. (ba lần)

(Đồng quỳ xuống chắp tay và đọc bài sám như sau:) (Các bài sám này đọc bài nào cũng được)

Đệ tử chúng đẳng
Tùy thuận tu tập
Phổ Hiền Bồ Tát
Thập chủng đại nguyện:
Nhứt giả lễ kính chư Phật
Nhị giả xưng tán Như Lai
Tam giả quảng tu cúng dường
Tứ giả sám hối nghiệp chướng
Ngũ giả sám tùy hỷ công đức
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân
Thất giả thỉnh Phật trụ thế
Bát giả thường tùy Phật học
Cửu giả hằng thuận chúng sanh
Thập giả phổ giai hồi hướng.

(tiếp đọc bài hồi hướng)

Niệm Phật công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.

Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhứt thế
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
(Đồng đứng dậy)

Đệ tử đại vị nhứt thiết sư trưởng ân, chí tâm đảnh lễ, Nam-mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn pháp, hiền thánh Tăng, thường trụ Tam bảo. (một lạy)

Đệ tử đại vị nhứt thiết Phụ mẫu ân, chí tâm đảnh lễ, Nam-mô Ta-bà Giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Di-lặc tôn Phật, Đại trí Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (một lạy)

Đệ tử đại vị tam đồ thọ khổ cập pháp giới nhứt thế chúng sanh, chí tâm đảnh lễ, Nam-mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi tiếp dẫn Đạo sư A-di-đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Liên trì hải hội Phật Bồ Tát. (một lạy)



HẾT

Nhập liệu: Phật tử Huệ Tâm Nguyễn thị Trà My


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có.