Kinh Tứ Thập Nhị chương Phần 1: NGHI THỨC KHAI KINH Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Phần nghi thức này không thuộc Kinh văn nhưng cần tụng niệm trước để tâm thức được an tịnh trước khi đi vào tụng đọc Kinh văn)
NIỆM HƯƠNG (Thắp đèn đốt hương trầm, đứng ngay ngắn chắp tay ngang ngực thầm niệm theo nghi thức dưới đây.)
Tịnh pháp giới chân ngôn: Án lam tóa ha.
(3 lần)
Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám.
(3 lần)
(Chủ lễ thắp 3 cây hương, quỳ ngay ngắn nâng hương lên ngang trán niệm bài Cúng hương sau đây.)
Cúng hương tán Phật Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới.
Cúng dường nhất thiết Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ Tát,
Vô biên Thanh văn chúng,
Cập nhất thiết thánh hiền.
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật sự.
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ-đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành vô thượng đạo.
(Chủ lễ xá 3 xá rồi đọc bài Kỳ nguyện dưới đây.)
Kỳ nguyện Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công đức, nguyện thập phương thường trú Tam bảo, Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Tiếp Dẫn Đạo Sư A-di-đà Phật... từ bi gia hộ đệ tử... .... Pháp danh... .... phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách. Phổ nguyện âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh tề thành Phật đạo.
(Cắm hương ngay ngắn vào lư hương rồi đứng thẳng chắp tay niệm bài Tán Phật sau đây.)
Tán Phật Pháp vương vô thượng tôn,
Tam giới vô luân thất.
Thiên nhân chi Đạo sư,
Tứ sanh chi từ phụ.
Ư nhất niệm quy y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp.
Xưng dương nhược tán thán,
Ức kiếp mạc năng tận.
Quán tưởng Năng lễ sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì.
Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền thánh tăng thường trú Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo chủ Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương lai hạ sanh Di-lặc Tôn Phật, Đại trí Văn-thù-sư-lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây phương Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
(Từ đây bắt đầu khai chuông mõ, đại chúng đồng tụng.)
Tán Hương Lư hương xạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất diêu văn,
Tùy xứ kiết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam-mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma-ha-tát. (3 lần)
Chú Đại Bi Nam-mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thơcs bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà da dế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết, tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
(3 lần)
Khai kinh kệ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
Nam-mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.
(3 lần)
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh Tứ Thập Nhị chương Phần 2: PHẦN DỊCH ÂM Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH
(Hậu Hán Ca-diếp Ma-đằng cộng Pháp Lan dịch)
KINH TỰ Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung, chuyển Tứ đế Pháp luân, độ Kiều-trần-như đẳng ngũ nhân nhi chứng đạo quả.
Phục hữu tỳ-kheo sở thuyết chư nghi, cầu Phật tấn chỉ. Thế Tôn giáo sắc, nhất nhất khai ngộ, hiệp chưởng kính nặc, nhi thuận tôn sắc.
ĐỆ NHẤT CHƯƠNG
XUẤT GIA CHỨNG QUẢ Phật ngôn: Từ thân xuất gia, thức tâm đạt bổn, giải vô vi pháp, danh viết sa-môn. Thường hành nhị bá ngũ thập giới, tấn chí thanh tịnh, vi Tứ chân đạo hạnh, thành A-la-hán.
A-la-hán giả năng phi hành biến hóa, khoáng kiếp thọ mạng, trụ động thiên địa. Thứ vi A-na-hàm.
A-na-hàm giả, thọ chung linh thần thướng Thập cửu thiên, chứng A-la-hán. Thứ vi Tư-đà-hàm.
Tư-đà-hàm giả, nhất thướng nhất hoàn, tức đắc A-la-hán. Thứ vi Tu-đà-hoàn.
Tu-đà-hoàn giả, thất tử thất sanh, tiện chứng A-la-hán.
Ái dục đoạn giả, như tứ chi đoạn, bất phục dụng chi.
ĐỆ NHỊ CHƯƠNG
ĐOẠN DỤC TUYỆT TRẪM Phật ngôn: Xuất gia sa-môn giả đoạn dục khử ái, thức tự tâm nguyên, đạt Phật thâm lý, ngộ vô vi pháp, nội vô sở đắc, ngoại vô sở cầu, tâm bất hệ đạo, diệc bất kết nghiệp, vô niệm vô tác, phi tu phi chứng, bất lịch chư vị, nhi tự sùng tối, danh chi vi đạo.
ĐỆ TAM CHƯƠNG
CÁT ÁI KHỬ THAM Phật ngôn: Thế trừ tu phát nhi vi sa-môn, thọ đạo pháp giả, khử thế tư tài, khất cầu thủ túc. Nhật trung nhất tự, thọ hạ nhất túc, thận vật tái hỹ. Sử nhân ngu tế giả, ái dữ dục dã.
ĐỆ TỨ CHƯƠNG
THIỆN ÁC TỊNH MINH Phật ngôn: Chúng sanh dĩ thập sự vi thiện, diệt dĩ thập sự vi ác. Hà đẳng vi thập? Thân tam, khẩu tứ, ý tam. Thân tam giả: sát, đạo, dâm. Khẩu tứ giả: lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ. Ý tam giả: tật, nhuế, si. Như thị thập sự, bất thuận Thánh đạo, danh Thập ác hạnh. Thị ác nhược chỉ, danh Thập thiện hạnh nhĩ.
ĐỆ NGŨ CHƯƠNG
CHUYỂN TRỌNG LINH KHINH Phật ngôn: Nhân hữu chúng quá, nhi bất tự hối. Đốn tức kỳ tâm, tội lai phó thân, như thủy quy hải tiệm thành thâm quảng. Nhược nhân hữu quá, tự giải tri phi, cải ác hành thiện, tội tự tiêu diệt, như bệnh đắc hãn, tiệm hữu thuyên tổn nhĩ.
ĐỆ LỤC CHƯƠNG
NHẪN ÁC VÔ SÂN Phật ngôn: Ác nhân văn thiện, cố lai náo loạn giả. Nhữ tự cấm tức, đương vô sân trách. Bỉ lai ác giả, nhi tự ác chi.
ĐỆ THẤT CHƯƠNG
ÁC HOÀN BỔN THÂN Phật ngôn: Hữu nhân văn ngô thủ đạo, hành đại nhân từ, cố trí mạ Phật. Phật mặc bất đối. Mạ chỉ. Vấn viết: Tử dĩ lễ tùng nhân, kỳ nhân bất nạp, lễ quy tử hồ? Đối viết: Quy hỹ.
Phật ngôn: Kim tử mạ ngã, ngã kim bất nạp, tử tự trì họa quy tử thân hỹ. Du hưởng ứng thanh, ảnh chi tùy hình, chung vô miễn ly. Thận vật vi ác.
ĐỆ BÁT CHƯƠNG
TRẦN THÓA TỰ Ô Phật ngôn: Ác nhân hại hiền giả, du ngưỡng thiên nhi thóa. Thóa bất chí thiên, hoàn tùng kỷ đọa. Nghịch phong dương trần, trần bất chí bỉ, hoàn bộn kỷ thân. Hiền bất khả hủy, họa tất diệt kỷ.
ĐỆ CỬU CHƯƠNG
PHẢN BỔN HỘI ĐẠO Phật ngôn: Bác văn ái đạo, đạo tất nan hội. Thủ chí phụng đạo, kỳ đạo thậm đại.
ĐỆ THẬP CHƯƠNG
HỶ THÍ HOẠCH PHƯỚC Phật ngôn: “Đổ nhân thí đạo, trợ chi hoan hỷ, đắc phước thậm đại.” Sa-môn vấn viết: “Thử phước tận hồ?”
Phật ngôn: “Thí như nhất cự chi hỏa, sổ bá thiên nhân các dĩ cự lai phân thủ, thục thực, trừ minh, thử cự như cố. Phước diệc như chi.”
ĐỆ THẬP NHẤT CHƯƠNG
THÍ PHẠN CHUYỂN THẮNG Phật ngôn: Phạn ác nhân bá, bất như phạn nhất thiện nhân.
Phạn thiện nhân thiên, bất như phạn nhất trì ngũ giới giả.
Phạn ngũ giới giả vạn, bất như phạn nhất Tu-đà-hoàn.
Phạn bá vạn Tu-đà-hoàn, bất như phạn nhất Tư-đà-hàm.
Phạn thiên vạn Tư-đà-hàm, bất như phạn nhất A-na-hàm.
Phạn nhất ức A-na-hàm, bất như phạn nhất A-la-hán.
Phạn thập ức A-la-hán, bất như phạn nhất Bích-chi Phật.
Phạn bá ức Bích-chi Phật, bất như phạn nhất Tam thế chư Phật.
Phạn thiên ức Tam thế chư Phật, bất như phạn nhất Vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng chi giả.
ĐỆ THẬP NHỊ CHƯƠNG
CỬ NAN KHUYẾN TU Phật ngôn: Nhân hữu nhị thập nan:
1. Bần cùng bố thí nan.
2. Hào quý học đạo nan.
3. Khí mạng tất tử nan.
4. Đắc đổ Phật kinh nan.
5. Sanh trị Phật thế nan.
6. Nhẫn sắc nhẫn dục nan.
7. Kiến hảo bất cầu nan.
8. Bị nhục bất sân nan.
9. Hữu thế bất lâm nan.
10. Xúc sự vô tâm nan.
11. Quảng học bác cứu nan.
12. Trừ diệt ngã mạn nan.
13. Bất khinh vị học nan.
14. Tâm hành bình đẳng nan.
15. Bất thuyết thị phi nan.
16. Hội thiện tri thức nan.
17. Kiến tánh học đạo nan.
18. Tùy hóa độ nhân nan.
19. Đổ cảnh bất động nan.
20. Thiện giải phương tiện nan.
ĐỆ THẬP TAM CHƯƠNG
VẤN ĐẠO TÚC MẠNG Sa-môn vấn Phật: “Dĩ hà nhân duyên, đắc tri túc mạng, hội kỳ chí đạo?” Phật ngôn: “Tịnh tâm, thủ chí, khả hội chí đạo. Thí như ma kính, cấu khứ, minh tồn. Đoạn dục, vô cầu, đương đắc túc mạng.”
ĐỆ THẬP TỨ CHƯƠNG
THỈNH VẤN THIỆN ĐẠI Sa-môn vấn Phật: “Hà giả vi thiện? Hà giả tối đại?”
Phật ngôn: “Hành đạo, thủ chân giả thiện. Chí dữ đạo hiệp giả đại.”
ĐỆ THẬP NGŨ CHƯƠNG
THỈNH VẤN LỰC MINH Sa-môn vấn Phật: “Hà giả đa lực? Hà giả tối minh?”
Phật ngôn: “Nhẫn nhục đa lực, bất hoài ác cố, kiêm gia an kiện. Nhẫn giả vô ác, tất vi nhân tôn. Tâm cấu diệt tận, tịnh vô hà uế, thị vi tối minh, Vị hữu thiên địa đải ư kim nhật, thập phương sở hữu, vô hữu bất kiến, vô hữu bất tri, vô hữu bất văn, đắc Nhất thiết trí, khả vị minh hỹ.”
ĐỆ THẬP LỤC CHƯƠNG
XẢ ÁI ĐẮC ĐẠO Phật ngôn: “Nhân hoài ái dục, bất kiến đạo giả. Thí như trừng thuỷ, trí thủ giảo chi. Chúng nhân cộng lâm, vô hữu đổ kỳ ảnh giả. Nhân dĩ ái dục giao thác, tâm trung trược hưng, cố bất kiến đạo. Nhữ đẳng sa-môn đương xả ái dục. Ái dục cấu tận, đạo khả kiến hỹ.
ĐỆ THẬP THẤT CHƯƠNG
MINH LAI ÁM TẠ Phật ngôn: phù kiến Đạo giả, thí như trì cự, nhập minh thất trung, Kỳ minh tức diệt, nhi minh độc tồn. Học Đạo kiến Đế, Vô minh tức diệt, nhi Minh thường tồn hỹ.
ĐỆ THẬP BÁT CHƯƠNG
NIỆM ĐẲNG BỔN KHÔNG Phật ngôn: Ngô Pháp niệm vô niệm niệm, hành vô hành hạnh, ngôn vô ngôn ngôn, tu vô tu tu. Hội giả cận nhĩ, mê giã viễn hồ. Ngôn ngữ đạo đoạn, phi vật sở câu. Sai chi hào ly, thất chi tu du.
ĐỆ THẬP CỬU CHƯƠNG
GIẢ CHÂN TỊNH QUÁN Phật ngôn: “Quán thiên địa, niệm phi thường; quán thế giới, niệm phi thường; quán linh giác, tức Bồ-đề. Như thị tri thức, đắc đạo tật hỹ.”
ĐỆ NHỊ THẬP CHƯƠNG
SUY NGÃ BỔN KHÔNG Phật ngôn: “Đương niệm thân trung tứ đại, các tự hữu danh, đô vô ngã giả. Ngã ký đô vô, kỳ như huyễn nhĩ.”
ĐỆ NHỊ THẬP NHẤT CHƯƠNG
DANH THANH TÁN BỔN Phật ngôn: “Nhân tùy tình dục, cầu ư thanh danh. Thanh danh hiển trước, thân dĩ cố hỹ! Tham thế thường danh, nhi bất học đạo, uổng công lao hình. Thí như thiêu hương, tuy nhân văn hương, hương chi tận hỹ. Nguy thân chi hỏa nhi tại kỳ hậu.”
ĐỆ NHỊ THẬP NHỊ CHƯƠNG
TÀI SẮC CHIÊU KHỔ Phật ngôn: “Tài sắc ư nhân, nhân chi bất xả, thí như đao nhận hữu mật, bất túc nhất xan chi mỹ. Tiểu nhi thỉ chi, tắc hữu cát thiệt chi hoạn.”
ĐỆ NHỊ THẬP TAM CHƯƠNG
THÊ TỬ THẬM NGỤC Phật ngôn: “Nhân hệ ư thê tử, xá trạch, thậm ư lao ngục. Lao ngục hữu tán thích chi kỳ, thê tử vô viễn ly chi niệm. Tình ái ư sắc, khởi đán khu trì? Tuy hữu hổ khẩu chi hoạn, tất tồn cam phục, đầu nê tự nịch, cố viết phàm phu. Thấu đắc thử môn, xuất trần La-hán.”
ĐỆ NHỊ THẬP TỨ CHƯƠNG
SẮC DỤC CHƯỚNG ĐẠO Phật ngôn: “Ái dục mạc thậm ư sắc. Sắc chi vi dục, kỳ đại vô ngoại. Lại hữu nhất hỹ. Nhược sử nhị đồng, phổ thiên chi nhân, vô năng vi đạo giả hỹ.”
ĐỆ NHỊ THẬP NGŨ CHƯƠNG
DỤC HỎA THIÊU THÂN Phật ngôn: “Ái dục chi nhân, do như chấp cự nghịch phong nhi hành. Tất hữu thiêu thủ chi hoạn.”
ĐỆ NHỊ THẬP LỤC CHƯƠNG
THIÊN MA NHIỄU PHẬT Thiên thần hiến ngọc nữ ư Phật, dục hoại Phật ý. Phật ngôn: “Cách nang chúng uế, nhĩ lai hà vi? Khứ. Ngô bất dụng.” Thiên thần dũ kính, nhân vấn đạo ý. Phật vị giải thuyết, tức đắc Tu-đà-hoàn quả.”
ĐỆ NHỊ THẬP THẤT CHƯƠNG
VÔ TRƯỚC ĐẮC ĐẠO Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, do mộc tại thủy, tầm lưu nhi hành. Bất xúc lưỡng ngạn, bất vi nhân thủ, bất vi quỉ thần sở già, bất vi hồi lưu sở trụ, diệc bất hủ bại. Ngô bảo thử mộc quyết định nhập hải.
Học đạo chi nhân, bất vi tình dục sở hoặc, bất vi chúng tà sở nhiễu, tinh tấn vô vi. Ngô bảo thử nhân tất đắc đạo hỹ.”
ĐỆ NHỊ THẬP BÁT CHƯƠNG
Ý MÃ MẠC TÚNG Phật ngôn: “Thận vật tín nhữ ý, nhữ ý bất khả tín. Thận vật dữ sắc hội, sắc hội tức họa sanh. Đắc A-la-hán dĩ, nãi khả tín nhữ ý.”
ĐỆ NHỊ THẬP CỬU CHƯƠNG
CHÁNH QUÁN ĐỊCH SẮC Phật ngôn: “Thận vật thị nữ sắc, diệc mạc cộng ngôn ngữ. Nhược dữ ngữ giả, chánh tâm tư niệm: Ngã vi Sa-môn, xử ư trược thế, đương như liên hoa, bất vi nê ô. Tưởng kỳ lão giả như mẫu, trưởng giả như tỷ, thiếu giả như muội, trĩ giả như tử, sanh độ thoát tâm, tức diệt ác niệm.”
ĐỆ TAM THẬP CHƯƠNG
DỤC HỎA VIỄN LY Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, như bị càn thảo, hỏa lai tu tị. Đạo nhân kiến dục, tất đương viễn chi.”
ĐỆ TAM THẬP NHẤT CHƯƠNG
TÂM TỊCH DỤC TRỪ Hữu nhân hoạn dâm bất chỉ, dục tự trừ âm. Phật vị chi viết: “Nhược đoạn kỳ âm, bất như đoạn tâm. Tâm như công tào. Công tào nhược chỉ, tùng giả đô tức. Tà tâm bất chỉ, đoạn âm hà ích?”
Phật vị thuyết kệ:
“Dục sanh ư nhữ ý,
Ý dĩ tư tưởng sanh;
Nhị tâm các tịch tĩnh,
Phi sắc diệc phi hành.”
Phật ngôn: “Thử kệ thị Ca-diếp Phật thuyết.”
ĐỆ TAM THẬP NHỊ CHƯƠNG
NGÃ KHÔNG BỐ DIỆT Phật ngôn: “Nhân tùng ái dục sanh ưu, tùng ưu sanh bố. Nhược ly ư ái, hà ưu, hà bố?”
ĐỆ TAM THẬP TAM CHƯƠNG
TRÍ MINH PHÁ MA Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, thí như nhất nhân dữ vạn nhân chiến, quải khải xuất môn, ý hoặc khiếp nhược, hoặc bán lộ nhi thối, hoặc cách đấu nhi tử, hoặc đắc thắng nhi hoàn. Sa-môn học đạo, ưng đương kiên trì kỳ tâm, tinh tấn dũng nhuệ, bất úy tiền cảnh, phá diệt chúng ma, nhi đắc đạo quả.
ĐỆ TAM THẬP TỨ CHƯƠNG
XỬ TRUNG ĐẮC ĐẠO Hữu sa-môn dạ tụng Ca-diếp Phật Di giáo kinh. Kỳ thanh bi khẩn, tư hối dục thối. Phật vấn chi viết: “Nhữ tích tại gia, tằng vi hà nghiệp?”
Đối viết: “Ái đàn cầm.”
Phật ngôn: “Huyền hoãn như hà?”
Đối viết: “Bất minh hỹ.”
“Huyền cấp như hà?”
Đối viết: “Thanh tuyệt hỹ.”
“Cấp hoãn đắc trung như hà?”
Đối viết: “Chư âm phổ hỹ.”
Phật ngôn: “Sa-môn học đạo diệc nhiên. Tâm nhược điều thích, đạo khả đắc hỹ. Ư đạo nhược bạo, bạo tức thân bì. Kỳ thân nhược bì, ý tức sanh não. Ý nhược sanh não, hành tức thối hỹ. Kỳ hành ký thối, tội tất gia hỹ. Đản thanh tịnh an lạc, đạo bất thất hỹ.”
ĐỆ TAM THẬP NGŨ CHƯƠNG
CẤU KHỨ MINH TỒN Phật ngôn: “Như nhân đoán thiết, khử tể thành khí; khí tức tinh hảo. Học đạo chi nhân khử tâm cấu nhiễm, hạnh tức thanh tịnh hỹ.
ĐỆ TAM THẬP LỤC CHƯƠNG
TRIỂN CHUYỂN HOẠCH THẮNG Phật ngôn: “Nhân ly ác đạo, đắc vi nhân nan.
“Ký đắc vi nhân, khử nữ tức nam nan.
“Ký đắc vi nam, lục căn hoàn cụ nan.
“Lục căn ký cụ, sanh trung quốc nan.
“Ký sanh trung quốc, trị Phật thế nan.
“Ký trị Phật thế, ngộ đạo giả nan.
“Ký đắc ngộ đạo, hưng tín tâm nan.
“Ký hưng tín tâm, phát Bồ-đề tâm nan.
“Ký phát Bồ-đề tâm, Vô tu vô chứng nan.”
ĐỆ TAM THẬP THẤT CHƯƠNG
NIỆM GIỚI CẬN ĐẠO Phật ngôn: “Phật tử ly ngô sổ thiên lý, ức niệm ngô giới, tất đắc đạo quả. Tại ngô tả hữu, tuy thường kiến ngô, bất thuận ngô giới, chung bất đắc đạo.”
ĐỆ TAM THẬP BÁT CHƯƠNG
SANH TỨC HỮU DIỆT Phật vấn sa-môn: “Nhân mạng tại kỷ gian?” Đối viết: “Sổ nhật gian.” Phật ngôn: “Tử vị tri đạo.”
Phục vấn nhất sa-môn: “Nhân mạng tại kỷ gian?”
Đối viết: “Phạn thực gian.”
Phật ngôn: “Tử vị tri đạo.”
Phục vấn nhất sa-môn: “Nhân mạng tại kỷ gian?”
Đối viết: “Tại hô hấp gian.”
Phật ngôn: “Thiện tai! Tử tri đạo hỹ.”
ĐỆ TAM THẬP CỬU CHƯƠNG
GIÁO HỐI VÔ SAI Phật ngôn: “Học Phật đạo giả, Phật sở ngôn thuyết, giai ưng tín thuận. Thí như thực mật, trung biên giai điềm. Ngô kinh diệc nhĩ.”
ĐỆ TỨ THẬP CHƯƠNG
HÀNH ĐẠO TẠI TÂM Phật ngôn: “Sa-môn hành đạo, vô như ma ngưu. Thân tuy hành đạo, tâm đạo bất hành. Tâm đạo nhược hành, hà dụng hành đạo?”
ĐỆ TỨ THẬP NHẤT CHƯƠNG
TRỰC TÂM XUẤT DỤC Phật ngôn: “Phù vi đạo giả, như ngưu phụ trọng, hành thâm nê trung. Bì cực, bất cảm tả hữu cố thị. Xuất ly ứ nê, nãi khả tô tức. Sa-môn đương quán tình dục thậm ư ứ nê, trực tâm niệm đạo, khả miễn khổ hỹ.”
ĐỆ TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
ĐẠT THẾ TRI HUYỄN Phật ngôn: “Ngô thị vương hầu chi vị như quá khích trần; thị kim ngọc chi bửu như ngõa lịch; thị hoàn tố chi phục như tệ bạch; thị đại thiên giới như nhất ha tử; thị A-nậu trì thủy như đồ túc du.
“Thị phương tiện môn như hóa bửu tụ; thị Vô thượng thừa như mộng kim bạch; thị Phật đạo như nhãn tiền hoa; thị thiền định như Tu-di trụ; thị Niết-bàn như trú tịch ngộ; thị đảo chánh như lục long vũ; thị bình đẳng như nhất chân địa; thị hưng hóa như tứ thời mộc.”
Chư đại tỳ-kheo văn Phật sở thuyết, hoan hỷ phụng hành.
Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có. Kinh Tứ Thập Nhị chương Phần 3: PHẦN DỊCH NGHĨA Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch (Đời Hậu Hán, các vị Ca-diếp Ma-đằng và Pháp Lan cùng dịch)

BÀI TỰA KINH

Đức Thế Tôn khi thành đạo rồi, tự nghĩ rằng: "Lìa bỏ ái dục, được lẽ tịch tĩnh, ấy là hay hơn hết." Ngài trụ nơi đại thiền định, hàng phục các ma chướng.
Ngài ở nơi vườn Lộc gần thành Ba-la-nại mà chuyển bánh xe Pháp, thuyết Tứ diệu đế, độ cho nhóm ông Kiều-trần-như năm người đều đắc đạo.
Có những tỳ-kheo thưa hỏi chỗ nghi của mình, Phật nhân đó chỉ dạy làm cho mọi người đều được khai ngộ. Thảy đều chấp tay cung kính, vâng thuận theo lời dạy của Phật.

CHƯƠNG THỨ NHẤT
XUẤT GIA CHỨNG QUẢ

Phật dạy: "Từ giã người thân, lìa bỏ gia đình, thấu biết lẽ tâm, đạt tới nguồn cội hiểu pháp vô vi, đó gọi là sa-môn. Vị sa-môn thường giữ trọn hai trăm năm mươi giới, mọi hành vi thảy đều thanh tịnh, làm theo Bốn chân lý, thành A-la-hán. Vị A-la-hán có thể bay trên không trung, hiện hóa các phép thần thông, đời sống dài trọn kiếp. Vị ấy ở đâu thì cảm động cả đất trời.
Quả vị thấp hơn là A-na-hàm. Vị A-na-hàm, khi mạng chung sanh lên từng trời thứ mười chín rồi chứng quả A-la-hán.
Quả vị thấp hơn là Tư-đà-hàm. Vị Tư-đà-hàm còn một lần sanh lên cõi trời và một lần trở lại cõi người, rồi chứng quả A-la-hán.
Quả vị thấp hơn nữa là Tu-đà-hoàn. Vị Tu-đà-hoàn còn bảy lần chết, bảy lần sanh mới chứng quả A-la-hán.
"Khi người ta đoạn tuyệt ái dục rồi [thì ái dục đó] ví như tay chân bị chặt đứt, chẳng còn dùng được nữa."

CHƯƠNG THỨ HAI
TRỪ DỤC DỨT TÌNH

Phật dạy: "Vị sa-môn xuất gia cắt đứt tình dục, lìa bỏ luyến ái, thấu hiểu tận nguồn tâm, đạt lý thâm diệu của Phật, rõ pháp vô vi, trong không có chỗ chứng đắc, ngoài không có chỗ mong cầu, tâm chẳng trói buộc vào đạo, cũng chẳng tạo thêm nghiệp quả, không chỗ niệm tưởng, không tạo tác, chẳng tu chẳng chứng, chẳng trải qua các quả vị, tự nhiên cao tới tột bực. Đó gọi là đạo."

CHƯƠNG THỨ BA
DỨT BỎ THAM ÁI

Phật dạy: "Người cạo bỏ râu tóc làm sa-môn, lãnh thọ giáo pháp, lìa bỏ tài sản thế gian, khất thực vừa đủ ăn. Mỗi ngày chỉ ăn một lần, dưới cội cây chỉ nghỉ một đêm, tránh không lặp lại. Ấy là vì biết rằng lòng luyến ái và ham muốn làm cho người ta ngu tối."

CHƯƠNG THỨ TƯ
PHÂN RÕ LÀNH DỮ

Phật dạy: "Chúng sanh có mười việc gọi là lành, lại cũng có mười việc gọi là dữ. Những gì là mười? Ba việc do thân tạo ra là: sát sanh, trộm cắp, dâm dục. Bốn việc do miệng tạo ra là: nói hai lưỡi, nói ác, nói dối, nói thêu dệt. Ba việc do ý tạo ra là: ganh ghét, sân hận, ngu si. Làm mười việc ấy chẳng thuận theo Thánh đạo, nên gọi là dữ. Nếu dừng được mười việc dữ ấy, thì gọi là mười việc lành."

CHƯƠNG THỨ NĂM
CHUYỂN NẶNG THÀNH NHẸ

Phật dạy: "Người ta có những sự lầm lỗi mà chẳng biết tự hối, dứt bỏ ngay đi, thì tội lỗi tích tụ nơi thân mình, như nước đổ về biển, mỗi ngày lại càng thêm sâu rộng. Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành, thì tội tự tiêu diệt; như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm."

CHƯƠNG THỨ SÁU
NHỊN KẺ ÁC KHÔNG GIẬN

Phật dạy: "Kẻ ác nghe việc lành cho nên đến quấy rối. Chư tỳ-kheo, hãy lặng yên nhịn chịu đừng giận trách chi. Kẻ ấy làm điều dữ là tự chuốc lấy sự dữ cho mình."

CHƯƠNG THỨ BẢY
LÀM ÁC GẶP ÁC

Phật dạy: "Có người nghe Phật giữ đạo, hết sức nhân từ, vì thế mà đến mắng chửi. Phật lặng thinh chẳng đáp. Chờ khi người ấy mắng xong, Phật hỏi rằng: Ông mang lễ vật tặng người, nếu người chẳng nhận thì lễ vật ấy có trở về với ông chăng?
"Đáp rằng: Có.
"Phật nói: Nay ông đến mắng ta, ta chẳng nhận, tức là tự ông mang lấy họa về cho chính mình. Cũng như tiếng dội ứng với âm thanh, bóng theo với hình, chẳng hề lìa nhau. Phải thận trọng chớ nên làm điều hung dữ."

CHƯƠNG THỨ TÁM
TỰ LÀM XẤU MÌNH

Phật dạy: "Kẻ hung dữ hại người hiền, cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước miếng. Nước miếng ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống mình. Lại như kẻ ngược chiều gió mà tung bụi. Bụi ấy chẳng đến người khác, lại bám lấy mình. Nên chẳng thể làm hại người hiền lành được, mà tai họa sẽ trở lại cho kẻ hung ác."

CHƯƠNG THỨ CHÍN
VỀ NGUỒN HIỂU ĐẠO

Phật dạy: "Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng."

CHƯƠNG THƯ MƯỜI
TÁN TRỢ ĐƯỢC PHƯỚC

Phật dạy: "Thấy hạnh bố thí của người khác, đem lòng hoan hỷ mà tán trợ thì được phước rất lớn."
Một vị sa-môn thưa hỏi Phật rằng: "Phước ấy có hết chăng?"
Phật dạy: "Tỷ như lửa từ một cây đuốc, hàng trăm ngàn người đều đến mồi ra để nấu ăn hay soi sáng, cây đuốc kia vẫn còn như cũ. Phước đức ấy cũng như vậy đó."

CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT
ĐÃI CƠM KHÁC BIỆT

Phật dạy: "Bố thí cơm ăn cho trăm kẻ ác, chẳng bằng bố thí cơm ăn cho một người thiện.
"Thí cho ngàn người thiện, chẳng bằng thí cho một người giữ năm giới cấm.
"Thí cho vạn người giữ năm giới cấm, chẳng bằng cúng dường một vị Tu-đà-hoàn.
"Cúng dường trăm vạn vị Tu-đà-hoàn, chẳng bằng cúng dường một vị Tư-đà-hàm.
"Cúng dường ngàn vạn vị Tư-đà-hàm, chẳng bằng cúng dường một vị A-na-hàm.
"Cúng dường một ức vị A-na-hàm, chẳng bằng cúng dường một vị A-la-hán.
"Cúng dường mười ức vị A-la-hán, chẳng bằng cúng dường một vị Phật Bích-chi.
"Cúng dường trăm ức vị Phật Bích-chi, chẳng bằng cúng dường một vị Phật ba đời.
Cúng dường ngàn ức vị Phật ba đời, chẳng bằng cúng dường một người Vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI
KHÓ NHỌC NÊN GẮNG TU

Phật dạy: "Người ta có hai mươi sự khó làm, khó được:
1. Nghèo khổ mà làm được việc bố thí là khó.
2. Giàu sang quyền quý mà học được đạo là khó.
3. Dám bỏ mạng sống đi vào chỗ chết là khó.
4. Được thấy kinh Phật là khó.
5. Sanh ra lúc có Phật ra đời là khó.
6. Tự chế sự ham muốn sắc dục là khó.
7. Thấy vật tốt đẹp mà chẳng mong cầu là khó.
8. Bị nhục mà không giận là khó.
9. Có thế lực mà không ỷ cậy là khó.
10. Gặp việc mà lấy tâm vô tư ứng xử là khó.
11. Học rộng mà vẫn tham khảo nhiều là khó.
12. Trừ diệt tánh ngã mạn là khó.
13. Chẳng khinh người chưa học là khó.
14. Giữ tâm bình đẳng là khó.
15. Chẳng nói những chuyện thị phi là khó.
16. Gặp thiện tri thức là khó.
17. Thấy tánh học đạo là khó.
18. Theo hóa độ người khác là khó.
19. Thấy cảnh mà chẳng động tâm là khó.
20. Khéo hiểu phương tiện là khó.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA
HỎI VỀ TÚC MẠNG

Một vị sa-môn thưa hỏi Phật: "Nhờ nhân duyên gì có thể được biết túc mạng, hiểu thấu lẽ đạo?"
Phật dạy: "Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo. Như lau chùi tấm gương sạch hết những chỗ dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong. Nếu dứt bỏ tình dục và sự mong cầu, tất nhiên biết được túc mạng."

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN
HỎI ĐIỀU TỐT LÀNH

Một vị sa-môn thưa hỏi Phật: "Điều chi là lành? Điều chi lớn nhất?"
Phật dạy: "Tu theo đạo, giữ lấy sự chân thật, đó là điều lành. Tâm ý phù hợp với đạo, đó gọi là lớn."

CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM
SỨC MẠNH VÀ SỰ SÁNG

Một vị sa-môn thưa hỏi Phật: "Thế nào là có nhiều sức mạnh? Thế nào là sáng suốt nhất?"
Phật dạy: "Nhẫn nhục là có nhiều sức mạnh, vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được yên lành, khỏe mạnh. Người nhẫn không làm điều hung dữ, tất nhiên được người khác tôn trọng.
"Tâm dứt hết cấu nhiễm, trong sạch không chút uế trược, ấy là sáng suốt nhất. Từ thuở chưa có trời đất đến nay, khắp nơi trong mười phương, không có điều chi là chẳng thấy, chẳng biết, chẳng nghe, thành tựu Nhất thiết trí. Như vậy có thể gọi là sáng suốt."

CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU
BỎ LUYẾN ÁI ĐƯỢC ĐẠO

Phật dạy: "Người ta ôm ấp lấy sự luyến ái và tham dục nên chẳng thấy được đạo. Ví như nước lóng trong, nay lấy tay quậy lên, mọi người đến đó chẳng ai nhìn thấy được hình chiếu của họ dưới nước. Người ta để cho sự luyến ái và tham dục làm xáo trộn, uế trược trong lòng dấy lên, nên chẳng thấy được Đạo. Sa-môn các ông nên xả bỏ sự luyến ái và tham dục. Ái dục đã trừ hết, có thể thấy được Đạo."

CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY
SÁNG ĐẾN TỐI ĐI

Phật dạy: "Phàm kẻ hiểu được đạo cũng như người cầm đuốc đi vào nhà tối. Sự tối liền mất đi, chỉ còn sự sáng. Người học đạo hiểu ra chân lý thì ngu si tối tăm phải dứt, chỉ còn lại trí tuệ sáng suốt mà thôi."

CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM
NGHĨ TƯỞNG LẼ KHÔNG

Phật dạy: "Giáo pháp của ta niệm tưởng cái ý vô niệm, thực hành cái hạnh vô hành, nói ra cái điều vô ngôn, tu tập nơi chỗ không tu. Ai hiểu được thì gần đạo, ai mê muội thì xa đạo. Chỗ nói năng dứt hết, sự vật cũng chẳng trói buộc được. Chỉ sai lệch đôi chút thì phút chốc đã mất ngay."

CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN
QUÁN SÁT CHÂN GIẢ

Phật dạy: "Quán xét trời đất, nghĩ nhớ lẽ vô thường. Quán xét thế giới, nghĩ nhớ lẽ vô thường. Quán xét linh giác thấy đó là Bồ-đề. Chỗ thấy biết như vậy có thể mau được đắc đạo."

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI
NGÃ VỐN LÀ KHÔNG

Phật dạy: "Nên nghĩ đến bốn chất lớn ở trong thân, mỗi chất tự nó đều có tên, rốt cuộc không chất nào là ta cả. Cái ta đã không có, chỉ như huyễn hóa thôi."

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI MỐT
THAM DANH MẤT GỐC

Phật dạy: "Người ta thuận theo tình dục, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa. Tham danh theo thế tục mà chẳng chịu học đạo, chỉ uổng công phu, nhọc hình hài. Cũng như đốt hương, tuy nghe được mùi hương, mà hương đã cháy tàn rồi. Kìa ngọn lửa hại thân đang chực sẵn phía sau ta đó."

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI HAI
TÀI SẮC CHUỐC SỰ KHỔ

Phật dạy: "Của cải và sắc dục đến mà người mà chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải bị cái hại đứt lưỡi."

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BA
VỢ CON TRÓI BUỘC

Phật dạy: "Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa. Chỗ tham luyến đối với sắc đẹp, đâu có ngại phải bôn ba? Dầu có sa vào miệng cọp cũng cam tâm chịu. Tự mình chìm đắm xuống chỗ bùn lầy, nên gọi là phàm phu. Qua được cửa ấy là bậc La-hán xuất trần.

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BỐN
SẮC DỤC CHE LẤP ĐẠO

Phật dạy: "Trong các thứ ham muốn, ái luyến, không gì sâu nặng bằng sắc đẹp. Sắc đẹp gây ra sự ham muốn chẳng có gì bằng. May là chỉ có một mình nó mà thôi. Nếu có đến hai thứ như vậy, thì khắp nơi không còn ai có thể theo đạo được nữa."

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI LĂM
LỬA DỤC THIÊU THÂN

Phật dạy: "Người say mê ái dục giống như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị họa cháy tay."

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU
THIÊN MA QUẤY RỐI PHẬT

Một vị thiên ma mang cô gái rất đẹp đến dâng cho Phật, muốn phá hoại ý chí của Phật. Phật nói: "Này cái túi da đựng những món dơ, ông đến đây mà làm gì? Đi đi. Ta không dùng đến." Thiên ma càng thêm kính phục, nhân đó thưa hỏi về lẽ đạo. Phật giảng thuyết cho nghe, [vị ấy] liền đắc quả Tu-đà-hoàn.

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY
KHÔNG VƯỚNG MẮC

Phật dạy: "Người cầu đạo như cây gỗ thả dưới nước, theo dòng trôi đi. Nếu chẳng vướng ở hai bờ, chẳng bị người ta lấy mất, chẳng bị quỉ thần ngăn trở, chẳng bị chỗ nước xoáy cuốn vào, lại cũng chẳng mục nát, thì ta nói chắc rằng cây ấy sẽ trôi ra biển. Người học đạo nếu chẳng bị tình dục làm mê hoặc, chẳng bị các thứ tà ác quấy rối, lại tinh tấn theo lẽ vô vi, thì ta nói chắc rằng người ấy thế nào cũng đắc đạo."

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI TÁM
CHỚ BUÔNG THẢ TÂM Ý

Phật dạy: "Chớ tin nơi tâm ý, tâm ý không thể tin cậy được. Thận trọng chớ gần gũi sắc dục, gần gũi sắc dục tất sanh tai họa. Đắc quả A-la-hán rồi, mới có thể tin cậy nơi tâm ý."

CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN
CHÁNH QUÁN TRỪ SẮC DỤC

Phật dạy: "Thận trọng chớ ngắm nhìn đàn bà, cũng đừng nói năng tiếp xúc. Nếu cần nói chuyện, nên giữ tâm chân chánh mà suy nghĩ rằng: Ta là sa-môn, ở đời ác trược phải như hoa sen, chẳng vấy bùn nhơ. Đối với phụ nữ già cả, hãy tưởng như mẹ mình; đối với phụ nữ lớn tuổi hơn, tưởng như chị gái; hoặc nhỏ tuổi hơn thì tưởng như em gái; nhỏ tuổi hơn nhiều thì tưởng như con gái của mình. Tưởng như thế rồi sanh tâm muốn độ thoát họ, dập tắt mọi ý nghĩ xấu."

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI
LÌA XA LỬA DỤC

Phật dạy: "Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần thì phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa."

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI MỐT
TĨNH TÂM TRỪ DỤC

Có người kia lòng dâm dục chẳng dứt, muốn tự tay cắt bỏ dương vật. Phật dạy người ấy rằng: "Nếu cắt bỏ dương vật, chẳng bằng lo dứt đoạn tâm. Vì tâm như người cai quản, nếu người cai quản dừng, thì những kẻ tùy tùng cũng phải dừng. Tà tâm chẳng dứt, cắt bỏ dương vật có ích gì?"
Phật vì người ấy mà thuyết kệ rằng:
Dục sanh ra từ ý,
Ý do tư tưởng sanh.
Ý, tưởng đều tịch tĩnh,
Không sắc, không hành dâm.
Phật nói: "Bài kệ ấy do Phật Ca-diếp thuyết."

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI HAI
TRỪ NGÃ KHÔNG CÒN SỢ

Phật dạy: "Người ta vì ái dục sanh ra lo nghĩ, vì lo nghĩ sanh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?"

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BA
TRÍ SÁNG PHÁ TÀ MA

Phật dạy: "Người cầu đạo tỷ như một người chiến đấu chống muôn người. Mặc áo giáp lên đường, hoặc có ý khiếp sợ, hoặc nửa đường thối lui, hoặc đánh nhau mà chết, hoặc chiến thắng trở về. Sa-môn học đạo nên giữ vững lòng mình, tinh tấn dũng mãnh, chẳng sợ những gì sắp tới, phá diệt chúng ma mà chứng đắc đạo quả."

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BỐN
TRUNG ĐẠO

Một vị sa-môn ban đêm tụng kinh Di giáo của Phật Ca-diếp. Tiếng tụng nghe buồn bã và gấp rút, trong lòng hối tiếc, muốn thối chí. Phật hỏi: "Khi còn ở nhà, ông đã từng làm gì?
Đáp rằng: "Con thích khảy đàn."
Phật hỏi: "Dây chùng quá thì sao?"
Đáp rằng: "Chẳng kêu."
"Dây căng quá thì thế nào?"
Đáp rằng: "Mất tiếng."
"Chẳng chùng, chẳng căng, giữ mức vừa phải thì thế nào?"
Đáp rằng: "Các âm đều vang lên đủ."
Phật dạy: "Sa-môn học đạo cũng giống như vậy. Nếu tâm được điều hòa vừa phải, thì có thể đắc đạo. Đối với đạo nếu tâm mạnh mẽ thái quá tất thân phải mỏi mệt. Thân đã mỏi mệt, ý tất sanh buồn não. Nếu ý sanh buồn não, việc làm tất thối lui. Việc làm đã thối lui, tội lỗi tất tăng thêm nhiều. Chỉ nên thanh tịnh, an lạc thì đạo chẳng mất."

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI LĂM
TRỪ CẤU NHIỄM

Phật dạy: "Như người luyện sắt, loại bỏ cặn dơ mà rèn thành đồ vật. Đồ vật ấy tất là rất tốt. Cũng vậy, người học đạo trừ bỏ những cấu nhiễm trong tâm tất sẽ được hạnh trong sạch."

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI SÁU
ĐƯỢC CHỖ TỐT HƠN

Phật dạy: "Người ta lìa khỏi các đường ác, được làm người là khó.
"Được làm người, tránh thân nữ nhi được làm nam tử là khó.
"Được làm nam tử, có đủ sáu căn là khó.
"Có đủ sáu căn, được sanh nơi xứ trung tâm là khó.
"Được sanh nơi xứ trung tâm, gặp Phật ra đời là khó.
"Được gặp Phật ra đời, hiểu được lẽ đạo là khó.
"Hiểu được lẽ đạo, phát khởi lòng tin mạnh mẽ là khó.
"Đã phát khởi được lòng tin mạnh mẽ, phát tâm Bồ-đề là khó.
"Đã phát tâm Bồ-đề, đạt đến chỗ vô tu vô chứng là khó.

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BẢY
GIỮ GIỚI GẦN ĐẠO

Phật dạy: "Đệ tử Phật tuy ở cách xa Phật nhiều ngàn dặm, nhưng luôn nhớ nghĩ đến giới luật, tất được chứng quả. Còn như kẻ kề cận bên ta, thường được thấy ta, nhưng chẳng làm theo giới luật, rốt cùng chẳng thể đắc đạo."

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI TÁM
CÓ SANH CÓ DIỆT

Đức Phật hỏi một vị sa-môn: "Mạng sống người ta là bao lâu?" Thưa rằng: "Được vài ngày." Phật nói: "Ông chưa hiểu đạo."
Phật lại hỏi một vị sa-môn khác: "Mạng sống người ta là bao lâu?" Thưa rằng: "Chỉ trong một bữa cơm." Phật nói: "Ông chưa hiểu đạo."
Phật lại hỏi một vị sa-môn khác: "Mạng sống người ta là bao lâu?" Thưa rằng: "Chỉ trong hơi thở vào ra mà thôi."
Phật dạy: "Hay thay! Ông thật đã hiểu đạo."

CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI CHÍN
LỜI DẠY CHẲNG SAI

Phật dạy: "Người học đạo Phật, đối với những lời Phật dạy, đều nên tin nhận. Giống như khi ăn mật, phía trong và phía ngoài đều là vị ngọt. Kinh điển của ta cũng như vậy đó."

CHƯƠNG THỨ BỐN MƯƠI
LỄ BÁI DO NƠI TÂM

Phật dạy: "Sa-môn đi quanh cung kính, đừng như con trâu kéo cối xay, thân tuy đi quanh, mà tâm chẳng tùy theo. Nếu tâm đã cung kính, cũng chẳng cần việc đi quanh như thế."

CHƯƠNG THỨ BỐN MƯƠI MỐT
LÒNG NGAY TRỪ DỤC

Phật dạy: "Người học đạo ví như con trâu chở nặng đi giữa bùn sâu. Đành rằng nó mỏi mệt hết sức, song phải chú tâm chẳng dám nhìn qua hai bên. Đến chừng ra khỏi bùn lầy, mới có thể tươi tỉnh nghỉ ngơi. Sa-môn nên quán tưởng tình dục còn nguy hiểm hơn cả bùn lầy, hãy đem lòng ngay thẳng mà nghĩ nhớ đến đạo, mới có thể thoát được các điều khổ."

CHƯƠNG THỨ BỐN MƯƠI HAI
BIẾT ĐỜI LÀ HUYỄN

Phật dạy: "Ta xem ngôi vị vua chúa như bụi qua kẽ hở, xem của báu vàng ngọc cũng như ngói sạn, xem y phục gấm vóc như mảnh lụa rách, xem cõi đại thiên thế giới như một trái táo, xem nước hồ A-nậu như dầu thoa chân.
"Ta xem cửa phương tiện đặt ra như của báu biến hóa mà có, xem Vô thượng thừa như vàng lụa trong giấc mộng, xem đạo Phật như đóa hoa trước mắt, xem thiền định như cây trụ chống đỡ núi Tu-di, xem Niết-bàn như thức dậy sau giấc ngủ đêm, xem sự thấy biết đúng sai cũng như sáu con rồng lượn múa, xem lẽ bình đẳng như địa vị chân thật duy nhất, xem việc hành hóa đạo lý như cây cối bốn mùa.

Các vị đại tỳ-kheo nghe Phật thuyết kinh này xong, thảy đều vui vẻ phụng hành.

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG - CHUNG


Nội dung được tải về từ website Rộng mở tâm hồn: http://rongmotamhon.net Việc sử dụng nội dung này vào mục đích khai thác lợi nhuận dưới bất kỳ hình thức nào là vi phạm đạo đức và pháp luật. Chúng tôi khuyến khích việc phổ biến vì mục đích lợi tha. Xin vui lòng ghi rõ nguồn thông tin trích dẫn và không tùy tiện sửa chữa, thêm bớt vào nội dung hiện có.