KINH NHÂN DUYÊN CỦA VUA ĐẢNH SINH - Bản dịch Việt ngữ số 1 Dịch giả: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T03 - Kinh số 165 - Tổng cộng kinh này có 6 quyển.) Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Phật Thế Tôn ở tại khu lâm viên Kỳ-đà, cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Vua nước Kiều-tát-la là Thắng Quân đi đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, nhà vua cung kính đảnh lễ ngang chân Đức Thế Tôn, rồi lui ra ngồi qua một bên bạch Phật: -Bạch Đức Thế Tôn, xưa kia khi dốc cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, Ngài đã thực hành bố thí và làm các việc thiện, phước như thế nào? Đức Phật dạy: -Đại vương, đó là sự việc của thời quá khứ lâu xa. Như Lai nhớ trong Hiền kiếp khi tu hạnh bố thí để cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, với nhân duyên của việc này, nay đại vương hãy lắng nghe và khéo nhớ nghĩ, Ta sẽ vì đại vương mà giảng nói. -Đại vương, vào thời sơ kiếp, con người thọ vô lượng tuổi, bấy giờ có vua tên Bố-sa-đà. Trên đảnh của nhà vua bỗng nhiên sinh ra một cục thịt, giống như vết phỏng phồng lên và mềm như Đâu-la- miền, lại như tơ mịn cũng không cảm thấy đau đớn. Đến lúc cục thịt ấy đã chín muồi, tự nhiên bung ra sinh một đứa bé có tướng mạo vô cùng đoan nghiêm, tươi đẹp, thân như vàng ròng, trên đầu có tóc xoáy tròn giống như chiếc lọng, hai tay thẳng dài, trán rộng, phẳng, lông mi dài cong, mũi cao mà thẳng, thân thể cân phân đầy đặn, có ba mươi hai tướng Đại trượng phu trang nghiêm nơi thân. Đứa bé sinh ra rồi được đưa vào trong cung. Nhà vua có sáu vạn cung nữ quyến thuộc, họ trông thấy đứa bé này thì sữa tự chảy đầy, mỗi người đều nói: -Tôi xin lo việc nuôi dưỡng thái tử! Do đó đặt tên là Ngã Dưỡng. Hoặc có người nói thái tử từ nơi đảnh sinh ra nên gọi là Đảnh Sinh. Do đấy mới gọi thái tử là Đảnh Sinh, hoặc hiệu là Ngã Dưỡng. Khi thái tử Đảnh Sinh còn bé, vui vẻ chơi đùa trải qua thời gian sáu đời Đế Thích, đến thời gian làm thái tử cũng trải qua sáu đời Đế Thích. Một hôm, thái tử ra khỏi hoàng cung, lần lượt dạo xem khấp phố phường, dân chúng, cho đến lúc vua Bố-sa-đà bỗng nhiên ngã bệnh, cận thần dâng đủ các thứ thuốc quý để trị liệu, tuy mọi người đều hết lòng lo lắng nhưng bệnh của nhà vua vẫn không thuyên giảm. Nhà vua ra lệnh cho các quan hầu cận: -Các khanh hãy mau trao pháp quán đảnh của vua cho thái tử. Cận thần tuân lệnh, sai người đến chỗ thái tử và thưa: -Phụ vương lâm bệnh rất nặng, bao nhiêu thuốc thang đều không thuyên giảm. Ngài lệnh cho tôi gọi thái tử ngay bây giờ nên trở về nhanh để nhận pháp quán đảnh của vua. Sứ thần đi nửa đường thì vua Bố-sa-đà đã tạ thế. Khi ấy, quan hầu cận lại sai người chạy theo tiếp đến chỗ thái tử thưa: -Phụ vương đã qua đời, thái tử hãy mau đến nhận pháp quán đảnh của vua. Thái tử Đảnh Sinh suy nghĩ: “Phụ vương đã qua đời, ta có vọi vã về cũng đâu kịp!” Lúc ấy, các đại thần cùng bàn với nhau, rồi cử một đại thần cận vệ đi đến chỗ thái tử tâu: -Xin Thái tử mau về nhận pháp quán đảnh của vua. Thái tử đáp: -Nếu ta có thể tiếp nối vương vị dùng chánh pháp trị nước tất tá sẽ nhận pháp quán đảnh. Cận thần lại tâu: -Thái tử là người nhận pháp quán đảnh. Họ bàn thảo với nhiều phương thức: -Chúng ta nên thiết lập tòa sư tử báu và mão báu, lọng thêu, vẽ... chuẩn bị thế nào cho đầy đủ những thứ cần dùng vào pháp lễ, lại họp nhau trong thành vua để thực hiện lễ quán đảnh. Vì thế thái tử sẽ đến trong cung để nhận pháp ấy. Thái tử đáp: -Nếu ta có thể nôi vương vị theo đúng chánh pháp thì tất cả những vật cần dùng hôm nay sẽ tự đến. Khi ấy thái tử Đảnh Sinh có một thần Dạ-xoa hầu cận tên Nĩ-vũ-ca, liền vận dụng thần lực đi tìm tòa sư tử, lọng thêu, mão báu, tất cả những vật cần dùng, cho đến thành ấp, làng xóm, đều đem đặt ở trước thái tử. Mọi người trông thấy thảy đều kinh ngạc việc chưa từng có. Sau đó các cận thần, dân chúng và binh đội hùng mạnh mới đem tơ lụa, gấm vóc đẹp theo y pháp quán đảnh, vì muốn cho thái tử nhận pháp quán đảnh của họ, nên tất cả cùng tâu: -Thái tử nên nhận pháp quán đảnh. Thái tử nói: -Ta nay làm lại sao dùng tơ lụa của nhân gian làm pháp quán đảnh để buộc nơi đỉnh đầu của mình? Nếu ta tiếp nối được vương vị đúng chánh pháp, ắt có trời đem tơ lụa vi diệu đến buộc nơi đảnh đầu ta. Sau đó, tự nhiên trên trời giáng xuống tơ lụa vô cùng đẹp đẽ, quý giá, để làm công việc quán đảnh, tiếp nối dòng vương vị trị nước. Lại cũng có bảy báu xuất hiện theo. Đó là: Xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu Ma-ni, ngọc nữ báu, thần chủ kho tàng báu, thần chủ binh báu. Bảy báu như thế luôn luôn đầy đủ cùng với ngàn người con sắc tướng tột bậc dũng mãnh, không sợ hãi, có thể hàng phục các quân binh khác. Thời đó, có thành tên Quảng nghiêm, chung quanh thành đều có những rừng cây sum suê bao bọc, ai cũng ưa thích. Trong rừng cây ấy có năm trăm vị Tiên nhân, dùng làm chỗ trú ngụ chuyên tu tập thiền định, năm thần thông. Khu rừng này lại có nhiều loại chim chóc bay đến tu tập, như cò trắng..., chúng hay kêu la inh ỏi làm cản trở công việc tu tập thiền định của các Tiên nhân. Có một vị trong số các Tiên nhân áy tên là Xú Diện, sinh tâm sân giận, liền niệm thần chú, khiến cho các bầy chim đều bị gãy cánh. Lúc ấy, đàn cò trắng bị gãy cánh bèn men theo đất từ từ đi đến nơi cổng thành vua Đảnh Sinh. Nhà vua vừa đi xem cổng thành bên trái mới hỏi quan hầu cận: -Tại sao đàn cò trắng đều tụ tập bên cổng thành này? Cận thần tâu: -Bầy chim chóc ấy trú ngụ trong rừng chỗ các vị Tiên nhân tu thiền định, mà luôn kêu la inh ỏi, có vị Tiên nhân giận quá bèn niệm chú làm cho chúng bị gãy cánh, nên chúng men theo đất đến tụ tập nơi cửa thành vua. Vua nói: -Những vị Tiên nhân này tại sao đối với các chúng sinh không có tâm Từ bi thương xót! Nay ta ra lệnh cho những Tiên nhân ấy phải mau rời khỏi khu rừng kia. Các quan tuân lệnh đi đến chỗ các vị Tiên nhân, truyền lại lệnh ban ra của nhà vua. Các Tiên nhân suy nghĩ: “Bây giờ đại vương đã trị vì bốn châu lớn vô cùng tự tại, chúng ta nên vâng theo lệnh vua đi đến dừng chân nơi khu rừng bên núi Tu-di.” Bấy giờ, vua Đảnh Sinh lần lượt suy tư, quán sát, cân nhắc về các sự việc trong nhân gian. Sau khi đã tính toán kỹ rồi, nhà vua lại nghĩ đến từng loại công việc. Đầu tiên, vua đi đến chỗ những người cày cấy, trồng trọt, khi đã trông thấy công việc, nhà vua hỏi quan hầu cận: -Những người này đang làm công việc gì vậy? Quan hầu tâu: -Những người này cày xới đất đai để trồng các thứ hoa màu, tùy theo chỗ đất mà cây trái sinh sôi, để nuôi sống họ. Vua nói: -Ta là Thánh vương, sao lại để cho mọi người phải nhờ vào sự trồng trọt để nuôi sống? Trong trời đất có những loại trái cây tự sinh ra. Khi vua Đảnh Sinh vừa suy nghĩ và nói như vậy thì có hai mươi bảy giống cây từ trời giáng xuống. Nhà vua liền hỏi mọi người: -Đây có phải là do phước lực của con người đưa đến không? Mọi người thưa: -Đây là do phước lực của Thiên tử và cả của chúng tôi nữa. Lại một hôm nhà vua đi dần đến chỗ người nông phu trồng các thứ cây để kéo sợi, dệt vải. Nhà vua hỏi cận thần: -Những người này làm công việc gì vậy? Quan hầu cận tâu: -Đại vương, những người này đang trồng trọt loại cây hoa có quả, lấy bông của nó để kéo sợi dệt thành áo. Vua bảo: -Ta là Thánh vương, sao lại để cho mọi người trồng cây lấy bông dệt áo kéo sợi? Vì trong trời đất đã có sẵn loại áo tốt đẹp. Khi vua vừa nói xong thì các loại áo tốt đẹp từ trời giáng xuống. Vua hỏi mọi người: -Đây có phải do phước lực của con người đưa đến không? Mọi người tâu: -Đây là do phước lực của Thiên tử và của chúng tôi nữa. Nhà vua đi dần, lại thấy người nông dân dùng bông se thành chỉ để may áo. Vua hỏi cận thần: -Những người này làm công việc gì vậy? Quan hầu cận tâu: -Thiên tử, những người này lấy bông se chỉ làm thành cuộn chỉ để may áo. Vua bảo: -Ta là Thánh vương, sao lại để cho mọi người phải làm như vậy? Tự trong trời đất đã có áo tốt để dùng. Khi vua vừa nói xong thì có vô số áo tốt từ trời giáng xuông. Nhà vua hỏi mọi người: -Đây có phải do phước lực của con người đưa đến không? Mọi người tâu: -Đây là do phước lực của Thiên tử và cũng là do của chúng tôi. Nhà vua lại tiếp tục du hành, trông thấy người nông phu lần lượt dệt từng đoạn vải để may áo. Vua hỏi cận thần: -Những người này làm công việc gì? Quan hầu cận tâu: -Thiên tử, những người này dàn ra khung cửi dệt từng đoạn vải để may áo. Vua nói: -Ta là Thánh vượng vì sao phải để cho mọi người dệt áo che thân? Tự trong trời đất đã có sẵn áo đẹp để mặc. Khi vua vừa nói xong thì có áo đẹp vô cùng từ trời giáng xuống. Nhà vua hỏi mọi người: -Đây có phải do phước lực của con người đưa đến không? Chúng nhân tâu: -Đây là do phước lực của Thiên tử và của cả mọi người. Lúc ấy vua Đảnh Sinh trông thấy các sự việc ấy rồi bèn suy nghĩ đến phước lực của mình, nay ở trong cõi đời này chưa thể hiển lộ được: “Ta đã thống trị trong biển cả ngoài phía Nam núi Tu-di, bên trong cõi này rộng lớn, bên ngoài có hình như bánh xe, dân chúng đông đúc, giàu có, an vui. Thành ấp, đất nước đó rất đẹp đẽ, tráng lệ, dân chúng ở đấy với thân sắc đều ưa nhìn. Ta có bảy báu: Đó là: Xe báu, voi báu, ngựa báu, châu báu Ma-ni, ngọc nữ báu, thần chủ kho báu, thần chủ binh báu. Bảy báu như thế luôn đầy đủ, lại có ngàn người con thân tướng uy nghi tột bậc, dũng mãnh, không sợ hãi, có thể hàng phục được các thứ quân binh khác. Nếu ta là người có sức mạnh vượt bậc thì thích biết bao! Hôm nay xin cho nơi trong cung của ta mưa tiền vàng trong bảy ngày, cho đến khiến không một đồng tiền nào rời bên ngoài cung.” Khi vua vừa suy nghĩ xong thì trời liền mưa xuống đầy tiền vàng suốt bảy ngày, không một đồng tiền nào rơi bên ngoài cung, vua tùy theo phước lực từ chỗ thiện căn đã tạo, cùng oai đức thần thông mà tự nhận được quả phước ấy. Nhà vua liền hỏi mọi người: -Đây là do phước lực của người nào đưa đến vậy? Mọi người đáp: -Do phước lực của Thiên tử. Vua bảo: -Như các ông vừa nói là có cả phước lực của mọi người, vậy tại sao bây giờ không mưa tiền vàng đầy cả châu Thiệm-bộ, tùy theo ý muốn của tất cả dân chúng ai cũng có thể nhặt được? Vì thế các ngươi nên biết, nhân duyên từ đời trước rất là vi diệu, Đức Phật nói: -Đại vương, vua Đảnh Sinh kia đem chánh pháp xử trị nơi thế gian lại trải qua sáu đời Đế Thích. Vua Đảnh Sinh lại hỏi thần Dạ-xoa hộ vệ tên Nĩ-vũ-ca: Có châu lớn nào còn riêng biệt chưa thuộc về ta? Nĩ-vũ-ca thưa: -Tâu Thiên tử, trong biển lớn bên ngoài phía Đông núi Tu-di, có đại châu kia tên là Thắng thần. Châu ấy rộng lớn, bên ngoài như hình bán nguyệt, dân chúng đông đúc giàu có, an lạc, thành ấp thuộc châu đó đều trang nghiêm, đẹp đẽ, chỗ ở của mọi người khắp cõi đều hiện rõ màu sắc khả ái. Nhà vua nên đến đó tùy nghi hóa độ. Vua Đảnh Sinh suy nghĩ: “Ta đã thống trị châu Thiệm-bộ này, có bảy báu và ngàn người con luôn vây quanh nơi cung, lại có mưa tiền vàng trong bảy ngày. Ta lại nghe trong biển lớn ngoài phía Đông núi Tu-di có châu Thắng thần, bây giờ ta đến đó để dẫn dắt, giáo hóa.” Vua vừa suy nghĩ xong thì thân đã bay bổng lên trên không trung, cùng với mười tám ức binh đội mạnh mẽ, ngàn người con vây quanh có bảy báu theo cùng, chỉ trong sát-na đã đến châu Đông Thắng thần. Này đại vương, vua Đảnh Sinh ở trong châu ấy trị vì và giáo hóa muôn dân lâu đến trăm ngàn năm, tùy theo căn lành và phước hạnh của mỗi chúng sinh ở đó đã tạo tác mà tự thọ nhận về quả phước, kể cả thần thông, uy đức. Trải qua thời gian như vậy là sáu đời Đế Thích. Vua Đảnh Sinh lại hỏi thần Dạ-xoa hộ vệ Nĩ-vũ-ca: -Còn có châu lớn nào chưa được ta thống lãnh chăng? Dạ-xoa tâu: -Tâu Thiên tử, trong biển lớn, bên ngoài phía Tây núi Tu-di, có đại châu kia tên Ngưu hóa, trong ngoài giáp vòng hình thể tròn đầy, dân chụng đông đúc, an cư lạc nghiệp, thành ấp lầu gác trong cõi ấy đều đồ sộ, nguy nga, chỗ ở của mọi người hiện rõ hình sắc vi diệu. Nhà vua nên đến đó để tùy nghi giáo hóa. Vua Đảnh Sinh suy nghĩ: “Ta đã thống trị châu Thiệm-bộ kia, có bảy báu và ngàn người con lại có mưa tiền vàng. Ta đã đến châu Đông Thắng thần thống trị, hóa độ, dẫn dắt muôn dân trong trăm ngàn năm, nay lại nghe nơi biển lớn bên ngoài phía Tây núi Tu-di có châu Ngưu hóa, ta phải đến đó để dẫn dắt, giáo hóa.” Khi vua vừa suy nghĩ xong thì thân đã nhấc bổng lên không trung và mười tám câu-chi binh đội dũng mãnh, cùng với một ngàn người con vây quanh, có bảy báu theo cùng, chỉ trong sát-na đã đến châu Tây Ngưu hóa. Này đại vương, vua Đảnh Sinh ở trong châu Tây Ngưu hóa thống trị, giáo hóa muôn dân trong nhiều trăm ngàn năm, tùy theo căn lành, phước hạnh của mỗi chúng sinh đã tạo mà tự thọ nhận quả phước, kể cả uy đức, thần thông. Trải qua thời gian như vậy là sáu đời Đế Thích. Vua Đảnh Sinh hỏi thần Dạ-xoa hộ vệ Nĩ-vũ-ca: -Còn có châu lớn nào ta chưa thống trị? Nĩ-vũ-ca đáp: -Tâu Thiên tử, trong biển lớn, bên ngoài phía Bắc núi Tu-di có đại châu tên là Câu-lô, trong ngoài giáp vòng, hình thể vuông vức, dân chúng đông đúc, giàu có, an vui, thành ấp nơi cõi nước ấy đều sầm uất, tráng lệ, chỗ ở của mọi người đều hiển bày sắc tướng vi diệu. Người ở châu đó luôn tự tại, không bị lệ thuộc, ràng buộc. Đại vương nên đến đó để dẫn dắt, giáo hóa họ. Vua Đảnh Sinh suy nghĩ: “Ta đã thống trị châu Thiệm-bộ kia, có đủ bảy báu, ngàn người con lại có mưa tiền vàng! Rồi lại đến châu Đông Thắng thần, châu Tây Ngưu hóa, thống trị, giáo hóa muôn dân trong nhiều trăm ngàn năm! Bây giờ lại nghe trong biển lớn bên ngoài phía bắc núi Tu-di có châu Câu-lô, nay ta nên đến đó để hóa đọ.” Khi vua vừa suy nghĩ xong thì thân đã bay lên không trung, cùng với mười tám câu-chi quân binh hùng mạnh, bảy báu theo kèm, ngàn người con vây quanh, tất cả cùng đến châu Bắc Câu-lô, chỉ trong sát-na là đến bên núi Tu-di. Từ xa, nhà vua đã trông thấy đất châu ấy màu trắng. Vua hỏi thần Dạ-xoa Nĩ-vũ-ca. -Tại sao đất ở xứ ấy màu trắng? -Tâu Thiên tử, dân ở châu Bắc Câu-lô ấy chỉ ăn lúa thơm, hạt gạo của lúa màu trắng, có đủ hương vị. Người dân không phải cày bừa, trồng trọt mà lúa tự nhiên mọc, hạt lúa dài đến bốn lóng tay, không có cỏ dại và lúa lép xen lẫn, trong trẻo, tinh khiết, đúng thời thì lúa chín, dân chúng ở châu ấy không mất công sức để lấy lúa gạo ăn. Bây giờ vua đến cõi đó cũng sẽ dùng lúa thơm để ăn. Nhà vua nói với các quan hầu cận: -Các ngươi có thấy đất ở đây màu trắng không? Các quan cùng thưa: -Tâu đại vương, chúng thần có thấy! Vua Đảnh Sinh bảo: -Người dân ở châu Bắc Câu-lô kia chỉ ăn lúa thơm, hạt gạo của lúa màu trắng có đủ hương vị. Họ không phải cày bừa, trồng trọt mà lúa tự nhiên mọc, hạt lúa dài bốn lóng tay, không có cỏ dại và lúa lép xen lẫn, trong trẻo, tinh khiết cứ đúng thời thì lúa chín, dân chúng ở đấy không mất công sức để lấy lúa gạo ăn. Các ngươi đến đó, cũng sẽ dùng lúa thơm để ăn. Vua Đảnh Sinh cũng ở phía bắc núi Tu-di, từ xa trông thấy các cây hình dáng trang nghiêm, tán tròn không khuyết giảm, vô cùng đẹp đẽ, ai cũng thích nhìn. Nhà vua hỏi Nĩ-vũ-ca: -Vì sao những cây kia có hình dáng trang nghiêm như thế? Nĩ-vũ-ca tâu: -Người dân ở châu Bắc Câu-lô có bốn loại cây tạo ra vải vóc, y phục, đó là xanh, vàng, đỏ, trắng. Những cây ấy cho ra bốn màu áo vi diệu, muôn dân ở châu này hoặc nam hoặc nữ, người nào cần y phục mặc, khi tâm của họ vừa khởi lên thì cành cây kia tự nhiên cong xuống cho họ tha hồ lấy. Đại vương đến đó cũng sẽ mặc y phục như họ vậy. Vua nghe xong bèn nói với các quan hầu cận: -Các ngươi có trông thấy các cây với hình dáng trang nghiêm, tán tròn đầy đặn kia chăng? Các quan cùng tâu: -Chúng thần đều trông thấy. Vua bảo: -Người dân ở châu Bắc Câu-lô kia hiện có bốn thứ cây tạo ra vải vóc, y phục, đó là xanh, vàng, đỏ; trắng. Những cây ấy luôn cho ra bốn màu áo vi diệu, muôn dân ở châu ấy, hoặc nam hoặc nữ, ai cần y phục để mặc, thì vừa khởi tâm suy nghĩ là cành cây kia tự nhiên cong xuống cho họ tha hồ lấy mặc. Các ngươi đến đó cũng sẽ được mặc y phục của họ. Này đại vương, vua Đảnh Sinh ở châu Bắc Câu-lô ấy thống trị giáo hóa dân chúng trong hơn trăm ngàn năm, tùy theo phước lực và hạnh thiện của mỗi chúng sinh đã tạo mà tự thọ nhận quả phước kể cả thần thông, uy đức. Như vậy trải qua thời gian là sáu đời Đế Thích. Vua Đảnh Sinh lại nói với thần Dạ-xoa hộ vệ Nĩ-vũ-ca: -Còn có châu nào ta chưa thống lãnh chăng? Nĩ-vũ-ca tâu: -Tâu Thiên tử, không còn xứ nào mà đại vương chưa thống trị cả. Có cõi trời Ba mươi ba, sắc tướng trường thọ có nhiều diệu lạc tột bậc. Cõi trời này cao rộng, lầu gác đều kiên cố, an ổn. Đại vương nên đến đó để thăm chơi. Vua Đảnh Sinh lại suy nghĩ: “Ta đã thống lĩnh bốn châu lớn, cai trị, giáo hóa. Nay lại nghe có cõi trời Ba mươi ba, sắc tướng trường thọ, với nhiều diệu lạc thù thắng. Cõi trời ấy hết sức cao rộng, lầu gác cung điện đều kiên cố. Ta nay nên đến cõi đó.” Vua vừa mới nghĩ thì thân đã bay bổng lên không trung cùng với mười tám ức binh đội hùng mạnh, một ngàn người con vây quanh có bảy báu cùng theo. Đến vòng ngoài nơi núi Tu-di là bảy lớp núi vàng, nhà vua đầu tiên đến núi Di-dân-đạt-la. Núi này hùng vĩ tươi đẹp thuần bằng vàng, có bốn Đại Thiên vương và các Thiên tử sống nơi đấy. Nhà vua đem binh đội dũng lực đến dẫn dắt, giáo hóa nước ấy, trải qua thời! gian sáu đời Đế Thích. Kế đến, nhà vua tới núi Vỹ-na-niết-kế, núi này cũng hùng vĩ sầm uất, thuần bằng vàng, có bốn Đại Thiên vương và các Thiên tử sống tại đấy. Nhà vua đem quân binh thù thắng đến giáo hóa dẫn dắt cõi nước ấy, trải qua thời gian sáu đời Đế Thích. Tiếp theo, nhà vua đến núi Mã nhĩ, núi này càng hùng vĩ cao vút, cây cối um tùm, tươi tốt, cũng thuần bằng vàng, có bốn Đại Thiên vương và các Thiên tử sống ở đấy. Nhà vua đem binh đội dũng mãnh đến giáo hóa cõi nước này, trải qua thời gian sáu đời Đế Thích. Rồi nhà vua đến núi Thiện kiến, núi này cũng hùng vĩ không khác các núi trước, thuần bằng vàng, có bốn Đại Thiên vương và các Thiên tử sống tại đấy. Nhà vua đem quân binh hùng dũng đến để giáo hóa, trải qua thời gian sáu đời Đế Thích. Tiếp theo, nhà vua đến núi Khư-nĩ-la-ca, núi này cũng như các núi kể trên, cũng thuần bằng vàng, ở đây cũng có bốn Đại Thiên vương và các Thiên tử cai quản. Nhà vua cũng ra sức giáo hóa, trải qua thời gian sáu đời Đế Thích. Sau đó, nhà vua đến núi Trì trục, núi này lại càng hùng vĩ, xinh tươi, cao vút, cảnh quan càng đẹp, thuần bằng vàng, có bốn Đại Thiên vương và các Thiên tử sống ở đây. Nhà vua cũng đem binh đội dũng lực giáo hóa cõi nước ấy, trải qua thời gian sáu đời Đế Thích. 6Sau khi đã đến núi Trì trục, vua Đảnh Sinh lại tới núi Trì song. Núi này cũng hùng vĩ, cảnh quan đẹp đẽ, thuần bằng vàng, có bốn Đại Thiên vương và các Thiên tử sống ở đấy. Núi chúa Tu-di là ngọn cao nhất trong các núi. Phía Đông núi này có vị Đại Thiên vương tên Trì Quốc, cung thành của vua trời cũng tên là Trì quốc. Thành nấy! ngang rộng bằng nhau đến hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi thành là một ngàn do-tuần, trong ngoài đều trang nghiêm, tráng lệ. Thành Trì quốc có tường bằng vàng cao nửa do-tuần, trên thành vàng lại có tường Tứ nữ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Lại có lớp tường thông đến ngoài đường, cũng được làm bằng bốn thứ báu. Đất trong thành này cũng vi diệu, thù thắng, có cả trăm loại màu sắc xen lẫn để trang trí. Đất ở đây mịn màng như Đâu-la-miên và tơ mềm, nên khi bước xuống chân lún vào, nhấc lên thì trở lại như cũ. Trời tung rải hoa Mạn-đà-la trên đất này rất nhiều, ngập cả lối đi. Khi gió thổi, hương bay tỏa mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. Những con đường thành dài hai trăm năm mươi do-tuần, rộng hai mươi lăm do-tuần, cát vàng trải khắp đất, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng mắc khắp bên đường đi để làm ranh giới cho hai phía. Lại có đủ các loại ao hồ trong mát, đáy ao rải kín bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Quanh mặt ao có bốn bậc thang, phần đáy và các tầng cấp cũng được làm bằng bốn thứ báu. Lại nữa trong ao hồ có đài bốn báu xen lẫn nhau tăng thêm sự trang nghiêm, đẹp đẽ. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Nước nơi các ao luôn đầy ắp trong mát, thơm ngọt. Hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa- lợi-ca... phủ đầy mặt ao. Lại có các loại chim sống ở nước bơi lượn, vui đùa trong ao, phát ra âm thanh vi diệu, đó là: Tiếng cao vút bay xa, tiếng làm vui lòng người, tiếng hay đẹp... Chung quanh ao lại có loại cây, hoa quả, mọc thẳng đứng, sum suê hài hòa. Giống như người thợ kết hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây hoa quả ở đây cũng giống như vậy. Rừng cây lại có những giống chim bay nhảy nơi cành cao, phát ra âm thanh hòa nhã như tiếng cao vút bay xa, tiếng làm vui lòng người, tiếng hay đẹp dịu dàng... Nơi cung của Thiên vương có bốn loại cây tạo ra vải vóc, y phục màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Cây ấy luôn sinh ra bốn loại y phục màu sắc tươi đẹp, nếu chư Thiên hoặc nam hoặc nữ suy nghĩ đến y phục, khi tâm vừa phát sinh thì y phục liền hiện đến tận tay. Lại có nhiều loại cây tạo ra âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh... Nếu chư Thiên hoặc nam hay nữ nào suy nghĩ đến âm nhạc, khi tâm vừa phát sinh thì âm nhạc đã tự hòa tấu. Trong cung còn có những loại cây tươi đẹp, kỳ diệu chuyên sinh ra các thứ vòng, xuyến đeo tay, đeo chân, các vật đẹp đẽ khác để trang sức nơi thân. Nếu chư Thiên hoặc nam, hoặc nữ nào muốn có vật để trang sức, khi tâm vừa khởi thì các vật kia liền có ngay. Lại có các thứ thức ăn Tô-đà gồm bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Chư Thiên hoặc nam hoặc nữ nào nghĩ đến thức ăn, khi tâm mới vừa dấy lên thì thức ăn liền hiện ra trước mặt. Nước uống thì có bốn loại: Mạt-độ, Ma-đạt-cang, Ca-đàm-mạt-lê và Bá-nang... Nhà cửa, lầu gác, cung điện ở đây đều hiện rõ vẻ uy nghiêm đường lệ, nguy nga. Các Thiên nữ trong cung luôn thư thái; đi, đứng, ngồi, nằm đều ung dung. Những khi dạo chơi đây đó đều có đầy đủ các loại xe thích hợp trang hoàng lộng lẫy, rèm che chỗ Thiên nữ ngồi, rồi trổi nhạc, đánh trống, xông các danh hương cùng chở đầy các thức ăn uống. Thiên vương Trì Quốc cùng hàng quyến thuộc sống trong cảnh an lạc, tùy theo phước lực của mỗi người mà thọ hưởng quả thù thắng. Phía Nam núi Tu-di có Đại Thiên vương tên Tăng Trưởng, thành của Thiên vương cũng hiệu Tăng trưởng. Thành này dài rộng bằng nhau, mỗi chiều là hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi thành là một ngàn do-tuần, trong ngoài đều theo đúng thứ lớp, đẹp mắt. Thành có tường vàng cao nửa do-tuần, trên thành vàng lại có tường Tứ nữ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca, lại có lớp tướng thông tới ngoài đường cũng được làm bằng bốn thứ báu. Đất đai ở đây có cả trăm loại màu sắc xen lẫn lại, mịn màng như Đâu-la-miên và tơ mềm nên khi bước xuống chân lún vào, nhấc chân lên thì trở lại như cũ. Hoa trời Mạn-đà-la tung rải khắp mặt đất, ngập cả lối đi, gió thổi hương thơm lan tỏa mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. Những con đường trong thành dài hai trăm năm mươi do-tuần, cát vàng trải khắp đất, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng mắc khắp hai bên đường đi để làm ranh giới cho hai phía. Lại có đủ các loại ao hồ trong mát, đáy ao rải kín bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Quanh mặt ao có bốn bậc thang phần đáy và các tầng cấp cũng được làm bằng bốn thứ báu. Lại nữa; ; trong ao hồ có đài trang nghiêm do bốn báu tạo thành xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Nước trong các ao luôn đầy ắp trong mát, thơm ngọt. Các loại hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Câu-mẫu, hoa Bôn-noa-lợi-ca... phủ kín mặt ao. Lại có các loại chim sống ở nước bơi lặn, vui đùa trong ao phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng làm vui lòng người, tiếng hay đẹp dịu dàng... Chung quanh ao lại có các loại cây, hoa quả, mọc thẳng đứng, sum suê, đều đặn. Giống như người thợ kết vòng hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành hoa đẹp, rừng cây hoa quả ở đây cũng giống như vậy. Rừng cây ấy lại có những giống chim bay nhảy trên cành cao, phát ra âm thanh hòa nhã như tiếng cao vút bay xa, tiếng làm vui lòng người, tiếng hay đẹp dịu dàng... Nơi cung của Thiên vương có bốn loại cây tạo ra vải vóc y phục màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Cây ấy luôn sinh ra bốn loại y phục mầu sắc tươi đẹp. Nếu chư Thiên hoặc nam hoặc nữ suy nghĩ đến y phục, khi tâm vừa phát sinh thì y phục liền hiện đến tận tay. Lại có nhiều loại cây tạo ra âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh... Nếu chư Thiên hoặc nam hoặc nữ nào suy nghĩ đến âm nhạc, khi tâm vừa dấy khởi thì âm nhạc đã tự hòa tấu. Trong cung còn có các loại cây tươi đẹp, kỳ diệu, chuyên sinh ra các thứ vòng xuyến đeo tay, đeo chân, các vật đẹp đẽ khác để trang sức nơi thân. Chư Thiên hoặc nam hay nữ nào muốn có vật để trang sức, khi tâm vừa phát khởi thì vật kia liền hiện đến ngay. Lại có các thứ thức ăn Tô-đà gồm bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nếu chư Thiên nam hoặc nữ nào nghĩ đến thức ăn, khi tâm vừa dấy lên thì thức ăn liền có ngay trước mặt. Thức uống thì có bốn loại: Mạt-độ, Ma-đạt-cang, Ca-đàm-mạt lê và Bá-nang... Nhà cửa, lầu gác cung điện ở đây đều nguy nga, uy nghiêm. Các Thiên nữ ở trong cung luôn thư thái; đi, đứng, ngồi, nằm đều ung dung. Những khi dạo chơi đây đó đều có đầy đủ các loại xe thích hợp trang hoàng lộng lẫy, có rèm che chỗ Thiên nữ ngồi, rồi trổi nhạc, đánh trống, xông các danh hương cùng chở đầy các thức ăn uống. Thiên vương Tăng Trưởng và quyến thuộc thọ hưởng mọi sự an lạc, tuy theo phước lực của mình mà nhận lấy thắng quả ấy. Phía Tây núi Tu-di có Đại Thiên vương tên Quảng Mục, thành của Thiên vương cũng tên là Quảng mục. Thành này dài rộng bằng nhau mỗi chiều là hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi thành là một ngàn do-tuần, trong ngoài đều theo đúng thứ lớp, uy nghiêm, tráng lệ. Thành có tường vàng cao nửa do-tuần, trên thành vàng lại có tường Tứ nữ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca, lại có lớp tường thông đến ngoài đường, cũng được làm bằng bốn thứ báu. Đất đai ở đây có cá trăm loại màu sắc xen lẫn lại rất mịn màng như Đâu-la-miên và tơ mềm nên khi bước xuống chân lún vào nhấc lên thì trở lại như cũ. Hoa trời Mạn-đà-la tung rải khắp mặt đất, ngập cả lối đi, gió thổi hương thơm lan ra mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. Những con đường trong thành dài hai trăm năm mươi do-tuần, cát vàng trải khắp đất, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng mắc khắp bên đường đi để làm ranh giới cho hai phía. Lại có đủ các loại ao hồ trong mát, đáy ao rải kín bằng bốn thứ báu vàng, bạc, lưu ly, pha-chi ca. Quanh mặt ao có bốn bậc thang, phần đáy và các tầng cấp cũng được làm bằng bốn thứ báu. Lại nữa, trong ao hồ có đài trang nghiêm do bốn báu tạo thành xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng lưu ly, thì trụ và cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Nước trong các ao luôn đầy ắp trong mát, thơm ngọt. Các loại hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma và hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca... phủ kín mặt ao. Lại có các loại chim sống ở nước bơi lặn vui đùa trong ao, phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng làm vui lòng người, tiếng hay đẹp dịu dàng... Chung quanh ao lại có các loại cây, hoa quả mọc thẳng đứng, đều đặn, cân đối. Giống như người thợ kết hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa, rừng cây hoa quả ở đây cũng giống như vậy. Rừng cây ấy lại có những giống chim bay nhảy trên cành cao, phát ra âm thanh hòa nhã như tiếng cao vút bay xa, tiếng làm vui lòng người, tiếng hay đẹp dịu dàng. Nơi cung của Thiên vương có bốn loại cây tạo ra vải vóc y phục màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Cây ấy luôn sinh ra bốn loại y phục màu sắc tươi đẹp. Nếu chư Thiên hoặc nam hoặc nữ suy nghĩ đến y phục, khi tâm vừa dấy khởi thì y phục liền hiện đến tận tay. Lại có nhiều loại cây tạo ra âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh. Nếu chư Thiên hoặc nam hay nữ nào suy nghĩ đến âm nhạc, khi tâm vừa phát khởi thì âm nhạc đã tự hòa tấu. Trong cung còn có các loại cây đẹp đẽ, kỳ diệu, chuyên sinh ra các thứ vòng, xuyến đeo tay, đeo chân, các vật đẹp đẽ khác để trang sức nơi thân. Nếu chư Thiên hoặc nam hay nữ nào muốn có vật để trang sức, khi tâm vừa dấy khởi thì vật liền đến tận tay. Lại có các thứ thức ăn Tô-đà gồm bốn màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Chư Thiên hoặc nam, hay nữ nào nghĩ đến thức ăn, khi tâm vừa phát khởi thì thức ăn liền hiện ra ngay trước mặt. Thức uống thì có bốn loại: Mạt-độ, Ma-đạt-cang, Ca-đàm-mạt-lê và Bá-nang... Nhà cửa, lầu gác cung điện ở đây đều nguy nga, uy nghiêm. Các Thiên nữ ở trong cung luôn thư thái, đi đứng, ngồi, nằm đều ung dung. Những khi dạo chơi đây đó đều có đầy đủ các loại xe thích hợp, trang hoàng lộng lẫy có rèm che chỗ Thiên nữ ngồi, rồi trổi nhạc, đánh trống, xông các danh hương cùng chở đầy các thức ăn uống. Thiên vương Quảng Mục và các quyến thuộc thọ hưởng mọi sự an lạc, tùy theo phước lực của mình mà nhận lấy thắng quả ấy. Phía Bắc núi Tu-di có Đại Thiên vương tên Đa Văn, cung thành của Thiên vương tên A-noa-ca-phạ-đế. Thành này dài rộng bằng nhau mỗi chiều dài là hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi của thành là một ngàn do-tuần, trong ngoài đều theo đúng thứ lớp, uy nghiêm, đẹp đẽ. Thành có tường vàng cao nửa do-tuần, trên thành vàng lại có tường Tứ nữ làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca, lại có lớp tường thông đến ngoài đường, cũng được làm bằng bôn thứ báu. Đất đai ở đây có cả trăm loại màu sắc xen lẫn, mịn màng như Đâu-la-miên và tơ mềm, nên khi bước xuống thì chân lún vào, nhấc chân lên thì đất trở lại như cũ. Hoa trời Mạn-đà-la tung rải khắp mặt đất, ngập cả lối đi. Khi gió thổi hương thơm lan tỏa mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. Những con đường trong thành dài hai trăm năm mươi do-tuần, cát vàng trải khắp đất, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng mắc khắp hai bên đường đi để làm ranh giới cho hai phía. Lại có đủ các loại ao hồ trong mát, đáy ao rải kín bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Quanh mặt ao có bốn bậc thang, phần đáy và các tầng cấp.cũng được làm bằng bốn thứ báu. Lại nữa trong ao hồ có đài trang nghiêm do bốn báu tạo thành xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Nước trong các ao luôn đầy ắp, uống mát thơm ngọt. Hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca... phủ kín mặt ao. Lại có các loại chim sống ở nước bơi lặn vui đùa trong ao phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng làm vui lòng người, tiếng hay đẹp dịu dàng... Chung quanh ao lại có các loại cây hoa quả, mọc thẳng đứng, sum suê, cân đối. Giống như người thợ kết hoa lấy tơ mềm khéo lép bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây hoa quả ở đây cũng như vậy. Rừng cây ấy lại có những giống chim bay nhảy trên cành cạo phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng làm vui lòng người, tiếng hay đẹp dịu dàng. Nơi cung của Thiên vương có bốn loại cây tạo ra vải vóc, y phục màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Cây ấy luôn sinh ra bốn loại y phục màu sắc tươi đẹp. Nếu chư Thiên hoặc nam hoặc nữ suy nghĩ đến phục, khi tâm vừa dấy lên thì y phục liền hiện đến tận tay. Lại có những loại cây tạo ra âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh... Nếu chư Thiên hoặc nam hay nữ suy nghĩ đến âm nhạc, khi tâm vừa khởi lên thì âm nhạc đã tự hòa tấu. Trong cung còn có các loại cây đẹp đẽ, kỳ diệu chuyên sinh ra các thứ vòng, xuyến đeo tay, đeo chân, các đồ vật đẹp đẽ khác để trang sức nơi thân. Nếu chư Thiên hoặc nam hay nữ muốn có đồ vật để trang sức, khi tâm vừa phát khởi thì vật kia liền hiện đến ngay.Lại có các thứ thức ăn Tô-đà gồm bốn màu xanh, vàng đỏ, trắng. Chư Thiên hoặc nam hoặc nữ nào nghĩ đến thức ăn, khi tâm vừa phát khởi thì thức ăn liền hiện ra ngay trước mặt. Nước uống thì có bốn loại: Mạt-độ, Ma-đạt-cang, Ca-đàm-mạt-lê và Bá-nang. Nhà cửa, lầu gác, cung điện ở đây đều nguy nga. Các Thiên nữ ở trong cung luôn thư thái, đi đứng, ngồi nằm đều ung dung. Những khi dạo chơi đây đó đều có đủ các loại xe cộ thích hợp trang hoàng lộng lẫy, có rèm che chỗ Thiên nữ ngồi, rồi trổi nhạc, đánh trống xông các danh hương cùng chở đầy các thức ăn uống. Thiên vương Đa Văn và hàng quyến thuộc thọ hưởng mọi sự an lạc, tùy thẹo phước lực của mình mà nhận lấy quả thù thắng. Như vậy là trải qua sáu đời Đế Thích. Tiếp đến, vua Đảnh Sinh đi về phía núi Trì song, nơi có năm trăm Tiên nhân đang trú ngụ. Từ xa họ trông thấy vua Đảnh Sinh tới, Tiên nhân Xú Diện nổi sân, nói: -Ông vua chuyên gây sự tranh chấp kia nay lại đến đây nữa! Nói rồi, ông ta đưa hai tay vốc nước tạt vào đoàn người hộ tống nhà vua, không cho họ tiến đến. Khi ấy, thần chủ binh nói với các Tiên: -Người tu tịnh hạnh nếu sinh tâm sân hận thì ở bất cứ nơi nào sự tu tập cũng không thành tựu. Vua Đảnh Sinh đây là bậc Đại nhân từ, chẳng phải là người để các ông nguyền rủa. Vua Đảnh Sinh đi dần đến chỗ các vị Tiên, hỏi: -Vị nào đã ngăn cản không cho đoàn tùy tùng của ta đến? Thần chủ binh đáp: -Các Tiên ngăn chận. Vua nói: -Các Tiên ở đây thích làm gì nhất? Thần chủ binh đáp: -Các tiên ở đây thích bện tóc nhất. Vua nói: -Bây giờ các vị hãy cắt mái tóc ấy đi và theo làm người hộ tống cho ta. Vua Đảnh Sinh vừa nói xong thì tóc của các Tiên nhân thảy đều tự rụng hết, tất cả đều tự nhiên tay cầm cung tên đứng hầu bên vua. Lúc đó, ngọc nữ báu liền đến tâu vua: -Thiên tử, những vị Tiên nhân này đều là người tu hành, xin đại vương tha cho họ. Vua nói: -Tùy ý. Các Tiên nhân ở lại chỗ cũ, nhờ dốc sức tinh tấn tu tập nên chứng được năm thứ thần thông. Vua Đảnh Sinh cùng đoàn người hộ tống cất thân lên không trung bay dần về phía trước. Núi Tu-di có nhiều dòng nước chảy ra vào, mỗi dòng như vậy dài đến tám vạn do-tuần, bốn mặt đều rộng tám vạn do-tuần, chu vi là ba mươi hai vạn do-tuần. Đất dưới chân đều bằng vàng, tất cả đều do bốn báu tạo thành hết sức trạng nghiêm đẹp đẽ. Núi Tu-di có bốn mặt vuông: mặt phía Đông do pha-chi-ca tạo thành, mặt phía Tây do bạc trắng tạo thành, mặt phía Nam do lưu ly tạo thành, mặt phía Bắc do vàng ròng tạo thành. Bốn góc lại có bốn ngọn núi cao. Ngọn phía Đông nam ngang rộng bằng nhau, mỗi chiều là một trăm hai mươi lăm do-tuần, chu vi là năm trăm do-tuần, cao bốn do-tuần rưỡi, do lưu ly tạo thành, thần Dạ-xoa Kim Cang Thủ trấn giữ núi này. Ngọn ở phía Tây nam ngang rộng bằng nhau, mỗi chiều là một trăm hai mươi lăm do-tuần, chu vi là năm trăm do-tuần, cao bốn do-tuần rưỡi, do pha-chi-ca tạo thành, thần Dạ-xoa Kim Cang Thủ trấn giữ ở đây. Ngọn phía Tây bắc ngang rộng bằng nhau, mỗi chiều là một trăm hai mươi lăm do-tuần, chu vi là năm trăm do-tuần, cao bốn do-tuần rưỡi, do vàng ròng tạo thành, được thần Dạ-xoa Kim Cang Thủ trấn giữ. Ngọn phía Đông bắc cũng ngang rộng bằng nhaụ, mỗi chiều là một trăm hai mươi lăm do-tuần, chu vi là năm trăm do-tuần, cao bốn do-tuần rưỡi, cũng do thần Dạ-xoa Kim Cang Thủ trấn giữ. Núi Tu-di có bốn tầng: Tầng thứ nhất rộng một vạn sáu ngàn do-tuần, do bốn báu tạo thành, Thiên vương Kiên Thủ ở nơi tầng này. Tầng thứ hai cao một vạn do-tuần, rộng tám ngàn do-tuần, do bốn báu tạo thành, là trú xứ của Thiên vương Trì Man. Tầng thứ ba cao một vạn do-tuần, rộng bốn ngàn do-tuần, do bốn báu tạo thành, Thiên vương Thường Kiêu trấn giữ. Tầng thứ tư cao một vạn do-tuần, rộng hai ngàn do-tuần, cũng do bốn báu tạo thành, do Tứ đại Thiên vương cai quản. 6Lại nữa, này đại vương, trên đỉnh núi Tu-di, tức trụ xứ của cõi trời Ba mươi ba, có các Long vương ở vùng nước, đó là Long vương Nan-đà, Long vương Ô-ba-nan-đà, Long vương Ma-na-tư, Long vương Y-la-bát-đát-la. Các Long vương này đã trải qua nhiều kiếp dốc sức hộ trì thế gian, không ai có thể chống cự. Những Long vương ấy lại cùng với các trời Kiên Thủ, trời Trì Man, trời Thường Kiêu, Tứ đại Thiên vương lo công việc gìn giữ cõi trời Ba mươi ba. Nếu khi nào có A-tu-la đến gây chiến, tức thì các vị này đều chống cự lại khiến cho kẻ địch sợ hãi thoái lui. Bấy giờ, vua Đảnh Sinh lại tiến lên phía trước, hướng đến cõi trời Ba mươi ba. Đoàn tùy tùng nhà vua bị các Long vương ngăn chận. Nhà vua hỏi kẻ hầu cận: -Sao đám tùy tùng không đi tới? Vị thần chủ binh đáp: -Tâu Thiên tử, những Long vương này ngăn chận quân binh. Vua nói: -Long vương là loài súc sinh, chẳng phải là chỗ đối địch của chúng ta. Bây giờ, tất cả Long vương phải hộ tống và dẫn đường theo lệnh của ta. Nhà vua nói xong, các Long vương liền hướng dẫn vua đến chỗ của Thiên vương Kiên Thủ. Thiên vương hỏi: -Vì sao các ngươi vội vã chạy đến đây? Các Long vương đáp: “Có vua của cõi nhân gian là Đảnh Sinh, sắp đến đây, nên chúng tôi phải đi trước dẫn đường. Thiên vương Kiên Thủ liền ngăn chặn không chịu cho vào. Vua Đảnh Sinh hỏi kẻ hầu cận: -Tại sao đám tùy tùng không đi tới? Thần chủ binh đáp: -Tâu Thiên tử, ở đây có Thiên vương Kiên Thủ đã ngăn chặn binh đội không cho tiến tới. Vua nói: -Trời Kiên Thủ này cũng phải làm người hộ tống, dẫn đường cho ta. Nhà vua nói xong thì vị trời đó liền đi trước dẫn đường cho nhà vua đến chỗ ở của Thiên vương Trì Man. Thiên vương Trì Man hỏi: -Hôm nay sao ông vội vã đến đây? Kiên Thủ đáp: -Ở nhân gian có vua tên Đảnh Sinh, ngài sắp đến đây cho nên tôi đi trước dẫn đường. Thiên vương Trì Man ngăn chặn không chịu cho vào. Nhà vua hỏi: -Tại sao không cho chúng ta vào? Thần chủ binh đáp: -Tâu Thiên tử, Thiên vương Trì Man ngăn chặn binh chúng. -Trời Trì Man đây cũng phải làm người hộ tống dẫn đường cho ta. Nhà vua nói xong thì vị trời đó liền đi trước dẫn đường cho nhà vua đến chỗ ở của Thiên vương Thường Kiêu. Thiên vương hỏi: -Hôm nay sao ngài vội vã chạy đến đây? Vị trời ấy đáp: -Ở nhân gian có vua tên Đảnh Sinh, ngài sắp đến đây cho nên tôi đi trước dẫn đường. Thiên vương Thường Kiêu ngăn chặn không chịu cho vào. Nhà vua hỏi: -Tại sao không cho chúng ta vào? Thần chủ binh đáp: -Tâu Thiên tử, Thiên vương Thường Kiêu ngăn chận binh chúng. -Trời Thường Kiêu đây cũng phải làm người hộ tống dẫn đường cho ta. Nhà vua nói xong thì vị trời đó liền đi trước dẫn đường cho nhà vua, đến chỗ ở của Tứ đại Thiên vương. Thiên vương hỏi: -Hôm nay sao ngài vội vã chạy đến đây? Thiên vương đáp: -Ỏ nhân gian có vị vua tên Đảnh Sinh, ngài sắp đến đây cho nên tôi đi trước dẫn đường. Lúc bấy giờ Tứ đại Thiên vương cùng bàn với nhau: “Vị vua ở nhân gian này có đủ đại danh xưng và đại phước đức, chúng ta đâu có thể chống trái lại được”. Họ cùng nhau đến chỗ Đế Thích trình bày sự việc trên. Thiên chủ Đế Thích nói: -Vị vua có đại danh xưng và đại phước này ta cũng không thể chống trái lại được. Nói xong liền đem bình nước thơm Át-già đi nghênh đón vua Đảnh Sinh. Khi ấy vua Đảnh Sinh trông thấy trên núi Tu-di rừng cây hoa nở từng chùm, những tàng lá cây chi chít giống như màu mây biêng biếc trên trời cao chót vót trông rất đẹp đẽ khác thường. Nhà vua hỏi thần Dạ-xoa ủng hộ Nĩ-vũ-ca: -Rừng cây phía trước chúng ta tên gì thế? -Tâu Thiên tử, đây là cây trong cõi trời Ba mươi ba, như cây Ba-lợi-chất-đa-la, Câu-tỳ-đà-la... Trong bốn tháng mùa hạ, các vị trời thường ở trong khu rừng này vui chơi giải trí năm dục tự tại. Tâu Thiên tử, bây giờ chúng ta đến đó cũng thọ hưởng khoái lạc như vậy. Vua Đảnh Sinh nói với các quan cận thần: -Các ông có thấy rừng cây phía trước giống như mây trời xanh biếc không? -Thưa vâng, chúng tôi có thấy. -Đó là những loại cây trong cõi trời Ba mươi ba như cây Ba-lợi-chất-đa-la, cây Câu-tỳ-đà-la... Các vị trời trong bốn tháng mùa hạ, thường ở dưới cây này vui chơi thọ hưởng năm dục tự tại. Chúng ta đến đó cũng sẽ vui vẻ như vậy. Vua Đảnh Sinh tiếp tục tiến bước, thấy mây trắng bay cao tụ lại như ngọn núi trên núi Tu-di. Vua hỏi Nĩ-vũ-ca: “Phía trước có mây trắng tụ lại như ngọn núi cao, ở đó gọi là gì thế? -Tâu Thiên tử, đây là Thiện pháp đường trong cõi trời Ba mươi ba, là nơi các vị Thiên tử và Tứ đại Thiên vương thường cùng nhóm họp để tư duy, quan sát, suy tính việc ở thế gian, hoặc các vật của trời, của người. Tâu Thiến tử, bây giờ chúng ta nên đến đó. Nhà vua nói với các quan cận thần: -Các ông có thấy mây trắng tụ lại như ngọn núi cao ở phía trước không? -Thưa vâng, chúng tôi có thấy. -Đó là Thiện pháp đường trong cõi trời Ba mươi ba, là nơi các vị Thiên tử và Tứ đại Thiên vương thường cùng nhóm họp để tư duy, quan sát, suy tính việc ở thế gian hoặc các việc của trời, người. Bây giờ chúng ta nên đến đó. Trong cõi trời Ba mươi, ở núi chúa Tu-di lại có thành Thiện kiến, thành này ngang rộng hai ngàn năm trăm do-tuần bằng nhau, giáp vòng là mười ngàn do tuần, có bảy lớp thành, mỗi thành như vậy cao một do-tuần rưỡi, hoàn toàn được làm bằng vàng, trên mỗi một thành vàng lại có tường Tứ chúng nữ do vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca tạo thành. Lại có lớp tường thông ra ngoài đường cũng được làm bằng bốn thứ báu. Đất trong thành đó được trang điểm bởi cả trăm loại màu sắc xen lẫn. Đất mềm mại như Đâu-la-miên và như tơ mịn nên khi bước xuống chân lún vào, nhấc chân lên trở lại như cũ. Hoa trời Mạn-đà-la tung ra khắp mặt đất tràn ngập cả lối đi, khi gió thổi hương thơm mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. Thành Thiện kiến có một ngàn lẻ một cửa, mỗi một cửa dài hai do-tuần rưỡi, rộng nửa do-tuần, tất cả cửa đều làm bằng gỗ thơm Ngưu đầu chiên-đàn. Mỗi một cửa được trang nghiêm bốn thứ báu xen lẫn như vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca, tướng trạng giống như tinh tượng và bán nguyệt. Mỗi một cửa lại có năm trăm Dạ-xoa thanh y, mình mặt áo giáp để bảo vệ thành, cũng có thể hộ trì cõi trời Ba mươi ba. Các Thiên tử luôn sống bằng các nghiệp thiện lợi. Những con đường trong thành dài hai trăm năm mươi do-tuần, rộng mười hai do-tuần. Cát vàng trải khắp đất, nơi nào cũng trang nghiêm, chạm vào nơi nào cũng có nước chiên-đàn rưới khắp, dây vàng có chuông linh bằng vàng, giăng bên đường đi để làm ranh giới phải trái bên đường. Lại có các loại ao hồ trong mát, dưới đáy ao có rải bốn thứ báu: vàng, bạc, pha-chi-ca, lưu ly. Bốn phía ao có bốn thang cấp, đáy có-bôn báu và tầng cấp cũng được làm bằng bôn thứ báu. Lại trong ao hồ có đài trang nghiêm bốn báu xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Trong ao đầy nước trong mát thơm ngọt, hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma và hoa Mẩu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca... phủ đầy trong ao. Lại có các loại chim nước bay liệng trong ao phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng vui lòng người, tiếng hay vi diệu... Chung quanh đó, các loại cây hoa quả mọc vươn lên thẳng đứng không thưa thớt, giống như người thợ kết vòng hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây hoa quả cũng giống như vậy. Rừng cây ấy lại có những giống chim bay nhảy trên cành cao phát ra muôn âm thanh vi diệu. Ở trong thành đó có loại cây vải y phục màu xanh, vàng, đỏ, trắng, cây này cho ra bốn loại y phục màu sắc xinh đẹp. Nếu Thiên nam hoặc Thiên nữ suy nghĩ đến y phục, khi tâm vừa phát sinh thì y phục đã đến tận nơi. Có những loại cây âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh... Nếu Thiên nam hay Thiên nữ vừa nghĩ đến âm nhạc, khi tâm vừa khởi thì âm nhạc đã tự trổi. Lại có các loại cây trang nghiêm vi diệu, nơi cây ấy sinh ra vòng, xuyến đeo tay, đeo chân và các vật tốt đẹp để trang nghiêm thân. Nếu Thiên nam hay Thiên nữ nào muốn có vật trang sức, khi tâm vừa phát khởi thì vật đó đã đến nơi tay. Lại có bốn vị thức ăn Tô-đà màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nếu thiên nam hoặc Thiên nữ nào nghĩ đến thức ăn, khi tâm vừa phát khởi thì thức ăn đã đến nơi tay. Có bốn loại nước uống: Mạt-độ tương, Ma-đạt-cang tương, Ca-đàm-mạt-lê tương, Bá-nang tương. Lại có các loại lầu gác, điện, đường trang nghiêm thù thắng vi điệu. Gác Thiên nữ ở trong lầu gác đó, hoặc ngồi hoặc dạo chơi đều được an ổn, luôn có các thứ xe chuyên chở vật dụng y phục trang nghiêm, cố rèm che cho Thiên nữ, đánh trống, trổi nhạc, xông các danh hương và nhiều các loại thức ăn uống. Chư Thiên và hàng quyến thuộc vui vẻ hạnh phúc, tùy theo phước lực cửa mỗi người mà thọ hưỏng quả thù thắng này. Phía Đông thành Thiện kiến hai mươi do-tuần có khu vườn tên Bảo xa, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần bằng nhau, giáp vòng một ngàn do-tuần, trong ngoài trang nghiêm thù thắng vi diệu. Vườn có tường vàng cao nửa do-tuần, trênì tường vàng có tường Tứ nữ được làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Lại có lớp tường thông đến ngoài đường cũng được làm bằng bốn thứ báu. Đất trong vườn này có trăm loại màu sắc xen lẫn để trang trí, đất mềm mại như Đâu-la-miên và như tơ mịn nên khi bước xuống chân lún vào, nhấc chân lên trở lại như cũ. Hoa trời Mạn-đà-la tung ra đất đầy ngập cả lối đi. Khi gió thổi hương thơm mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. Trong vườn Bảo xa có ao hồ lớn năm mươi do-tuần. Dưới đáy ao có rải bốn báu vàng bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Bốn phía ao có bốn thang cấp cũng được làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Trong ao hồ đó có đài bốn báu được trang nghiêm vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàngể Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kéo làm bằng pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng pha- chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Trong ao đầy nước trong mát thơm ngọt. Hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Mẫu-đà, hoa Bốn-noa-lợi-ca... phủ đầy trong ao. Lại có các loài chim nước bay liệng trong ao phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng vui lòng người, tiếng hay vi diệu... Chung quanh ao đó có các loại cây hoa quả, mọc vươn lên thẳng đứng sum suê, không thưa thiếu, vi diệu. Giống như người thợ kết vòng hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây hoa quả cũng giống như vậy. Rừng cây ấy lại có những giống chim bay nhảy trên cành cây cao phát ra âm thanh vi diệu. Chạm vào cây nào đều có cây vải y phục màu xanh, vàng, đỏ, trắng, cây này cho ra bốn loại y phục màu sắc xinh đẹp. Ở trong cung đó, có bốn loại cây vải y phục màu xanh, vàng, đỏ, trắng; cây này cho ra bốn loại y phục màu sắc xinh đẹp. Lại có nhiều loại cây âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ông sáo, đàn cầm, đàn tranh. Có các loại cây trang nghiêm vi diệu, nơi cây ấy sinh ra vòng, xuyến đeo tay, đeo chân và các vật tốt đẹp để trang nghiêm thân. Có bốn vị thức ăn Tô-đà màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nếu Thiên nam hoặc Thiên nữ nào nghĩ đến thức ăn, khi tâm vừa mới phát khởi thì thức ăn liền tự đến. Có bốn loại thức uống: Mạt-độ tương, Ma-đạt-cang tương, Ca-đàm-mạt-lê tương, Bá-nang tương. Trong khu vườn này lại có nhà cửa, lầu gác, cung điện trang nghiêm vi diệu. Các Thiên nữ ở trong cung ngồi, nằm hoặc dạo chơi rất an ổn. Có các loại xe chuyên chở vật dụng phục sức trang nghiêm, có rèm che cho Thiên nữ, trổi nhạc, đánh trống, xông các danh hương và đầy các loại thức ăn uống. Chư Thiên và hàng quyến thuộc vui vẻ hưởng lạc tùy theo phước lực của mình mà thọ thắng quả này. Những con đường trong vườn dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, cát vàng trái khắp đất để trang nghiêm thanh tịnh. Chạm vào nơi nào cũng có hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng bên đường đi, dọc hai bên đường cũng có các loại rừng cây hoa quả, chim bay liệng hót vang những âm thanh vi diệu. Cũng có cây vải y phục bốn màu và cây âm nhạc, cây trang nghiêm... Lại có bốn loại xe chuyên chở, như xe voi, xe ngựa, xe kéo, xe báu. Nếu Thiên nam hoặc Thiên nữ nghĩ đến việc có chiếc xe để dạo chơi, tâm mới vừa phát khởi tùy theo ý muôn đi đâu thì xe sẽ đưa đi dạo chơi thỏa thích. Vì sao vườn này có tên Bảo xa? Vì trong vườn này có đủ ao hồ, rừng cây hoa quả, cây y phục trang nghiêm đầy đủ và Thiên nữ..., đều do các báu trang nghiêm tạo thành, lại có xe báu để chở các Thiên nữ đi dạo chơi, vì lý do này mà vườn có tên là Bảo xa. Lại về phía Đông vườn Bảo xa hai mươi do-tuần có đất Bảo nghiêm ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần bằng nhau, giáp vòng một ngàn do-tuần. Đất trong vườn này có cả trăm loại màu sắc xen lẫn, sạch sẽ mềm mịn để trang trí. Trong vùng đất này có đài bốn báu xen lẫn trang nghiêm. Hoa trời Mạn-đà-la tung ra khắp mặt đất, con đường dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần rất trang nghiêm thù thắng. Rừng cây hoa quả, y phục, âm nhạc... Tất cả các loại cây đều đầy đủ trang nghiêm. Cũng có các loại xe chuyên chở tùy theo ý muốn của chư Thiên ưa thích vui chơi. Ở đó có Thiên tiên tu tập phạm hạnh. Phía Nam thành Thiện kiến hai mươi do-tuần có khu vườn tên Thô kiên ngang rộng hai trăm năm do-tuần bằng nhau, giáp vòng một ngàn do-tuần, trong ngoài đều trang nghiêm, xinh đẹp, thù thắng vi diệu. Vườn có bức tường vàng cao một do-tuần, trên tường vàng có tường Tứ nữ được tạo thành bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Lại có lớp tường thông đến ngoài đường cũng được làm bằng bốn thứ báu. Đất trong vườn này có cả trăm loại màu sắc xen lẫn làm trang trí, đất mềm mại như Đâu-la-miên và như tơ mịn, nên khi bước xuống chân lún vào, nhấc chân lên trở lại như cũ. Hoa trời Mạn-đà-la tung ra đất ngập đầy cả lối đi. Khi gió thổi hương thơm mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. ' Trong vườn Thô kiên có ao hồ lớn năm mươi do-tuần, ngang rộng bằng nhau, giáp vòng hai trăm do-tuần, dưới đáy ao có rải bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Bốn phía có bốn thang cấp cũng được làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Trong ao hồ có đại bốn báu được trang nghiêm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ea xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kèo làm bằĩig pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng phai chi-ca thì ttụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Trong ao đầy nước trong mát thơm ngọt. Hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Mẫu-đà, hoa; Bôn-noa-lợi-ca... phủ đầy trong ao. Lại có các loại chim nước bay liệng trong ao phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng vui lòng người, tiếng hay vi diệu. Chung quanh ao đó có các loại cây hoa quả mọc vươn lên thẳng| đứng sum suê, không thưa thiếu. Giống như người thợ kết vòng hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây hoa quả cũng giống như vậy. Rừng cây ấy có những giống chim bay nhảy trên cành cao phát ra âm thanh vi diệu. Chạm vào cây nào đều có cây vải y phục màu xanh, vàng, đỏ, trắng, cây này cho ra bốn màu sắc xinh; đẹp. Lại có nhiều loại cây âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ông sáo, đàn cầm, đàn tranh... Có các loại cây trang nghiêm vi diệu, nơi cây ấy sinh ra vòng, xuyến đeo tay, đeo chân và các vật tốt đẹp để trang nghiêm thân. I Có bốn vị thức ăn Tô-đà màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nếu Thiên nam hoặc Thiên nữ nào nghĩ đến thức ăn, khi tâm vừa mới phát khởi, thức ăn đều tự đến. Có bốn loại thức uống: Mạt-độ tương, Ma-đạ cang tương, Ca-đàm-mạt-lê tương, Bá-nang tương. Trong khu vườn này lại có các nhà cửa, lầu gác, cung điện trang nghiêm vi diệu. Các Thiên nữ ở trong cung ngồi, nằm hoặc dạo chơi rất an ổn. Có các loại xe chuyên chở vật dụng phục sức trang nghiêm, có rèm che cho Thiên nữ, trổi nhạc, đánh trống, xông các danh hương và đầy các loại thức uống. Chư Thiên và các quyến thuộc vui vẻ hưởng lạc, tùy theo phước lực của mình mà hưởng thọ quả thắng diệu này. Con đường trong vườn dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, cát vàng trải khắp đất thanh tịnh trang nghiêm, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng bên đường đi, dọc hai bến đường cũng có các loại cây, hoa quả; chim bay lượn hót lên những âm thanh vi diệu. Cũng có bổn loại cây vải y phục và cây âm nhạc, cây trang nghiêm... Lại có bốn loại xe tốt đẹp như là xe voi, xe ngựa, xe chuyên chở, xe báu. Nếu các Thiên nam, Thiên nữ nghĩ đến việc có chiếc xe để dạo chơi, tâm mới vừa phát khởi, tùy theo ý muốn đi đâu thì sẽ đưa đi dạo chơi thỏa thích. Tại sao vườn này có tên là Thô kiên? Bởi vì trong này có ao hồ, rừng cây, hoa quả, y phục trang nghiêm đầy đủ và các Thiên nữ ở đây đều thô cứng. Các Thiên tử trong vườn này thân tâm đều dũng mạnh mà lại thích chiến đấu. Vì vậy cho nên gọi là vườn Thô kiên. 6 Về phía Nam vườn Thô kiên hai mươi do-tuần có vùng đất Thô kiên ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần bằng nhau, chu vi một ngàn do-tuần, có cả trăm loại màu sắc xen lẫn để trang trí, đất mềm mịn, sạch sẽ. Ở giữa vùng đất Thô kiên có đài làm bằng bốn thứ báu xen lẫn rất trang nghiêm. Hoa trời Mạn-đà-la rải khắp đất. Đường đi dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, thanh tịnh trang nghiêm. Rừng cây hoa quả, cây y phục, cây âm nhạc, tất cả đều đầy đủ trang nghiêm. Cũng có các loại cây chuyên chở tùy theo ý muốn của chư Thiên ưa thích dạo chơi, ở đó có Thiên tiên tu tập phạm hạnh. Phía Tây thành Thiện kiến hai mươi do-tuần có khu vườn tên Tạp chủng ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần bằng nhau, chu vi một ngàn do-tuần, trong ngoài đều tráng lệ, thù thắng, vi diệu. Trong vườn có tường vàng cao một do-tuần, trên tường vàng có bốn tường Tứ nữ do vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca làm thành. Lại có lớp tường thông đến ngoài đường cũng được làm bằng bốn thứ báu. Đất trong vườn này có trăm loại màu sắc xen lẫn để trang trí, đất mềm mại như Đâu-la-miên và như tơ mịn nên khi bước xuống chân lún vào, nhấc chân lên trở lại như cũ. Hoa trời Mạn-đà-la bay ra khắp đất, ngập đầy cả lối đi, khi gió thổi hương thơm mang theo hoa héo và mưa xuông hoa mới. Trong vườn Tạp chủng có ao hồ lớn ngang rộng năm mươi do- tuần bằng nhau, chu vi hai trăm do-tuần, dưới đáy ao có rải bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Trong ao hồ, có đài bốn báu được trang nghiêm bằng vàng, bạc, pha-chi-ca, lưu ly xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo lăm bằng vàng. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Trong ao đầy nước trong mát thơm ngọt. Hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Mẩu-đà, hoa Bôn- noa-lơi-ca..., phủ đầy trong ao. Lại có các loại chim nước bay liệng trong ao phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng vui lòng người, tiếng hay vi diệu. Chung quanh đó có các loại cây hoa quả mọc vươn lên thẳng đứng sum suê không thưa thiếu. Giống như người thợ kết vòng hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây hoa quả cũng giống như vậy. Rừng cây ấy lại có những giống chim bay nhảy trên cành cây phát ra âm thanh vi diệu. Chạm vào đều cây nào đều có cây vải y phục màu xanh, đỏ, vàng, trắng, cây này cho ra bốn màu sắc xinh đẹp. Lại có nhiều loại cây âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh... Có các loại cây trang nghiêm vi diệu, nơi cây ấy sinh ra vòng, xuyến đeo tay, đeo chân và các vật tốt đẹp để trang nghiêm thân. Có bốn vị thức ăn Tô-đà màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nếu Thiên nam hoặc Thiên nữ nào nghĩ đến thức ăn, khi tâm vừa phát khởi, thức ăn đều tự đến. Có bốn loại thức uống: Mạt-độ tương, Ma-đạt-cang tương, Ca-đàm-mạt-lê tương, Bá-nang tương. 11Trong khu vườn này lại có các loại nhà cửa, lầu gác, cung điện trang nghiêm vi diệu. Các Thiên nữ ở trong cung ngồi, nằm hoặc dạo chơi rất an ổn, có các loại xe chuyên chở vật dụng phục sức trang nghiem, có rèm che cho Thiên nữ, trổi nhạc, đánh trống, xông các danh hương và nhiều các loại thức ăn uống. Chư Thiên và các quyến thuộc vui vẻ hưởng lạc tùy theo phước lực của mình mà hưởng thọ quả thù thắng vi diệu ấy. Con đường trong cung dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, cát vàng trải khắp đất, thanh tịnh trang nghiêm, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng bên đường đi, dọc hai bên đường cũng có các loại rừng cây hoa quả, chim bay liệng hót lên những âm thanh vi diệu. Cũng có bốn loại cây vải y phục và cây âm nhạc, cây trang nghiêm. Lại có bốn loại xe tốt đẹp như là xe voi, xe ngựa, xe kéo, xe báu. Nếu các Thiên nam, Thiên nữ nghĩ đến việc có chiếc xe để dạo chơi, tâm vừa phát khởi tùy theo ý muốn đi đâu thì xe sẽ đưa đi dạo chơi thỏa thích. Tại sao vườn này có tên là Tạp chủng? Bởi vì trong vườn này có ao hồ, rừng cây hoa quả, y phục trang nghiêm đầy đủ và các Thiên nữ họp lại. Các Thiên nữ trong vườn này do nhiều người hợp lại, vui chơi khoái lạc. Vì lý do này mà có tên Tạp chủng. Phía Tây vườn Tạp chủng hai mươi do-tuần có vùng đất Tạp chủng ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần bằng nhau, chu vi một ngàn do-tuần. Đất trong vườn này có trăm loại màu sắc xen lẫn, sạch sẽ, mềm mịn, trang nghiêm. Trong vùng đất này có đài bốn báu xen lẫn trang nghiêm. Hoa trời Mạn-đà-la rải khắp mặt đất, con đường dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần rất trang nghiêm thanh tịnh. Rừng cây hoa quả, y phục, âm nhạc..., tất cả loại cây đều đầy đủ trang nghiêm. Cũng có các loại xe chuyên chở tùy ý các vị ười dạo chơi vui vẻ. Ở đó có Thiên tiên tu tập phạm hạnh. Phía Bắc thành Thiện kiến hai mươi do tuần, có vườn tên Hoan hỷ ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần bằng nhau, chu vi một ngàn do-tuần, trong ngoài đều trang nghiêm xinh đẹp. Vườn có bức tường vàng cao một ngàn do-tuần, trên tường vàng có tường Tứ nữ được tạo thành bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-caể Lại có lớp tường thông đến ngoài đường cũng được làm bằng bốn thứ báu. Đất trong vườn này có cả trăm loại màu sắc xen lẫn trang trí. Đất mềm mịn như Đâu-la-miên và mềm như tơ nên khi bước xuông chân lún vào, nhấc chân lên trở lại như cũ. Hoa Mạn-đà-la rải khắp đất, đầy ngập cả lối đi, khi gió thổi hương thơm mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. Trong vườn Hoan hỷ có ao hồ lớn năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, dưới đáy ao có rải bốn thứ báu: vàng, bạc, pha-chi-ca, lưu ly. Trong ao hồ đó, đài bốn báu được trang nghiêm bằng vàng, bạc, pha-chi-ca xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Trong ao đầy nước trong mát thơm ngọt. Hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nộ ma, hoa Mau-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca... phủ đầy trong ao. Lại có các loại chim nước bay liệng trong ao phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút vang xa, tiếng vui lòng người, tiếng hót hay vi diệu. Chung quanh ao có các loại cây hoa quả mọc vươn lên thẳng? đứng sum suê không thưa thiếu. Giống như người thợ kết vòng hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây ăn quả cũng giống như vậy. Rừng cây ấy lại có những giống chim bay nhảy trên cành cao phát ra âm thanh vi diệu. Chạm vào cây nào đều có cây vải y phục màu xanh, vàng đỏ, trắng. Cây này cho ra bốn loại màu sắc xinh đẹp. Lại có nhiều loại cây âm nhạc vi diệu như là ông tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh. Có các loại cây trang nghiêm vi diệu, nơi cây ấy sinh ra vòng đeo tay, đeo chân và các vật tốt đẹp để trang nghiêm thân. Có bốn vị thức ăn Tô-đà màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nếu Thiên nam hoặc Thiên nữ nghĩ đến thức ăn, khi tâm mới vừa phát khởi, thức ăn đều tự đến. Có bốn loại thức uống: Mạt-độ tương, Ma-đạt-cang tương, Ca-đàm-mạt-lê tương, Bá-nang tương. Trong khu vườn này lại có các nhà cửa, lầu gác, cung điện trang nghiêm vi diệu. Các Thiên nữ ở trong cung ngồi, nằm hoặc dạo chơi rất an ổn. Có các loại xe chuyên chở vật dụng phục sức trang nghiêm đầy đủ. Thiên nữ đi xe có rèm che, nhạc trổi, đánh trống, xông các danh hương và nhiều loại thức ăn uống. Chư Thiên và các quyến thuộc vui vẻ hưởng lạc, tùy theo phước lực của mình mà hưởng thọ quả thắng diệu này. Con đường trong vườn dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, cát vàng trải khắp mặt đất, thanh tịnh trang nghiêm, chạm vào nơi hào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng bên đường đi, dọc hai bên đường cũng có các rừng cây hoa quả, chim bay liệng hót lên những âm thanh vi diệu. Cũng có bốn loại cây y phục kiếp-ba và cây âm nhạc, cây trang nghiêm... Lại có bốn loại xe tốt đẹp như là xe voi, xe ngựa, xe báu, xe kéo. Nếu các Thiên nam, Thiên nữ nghĩ đến việc có chiếc xe để đi dạo chơi, tâm mới vừa phát khởi, có ý muốn đi đâu thì xe sẽ đưa đi dạo chơi vui vẻ. Tại sao vườn này có tên Hoan hỷ? Bởi vì trong vườn này có ao hồ, rừng cây hoa quả y phục trang nghiêm đầy đủ. Chư Thiên và các Thiên nữ tùy theo chỗ thọ dụng vui vẻ khoái lạc, tùy theo phước lực của họ tâm sinh hoan hỷ, an vui. Vì lý do đó mà tên khu vườn này có tên là Hoan hỷ. Phía Bắc vườn Hoan hỷ hai mươi do-tuần có vùng đất Hoan hỷ ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần bằng nhau, chu vi là một ngàn do-tuần. Đất trong vườn này có trăm loại màu sắc xen lẫn, sạch sẽ, mềm mại, trang nghiêm. Trong vùng đất này có đài bốn báu xen lẫn tốt đẹp. Hoa trời Mạn-đà-la rải khắp mặt đất, con đường dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, rất trang nghiêm thanh tịnh. Rừng cây hoa quả, y phục, âm nhạc... Tất cả loại cây đầy đủ xinh tốt! Cũng có các loại xe chuyên chở tùy ý các vị trời dạo chơi vui vẻ. Ở đó có Thiên tiên tu tập phạm hạnh. Phía Đông bắc thành Thiện kiến có cội cây tên Ba-lợi-chất-đa- la Câu-tỳ-đà-la. Cây này có rễ lan tỏa trong đất năm mươi do-tuần, mỗi một cành cây dài năm mươi do-tuần. Cành thứ nhất ở phía Đông dài năm mươi do-tuần, cành thứ hai ở phía Nam dài năm mươi do-tuần, cành thứ ba ở phía Tây dài năm mươi do-tuần, cành thứ tư ở phía Bắc dài năm mươi do-tuần. Cành chính giữa cao chót vót trên hư không năm mươi do-tuần. Như vậy cây này cao một trăm năm mươi do-tuần, đường kính năm mươi do-tuần, chu vi là ba trăm do-tuần. Mùi hương của cây thơm bay theo gió lan xa đến trăm do-tuần, mùi thơm nghịch trong gió năm mươi do-tuần, màu sắc chiếu sáng đến tám mươi do-tuần. Cành, lá, hoa, quả khi nở, khi rụng đúng thời. Những Thiên chúng ở cõi trời Ba mươi ba nếu khi thấy (Bán-nô-bát- la-thâu) lá cây héo úa thì sinh tâm hoan hỷ, chư Thiên vui vẻ dạo chơi. Chẳng bao lâu lại thấy (Thỉ-lan-noa-bát-la-thâu) cây rễ sinh hoa trái thì chư Thiên sinh tâm hoan hỷ, vui vẻ dạo chơi. Chẳng bao lâu lại thấy (Hựu-ra-ca-nhạ-đô) nụ hoa mới chớm của cây này thì chư Thiên sinh tâm hoan hỷ, vui vẻ dạo chơi. Chẳng bao lâu lại thấy (Cốt-châm-ma-la-ca-nhạ-đổ) búp của hoa thì chư Thiên sinh tâm hoan hỷ, vui vẻ dạo chơi. Chẳng bao lâu lại thấy (Ca-ca-tả-yết-nhạ đổ) đóa hoa của cây này thì chư Thiên sinh tâm hoan hỷ, vui vẻ dạo chơi. Chẳng bao lâu hoa nở rộ, hương thơm ngào ngạt bay tỏa khắp nơi, chư Thiên biết cây Ba-lợi-chất-đa-la Câu-tỳ-đà-la kia đã nở khắp ị nơi, họ sinh tâm hoan hỷ, trong bốn tháng mùa hạ ở dưới cây này vuiỉ chơi khoái lạc, hưởng thọ năm dục tự tại, tùy theo phước lực của mình mà thọ quả thắng diệu này. Đức Phật dạy: -Đại vương do có oai lực, phước đức cho nên ở trong cõi trời Ba mươi ba, dưới cây Ba-lợi-chất-đa-la Câu-tỳ-đà-la hưởng lạc thù thắng không khác với chư Thiên. Dưới cây Ba-lợi-chất-đa-la Câu-tỳ-đà-la thuộc cõi trời Ba mươi ba có vùng đất Tạp sức ngang rộng năm mươi do-tuần bằng nhau, chu vi hai trăm do-tuần, trông rất đẹp đẽ thù thắng. Đất ở đây có cả trăm loại màu sắc xen lẫn trang trí, đất mềm mại như Đâu-la-miên và như tơ mịn nên khi bước xuống chân lún vào, nhấc chân lên trở lại như cũ. Hoa trời Mạn-đà-la rải khắp đất. Khi gió thổi hương thơm mang theo hoa héo và mưa xuống hoa mới. Tòa ngồi được tạo hoàn toàn bằng vàng rất tốt đẹp, bền chắc, Thiên chủ Đế Thích ngồi ở trên tòa này. Các Thiên tử của cõi trời Ba mươi ba trong bốn tháng mùa hạ thường dừng chân tại đây vui vẻ dạo chơi, thọ hưởng năm dục tự tại. Lại nữa, chung quanh vùng đất Tạp sức này đất rất mềm mại, có các loại cây hoa quả, thán cây vươn thẳng, cành lá nảy tròn bốn phía như người thợ kết vòng hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây hoa quả cũng giống như vậy. Có những loại chim bay nhảy trên cành cao phát ra âm thanh vi diệu. Có cây vải y phục bốn màu, cây này cho ra bôn loại màu sắc xinh đẹp. Lại có nhiều loại cây âm nhạc vi diệu như là ông tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh... Có nhiều loại cây trang nghiêm vi diệu, nơi cây ấy sinh ra vòng đeo tay, đeo chân và đầy đủ các vật tốt đẹp trang nghiêm thân. Có bốn vị thức ăn Tô-đà màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Nếu có Thiên nam hoặc Thiên nữ nào nghĩ đến thức ăn, thức ăn sẽ tùy theo ý nghĩ đó tự đến cho họ. Có bốn loại thức uống: Mạt-độ tương, Ma-đạt-cang tương, Ca- đàm-mạt-lê tương, Bá-nang tương. Trong vùng đất này lại có các nhà cửa, lầu gác, cung điện trang nghiêm. Các Thiên nữ ở trong cung ngồi, nằm hoặc dạo chơi rất an ổn. Có các loại xe chuyên chở vật dụng phục sức trang nghiêm đầy đủ. Thiên nữ ngồi xe có rèm che, nhạc trổi, đánh trống, xông các danh hương và loại thức uống. Chư Thiên và các quyến thuộc trong bốn tháng mùa hạ vui vẻ hưởng lạc. Tùy theo phước lực của mình mà thọ hưởng quả thù thắng vi diệu này. 6Trong cõi trời Ba mươi ba lại có voi chúa tên Ái-la-phạ-noa canh giữ khu thượng uyển. Voi có thân tướng tốt đẹp, toàn một màu trắng như hoa bảy cánh Câu-mẫu-đà. Đầu của voi chúa rất xinh đẹp tối thắng, bên trong màu đỏ, bên ngoài màu xanh, có đủ sáu ngà nhự màu xanh của cuống hoa. Thân voi dài hai do tuần rưỡi, chiều ngang cân đối một do-tuần, toàn thân là bảy do-tuần, cao một do-tuần rưỡị. Voi chúa đó có tám ngàn voi quyến thuộc, thân đều màu trắng như hoa bảy cánh Câu-mẫu-đà trồng trên đất, Mỗi một đầu voi có đủ sắc tướng, có sáu ngà như màu xanh của cuốn hoa. Nếu khi nào chư Thiên có ý muôn dạo chơi trong khu thượng uyển thì tượng vương Ái-la-phạ-noa liền biết ý muốn của vị trời đó, dùng thần lực mọc ra ba mươi hai đầu, mỗi một cái đầu có sáu ngà, trên mỗi cái ngà có bốn mươi chín ao hồ, ở mỗi một ao hồ có bốn mươi chín hoa sen, trong mỗi một hoa sen có bốn mươi chín đài, trong mỗi một đài có bốn mươi chín lầu gác, trong mỗi một lầu gác có bốn mươi chín người bảo vệ, mỗi một người bảo vệ có bốn mươi chín Thiên nữ, mỗi một Thiên nữ có bốn thị nữ, mỗi một thị nữ đánh bốn mươi chín trống trời. Đế Thích ngồi ở trên đầu chính tối thượng của voi chúạ. Còn Ba mươi hai vị trời khác thì theo thứ tự ngự trên những đầu voi hóa ra rất an ổn. Ngoài ra các vị trời tùy theo đó mà đứng. Lúc voi chúa vận chuyển còn nhanh hơn gió, Thiên tử, Thiên nữ đều không thể thấy được đầu đuôi của voi chúa. Voi chúa Ái-la-phạ-noa chở các vị trôị, dạo đi trong vườn hoa, voi chúa đều dùng thần lực biến hóa thu nhiếp? lại một hình như tướng oai đức thần thông của các Thiên tử, Thiên nữ giống như chư Thiên vui vẻ thọ hưởng năm dục tự tại, tùy theo phước lực mà thọ quả thù thắng vi diệu này. Đức Phật dạy: -Đại vương, oai lực bảo vệ khu thượng uyển trong cõi trời Ba mươi ba của voi chúa Ái-la-phạ-noa như vậy. Phía Tây nam thành Thiện kiến có Thiện pháp đường dài ba trăm đo-tuần, rộng sáu trăm do tuần, giáp vòng là chín trăm do-tuần, cao ba trăm năm mươi do-tuần, rất trang nghiêm tốt đẹp. Thiện pháp đường này dùng pha-chi-ca làm đất, lầu, gác, thang cấp cũng đều làm bằng pha-chi-ca. Có đài bốn báu vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca... xen lẫn trang nghiêm. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ, cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ, cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Con đường ở Thiện pháp đường chạy quanh co, cát vàng rải đất trang nghiêm thanh tịnh, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng bên đường đi. Lại có các loại cây hoa quả thân cây vươn thẳng tròn đầy không thưa thiếu. Giống như người thợ kết vòng hoa lấy tơ mềm khéo léo bện lại thành vòng hoa đẹp, rừng cây hoa quả cũng giống như vậy. Rừng Gây ấy lại có những giống chim bay nhảy trên cành cay cao phát ra âm thanh vi diệu. Lại có những cây vải y phục màu xanh, vàng đỏ, trắng, cây này cho ra bốn loại màu sắc xinh đẹp. Lại có nhiều loại cây âm nhạc vi diệu như là ống tiêu, ống sáo, đàn cầm, đàn tranh. Có các loại cây trang nghiêm vi diệu, nơi cây ấy sinh ra vòng xuyến đeo tay, đeo chân và các vật tốt đẹp để trang nghiêm thân. Có bốn vị thức ăn Tô-đà màu xanh, vàng đỏ, trắng. Có bốn loại thức uống: Mạt-độ tương, Ma-đạt-cang tương, Ca-đàm-mạt-lê tương, Bá-nang tương. Nếu Thiên nam hoặc Thiên nữ nào nghĩ đến thức ăn uống, khi tâm vừa phát khởi, thức ăn đều tự đến. Trong Thiện pháp đựờng này lại có các nhà cửa, lầu gác, cung điện trang nghiêm vi diệu. Gác Thiên nữ ở trong cung ngồi hoặc nằm dạo chơi rất an ổn. Có các loại xe chuyên chở vật dụng phục sức trang nghiêm, có rèm che cho Thiên nữ, trổi nhạc, đánh trống, xông các danh hương và nhiều loại các thức ăn uống. Chư Thiên và quyến thuộc vui vẻ hưởng lạc, tùy theo phước lực của mình mà hưởng quả thù thắng vi diệu này. Bên Thiện pháp đường có ba ý dòng nước lớn, mỗi một dòng sâu rộng một do-tuần, dưới đáy sông cố rải bốn báu: vàng, bạc, pha-chi-ca, lưu ly. Bôn phía sông có bốn thang cấp cũng được làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca. Trong sông đó có đài bốn báu được trang nghiêm bằng vàng, bạc, pha-chi-ca xen lẫn nhau. Nếu đài làm bằng vàng thì trụ và cột kèo làm bằng bạc. Nếu đài làm bằng bạc thì trụ và cột kèo làm bằng vàng. Nếu đài làm bằng lưu ly thì trụ và cột kèo làm bằng pha-chi-ca. Nếu đài làm bằng pha-chi-ca thì trụ và cột kèo làm bằng lưu ly. Trong ao dòng nước đầy nước trong mát thơm ngọt. Hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa-lợi-ca..., phủ đầy trong ao. Lại có các loại chim nước bay liệng trong ao phát ra âm thanh vi diệu. Có rừng cây hoa quả, cây y phục, cây âm nhạc, mỗi một loại cây đều đầy đủ trang nghiêm. Trong bảy dòng nước lớn lại có các loại đình đài rất đẹp. Các vị trời vui vẻ dạo chơi thỏa thích. Cổng Thiện pháp đường rất tôn nghiêm xinh đẹp, phía trên cổng lại có những bậc thang lên lầu gác rất trang nghiêm đẹp đẽ, mỗi một bậc thang có mười sáu trụ và bảy con đường giáp vòng, ở bên đường có trụ Bát giác được làm bằng lưu ly rất nghiêm tịnh tốt đẹp. Ở trên có nhiều lâu đài liên kết và xếp chồng lên nhau như không trở ngại nhau. Ở trong Thiện pháp đường có tòa Tối thắng hiền được làm toàn bằng vàng, Thiên chủ Đế Thích an tọa trên tòa này, còn các vị trời khác ngồi thứ tự theo vị trí của họ, tòa cuối cùng được sắp đặt cho vua Đảnh Sinh. Lúc bấy giờ Thiên chủ Đế Thích cùng các vị trời cầm bình nước thơm Át-già đi nghênh đón vua Đảnh Sinh. Vua Đảnh Sinh là người đại oai đức, y theo thứ tự mà vào, còn các thị tùng đều đứng bên ngoài. Nhà vua suy nghĩ: “Bây giờ ta cũng phải ngồi ở tòa này sao? Nếu Thiên chủ Đế Thích chia phân nửa tòa cho ta cùng ngồi chẳng phải hay lắm sao?” Đức Phật dạy: -Đại vương, khi vua Đảnh Sinh suy nghĩ như thế, trời Đế Thích liền biết nên chia nửa tòa cho vua Đảnh Sinh cùng ngồi. Khi vua Đảnh Sinh cùng Thiên chủ Đế Thích ngồi trên tòa, toàn thân đều uy nghi chói sáng, âm thanh ngôn ngữ cũng trang nghiêm như nhau không khác, nhà vua chỉ khác Thiên chủ Đế Thích lúc chớp mắt. Đức Phật dạy: -Đại vương, vua Đảnh Sinh đó ở trong cõi trời Ba mươi ba trải qua thời gian như vậy là sáu đời Đế Thích. Một thời gian sau, chư Thiện trong cõi trời Ba mươi ba cùng A-tu-la đánh nhau. Nếu quân lực của A-tu-la bị bại trận, họ vào cung khóa cửa lại ẩn núp. Nếu quân của trời bị bại trận, họ vào cung khóa cửa lại ẩn núp. Lại nữa, trong cõi trời Ba mươi ba có voi chúa tên Thiện Trụ, thân tướng tốt đẹp, toàn một màu trắng tinh như hoa bảy cánh Câu-mẫu-đà, đầu của voi chúa bên trong màu đỏ, bên ngoài màu xanh như màu của cuốn hoa. Voi chúa có sáu ngà, thân dài hai do-tuần rưỡi, chiều ngang cân đối một do-tuần, toàn thân là bảy do-tuần, cao một do-tuần rưỡi. Voi chúa cố tám ngàn voi quyến thuộc, thân đều màu trắng tinh như hoa bảy cánh Câu-mẫu-đà, mỗi một đầu voi có đủ sắc tướng như màu xanh cuốn hoa, mỗi con voi có sáu ngà. Voi chúa Thiện Trụ cùng với quyến thuộc của voi suốt trong bốn tháng mùa đông ở chung, gần gũi với A-tu-la. về phía Bắc cách núi Hương túy hai mươi do-tuần gần chỗ A-tu- la ở có một gò đất cao lớn, ngang rộng bằng nhau năm mươi do-tuần rưỡi, giáp vòng hai trăm do-tuần, cao ba do-tuần rưỡi, toàn bằng vàng, cát vàng trải khắp đất để trang trí, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Dây vàng có chuông, linh bằng vàng giăng bên đường đi, không có đá sỏi, gai gốc. Ở bốn phía gò lớn này lại có tám ngàn gò đất nhỏ cũng bằng vàng, cát vàng trải khắp đất để trang trí, chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới thơm. Tây vàng có chuông linh bằng vàng giăng bên đường đi, không có đá sỏi; gai gốềc. Con đường trong núi đó dài hai mươi do-tuần, rộng một do-tuần rưỡi, tất cả đều thanh tịnh, trang nghiêm, tốt đẹp. Nếu voi chúa Thiện Trụ trong bốn tháng mùa hạ dừng chân ở trên gò cao đó thì tám ngàn voi quyến thuộc cũng đều ở vây quanh, âm thầm bảo vệ voi chúa. Về phía Nam của gò đất cao lớn hai mươi do-tuần có Đại Sa-la thọ vương tên Thiện trụ, xếp theo thứ tự một dãy bảy lớp, các cây Sa-la giáp vòng chung quanh. Gốc của Thiện Trụ thọ vương mười bốn gang tay. Chiều rộng gốc cây hàng thứ nhất mười ba gang tay, hàng cây thứ hai mười hai gang tay, hàng cây thứ ba mười một gang tay, hàng cây thứ tư mười gang tay, hàng cây thứ năm chín gang tay, hàng cây-thứ sáu tám gang tay, hàng cây thứ bảy bảy gang tay. Cành lá của Thiện Trụ thọ vương sum suê đan nhau phủ kín lớn nhất trong các hàng cây. Hàng cây thứ nhất lại bao phủ che hàng cây thứ hai, như vậy hàng cây thứ ba cho đến hàng cây thứ sáu bao phủ hàng cây thứ bảy, cành lá to lớn cao vút trên hư không. Đất ở đây thanh tịnh trang nghiêm, tốt đẹp. Con đường trong vùng đất này dài hai mươi do-tuần, rộng một do-tuần rưỡi cũng đều sạch đẹp. Nếu lúc voi chúa Thiện Trụ từ chỗ trú ngụ đi đến chỗ Thiện trụ Sa-la vương, hoặc để nguyên tướng voi tùy ý đi, hoặc dùng sức thần thông oai đức hiện tướng trời, người cỡi trên một con voi, hoặc ngồi trên vai, hoặc ngồi trên đầu, tự nhiên đi trên không trung đánh trông, trổi nhạc, ca hát, dạo chơi. Nếu trở lại làm voi chúa thì ngồi nghỉ dưới cội đại Thọ vương, tức thời có tám ngàn con voi quyến thuộc, theo thứ tự giữa bảy lớp hàng cây Sa-la đứng hướng vào bên trong, hàng cây thứ nhất đàn voi đứng vào bên trong, hàng cây thứ hai, thứ ba, cho đến hàng cây thứ bảy cũng hướng vào bên trong như vậy. Tất cả bầy voi đều âm thầm bảo vệ voi chúa. Phía Đông của Thiện trụ Ta-la thọ vương hai mươi do-tuần có ao hồ lớn tên Mãn-đà-cát-nĩ, ngang rộng bằng nhau năm mươi do- tuần, giáp vòng hai trăm do-tuần, trong ao đầy nước ngọt ngào, trong mát. Hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-nột-ma, hoa Câu-mẫu-đà, hoa Bôn-noa- lợi-ca..., phủ đầy trong ao. Lại có các loại chim nước bay liệng trong ao phát ra âm thanh vi diệu như tiếng cao vút bay xa, tiếng vui lòng người, tiếng hay vi diệu. Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, cành hoa lại to bằng cái gọng xe, lá mềm mại và rộng bằng Ngưu vương, ngó sen rất tuyệt hảo, ngọt như sữa. Bốn phía ao lại có tám ngàn ao hồ nước luôn đầy tràn và trang nghiêm đẹp đẽ, cũng có hoa đẹp phủ đầy mặt ao, chim nước bay liệng phát ra âm thanh vi diệu. Hoa sen trong ao lớn bằng bánh xe, cành lá và gốc cũng đều lớn như vậy. Con đường trong ao hồ dài hai mươi do-tuần, rộng một do-tuần rưỡi, cát trải khắp đất, nơi nào cũng trang nghiêm thanh tịnh. Chạm vào nơi nào cũng có nước hương Chiên-đàn rưới khắp, dây vàng có chuông linh bằng vàng giăng bên đường đi, tự nhiên trừ được cát đá, gai gốc. Nếu khi voi chúa Thiện Trụ từ chỗ Thiện trụ Sa-la thọ vương đi đến ao hồ Mãn-đà-cát-nhĩ, hoặc để nguyên tướng voi tùy ý đi, hoặc dùng sức thần thông oai đức hiện tướng trời, người cỡi trên một con voi, hoặc ngồi trên vai, hoặc ngồi trên đầu, tự nhiên đi trên không trung đánh trống, trổi nhạc, ca hát, dạo chơi. Nếu khi voi chúa vào trong ao vui đùa thì có tám ngàn voi quyến thuộc cũng đứng xung quanh trong ao, âm thầm bảo vệ voi chúa. Lúc voi chúa Thiện Trụ ở trong ao tha hồ vui đùa rồi lên bờ thì một con voi đầu đàn trong tám ngàn con voi liền lặn vào trong ao chỗ nước sâu, trong sạch, đem dâng cúng cho voi chúa trước. Voi chúa đã ăn no rồi, bầy voi quyến thuộc mới lần lượt vào trong ao hồ, cùng nhau vui vẻ nô đùa và cũng hái ngó sen rửa sạch mà ăn. Đức Phật dạy: -Đại vương, oai lực voi chúa Thiện Trụ ở trong cõi trời Ba mươi ba như vậy. Sau đó A-tu-la điều chỉnh bốn loại binh: Tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh, chuẩn bị bốn loại áo giáp bền chắc, vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca tốt đẹp xen lẫn nhau. Họ cầm bốn loại binh khí như cung, kiếm, gươm, dao, từ cung A-tu-la ra đi đánh nhau với chư Thiên trong cõi trời Ba mươi ba. Khi ấy, ở Thủy cung, Long vương thấy A-tu-la điều chỉnh bốn loại binh, mặc bốn loại áo giáp, rời cung đi đánh nhau với chư Thiên, họ cũng chuẩn bị bốn binh, mặt áo giáp bằng vàng, bạc, lưu ly, pha-chi-ca, tay cầm binh khí bốn báu tốt đẹp để đánh nhau với A-tu-la. Nếu Long vương thắng trận, quân của A-tu-la bại trận, thoái lui vào trong cung. Nếu A-tu-la thắng trận, quân của Long vương bại trận lúc ấy vị cầm đầu binh lực trong cõi trời Ba mươi ba đánh bại A-tu-la, liền vội vã chạy vào biển lớn, nơi tầng thứ nhất của núi chúa Tu-di dừng chân trú ngụ ở chỗ Thiên vương Kiên Thủ. Lúc bấy giờ Thiên vương Kiên Thủ cùng với Long vương ở thủy cung chiến đấu với A-tu-la. Nếu hai vị thủ hộ thắng được A-tu-la thì khi đó A-tu-la bị bại trận, liền chạy vào trong cung. Nếu A-tu-la thắng, hai vị thủ hộ bại trận, tức thì binh lực của hai vị thủ hộ trong cõi trời Ba mươi ba liền vội vã chạy vào tầng cấp thứ nhất đến tầng cấp thứ hai của núi chúa Tu-di, trú ngụ tại vùng đất ở giữa của Thiên vương Trì Man. 6Lúc bấy giờ ba vị thủ hộ là Thiên vương Trì Man, Thiên vương Kiên Thủ và Long vương Thủy Cư cùng nhau hợp sức để đánh nhau với A-tu-la. Được thắng, khi đó A-tu-la thua, liền chạy vào trong cung. Nếu A-tu-la được thắng, ba vị thủ hộ trong cõi trời Ba mươi ba bị thua, tức thì binh lực bị bại trận của ba vị đều kéo nhau vào tầng thứ hai của núi chúa Tu-di rồi chạy vào tầng thứ ba, giữa chỗ trú ngụ của Thiên vương Thường Kiêu. Khi ấy Thiên vương Thường Kiêu, Thiên vương Trì Man, Thiên vương Kiên Thủ và Long vương Thủy Cư cùng hợp lực với nhau để chiến đấu với A-tu-la bị bại, chạy lui vào cung của họ. Nếu A-tu-la được thắng thì bốn vị thủ hộ bị thua, tức thì binh lực bị bại trận của bốn vị thủ hộ trong cõi trời Ba mươi ba của núi chúa Tu-di, rồi đến tầng thứ tư, giữa chỗ trú ngụ của Tứ đại Thiên vương. Lúc ấy Tứ đại Thiên vương, Thiên vương Thường Kiêu, Thiên vương Trì Man, Thiên vương Kiên Thủ và Long vương Thủy Cư cùng nhau hiệp lực để chiến đấu với A-tu-la. Nếu năm vị thủ hộ được thắng, khi đó A-tu-la bị bại, chạy lui vào cung của họ. Nếu A-tu-la được thắng thì năm vị thủ hộ bị thua, tức thì binh lực của năm vị thủ hộ trong cõi trời Ba mươi ba bị phá tan, họ liền từ tầng thứ tư của núi chúa Tu-di, đến nơi ở của Đế Thích ở trong cõi trời Ba mươi ba, họ muốn phá tan quân A-tu-la cho đến cùng, nên binh lực của năm vị thủ hộ đã được chuẩn bị trở lại, bốn đoàn binh kéo đến chỗ trời Đế Thích để xin chiến đấu. Lúc ấy Tứ đại Thiên vương vào trong cung trời Đế Thích tâu: -Thiên chủ, chúng A-tu-la đã đem quân đến gây chiến với bốn loại binh của chúng tôi, năm chúng trong trời đều bị phá tan bỏ chạy, hôm nay chúng tôi đến chỗ Thiên chủ, vì chúng A-tu-la hùng mạnh hơn chúng tôi. Cúi xin Thiên chủ ban sức cho chúng tôi. Thiên chủ Đế Thích nghe các vị trời tâu, ngài bảo các vị trời trong cõi trời Ba mươi ba rằng: -Các ngài nên biết, chúng A-tu-la có sức mạnh chiến đấu, họ đã phá tan được năm chúng thủ hộ, các ngài phải đến đây cầu chiến với ta. Ta sẽ ban sức mạnh cho các ngài. Thiên chủ Đế Thích suy nghĩ: “Phải có voi chúa Thiện Trụ chở ta đi”. Voi chúa Thiện Trụ biết ý nghĩ của trời Đế Thích. Như người tráng sĩ co duỗi cánh tay, chỉ trong khoảnh khắc, từ châu Thiệm-bộ, voi chúa đã đến cõi trời Ba mươi ba, hiện ra ba mươi hai cái đầu, mỗi cái đầu đều có sáu ngà, trên mỗi cái ngà có bốn mươi chín ao hồ, mỗi ao hồ có bốn mươi chín hoa sen, trong mỗi hoa sen có bốn mươi chín lâu đài, trong mỗi lâu đài có bốn mươi chín lầu gác, trong mỗi lầu gác có bốn mươi chín người bảo vệ, mỗi người bảo vệ có bốn mươi chín Thiên nữ, mỗi Thiên nữ có bốn mươi chín thị nữ, mỗi thị nữ sử dụng bốn mươi chín trống trời. Đế Thỉch ngồi ở trên đầu chính tối thượng của voi chúa, còn ba mươi hai vị trời khác thì theo thứ tự ngự trên những đầu voi hóa ra rất an ổn. Ngoài ra các vị trời tùy theo đó mà đứng. Lúc voi chúa chuyển động còn nhanh hơn gió, Thiên tử, Thiên nữ đều không thể thấy được đầu đuôi của voi chúa. Khi voi chúa Thiện Trụ đến trong cõi trời Ba mươi ba xong, liền đến cổng phía Nam vườn Thô kiên, dùng thần lực hiện tướng người, trời, cùng với chư Thiên vui vẻ chơi đùa. Khi ấy, Thiên chủ Đế Thích ngồi trên voi chúa cùng với bốn đoàn binh nghiêm chỉnh mặc áo giáp bằng bốn thứ báu, đoàn binh hùng mạnh, hăng hái mang theo bốn loại binh khí bén nhọn để chiến đấu cùng A-tu-la. Vua Đảnh Sinh trông thấy sự kiện như vậy, tâu với Đế Thích: -Thiên chủ, hôm nay ngài đang dàn binh bố trận tôi cũng muốn hợp sức với ngài. Thiên chủ-đáp: -Tùy theo ý ngài, bây giờ thật đúng lúc. Vua Đảnh Sinh cùng với mười tám câu-chi binh chúng hùng mạnh, bay lên hư không điều khiển dây cung, âm thanh phát ra thần tốc. Chúng A-tu-la nghe thây âm thanh này vội hỏi: -Ai đã kéo dây cung như thế? Có người biết đáp: -Đây là tiếng kéo dây cung của vua Đảnh Sinh. Chúng A-tu-la nghe vậy, trong lòng vô cùng kinh dị. Trong lúc các vị trời và chúng A-tu-la đánh nhau, binh lực ngang nhau, không phân thắng bại thì đoàn binh của vua Đảnh Sinh mới xuất hiện. Đoàn binh của vua Đảnh Sinh đứng trên hư không vô cùng mạnh mẽ, hùng tráng hơn quân của A-tu-la. Khi ấy A-tu-la suy nghĩ và nói: -Từ lâu ta đã nghe danh ông vua Đảnh Sinh này trong loài người, dũng mạnh, nghiêm túc và có đại phước đức, oai đức cao vời không ai có thể sánh bằng. Ông ta đã vượt quá hư không, cao hơn chúng ta. A-tu-la nói xong hoảng sợ chạy lui vào trong cung của họ. Vua Đảnh Sinh hỏi các quan: -Bây giờ phần thắng thuộc vệ ai? -Muôn tâu, nhà vua đắc thắng. Nhà vua liền suy nghĩ: “Ta đã thắng cõi trời Ba mươi ba, ta đã thống trị Nam thiệm-bộ châu, Đông thắng thần châu, Tây ngưu hóa châu, Bắc câu-lô châu. Ta có đủ bảy báu và có ngàn người con, có sắc tướng tối thượng và dũng mạnh, không sợ bị quân khác hàng phục. Lại ở trong cung ta có mưa tiền vàng trong bảy ngày. Ta đã đến cõi trời Ba mươi ba và vào trong cung Đế Thích, được ngồi nửa tòa trong Thiện pháp đường. Nếu Thiên chủ Đế Thích tạ thế, bỏ lại vương vị này, ta sẽ là vua thống trị cõi trời cũng như cõi người, là người tối thắng trong trời người, chẳng khoái lắm sao?”. Khi vua vừa sinh tâm nghĩ như vậy, tức thì oai lực thần thông liền diệt mất, bị xuống trở lại nơi cung cũ ở châu Thiệm-bộ, thân sinh các bệnh khổ đau đớn, lại thêm gầy gò khổ nhọc kề cận với thần chết. Lúc đó trong các quan lại có bậc kỳ lão đến tâu với vua: -Thiên tử, nếu sau này có người đến hỏi: “Vua Đảnh Sinh khi sắp tạ thế có nói điều gì không?”. Lúc ấy sẽ trả lời họ thế nào? Nhà vua bảo: -Sau khi ta tạ thế, nếu có người đến hỏi như vậy ngươi hãy trả lời. “Đại vương Đảnh Sinh có oai đức tối thượng và đầy đủ bảy báu, là người duy nhất có đủ bốn thần lực. Những gì là bốn? Đó là: 1. Vua Đảnh Sinh được thọ mạng dài lâu trong thế gian, trải qua tất cả một trăm mười lăm đời Đế Thích. Đó là thần lực thứ nhất về thọ mạng. 2. Vua Đảnh Sinh có dung nghi tốt đẹp thù thắng, tối thượng, với hình dáng của trời, vượt hơn loài người. Đó là thần lực thứ hai về sắc tướng. 3. Vua Đảnh Sinh đầy đủ các vật cần dùng, ít bệnh, ít buồn, sắc lực khang kiện, ăn uống hoàn toàn tự tiêu hóa, không bệnh hoạn, thời tiết tự điều hòa, không lạnh không nóng, tùy theo sinh hoạt đời sống, tất cả đều được an lạc. Đó là thần lực thứ ba về vô bệnh. 4. Tất cả mọi người trông thấy vua Đảnh sinh đều ưa thích chiêm ngưỡng không nhàm chán, cũng như con yêu quý cha. Vua Đảnh Sinh lại lo lắng thương dân, sinh tâm vui vẻ như cha yêu con, hoặc lúc vua đi dạo xem khu thượng uyển, nói với người đánh xe: “Ngươi có thể cho xe tiến tới từ từ để cho mọi người chiêm ngưỡng dung nhan của ta”. Mọi người lại nói với người đánh xe: “Nhân giả, xin cho xe đi chậm lại để chúng tôi có thể trông thấy tướng hảo của vua”. Đó là thần lực thứ tư về ái lạc.. Vua Đảnh Sinh là chủ cao tột, thống trị bốn đại châu, sau đó đến cõi trời Ba mươi ba được Đế Thích chia nửa tòa của ngài. Đầy đủ các việc như thế mà đối với năm dục vua vẫn cảm thấy không biết đủ. Khi sắp tạ thế, nhà vua nói kệ: Khổ thay, thế gian tham cảnh dục Châu báu tuy nhiều không biết đủ Nơi ấy vui ít, khổ lại nhiều Bậc trí thấy rõ điều như thế. Đến như dục lạc trong cõi trời Tâm tham ái nên không giải thoát Người nào có thể dứt cội nguồn? Chỉ Thánh đệ tử Đấng Từ Tôn. Giả sử châu báu nhiều vô lượng Chất cao bằng với núi Tu-di Không ai có thể sinh nhàm chán Bậc trí khéo biết rõ điều này. Nếu nghĩ ái dục là nhân khổ Sao đối cảnh dục còn tham ái Tham ái cội nguồn khổ thế gian Bậc trí điều phục nên khéo học. Đức Phật dạy: -Đại vương, vì lý do đó nên vua Đảnh Sinh lại nói: “Rất ít người trong cuộc đời có thể ở trong cảnh năm dục hiểu rõ biết đủ, cuối cùng đưa đến mạng chung. Nhiều người trong cuộc đời, ở trong cảnh năm dục không giác ngộ, không sinh tâm nhàm chán biết đủ, nên cuối cùng đưa đến mạng chung”. Lại nữa, vua Đảnh Sinh vì lợi ích khắp cả mọi người đời sau, cho nên nói kệ: Cực ác lưu chuyển trong sinh tử Biết rõ thọ mạng tùy giảm thiểu Phải mau tu tập các hạnh lành Không tu phước hạnh nên đau khổ. Thế nên tu phước là cao tột Tùy theo hành thí như pháp nghi Trong đời này và đời khác nửa Nhờ tu phước tuệ được hỷ hoan. Lúc bấy giờ trăm ngàn vô số nhân dân trong nước nghe tin nhà vua lâm bệnh đều vội vã đến thăm viếng, hỏi han. Vua Đảnh Sinh đem các vấn đề tham dục và phương pháp đối trị giảng thuyết rộng rãi cho mọi người, khiến cho nhiều người từ giã gia đình đi xuất gia học đạo. Khi ấy có vô số trăm ngàn người nghe lời giảng dạy liền đi xuất gia tu bốn phạm hạnh. Lại có nhiều người đoạn trừ tham dục, được sinh đến cõi Phạm thiên. Đức Phật dạy: -Đại vương, vua Đảnh Sinh đó từ lúc ấu thơ cho đến lúc làm Thái tử và lên ngôi vương vị, thống trị các cõi Nam thiệm-bộ châu, Đông thắng thần châu, Tây ngưu hóa châu, Bắc câu-lô châu, ở ngôi vị luân vương trong bảy núi vàng và đến cõi trời Ba mươi ba, trải qua các ngôi vị, trong thời gian ấy tất cả là một trăm mười bốn đời Đế Thích. Đại vương nên biết, tuổi thọ của Đế Thích tính bằng: Một trăm năm ở nhân gian bằng một ngày đêm ở cõi trời Ba mươi ba, ba mươi ngày đêm là một tháng, một năm cũng có mười hai tháng. Tuổi thọ của Đế Thích là một ngàn năm, tức bằng ba ức sáu trăm vạn năm ở nhân gian. Đại vương, thuở trước lúc vua Đảnh Sinh khởi niệm dục ở cõi trời Ba mươi ba, lúc Thiên chủ Đế Thích chia cho nửa tòa ngồi, khi ấy Tỳ-kheo Ca-diếp mới làm Đế Thích. Vua Đảnh Sinh lại khởi niệm như thế này: “Nếu Thiên chủ Đế Thích ở nơi tòa này tạ thế, ta sẽ làm vua cả cõi trời, cõi người, chẳng phải sướng lắm sao!” Lúc đó Ca-diếp Như Lai làm Thiên chủ Đế Thích, vua Đảnh Sinh là người có đại danh tiếng, có phước vô lượng, chỉ trong một niệm sinh tâm lầm lỗi mà bị giảm thần lực và sa đọa, bị phiền não tật bệnh trói buộc phải qua đời. Đức Phật dạy: -Đại vương, vua Đảnh Sinh đâu phải người nào lạ, nay chính là Ta. Lúc đó Ta ban bố khắp quần sinh được lợi ích an lạc, đạt đến vô thượng, nhưng lại bị các ma chướng nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do nhân duyên này mà phải đưa đến sự kiện như vậy. Lúc đó đại vương Thắng Quân nước Kiều-tát-la bỗng có ý nghi-ngờ, đến trước Đức Phật bạch: -Thế Tôn, vua Đảnh Sinh từ kiếp lâu xa, nhờ tu nhân gì và hành nghiệp gì mà được cảm nhận quả trong cung vua, tự nhiên mưa tiền vàng trong bảy ngày? Đức Phật đáp: -Đại vương, thời quá khứ xa xưa có Đức Phật ra đời hiệu Nhất Thiết Tăng Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Khi ấy có con của người trưởng giả đến nước kia y theo nghi lễ và phép tắc kết hôn cùng một cô con gái. Người vợ đem bốn thứ báu làm thành tràng hoa xinh đẹp và nấu các món ăn ngon ngọt cung cấp cho chồng. Người chồng thọ nhận xong đem tràng hoa báu trở về, giữa đường ông ta thấy Đức Phật Nhất Thiết Tăng Thượng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác đang khoan thai tiến bước. Người con trưởng giả thấy Đức Phật Thế Tôn có ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm liền sinh tâm kính tin, ưa thích, vô cùng thanh tịnh. Ông ta xuống xe, cung kính dâng hoa cúng dường. Vì Đức Phật Thế Tôn có sức oai thần cho nên biến hoa báu ấy lớn bằng bánh xe xoay vòng trên không trung, hoặc bay không ngừng. Ông trưởng giả sinh tâm thanh tịnh, thuyết kệ: Do nhân bố thí rộng lớn này Thành Phật thế gian trí tự nhiên Nguyện con mau thoát dòng sinh tử Những ai chưa độ đều được độ. Nhất Thiết Tăng Thượng Phật đại tiên Hoa con dâng cúng vui lòng nhận Con nguyện nhờ nhân rộng lớn này Viên mãn mong cầu đạo Vô thượng. Đức Phật dạy: -Đại vương, vua Đảnh Sinh nhờ nhân duyên đó nên trong cung vua tự nhiên mưa tiền vàng trong bảy ngày. Đại vương Thắng Quân lại bạch Đức Phật: -Thế Tôn, vua Đảnh Sinh nhờ duyên gì mà làm vua thống lĩnh cả bốn đại châu? Và có thể đến cõi trời Ba mươi ba? -Đại vương, thời quá khứ xa xưa có Đức Phật ra đời hiệu Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Tuc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Chánh Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật này đem chánh pháp giáo hóa chúng sinh, dần dần Ngài đi đến thành Mãn-độ-ma-đề. Một hôm Đức Như Lai vào thành khất thực, lúc đó có , một thương chủ tên Quảng Tác trông thấy Đức Như Lai có tướng hảo thù thắng hy hữu đang tuần tự đi khất thực. Ông ta phát tâm thanh tịnh đem một ít đậu xanh đặt vào trong bát dâng cúng Đức Thế Tôn. Có bốn hạt đậu vào trong bát, còn lại một hạt lại xoay vòng phát ra tiếng động rồi rơi xuống đất, còn lại bao nhiêu hạt đậu khác cũng theo đó rơi xuống. Người thương chủ thấy vậy khởi tâm thanh tịnh, phát nguyện: Do nhân bố thí rộng rãi này Thành Phật thế gian trí tự nhiên Nguyện con mau thoát dòng sinh tử Những ai chưa độ đều được độ. Đức Phật dạy: -Đại vương, người thương chủ đối với Đức Tỳ-bà-thi Như Lai tuy chỉ cúng dường chút ít nhưng do tâm thanh tịnh mà bốn hạt đậu được vào trong bát Đức Như Lai nên về sau được phước báu làm vua thống lĩnh bốn đại châu, còn có một hạt đậu rơi trong bát phát ra tiếng mới rơi xuống đất, thì được phước báo có thể đến cõi trời Ba mươi ba. Lại nữa, này đại vương, hạt đậu kia nếu không rơi xuống đất mà được đặt vào trong bát, về sau thương chủ chắc chắn sẽ được làm chủ trong cõi trời, nhưng vì bị rơi xuống đất nên chỉ được làm chủ thống trị nhân gian. Đại vương, người thương chủ đó tức là vua Đảnh Sinh vậy. Do đối với Đức Phật, ông ta đã gieo căn lành, được Đức Thế Tôn đại bi tiếp nhận cho nên được quả báu lớn, có đủ oai đức lớn và nhiều tiếng tốt. Vì thế, bậc trí tuệ như đại vương đối với Đức Phật Thế Tôn tùy theo khả năng của mình nên tu các hạnh bố thí. Những điều Ta dạy nên học tập như vậy. Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 1 của KINH NHÂN DUYÊN CỦA VUA ĐẢNH SINH. -------------oooo0O0oooo------------- KINH NHÂN DUYÊN CỦA VUA ĐẢNH SINH - Bản dịch Việt ngữ số 2 Dịch giả: Chúc Đức (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T03 - Kinh số 165 - Tổng cộng kinh này có 6 quyển.) Một thời, Đức Thế Tôn đang ở Kì Thụ Cấp Cô Độc Viên thuộc nước Xá-vệ, Thắng Quân đại vương, vua nước Kiều-tát-la đến, cung kính lễ dưới chân Ngài, rồi lui ngồi một bên, thưa: - Ngày xưa khi cầu Vô thượng chính đẳng giác, Thế Tôn đã thực hành bố thí và các phúc hạnh[1] như thế nào? Phật nói: - Đại vương! Hãy thôi nghĩ đến những việc trong kiếp quá khứ xa xôi. Ta nhớ trong kiếp Hiền[2] này, khi cầu Vô thượng chính đẳng giác, Ta đã tu tập hạnh bố thí. Ngài nên lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ nói nhân duyên việc ấy. Đại vương! Vào đầu kiếp này, con người thọ đến vô số tuổi. Bấy giờ, có vị vua tên Bố-sa-đà, trên đầu bỗng nổi một cục thịt giống như cái bọc nước, mềm như bông[3], như nỉ, không đau đớn. Khi đã chín muồi, cục thịt ấy tự nhiên nứt miệng sinh ra một đứa bé tướng mạo cực quí, lại xinh đẹp, đoan chính, rất đáng yêu. Thân nó màu vàng ròng, đầu có xoáy tròn giống như cái lọng đẹp, hai tay dài, trán rộng phẳng, đôi mày dài, mũi cao, dài và thẳng. Các phần thân trên và dưới đều đầy đủ, toàn thân có ba mươi hai tướng đại trượng phu[4]. Vừa sinh ra, đứa bé liền được đưa vào cung. [393b] Tất cả sáu mươi nghìn cung nữ quyến thuộc của nhà vua nhìn thấy đứa bé thì ngực tự nhiên căng sữa, ai cũng nói: “Ta nuôi thái tử”. Do đó, đứa bé được đặt tên là Ngã Dưỡng. Cũng có người nói: “Nay thái tử này sinh ra từ đỉnh đầu, nên phải đặt tên là Đỉnh Sinh”. Vì thế, mới có người gọi thái tử là Đỉnh Sinh, có người gọi là Ngã Dưỡng. Thời kì ấu thơ, thái tử Đỉnh Sinh nô đùa vui vẻ, trải qua hết sáu đời Đế Thích. Thời kì ở ngôi thái tử của Ngài cũng trải qua hết sáu đời Đế Thích. Sau khi thái tử ra khỏi cung điện, lần lượt dạo chơi, quan sát các làng mạc, chợ búa của nhân dân, vua Bố-sa-đà bỗng nhiên ngã bệnh. Các quan hầu cận dùng hoa, quả, rễ, chồi thuốc để trị bệnh cho nhà vua. Tuy mọi người đã dốc sức tận tâm chữa, nhưng bệnh của nhà vua không thuyên giảm. Thấy thế, nhà vua bèn ra lệnh cho các quan: - Các khanh hãy mau làm lễ Quán đỉnh[5] truyền ngôi vua cho thái tử. Vâng lệnh, các quan liền sai sứ đến chỗ thái tử báo rằng Đức vua ngã bệnh, chữa mãi không khỏi, nên sai gọi thái tử phải mau trở về cung làm lễ quán đỉnh truyền ngôi. Sứ giả đi mới được nửa đường thì nhà vua qua đời. Quan cận thần lại sai một sứ giả nữa nối gót theo người trước đến báo với thái tử: “Đức vua đã qua đời, thái tử hãy mau vào cung làm lễ quán đỉnh truyền ngôi vua”. Bấy giờ, thái tử Đỉnh Sinh nghĩ: “Phụ vương đã mất, có chạy đến cũng đâu kịp!”. Trong lúc ấy, các quan bàn với nhau rồi cử một vị quan cận thần đến chỗ thái tử tâu: - Mong thái tử mau chóng vào cùng để làm lễ quán đỉnh truyền ngôi vua. Thái tử đáp: - Nếu ta xứng đáng nắm giữ ngôi vua chính pháp vương[6] thì những người kia phải đến đây làm lễ quán đỉnh cho ta. Quan cận thần nói: - Lễ quán đỉnh cho thái tử có nhiều nghi thức: phải làm tòa sư tử báu, lọng lụa, mão báu v.v… những thứ cần dùng như thế, ở đây đâu có đủ. Hơn nữa, theo lễ nghi, việc quán đỉnh phải thực hiện ở hoàng cung mới phù hợp. Do đó, thái tử nên vào cung để làm lễ quán đỉnh. Thái tử bảo: - Nếu ta xứng đáng nắm giữ ngôi chính pháp vương thì tất cả những thứ cần dùng phải tự đến. Khi ấy, thần dạ-xoa Nễ-vũ-ca phò tá thái tử liền trổ thần lực chuyển tất cả những thứ cần dùng: tòa sư tử, lọng lụa, mão báu v.v…cho đến xóm làng, thành thị đều đặt ở trước thái tử. Tất cả mọi người thấy thế, đều ngạc nhiên trước việc chưa từng có ấy. Sau đó, các quan, nhân dân và đội quân hùng mạnh đem lụa đẹp đến, muốn làm lễ quán đỉnh cho thái tử theo phép tắc, nên tâu: - Xin thái tử nên làm lễ quán đỉnh. Thái tử nói: - Nay ta đâu dùng lụa của người đời để buộc lên đầu theo phép quán đỉnh. [393c] Nếu ta xứng đáng nắm giữ ngôi chính pháp vương, chắc hẳn phải có lụa của trời để buộc lên đầu. Thế là, tự nhiên từ trên trời rơi xuống một tấm lụa rất đẹp. Lễ quán đỉnh được tiến hành, thái tử lên ngôi luân vương[7], có bảy thứ báu xuất hiện tùy lúc thích hợp là: xe, voi, ngựa, ngọc ma-ni, ngọc nữ, quan giữ kho tàng, tướng nắm binh quyền. Vị tân vương có đủ bảy thứ báu như thế, đồng thời, có một nghìn người con trai tướng mạo cực quí, mạnh mẽ, can đảm, có thể chế phục quân địch. Bấy giờ, có một tòa thành tên Quảng Nghiêm được bao quanh bởi rừng cây rậm rạp mà nhiều người ưa thích. Trong rừng ấy có năm trăm vị tiên nhân đang trú ngụ tu tập năm thứ thần thông. Rất nhiều loài chim trong rừng ấy như cò trắng ... thường kêu hót ồn ào, cản trở việc tu định của các tiên nhân. Một vị tiên trong số đó tên là Xú Diện đã nổi giận, đọc thần chú khiến đàn cò trắng gãy cánh. Những con cò gãy cánh nhảy trên mặt đất, từ từ đến cửa cung vua Đỉnh Sinh. Lúc ấy, nhà vua vừa bước ra, nhìn thấy đàn cò ở bên trái cửa cung, bèn hỏi quan cận thần: - Tại sao đàn cò này tụ hợp ở đây? Quan cận thần đáp: - Tâu thiên tử, đàn chim này quần tụ trong rừng kêu hót khiến các tiên nhân tu thiền định phải giật mình. Có một vị tiên nhân nổi giận chú nguyện cho chúng gãy cánh. Sau đó, chúng nhảy trên mặt đất đến tụ hợp ở cửa hoàng cung. Nhà vua nói: - Tại sao những tiên nhân ấy không có lòng thương xót chúng sinh? Nay phải ban lệnh đuổi họ mau ra khỏi đất nước ta. Quan cận thần vâng lệnh đến chỗ các tiên nhân tuyên đọc sắc lệnh của nhà vua. Các tiên nhân đều nghĩ: “Vị Đại vương này hiện đang cai trị bốn đại châu[8], thế lực rất lớn. Chúng ta nên đến trú ngụ trong khu rừng cạnh núi Tu-di”. Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh lần lượt quán xét và lượng định những nghề nghiệp nên làm của dân chúng. Sau đó, nhà vua đi tuần thú. Đầu tiên, nhìn thấy người cày cấy và gieo hạt trên đồng ruộng, nhà vua hỏi quan hầu cận: - Những người này đang làm gì? Quan hầu cận tâu: - Tâu Thiên tử, những người này đang cày bừa và gieo hạt giống. Hạt giống ấy mọc lớn lên thành cây để nuôi sống họ. Nhà vua nói: - Ta là thánh vương, nên đâu cần nhờ người đời cày cấy, trồng trọt nuôi mình! Tự nhiên sẽ có hạt giống của trời mọc thành cây. Nhà vua vừa nói xong, bỗng có hai mươi bảy loại hạt giống từ trên trời rơi xuống. Nhà vua liền hỏi mọi người: - Nhờ phúc của ai mà được như vậy? [394a] Mọi người đáp: - Đây là nhờ phúc của thiên tử cũng như của chúng tôi. Nhà vua lại đi tiếp. Nhìn thấy các nông dân gieo hạt giống cây bông vải, nhà vua hỏi quan cận thần: - Những người này làm gì thế? Vị quan đáp: - Tâu hoàng thượng, họ gieo giống cây bông vải. Khi cây kết trái, họ hái về để lấy bông làm thành những chiếc áo. Nhà vua nói: - Ta là thánh vương, nên không cần nhờ người đời trồng giống bông ấy để may áo, mà tự nhiên sẽ có hạt giống bông vải rất đẹp của trời. Nhà vua vừa nói xong, những hạt bông vải rất quí từ trên trời rơi xuống. Nhà vua hỏi mọi người: - Nhờ phúc của ai mà được như thế? Mọi người đáp: - Đây là nhờ phúc của thiên tử và của chúng tôi. Vua Đỉnh Sinh lại tiếp tục đi. Lần này, nhìn thấy nông dân đang xe chỉ, nhà vua liền hỏi quan cận thần: - Những người này đang làm gì đấy? Quan cận thần tâu: - Tâu thiên tử, họ đang xe bông thành sợi để làm thành những tấm bông vải. Nhà vua nói: - Ta là thánh vương, nên đâu cần nhờ người đời làm như thế! Tự nhiên ta sẽ có áo bông của trời để dùng. Nhà vua vừa nói xong, từ trên trời rơi xuống những chiếc áo bông. Nhà vua liền hỏi mọi người: - Nhờ phúc của ai mà được như thế? Mọi người đáp: - Đây là nhờ phúc của thiên tử và của chúng tôi. Nhà vua vẫn tiếp tục đi và lần lượt nhìn thấy nông dân lần lượt dệt ra những chiếc áo bông. Nhà vua hỏi quan cận thần: - Những người này đang làm gì thế? Quan cận thần đáp: - Tâu thiên tử, họ đang lắp đặt khung cửi để dệt áo. Nhà vua nói: - Ta là thánh vương, nên đâu cần nhờ người dời dệt áo để mặc! Tự nhiên ta sẽ có áo đẹp của trời để mặc. Nhà vua vừa nói xong, những chiếc áo bông đẹp từ trên trời rơi xuống. Nhà vua liền hỏi mọi người: - Nhờ phúc của ai mà được như thế? Mọi người đáp: - Đây là nhờ phúc của thiên tử và của chúng tôi. Sau khi thấy những việc ấy, vua Đỉnh Sinh suy nghĩ: “Phúc của ta hiện nay chưa vang khắp trong nước. Ta đã thống trị Thiệm-bộ châu trên vùng biển phía nam núi Tu-di. Cõi này, bên trong rộng lớn, bên ngoài có hình giống như thùng xe, nhân dân giàu có, an ổn, vui vẻ, các thành thị đều uy nghi, tráng lệ, con người xinh đẹp, đáng mến. Ta có đầy đủ bảy thứ báu: xe, voi, ngựa, ngọc ma-ni, ngọc nữ, thần giữ kho tàng, thần nắm binh quyền. [394b] Đồng thời, ta có một nghìn con trai tướng mạo rất khôi ngô, mạnh mẽ và can đảm vô cùng, có thể chế phục quân địch. Sung sướng thay người có thế lực như ta! Hôm nay ta cầu trời tuôn mưa tiền vàng suốt bảy ngày trong cung của ta, ngay cả một đồng tiền cũng không lọt ra ngoài cung. Nhà vua vừa nói xong, trời liền mưa đầy tiền vàng xuống cung vua suốt bảy ngày, không có một đồng tiền vàng nào rơi ngoài cung. Do phúc lực căn lành đã tạo trong đời trước, nhà vua được hưởng quả phúc có thần thông và uy đức như thế. Nhà vua hỏi mọi người: - Nhờ phúc của ai mà được như thế? Mọi người đáp: - Đó là nhờ phúc của thiên tử. Nhà vua nói: - Nếu các ngươi nói như trước rằng đây cũng là nhờ phúc của các ngươi thì tại sao bây giờ trời không mưa vàng đầy khắp châu Thiệm-bộ để tất cả nhân dân muốn bao nhiêu vàng đều nhận được cả? Do đó, nên biết phúc nhân đời trước của các ngươi thật bé nhỏ. Đức Phật nói: - Đại vương! Vua Đỉnh Sinh kia dùng chính pháp cai trị thế gian trải qua hết sáu đời Đế Thích. Vua Đỉnh Sinh lại hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca: - Có đại châu nào khác để ta cai trị không? Nhĩ-vũ-ca đáp: - Trong vùng biển rộng lớn phía đông núi Tu-di có đại châu Thắng Thân, bên trong (tây) rộng lớn, bên ngoài (đông) giống hình bán nguyệt. [394c] Nhân dân ở đó giàu có, an ổn, hạnh phúc, đất nước, thành thị rất tráng lệ, con người xinh đẹp, dễ mến. Đại vương nên đến đó tùy nghi giáo hóa. Vua Đỉnh Sinh suy nghĩ: “Cai trị châu Thiêm-bộ này, ta đã được bảy thứ báu, được sum vầy với một nghìn con trai trong cung điện. Nay ta lại nghe nói trong vùng biển phía đông núi Tu-di có châu Thắng Thân, vậy ta phải đến đó giáo hóa”. Vừa nghĩ xong, nhà vua bay lên không trung, dẫn theo mười tám ức quân lính hùng mạnh, bảy thứ báu và một nghìn con trai vây quanh, trong sát-na đã đến châu Thắng Thân. Nhà vua cai trị nhân dân châu Thắng Thân hàng trăm nghìn năm, làm nhiều việc phúc thiện cho chúng sinh. Nhà vua có thần thông, uy đức đã hưởng phúc báo như thế trải qua hết sáu đời Đế Thích. Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh lại hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca: - Có còn đại châu nào khác để ta cai trị nữa không? Nhĩ-vũ-ca đáp: - Trong vùng biển phía tây núi Tu-di có đại châu Ngưu Hóa, hình thể trong và ngoài đều tròn và đầy đặn, nhân dân giàu có, an ổn, hạnh phúc, đất nước và thành thị thật xinh đẹp, con người mỹ miều, dễ mến. Đại vương nên đến đó tùy nghi giáo hóa. Vua Đỉnh Sinh liền suy nghĩ: “Cai trị châu Thiệm-bộ, ta đã được bảy thứ báu, một nghìn người con trai và trời mưa tiền vàng. Ta lại đến cai trị Đông Thắng Thân châu này hàng trăm nghìn năm rồi, nay ta nghe nói ở vùng biển phía tây núi Tu-di còn có châu Ngưu Hóa. Vậy ta phải đến đó giáo hóa”. Vừa nghĩ xong, nhà vua liền bay lên không trung, dẫn theo mười tám ức binh lính hùng mạnh, bảy thứ báu và một nghìn con trai vây quanh. Chỉ trong sát-na, nhà vua đã đến tây Ngưu Hóa châu, cai trị nhân dân hàng trăm nghìn năm, làm nhiều việc phúc thiện cho chúng sinh nơi đó. Nhà vua có thần thông và uy đức đã hưởng phúc báo như thế trải qua hết sáu đời Đế Thích. Khi ấy, vua Đỉnh Sinh lại hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca: - Có còn đại châu nào khác để ta cai trị không? Nhĩ-vũ-ca đáp: - Tâu thiên tử, trong vùng biển phía bắc núi Tu-di có đại châu Cu-lô, trong và ngoài (đông và tây) đều vuông vức; nhân dân giàu có, an ổn, hạnh phúc; đất nước và thành thị rất xinh đẹp; con người mỹ miều, dễ mến. Nhân dân ở châu này không ràng buộc ai và cũng không lệ thuộc ai. Đại vương nên đến đó tùy nghi giáo hóa. Vua Đỉnh Sinh suy nghĩ: “Thống trị châu Thiệm-bộ, ta đã được bảy thứ báu, một nghìn con trai và trời mưa tiền vàng. Ta lại đến đông Thắng Thân châu và tây Ngưu Hóa châu, lần lượt cai trị mỗi nơi hàng trăm nghìn năm. Nay lại nghe nói ở vùng biển phía bắc núi Tu-di có châu Cu-lô, vậy ta phải đến đó giáo hóa”. Vừa nghĩ xong, nhà vua liền bay lên không trung , dẫn theo mười ức quân lính hùng mạnh, bảy thứ báu và một nghìn con trai vây quanh dến bắc Cu-lô châu. Chỉ trong sát-na, nhà vua đã đến cạnh núi Tu-di, nhìn thấy màu đất trắng xóa của châu ấy ở đằng xa, bèn hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca: - Tại sao đất nơi ấy trắng vậy? Nhĩ-vũ-ca tâu: - Tâu thiên tử! Đó là lúa thơm mà người bắc Cu-lô châu ăn. Nó có màu trắng, thơm ngon, tự nhiên mọc lên, chứ không phải do cày cấy, gieo trồng. Hạt lúa ấy dài bằng bốn ngón tay, không có ghim thóc, không có hạt lép, sạch sẽ, trắng tinh, chín đúng thời hạn. [395a] Nhân dân ở đó không tốn sức cấy trồng, mà chỉ việc lấy lúa về ăn. Nay đại vương đến đấy cũng nên lấy lúa đó để ăn. Nhà vua bảo các quan: - Các khanh có thấy đất đó màu trắng không? Các quan tâu: - Vâng, thấy ạ. Nhà vua nói: - Đó là lúa thơm mà người bắc Cu-lô châu ăn. Lúa đó màu trắng, thơm ngon, tự nhiên mọc lên, không cần cày cấy, gieo trồng. Hạt lúa ấy dài bốn ngón tay, không có ghim thóc, không có hạt lép, sạch sẽ, trắng tinh, luôn chín đúng thời hạn. Nhân dân ở đó không tốn sức cấy trồng mà chỉ việc lấy lúa về ăn. Các khanh đến đấy cũng nên lấy lúa đó ăn. Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh từ phía bắc núi Tu-di nhìn thấy nhiều cây rất đẹp, thân tròn không khuyết lõm, ngắm rất thích, liền hỏi Nhĩ-vũ-ca: - Đấy là những cây gì? Nhĩ-vũ-ca đáp: - Tâu thiên tử! Đấy là bốn loại cây y phục kiếp-ba[9]: màu xanh, vàng, đỏ và trắng. Những cây ấy mọc ra y phục bốn màu rất đẹp. Nhân dân châu Cu-lô, dù nam hay nữ, đều dùng y phục ấy. Khi họ vừa nghĩ đến y phục thì những cành cây ấy liền tự nhiên rủ thấp xuống để họ tùy ý lấy mặc. Nay đại vương đến đó thì cũng phải mặc y phục ấy. Nghe xong, nhà vua bảo các quan: - Các khanh có thấy những cây đẹp có thân tròn, không khuyết lõm kia chăng? Các quan đáp: - Vâng, thấy ạ. Nhà vua nói: - Đó là bốn loại cây y phục kiếp-ba xanh, vàng, đỏ và trắng của nhân dân châu Bắc Cu-lô. Những cây ấy mọc ra y phục bốn màu rất đẹp. Nhân dân ở châu đó, dù nam hay nữ, hễ vừa nghĩ đến y phục thì những cành cây ấy tự nhiên rủ thấp xuống để họ tùy ý lấy mặc. Các khanh đến đó rồi, cũng phải mặc y phục ấy. Vua Đỉnh Sinh cai trị nhân dân Bắc Cu-lô châu đến hàng trăm nghìn năm, làm nhiều việc phúc thiện cho chúng sinh. Nhà vua có thần thông, uy đức đã hưởng phúc báo như thế trải qua hết sáu đời Đế Thích. Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh lại hỏi thần dạ-xoa Nhĩ-vũ-ca: - Còn có xứ sở nào khác để ta cai trị không? Nhĩ-vũ-ca đáp: - Tâu thiên tử! Không còn xứ sở nào khác được ngài cai trị. Nhưng có cõi trời Ba Mươi Ba, chư thiên tại đó sống lâu, dung mạo xinh đẹp, hưởng nhiều hạnh phúc, sống an ổn lâu dài trong những tòa lầu gác cao rộng. Vui lắm! Thiên tử nên đến đó chiêm ngưỡng. Vua Đỉnh Sinh liền nghĩ: “Ta đã cai trị châu Thiêm-bộ kia, có được bảy thứ báu, [395b] một nghìn người con trai và trời mưa tiền vàng. Sau đó, ta lại đến Đông Thắng Thân châu, Tây Ngưu Hóa châu. Hiện nay ta đang ở Bắc Cu-lô châu, lại nghe nói có cõi trời Ba Mươi Ba, chư thiên tại đó sống lâu, dung mạo xinh đẹp, hưởng nhiều hạnh phúc, sống an ổn lâu dài trong những tòa lầu gác cao rộng. vậy ta nên đến đó chiêm ngưỡng”. Vừa nghĩ xong, nhà vua liền bay lên không trung, dẫn theo mười tám ức quân lính hùng mạnh, bảy thứ báu và một nghìn con trai. Khi đến bảy ngọn núi vàng phía ngoài núi Tu-di, nhà vua thấy trước tiên là núi Nễ-dân-đạt-la[10]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích. Kế đó, vua Đỉnh Sinh đến núi Vĩ-na-tinh-kế[11]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích. Sau đó, nhà vua đến núi Mã Nhĩ[12]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích. Kế đó, nhà vua lại đến núi Thiện Kiến. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích. Kế tiếp, nhà vua đến núi Khư-nễ-la-ca[13]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hoá trải qua hết sáu đời Đế Thích. Sau đó, nhà vua đến núi Trì Trục[14]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui đến núi này. Nhà vua và đội quân hùng mạnh ở đó giáo hóa trải qua hết sáu đời Đế Thích.
Chú thích: [1] Phúc hạnh福行: một trong ba hạnh. Hạnh môn tu phúc của trời người, do giữ gìn ngũ giới và thập thiện mà cảm được phúc báo. . [2] Kiếp Hiền賢劫 (S: bhadrakalpa; Cg: kiếp Thiện, kiếp Hiện): kiếp Trụ hiện tại. Trong kiếp này, có một nghìn vị Phật ra đời, nên gọi là kiếp Hiền. [3] Bông (nguyên văn: đâu-la-miên兜羅綿; Cg: đổ-la): loài hoa nào chất mềm nhẹ bay bốc ra được đều gọi là bông. [4] Trượng phu 丈夫 (S: dvātriṃśan mahā-puruṣa-lakṣaṇāni): ba mươi hai tướng quí của Chuyển luân thánh vương và của Đức Phật. [5] Quán đỉnh灌頂 (S: abhiṣecana, hoặc abhiṣeka): nghi thức rưới nước lên đỉnh đầu một người để biểu thị người ấy nay được thăng lên địa vị nào đó. Nguyên đây là một nghi thức lên ngôi vua hoặc lập thái tử của Ấn Độ cổ đại, vị quốc sư rưới nước bốn biển lên đầu thái tử để biểu thị sự chúc phúc. [6] Chính pháp vương 正法王 (Cg: Chuyển luân thánh vương): người ở thế gian tu hạnh nghiệp cõi trời, thưởng phạt rõ ràng. Tất cả pháp của bậc thánh vương đều như vậy, nên gọi chính pháp vương. [7] Luân vương 輪王 (Cg: Chuyển luân thánh vương). [8] Bốn đại châu (tứ đại châu四大洲): theo thế giới quan của người Ấn Độ xưa, có bốn đại châu nằm giữa vùng biển trung gian giữa bảy ngọn núi vàng và núi Đại Thiết Vi ở xung quanh núi Tu-di. Bốn châu gồm có: châu Nam Thiệm-bộ (S: Jambu-dvīpa), châu Đông Thắng Thần (S: Pūrva-videha), châu Tây Ngưu Hoá (S: Apara-godānīya) và châu Bắc Cu-lô (S: Uttara-kuru). [9] Cây y phục kiếp-ba (nguyên văn: kiếp-ba y thụ劫波衣樹): cây như ý. Trong Hỉ Lâm Viên của Đế Thích có loài cây kiếp-ba sinh ra các thứ vật cần dùng. [10] Nễ-dân-đạt-la儞民達囉 (Cg: Ni-dân-đạt-la): tên một giống cá biển có mõm nhọn. Ngọn núi này có hình giống như con cá ấy, nên được gọi tên như thế. [11] Vĩ-na-tinh-kế尾那惺計 (Cg: Tì-na-đát-ca): nghĩa là mũi voi. Ngọn núi này có hình giống mũi voi, nên có tên này. [12] Mã Nhĩ馬耳 (Cg: Át-thấp-phược-yết-noa): nghĩa là tai ngựa. Ngọn núi này có hình như tai ngựa. [13] Khư-nễ-la-ca佉禰囉迦 (Cg: Kiệt-địa-lạc-ca): tên của một loài cây quí ở Ấn Độ và Nam Trung Quốc. Núi này có hình giống cây ấy nên đặt tên như vậy. [14] Trì Trục持軸 (S: Īṣādhara; Hd: Y-sa-đà-la): đỉnh cao chót vót của núi này giống như cái trục xe, nên đặt tên như thế. 6[395c06] Sau khi đến núi Trì Trục, vua Đỉnh Sinh lại đến núi Trì Song[15]. Núi này bằng vàng ròng, rất uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tứ Đại thiên vương và các thiên tử thường lui tới nơi này. Núi chúa Tu-di cao hơn mọi núi khác. Phía đông núi chúa này có Đại Thiên vương Trì Quốc ở trong tòa thành cũng tên Trì Quốc. Thành ấy có chiều dài và chiều rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tường thành đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt thành có bốn đoạn tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Còn có nhiều lớp tường thông với các con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành rất phẳng, đẹp và sạch sẽ, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ. Mặt đất mềm dịu như bông, như nỉ, bước chân xuống thì nó hơi lún xuống, nhấc chân lên thì nó trở lại như cũ. Khắp mặt đất cũng được rải một lớp hoa mạn-đà-la của trời ngập đến đầu gối. Khi có ngọn gió thơm thổi qua, hoa héo bị cuốn đi, và trời lại mưa hoa mới xuống. Đường phố trong thành ấy đều dài hai trăm năm mươi do-tuần, rộng hai mươi lăm do-tuần, được trải đầy vàng cát và được tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng và treo chuông gió cũng bằng vàng để làm lộ giới. Trong thành có nhiều ao, hồ, nước trong và sạch, đáy có rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng các thứ báu, đáy và các nấc thềm cũng bằng bốn thứ báu. Giữa các ao ấy có bốn đài làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường, cột làm bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, thơm, ngon; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca v.v…có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, hồ, phát ra những âm thanh thú vị: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương. Xung quanh ao còn có nhiều hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết lõm. [396a] Giống như người thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng hoa, rừng cây hoa quả ấy cũng như thế. Lại có nhiều loài chim bay đến đậu và đùa giỡn trên những cây ấy, kêu hót nhiều âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương,… Trong cung đó có cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục đẹp có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ kia vừa nghĩ đến thì y phục liền đến tay họ. Trong cung còn có nhiều cây âm nhạc phát ra tiếng các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn không hầu,… Khi các vị trời nam hay nữ kia vừa nghĩ đến thì tiếng nhạc tự nhiên vang lên. Trong cung cũng có nhiều loài cây trang sức đẹp sinh ra những thứ vòng đeo tay, kiềng đeo chân và các món đồ trang sức xinh đẹp khác. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các món đồ trang sức liền đến tay họ. Trong cung cũng có món ăn tô-đà[16] có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các thức ăn ngon liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung còn có bốn món nước uống: mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê, bá-nẵng … Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ tập lại đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm bày biện nhiều thức ăn uống. Thiên vương Trì Quốc và các quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy phúc lực mà được hưởng quả báo tốt đẹp như thế. Phía nam núi Tu-di có đại thiên vương Tăng Trưởng ở tòa thành cũng tên Tăng Trưởng. Thành ấy có chiều dài và chiều rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Những bức tường của thành ấy đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt thành có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Có nhiều lớp tường thông với các con đường cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành phẳng, rất đẹp và sạch, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, lại mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún xuống khi đặt chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Trời thường rải hoa mạn-đà-la khắp mặt đất, ngập đến đầu gối. Thỉnh thoảng, có luồng gió thơm ngát thổi qua, cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Đường phố trong thành đều dài hai trăm năm mươi do-tuần [396b] và rộng hai mươi lăm do-tuần; mặt đường trải toàn vàng cát và được tưới nước thơm mùi chiên-đàn. Dọc hai bên đường phố có giăng dây vàng và treo nhiều chuông gió bằng vàng để làm lộ giới. Lại có nhiều ao hồ, đáy được rải bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Bốn mặt ao có bốn bậc thềm bằng bốn thứ báu, đáy và các tầng bậc cũng bằng bốn thứ báu. Giữa ao có bốn đài làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Các ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; trên mặt phủ đầy các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Lại có nhiều loài thủy cầm tung tăng bơi đùa, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Xung quanh ao có nhiều loại cây hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo kết thành vòng hoa, rừng cây hoa trái quanh ao cũng như thế. Trên những cây ấy có rất nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Trong cung có cây y phục kiếp-ba bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng, thường sinh ra y phục rất đẹp có bốn màu. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì y phục liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có nhiều cây âm nhạc phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Trong cung còn có nhiều cây trang sức thường sinh ra các thứ vòng đeo tay, kiềng đeo chân và đủ các món đồ trang sức rất đẹp. Khi các vị trời vừa nghĩ đến thì các món trang sức liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có những thức ăn ngon tô-đà có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các thức ăn ngon liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung còn có bốn món nước uống: mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê, bá-nẵng … Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức sinh đẹp. [396c] Các thiên nữ thường tụ tập lại đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương bày biện nhiều thức ăn uống. Thiên vương Tăng Trưởng và các quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy phúc lực mà được hưởng quả báo tốt đẹp như thế. Phía tây núi Tu-di có đại thiên vương Quảng Mục ở tòa thành cũng tên Quảng Mục. Thành ấy có chiều dài và chiều rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Những bức tường của thành ấy đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt thành có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Có nhiều lớp tường thông với các con đường cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành phẳng, rất đẹp và sạch, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, lại mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún xuống khi đặt chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Trời thường rải hoa mạn-đà-la khắp mặt đất, ngập đến đầu gối. Thỉnh thoảng, có luồng gió thơm ngát thổi qua, cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Đường phố trong thành đều dài hai trăm năm mươi do-tuần và rộng hai mươi lăm do-tuần; mặt đường trải toàn vàng cát và được tưới nước thơm mùi chiên-đàn. Dọc hai bên đường phố có giăng dây vàng và treo nhiều chuông gió bằng vàng để làm lộ giới. Lại có nhiều ao, hồ trong sạch, đáy được rải bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Bốn mặt ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê, đáy và các bậc thềm cũng bằng bốn thứ báu. Giữa ao có bốn đài làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Các ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; trên mặt phủ đầy các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu- đà, bôn-noa-lợi-ca. Lại có nhiều loài thủy cầm tung tăng bơi đùa, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Xung quanh ao có nhiều loại cây hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo kết thành vòng hoa, rừng cây hoa trái quanh ao cũng như thế. Trên những cây ấy có rất nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay: âm thanh lỉnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Trong cung có thứ cây y phục kiếp-ba bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng thường sinh ra y phục rất đẹp có bốn màu. [397a] Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì y phục liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có nhiều cây âm nhạc phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Trong cung còn có nhiều cây trang sức thường sinh ra các thứ vòng đeo tay, kiềng đeo chân và đủ các món đồ trang sức rất đẹp. Khi các vị trời vừa nghĩ đến thì các món trang sức liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có những món ăn tô-đà có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các thức ăn ngon liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung còn có bốn món nước uống: mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê, bá-nẵng … Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức sinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ tập lại đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm bày biện nhiều thức ăn uống. Thiên vương Tăng Trưởng và các quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy phúc lực mà được hưởng quả báo tốt đẹp như thế. Phía bắc núi Tu-di có Đại thiên vương Đa Văn ở tòa thành tên A-noa-ca-phược-đế. Thành ấy có chiều dài và chiều rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Những bức tường của thành ấy đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt thành có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Có nhiều lớp tường thông với các con đường cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành phẳng, rất đẹp và sạch, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, lại mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún xuống khi đặt chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Trời thường rải hoa mạn-đà-la khắp mặt đất, ngập đến đầu gối. Thỉnh thoảng, có luồng gió thơm ngát thổi qua, cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Đường phố trong thành đều dài hai trăm năm mươi do-tuần và rộng hai mươi lăm do-tuần; mặt đường trải toàn vàng cát và được tưới nước thơm mùi chiên-đàn. Dọc hai bên đường phố có giăng dây vàng và treo nhiều chuông gió bằng vàng để làm lộ giới. Lại có nhiều ao, hồ trong sạch, đáy được rải bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Bốn mặt ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê, đáy và các tầng bậc cũng bằng bốn thứ báu. [397b] Giữa ao có bốn đài được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Các ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; trên mặt phủ đầy các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Lại có nhiều loài thủy cầm tung tăng bơi đùa, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Xung quanh ao có nhiều loại cây hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo kết thành vòng hoa, rừng cây hoa trái quanh ao cũng như thế. Trên những cây ấy có rất nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay: âm thanh lảnh lót vang xa, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Trong cung có loài cây y phục kiếp-ba bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng thường sinh ra y phục rất đẹp có bốn màu. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì y phục liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có nhiều cây âm nhạc phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Trong cung còn có nhiều cây trang sức thường sinh ra các thứ vòng đeo tay, kiềng đeo chân và đủ các món đồ trang sức rất đẹp. Khi các vị trời vừa nghĩ đến thì các món trang sức liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung cũng có những cây món ăn tô-đà có bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các thức ăn ngon liền tự nhiên đến tay họ. Trong cung còn có bốn món nước uống: mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê, bá-nẵng … Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức sinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ tập lại đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm bày biện nhiều thức ăn uống. Thiên vương Đa Văn và các quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy phúc lực mà được hưởng quả báo tốt đẹp như thế. Vua Đỉnh Sinh giáo hóa ở núi Trì Song trải qua hết sáu đời Đế Thích. [397c] Sau đó, nhà vua lại đến bên cạnh núi Trì Song, nơi năm trăm vị tiên đang trú ngụ. Thấy vua Đỉnh Sinh từ xa đến, tiên nhân Xú Diện tức giận nói: “Ông vua ưa chiến tranh kia lại đến đây rồi!”. Ông ta chụm hai bàn tay lại tát nước vào đoàn quân tiên phong của nhà vua để ngăn không cho tiến tới. Bấy giờ, vị thần chỉ huy quân đội bảo các vị tiên: “Nếu người tu hạnh thanh tịnh nổi giận thì không thành tựu được việc gì. Nay vua Đỉnh Sinh là vị vua đại nhân từ, không phải là người các ông có thể dùng thần chú để đối phó”. Dần dần, vua Đỉnh Sinh đến chỗ các vị tiên. Nhà vua hỏi: - Người nào ngăn cản không cho đoàn quân tiến tới? Vị thần chỉ huy quân đội đáp: - Các vị tiên đã ngăn cản. Nhà vua nói: - Các vị tiên này thích cái gì nhất?. Vị thần chỉ huy quân đội đáp: - Họ thích nhất tóc bện. Nhà vua bảo: - Nay cắt tóc của họ và bắt tất cả theo phò tá ta. Nhà vua vừa dứt lời, tóc của các vị tiên tự nhiên bị cắt đứt hết, mỗi người tự cầm cung tên vâng lệnh vua làm quân tiên phong. Lúc ấy, ngọc nữ của nhà vua tâu: - Tâu thiên tử! Các vị tiên này là người tu hành. Xin ngài hãy tha cho họ! Nhà vua nói: - Ta đồng ý theo lời của khanh. Sau đó, các vị tiên ấy nhờ tinh tiến tu nên đều chứng được năm thần thông[17]. Vua Đỉnh Sinh cùng đoàn quân hùng mạnh của mình bay lên không trung tiếp tục tiến tới. Phần chìm trong biển và phần nổi trên mặt biển của núi Tu-di đều bằng tám mươi nghìn do-tuần. Bốn mặt núi đều rộng tám mươi nghìn do-tuần, chu vi ba trăm hai mươi nghìn do-tuần. Mặt đất dưới chân núi toàn bằng vàng và bốn thứ báu rất đẹp. Mặt phía đông toàn bằng pha-lê, mặt phía tây bằng bạc trắng, mặt phía nam bằng lưu li, mặt phía bắc bằng vàng ròng. Bốn phương góc đều có núi: ngọn núi ở phương đông nam dài và rộng đều bằng một trăm hai mươi do-tuần, chu vi năm trăm do-tuần, cao bốn phẩy năm do-tuần, toàn bằng lưu li, thần dạ-xoa Kim Cương Thủ ở trong đó; ngọn núi ở phương tây nam dài và rộng cũng bằng một trăm hai mươi do-tuần, chu vi năm trăm do-tuần, cao bốn phẩy năm do-tuần, toàn bằng pha-lê, thần dạ-xoa Kim Cương ngụ trong đó; ngọn núi ở phương tây bắc dài và rộng cũng bằng một trăm hai mươi do-tuần, chu vi năm trăm do-tuần, cao bốn phẩy năm do-tuần, toàn bằng vàng ròng, thần dạ-xoa Kim Cương Thủ ở trong đó; ngọn núi ở phương đông bắc dài và rộng cũng bằng một trăm hai mươi do-tuần, chu vi năm trăm do-tuần, cao bốn phẩy năm do-tuần, thần dạ-xoa Kim Cương Thủ ở trong đó. [398a] Núi Tu-di có bốn tầng. Tầng thứ nhất rộng mười sáu nghìn do-tuần, toàn bằng bốn thứ báu, có trời Kiên Thủ ở đấy. Tầng thứ hai cao hơn tầng thứ nhất mười nghìn do-tuần, phình rộng tám nghìn do-tuần, toàn bằng bốn thứ báu, có trời Trì Man ở đấy. Cao hơn đó mười nghìn do-tuần là tầng thứ ba phình rộng bốn nghìn do-tuần, toàn bằng bốn thứ báu, có trời Thường Kiêu ở đấy. Cao hơn mười nghìn do-tuần nữa là tầng thứ tư phình rộng hai nghìn do-tuần, cũng toàn bằng bốn thứ báu, có Tứ Đại thiên vương ở đấy.
Chú thích: [15] Trì Song持雙 (S: Yugaṃdhara; Hd: Thâu-kiện-đạt-la): trên đỉnh núi này có dấu vết như hai con đường, nên đặt tên như thế. [16] Tô-đà蘇陀: thức ăn ngon của cõi trời. [17] Năm thần thông (nguyên văn: ngũ thần thông五神通; S: pañcābhijñā): năm thứ năng lực siêu nhiên đạt được nhờ tu tập bốn thiền căn bản, gồm một: thần cảnh trí chứng thông; hai: thiên nhãn trí chứng thông; ba: thiên nhĩ trí chứng thông: bốn: tha tâm trí chứng thông; năm: túc trụ tùy niệm trí chứng thông. Bốn thần thông đầu là pháp hữu lậu thuộc thế trí, chỉ tha tâm thông là pháp vô lậu thuộc năm thứ trí: pháp trí, loại trí, đạo trí, thế tục trí và tha tâm trí. 6Đức Phật nói: - Đại vương! Trên cõi này là nơi ở của các trời Ba Mươi Ba. Lớp nước của nơi đó có các long vương trú ngụ như: Nan-đà, Ô-ba-nan-đà, A-thuyết-đa-lí, Mẫu-tức-lân-na Ma-na-tư, Y-la-bát-đát-la, ... Các long vương này sống thọ nhiều kiếp, có sức hộ trì thế gian vô địch, cùng các trời Kiên Thủ, Trì Phát, Thường Kiêu và Tứ Đại thiên vương bảo vệ cõi trời Ba Mươi Ba. Khi a-tu-la đến gây chiến, họ vừa báo động vừa chống trả. Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh đem quân tiếp tục tiến tới, nhưng bị các long vương ngăn cản. Nhà vua hỏi: - Tại sao không tiến lên? Thần chỉ huy đoàn quân đáp: - Tâu thiên tử! Đó là do các long vương ngăn cản quân ta. Nhà vua nói: - Long vương là loài bàng sinh, không phải là địch thủ của ta. Nay ta khiến họ phải dẫn đường cho ta. Nhà vua vừa dứt lời, các long vương liền đi trước dẫn đường cho nhà vua đến chỗ của Kiên Thủ thiên vương. Thiên vương ấy hỏi: - Tại sao các ông chạy đến đây? Các long vương đáp: - Có vua Đỉnh Sinh của cõi người sắp đến đây, cho nên chúng tôi đi trước dẫn đường. Kiên Thủ thiên vương liền ngăn cản, không cho đoàn quân tiến tới. Vua Đỉnh Sinh hỏi: - Tại sao đoàn quân không tiến lên? Thần chỉ huy đoàn quân đáp: - Tâu thiên tử! Đó là do Kiên Thủ thiên vương ngăn cản quân ta. Nhà vua nói: - Ta cũng sẽ khiến trời Kiên Thủ dẫn đường cho ta. Nhà vua vừa nói xong, vị trời kia liền đi trước dẫn đường cho nhà vua đến chỗ Trì Phát thiên vương. Vị Thiên vương ấy hỏi: - Tại sao ông chạy đến đây? Kiên Thủ thiên vương đáp: - Vua Đỉnh Sinh của cõi người sắp đến đây, cho nên tôi đi trước dẫn đường. Trì Phát thiên vương liền ngăn cản, không cho đoàn quân tiến tới. Vua Đỉnh Sinh hỏi: - Tại quân ta không tiến lên? Thần chỉ huy đoàn quân đáp: - Tâu thiên tử! Nơi đây có Trì Phát thiên vương đang ngăn cản quân ta. Nhà vua nói: - Ta cũng sẽ khiến trời Trì Phát dẫn đường cho ta. Nhà vua vừa nói xong, vị trời kia liền đi trước dẫn đường cho ngài đến chỗ Thường Kiêu thiên vương. Vị Thiên vương ấy hỏi: - Tại sao ông chạy đến đây? Thiên vương Trì Phát đáp: - Có vua Đỉnh Sinh của cõi người sắp đến đây, cho nên tôi đi trước dẫn đường. Thường Kiêu thiên vương liền ngăn cản không cho đoàn quân tiến. [398b] Vua Đỉnh Sinh hỏi: - Tại sao quân ta không tiến lên? Thần chỉ huy đoàn quân đáp: - Tâu Thiên tử! Nơi đây có Thường Kiêu thiên vương ngăn cản quân ta. Nhà vua nói: - Ta nay cũng sẽ khiến trời Thường Kiêu dẫn đường cho ta. Nhà vua vừa nói xong, vị trời kia liền đi trước dẫn đường cho nhà vua đến chỗ của Tứ Đại thiên vương. Các Đại thiên vương hỏi: - Tại sao ông chạy đến đây? Thường Kiêu thiên vương đáp: - Có vua Đỉnh Sinh của cõi người sắp đến đây, cho nên tôi đi trước dẫn đường. Lúc ấy, Tứ Đại thiên vương bàn với nhau: “Vị vua cõi người ấy có đủ phúc đức lớn, danh tiếng lẫy lừng. Chúng ta đâu thể chống lại được”. Bàn như thế xong, họ cùng nhau đến chỗ của Đế Thích thiên chủ trình bày rõ sự tình trên. Đế Thích thiên chủ nói: - Vị vua phúc đức to lớn này có tiếng tăm lẫy lừng, ta cũng không thể chống lại được. Nói xong, Đế Thích thiên chủ liền ôm bình át-già[18] đến cung kính đón rước vua Đỉnh Sinh. Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh nhìn thấy từ xa một khu rừng rậm rạp trên núi Tu-di, cây cối mọc dày đặc một màu xanh đen, vươn thẳng lên như vầng mây lơ lửng trên cao tuyệt đẹp, liền hỏi thần dạ-xoa Nễ-vũ-ca: - Rừng cây phía trước kia là rừng cây gì? Nễ-vũ-ca đáp: - Tâu thiên tử! Đó là những cây ba-lợi-chất-đa và cây câu-tì-đà-la của cõi trời Ba Mươi Ba. Vào tháng tư đầu mùa hạ, thiên chúng của cõi trời đó đến vui đùa, hưởng thú vui ngũ dục thoải mái dưới tán rừng cây ấy. Nay Ngài cũng nên đến đó vui chơi. [398c] Nghe tâu thế, nhà vua bảo các quan: - Các khanh thấy rừng cây ở phía trước xanh rì như đám mây kia chăng? Các quan đáp: - Vâng, thấy ạ. Nhà vua nói: - Đó là những cây ba-lợi-chất-đa và cây câu-tì-đà-la ở cõi trời Ba Mươi Ba. Vào tháng tư bắt đầu mùa hạ, thiên chúng cõi đó đến vui đùa, hưởng thú vui ngũ dục thoải mái dưới tán rừng cây ấy. Các khanh đến đó cũng nên vui chơi như thế. Vua Đỉnh Sinh tiếp tục tiến tới, thấy trên đỉnh núi Tu-di có đám mây trắng tụ cao như ngọn núi, liền hỏi Nễ-vũ-ca: - Đám mây trắng tụ cao như ngọn núi kia là gì thế? Nễ-vũ-ca đáp: - Tâu thiên tử! Đấy là Thiện Pháp đường của cõi trời Ba Mươi Ba. Các thiên tử và Tứ Đại thiên vương thường hội hợp ở đó để suy xét và đánh giá mọi việc của trời và người trong thế gian. Nay thiên tử nên đến đó. Nhà vua liền bảo các quan: - Các khanh có thấy đám mây trắng tụ cao như ngọn núi kia chăng? Các quan đáp: - Vâng, thấy ạ. Nhà vua nói: - Đó là Thiện Pháp đường của cõi trời Ba Mươi Ba. Các thiên tử của cõi trời ấy và Tứ Đại thiên vương thường cùng nhau hội hợp ở đó để suy nghĩ, quan sát và đánh giá mọi việc của trời và người trong thế gian. Nay các khanh nên đến đó. Thêm nữa, trong cõi trời Ba Mươi Ba trên đỉnh núi Tu-di có tòa thành Thiện Kiến dài và rộng đều bằng hai nghìn năm trăm do-tuần, chu vi mười nghìn do-tuần. Thành ấy có bảy lớp, mỗi lớp đều cao một phẩy năm do-tuần, toàn bằng vàng. Trên mặt mỗi thành đều có bốn bức tường nhỏ thấp bằng vàng, bạc, lưu li và pha-để-ca. Còn có nhiều lớp tường thông với các con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong thành được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẵm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Hoa trời mạn-đà-la rải khắp mặt đất ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn hết hoa héo đi và trời lại mưa hoa mới xuống. Thành Thiện Kiến có một nghìn khong trăm lẽ một cửa, mỗi cửa dài hai phẩy năm do-tuần, rộng không phẩy năm do-tuần đều làm bằng gỗ hương ngưu-đầu-chiên-đàn, và đều được trang trí bằng những hình ngôi sao và hình bán nguyệt bằng bốn thứ báu vàng, bạc, lưu li, pha-lê xen đổi nhau. Tại mỗi cửa thành đều có năm trăm dạ-xoa mặc áo xanh, mang giáp trụ đứng bảo vệ và giúp các thiên tử cõi trời Ba Mươi Ba làm các việc lợi ích. [399a] Các đường phố trong thành đều dài hai trăm năm mươi do-tuần và rộng mười hai do-tuần, được trang trí rất đẹp, được trải vàng cát và rưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường phố có giăng dây vàng, treo chuông gió để làm lộ giới. Trong thành còn có nhiều ao nước rất sạch, đáy có rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài bằng các thứ báu: vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen đổi nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Còn có nhiều loài cây hoa và trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết tóc dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng tóc, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Trong thành có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì y phục liền tự nhiên đến tay họ. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì các món trang sức tự nhiên đến tay họ. Lại có những thức ăn có vị tô-đà bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. [399b] Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Cách thành Thiện Kiến hai mươi do-tuần về phía đông có khu vườn tên Bảo Xa, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài uy nghi, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Tường bao quanh vườn đều bằng vàng, cao nửa do-tuần. Trên mặt tường có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Còn có nhiều lớp tường thông với các con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong vườn được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẵm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Khắp mặt đất có rải hoa trời mạn-đà-la ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Trong vườn Bảo Xa có một ao lớn, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Còn có nhiều loài hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết tóc dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng tóc, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Khắp thành có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì âm nhạc liền tự nhiên vang lên. Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. [399c] Lại có những món ăn mang vị tô-đà bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Các con đường trong vườn đều dài hai mươi do-tuần và rộng nửa do-tuần, được trang trí rất đẹp và sạch sẽ, được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng, treo chuông gió và có rất nhiều loại hoa và cây trái. Chim chóc thường tụ tập trên cây chơi đùa, kêu hót những âm thanh rất hay. Cũng có những cây y phục kiếp-ba bốn màu, cây âm nhạc, cây trang sức, ... Lại có bốn loại phương tiện di chuyển rất đẹp: voi, ngựa, xe và xe quí. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì xe liền tự nhiên đến trước mặt để họ dùng đi dạo chơi vui vẻ. Vì sao vườn ấy có tên là Bảo Xa? Vì vườn ấy có ao hồ đẹp, nhiều cây cối và hoa trái, có những cây y phục và cây đồ trang sức, các vị trời nữ đều dùng các thứ báu để trang sức, lại có xe báu để các thiên tử cưỡi đi dạo chơi. Cách vườn Bảo Xa hai mươi do-tuần về phía đông có khu khu đất Bảo Nghiêm dài và rộng đều hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần. Mặt đất nơi đó mềm dịu, sạch sẽ, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ và rải đầy hoa trời mạn-đà-la. Có bốn đài báu được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp; có những con đường dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần rất sạch và đẹp; có đủ loại cây hoa, trái, y phục, đồ trang sức. Cũng có xe báu, hễ các vị trời vừa nghĩ thì nó liền tự nhiên đến để họ đi dạo chơi vui vẻ. Nơi đó có các vị thiên tiên tu tập phạm hạnh. Cách thành Thiện Kiến hai mươi do-tuần về phía nam có khu vườn Thô Kiên dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều hoành tráng, lộng lẫy, đáng chiêm ngưỡng. Bao quanh vườn là những bức tường bằng vàng cao một do-tuần. Trên đầu tường lại có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê; [400a] ngoài ra, còn có nhiều lớp tường thông với những con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong vườn được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẵm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Khắp mặt đất có rải hoa trời mạn-đà-la ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Trong vườn Thô Kiên có một ao lớn, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Còn có nhiều loài hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng hoa, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Khắp vườn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. [400b] Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Các con đường trong vườn đều dài hai mươi do-tuần và rộng nửa do-tuần, được trang trí rất đẹp và sạch sẽ, được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng, treo chuông gió và có rất nhiều loại hoa và cây trái. Chim chóc thường tụ tập trên những cây ấy chơi đùa, kêu hót những âm thanh rất hay. Cũng có những cây y phục kiếp-ba bốn màu, cây âm nhạc, cây trang sức, ... Lại có bốn loại phương tiện di chuyển rất đẹp: voi, ngựa, xe và xe quí. Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì xe liền tự nhiên đến trước mặt để họ dùng đi dạo chơi vui vẻ. Vì sao vườn ấy có tên là Thô Kiên? Vì tất cả ao nước, cây cối, hoa trái, y phục, đồ trang sức và các trời nữ đều thô và cứng, ngay cả các thiên tử trong vườn ấy cũng có thân và tâm thô tháo, thích đánh nhau. 6Cách vườn Thô Kiên hai mươi do-tuần về phía nam có khu đất Thô Kiên, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần. Mặt đất nơi ấy sạch sẽ, mềm mại, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ và được rải hoa trời mạn-đà-la. Giữa khu ấy có bốn đài báu được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Các con đường ở khu ấy đều dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, rất sạch sẽ, có trồng nhiều loài hoa, cây trái, cây y phục, cây âm nhạc, cây trang sức. Ngoài ra, còn có các thứ xe tự nhiên hiện đến để các vị trời dùng đi dạo chơi vui vẻ mỗi khi họ nghĩ đến. Nơi ấy có các vị thiên tiên tu tập phạm hạnh. Cách thành Thiện Kiến hai mươi do-tuần về phía tây, có khu vườn Tạp Chủng, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều hoành tráng, xinh đẹp, đáng chiêm ngưỡng. Bao quanh vườn là những bức tường bằng vàng cao một do-tuần. [400c] Trên đầu tường lại có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê; ngoài ra, còn có nhiều lớp tường thông với những con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong vườn được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẵm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Khắp mặt đất có rải hoa trời mạn-đà-la ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Trong vườn Tạp Chủng có một ao lớn, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương, … Còn có nhiều loài hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng hoa, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Khắp vườn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà có bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. [401a] Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Các con đường trong vườn đều dài hai mươi do-tuần và rộng nửa do-tuần, được trang trí rất đẹp và sạch sẽ, được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng, treo chuông gió bằng vàng và có rất nhiều loại hoa và cây trái. Chim chóc thường tụ tập trên những cây ấy chơi đùa, kêu hót những âm thanh rất hay. Cũng có những cây y phục kiếp-ba bốn màu, cây âm nhạc, cây trang sức,... Lại có bốn loại phương tiện di chuyển rất đẹp: voi, ngựa, xe và xe quí. Hễ các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì xe liền tự nhiên đến trước mặt để họ dùng đi dạo chơi vui vẻ. Vì sao vườn ấy có tên là Tạp Chủng? Vì vườn này có nhiều ao, nhiều loại cây cối, hoa, trái, y phục, đồ trang sức, nhiều thiên nữ, các thiên tử đến vườn này thưởng thức nhiều thú chơi vui vẻ. Cách vườn Tạp Chủng hai mươi do-tuần về tây, có khu đất Tạp Chủng, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần. Mặt đất nơi ấy sạch sẽ, mềm mại, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ và được rải hoa trời mạn-đà-la. Giữa khu ấy có bốn đài báu được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Các con đường ở khu ấy đều dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, rất sạch sẽ, có trồng nhiều loài hoa, cây trái, cây y phục, cây âm nhạc, cây trang sức. Ngoài ra, còn có các thứ xe tự nhiên hiện đến để các vị trời dùng đi dạo chơi vui vẻ mỗi khi họ nghĩ đến. Nơi ấy có các vị thiên tiên tu tập phạm hạnh. Cách thành Thiện Kiến hai mươi do-tuần về phía bắc, có khu vườn Hoan Hỉ, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần, trong và ngoài đều uy nghiêm, tráng lệ, đáng chiêm ngưỡng. Bao quanh vườn là những bức tường bằng vàng cao một do-tuần. Trên đầu tường lại có bốn bức tường thấp nhỏ bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê; ngoài ra, còn có nhiều lớp tường thông với những con đường qua lại cũng bằng bốn thứ báu. Mặt đất trong vườn được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, mềm dịu như bông, như nỉ, hơi lún khi dẵm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên. Khắp mặt đất có rải hoa trời mạn-đà-la ngập đến tận đầu gối. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo và trời lại mưa hoa mới xuống. Trong vườn Hoan Hỉ có một ao lớn, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, [401b] đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Xung quanh ao có bốn bậc thềm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Giữa ao có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt; phủ khắp mặt nước là các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương,… Còn có nhiều loài hoa và cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không có khuyết tật. Giống người thợ kết hoa dùng chỉ đẹp khéo léo quấn kết thành vòng hoa, các cây hoa quả ấy cũng như thế. Trên những cây ấy cũng có nhiều loài chim đến tụ tập kêu hót những âm thanh rất hay. Khắp vườn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu,… Cũng có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà có bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền tự nhiên đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hội đánh trống, tấu nhạc, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ, tùy theo phúc lực mà hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Các con đường trong vườn đều dài hai mươi do-tuần và rộng nửa do-tuần, được trang trí rất đẹp và sạch sẽ, được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn. Hai bên đường có giăng dây vàng, treo chuông gió bằng vàng và có rất nhiều loại hoa và cây trái. Chim chóc thường tụ tập trên những cây ấy chơi đùa, kêu hót những âm thanh rất hay. Cũng có những cây y phục kiếp-ba bốn màu, cây âm nhạc, cây trang sức, ... Lại có bốn loại phương tiện di chuyển rất đẹp: [401c] voi, ngựa, xe và xe quí. Hễ các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì xe liền tự nhiên đến trước mặt để họ dùng đi dạo chơi vui vẻ. Vì sao vườn ấy có tên là Hoan Hỉ? Vì vườn này có ao đẹp, có nhiều loại cây cối, hoa, trái, cây y phục và cây trang sức, ... , các vị trời nam và nữ thường tùy ý chơi đùa, tùy theo phúc lực mà tâm được sung sướng, vui vẻ. Cách vườn Hoan Hỉ hai mươi do-tuần về phía bắc, có khu đất Hoan Hỉ, dài và rộng đều bằng hai trăm năm mươi do-tuần, chu vi một nghìn do-tuần. Mặt đất nơi ấy sạch sẽ, mềm mại, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ và được rải hoa trời mạn-đà-la. Giữa khu ấy có bốn đài báu được làm bằng các thứ báu xen nhau rất đẹp. Các con đường ở khu ấy đều dài hai mươi do-tuần, rộng nửa do-tuần, rất sạch sẽ, có trồng nhiều loài hoa, cây trái, cây y phục, cây âm nhạc, cây trang sức... Ngoài ra, còn có các thứ xe tự nhiên hiện đến để các vị trời dùng đi dạo chơi vui vẻ mỗi khi họ nghĩ đến. Nơi ấy có các vị thiên tiên tu tập Phạm hạnh. Phía đông bắc thành Thiện Kiến có cây ba-lợi-chất-đa-câu-tì-đà-la. Rễ cây ấy khoanh tròn rộng đến năm mươi do-tuần, mỗi cành dài hơn năm mươi do-tuần: cành thứ nhất vươn dài về phía đông hơn năm mươi do-tuần, cành thứ hai vươn về phía nam dài hơn năm mươi do-tuần, cành thứ ba vươn về phía tây dài hơn năm mươi do-tuần, cành thứ tư vươn về phía bắc dài hơn năm mươi do-tuần, cành ở giữa vươn thẳng lên không trung cao hơn năm mươi do-tuần. Cây ấy cao một trăm năm mươi do-tuần, đường kính năm mươi do-tuần, chu vi ba trăm do-tuần. Mùi thơm của nó thuận gió thì lan xa đến mọt trăm do-tuần, nghịch gió thì lan xa được năm mươi do-tuần, ánh sáng toả chiếu xa đến tám mươi do-tuần, cành, lá, hoa, quả trổ và rụng đúng thời điểm. Khi thấy cây ấy trổ bán-noa-bát-la-thâu, tất cả chư thiên ở cõi trời Ba Mươi Ba đều vui mừng, [402a] rủ nhau đến chơi đùa nơi gốc cây ấy. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ thi-lan-noa-bát-la-thâu, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ nhã-la-ca-nhã-đổ, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ la-ca-nhã-đổ, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ cốt-châm-ma-la-ca-nhã-đổ, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy nó trổ ca-ca-tả-cát-nhã-đổ, các vị trời liền vui mừng, đến tụ tập nơi gốc cây để vui đùa. Ít lâu sau, lại thấy cây ấy nở đầy hoa, hương thơm tỏa khắp nơi, các vị trời ấy rất vui mừng, tụ tập nơi gốc cây, thoải mái thưởng thức các thú vui ngũ dục suốt bốn tháng mùa hạ. Tùy theo phúc lực, các vị trời ấy hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Đức Phật nói: - Đại vương! Nhờ uy lực phúc đức của cõi trời Ba Mươi Ba, nên cây ba-lợi-chất-đa-la-câu-tì-đà-la có đặc tính lạ và quí như thế. Dưới bóng cây ấy là vùng đất Tạp Sức dài và rộng đều năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, rất đẹp, đáng ngắm nhìn, được trang trí bằng một trăm lẽ một bức tranh màu sắc sặc sỡ, sạch sẽ, mềm mại như bông, như nỉ, hơi lún khi dẵm chân xuống và trở lại như cũ khi nhấc chân lên, được rải đầy hoa trời mạn-đà-la. Thỉnh thoảng có luồng gió thơm thổi qua cuốn đi hết hoa héo, và trời lại mưa hoa mới xuống. Giữa khu đất ấy, có bày một cái ngai bằng vàng ròng rất đẹp. Đế Thích thiên chủ ngồi trên đó, các thiên tử cõi trời Ba Mươi Ba cùng tụ tập đến để tự do hưởng thú vui ngũ dục trong bốn tháng mùa hạ. Ngoài ra, xung quanh còn có nhiều loài hoa, cây trái mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như người thợ kết tóc dùng chỉ đẹp khéo léo kết tóc thành vòng, cây cối và hoa trái cũng như thế. Chim chóc thường bay đến tụ tập trên những cây ấy kêu hót những âm thanh rất hay. Còn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu, … Lại có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà có bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng; khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thức ăn ấy liền tự nhiên đến tay họ. Cũng có bốn thứ nước uống là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. [402b] Trong cung có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hợp lại đánh trống, tấu nhạc, ca hát, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc thoải mái vui đùa, thưởng thức các thú vui ngũ dục suốt bốn tháng mùa hạ. Tùy theo phúc lực, các vị trời ấy hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. 6Cõi trời Ba Mươi Ba có con voi chúa lớn tên Ái-la-phạ-noa chuyên bảo vệ vườn cây. Nó có thân hình đáng chiêm ngưỡng: toàn một màu trắng tinh như hoa câu-mẫu-đà[19]; bảy chi chống đất; đầu tuyệt đẹp, trong đỏ ngoài xanh như màu ngọc Đế thanh[20]; có sáu ngà; thân dài hai do-tuần; phần mặt và mông phẳng, rộng một do-tuần, chu vi thân bảy do-tuần, cao một phẩy năm do-tuần. Voi chúa có tám nghìn con voi thân thuộc, mỗi con đều có thân trắng tinh như hoa câu-mẫu-đà, bảy chi chống đất, đầu đẹp và màu xanh như ngọc Đế thanh, có sáu ngà. Hễ khi các vị trời ấy vừa có ý muốn đi thưởng ngoạn các vườn cây, voi chúa Ái-la-phạ-noa liền tự biết, bèn dùng thần lực hiện ra thêm ba mươi hai đầu, mỗi đầu có sáu chiếc ngà; trên mỗi chiếc ngà có bốn mươi chín cái ao, mỗi ao có bốn mươi chín hoa sen, trong mỗi hoa có bốn mươi chín cái đài, trong mỗi đài có bốn mươi chín căn lầu gác, trong mỗi căn lầu gác có bốn mươi chín người bảo vệ, mỗi người bảo vệ có bốn mươi chín thiên nữ, mỗi thiên nữ có bốn mươi chín người hầu gái, mỗi người hầu gái đánh bốn mươi chín chiếc trống trời. Đế Thích cưỡi trên cái đầu đẹp nhất của voi chúa, [402c] ba mươi hai vị thiên chủ lần lượt ngồi trên ba mươi hai cái đầu mới hiện ra, các vị trời khác ngồi trên phần thân còn lại của voi chúa. Voi chúa đi nhanh như gió thổi, nên các vị trời nam và nữ đều không thể nhìn thấy phía trước và phía sau. Voi chúa Ái-la-phạ-noa chở các vị trời đi khắp cõi trời Ba Mươi Ba, ra khỏi mỗi thành hoặc đến mỗi vườn đều dùng sức thần thông biến hóa khiến thân hình mình thành tướng uy nghi, phúc đức và thần thông như các vị trời nam hay nữ. Nó cùng các vị trời ấy thoải mái chơi đùa, hưởng thú vui ngũ dục, tùy theo phúc lực mà hưởng quả báo tốt đẹp như thế. Phật bảo: - Đại vương! Voi Ái-la-phạ-noa bảo vệ các vườn cây trên cõi trời Ba Mươi Ba có uy lực như thế. Phía tây nam thành Thiện Kiến có Thiện Pháp đường dài ba trăm do-tuần, rộng ba trăm do-tuần, chu vi chín chục nghìn do-tuần, cao ba trăm năm mươi do-tuần, thật tráng lệ đáng ngắm nhìn, làm bằng pha-lê; lầu gác và bậc thềm cũng bằng pha-lê. Nơi đây có bốn đài báu bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Những con đường chạy vòng quanh Thiện Pháp đường đều sạch sẽ, khắp trên mặt được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn, giăng dây vàng và treo chuông gió bằng vàng để làm lộ giới. Hai bên đường có nhiều loài hoa, trái, cây cối mọc thẳng đứng, thân tròn không khuyết tật. Giống như người thợ kết tóc dùng chỉ đẹp khéo léo kết tóc thành vòng, cây cối và hoa trái ấy cũng như thế. Nhiều loài chim thường bay đến tụ tập trên những cây ấy kêu hót những âm thanh rất hay. Còn có những cây y phục kiếp-ba thường sinh ra y phục bốn màu: xanh, vàng, đỏ và trắng rất đẹp. Cũng có những cây âm nhạc rất hay phát ra tiếng của các loại nhạc khí: tiêu, sáo, đàn, không hầu,… Lại có những cây trang sức sinh ra những vòng đeo tay, kiềng đeo chân và nhiều món trang sức khác rất đẹp. Lại có những món ăn mang vị tô-đà có bốn màu xanh, vàng, đỏ và trắng. Cũng có bốn thứ nước uống ngon ngọt là mạt-độ, ma-đạt-võng, ca-đàm-mạt-lê và bá-nẵng. [403a] Khi các vị trời nam hay nữ vừa nghĩ đến thì những thứ ấy liền tự nhiên đến tay họ. Nơi đó có nhiều lầu, gác, điện, nhà rất đẹp. Các thiên nữ khi ngồi an ổn trong đó hoặc khi đi dạo ngắm cảnh đều có đủ xe và các loại phục sức xinh đẹp. Các thiên nữ thường tụ hợp lại đánh trống, tấu nhạc, ca hát, đốt các thứ hương thơm, bày biện nhiều thức ăn uống. Nhân dân cõi trời ấy cùng quyến thuộc chơi đùa vui vẻ. Tùy theo phúc lực, các vị trời ấy hưởng thụ quả báo tốt đẹp như thế. Bên cạnh Thiên Pháp đường có bảy cái ao, mỗi ao đều sâu và rộng một do-tuần, đáy rải vàng, bạc, lưu li và pha-lê. Bốn bậc thềm quanh các ao cũng đều bằng bốn thứ báu, giữa mỗi ao có bốn đài báu làm bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp. Đài bằng vàng thì rường và cột bằng bạc, đài bằng bạc thì rường và cột bằng vàng, đài bằng lưu li thì rường và cột bằng pha-lê, đài bằng pha-lê thì rường và cột bằng lưu li. Trong ao luôn đầy nước trong, mát, ngon, ngọt và các loài hoa: ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca. Có nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay. Nơi đó có nhiều loài hoa trái, cây cối, có đủ các cây y phục, cây âm nhạc, cây trang sức,... Giữa bảy ao ấy còn có nhà thủy tạ rất xinh đẹp để các vị trời đến chơi đùa vui vẻ. Cổng của Thiện Pháp đường đẹp và uy nghi, trên đó có căn gác nhiều tầng, bên cạnh là các bậc thềm xinh đẹp, mỗi bậc thềm có mười sáu bậc. Có bảy lớp đường chạy vòng quanh Thiện Pháp đường, tất cả đều sạch sẽ, ven đường có những cây trụ hình bát giác bằng lưu li, trên đó dựng rất nhiều lầu gác xinh đẹp mà không cản trở nhau. Trong Thiện Pháp đường có một cái tòa tuyệt đẹp bằng vàng rất đẹp dành cho Đế Thích thiên chủ ngồi. Các tòa còn lại được sắp theo thứ tự dành cho các vị trời khác, phía sau cùng có đặt mọt tòa dành cho vua Đỉnh Sinh. Bấy giờ, Đế Thích và các vị trời bưng bình át-già đi đón vua Đỉnh Sinh. Vua Đỉnh Sinh và các vị có uy đức lớn theo thứ tự bước vào Thiện Pháp đường, đoàn người tùy tùng còn lại đều ở bên ngoài. [403b] Nhà vua nghĩ: “Nay ta nên ở nơi đây. Nếu Đế Thích thiên chủ chia nửa tòa cho ta cùng ngồi thì vui biết bao!”. Đức Phật nói: - Khi vua vừa Đỉnh Sinh nghĩ như thế, Đế Thích biết ngay, bèn chia nửa tòa và bảo vua Đỉnh Sinh cùng ngồi. Vua Đỉnh Sinh và Đế Thích thiên chủ cùng ngồi chung tòa, hình tướng, dung mạo, cử chỉ, uy quang, tiếng nói và vật trang sức đều giống nhau, chỉ khác nhau khi chớp mắt. Đại vương! Vua Đỉnh Sinh ở cõi trời Ba Mươi Ba trải qua hết sáu đời Đế Thích như thế. Về sau, các vị trời ấy đánh nhau với a-tu-la; nếu quân a-tu-la thua chạy thì rút về cung của mình khóa cửa ẩn trốn; nếu các vị trời thua thì cũng tự lui về cung trời khóa cửa ẩn trốn. Cõi trời Ba Mươi Ba có con voi chúa tên Thiện Trụ. Nó có thân hình rất đáng ngắm nhìn: thuần một màu trắng tinh như hoa câu-mẫu-đà, bảy chi chống đất. Đầu nó, trong đỏ, ngoài xanh như màu của Đế Thanh, có sáu ngà. Thân voi chúa dài hai do-tuần, phần mặt và mông đều phẳng và rộng một do-tuần, chu vi thân bảy do-tuần, cao một phẩy năm do-tuần. Voi chúa có tám nghìn voi thân thuộc, tất cả đều trắng như hoa câu-mẫu-đà, bảy chi chống đất, cũng có đầu xanh như màu Đế Thanh, có sáu ngà. Trong bốn tháng mùa đông voi chúa Thiện Trụ và quyến thuộc trú ngụ bên cạnh chỗ ở của a-tu-la. Cách núi Hương Túy hai mươi do-tuần về phía bắc, gần chỗ ở của a-tu-la có một cái gò bằng vàng ròng, dài và rộng đều bằng năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần, cao ba phẩy năm do-tuần. Khắp mặt đất nơi đó được trải toàn vàng cát và được tưới nước hương chiên-đàn. Nơi đó cũng có giăng dây vàng và treo chuông gió bằng vàng, mặt đất tự nhiên sạch hết gai góc, cát sỏi. Xung quanh cái gò cao ấy có tám nghìn gò nhỏ cũng bằng vàng, cũng trải vàng và tưới nước hương chiên-đàn khắp mặt đất, cũng có giăng dây vàng và treo chuông gió bằng vàng, tự nhiên sạch hết gai góc và cát sỏi. Những con đường nơi đó đều dài hai mươi do-tuần, rộng một do-tuần, phẳng, đẹp và sạch sẽ. Khi voi chúa Thiện Trụ trú ngụ ở cái gò cao kia suốt trong bốn tháng mùa hạ, [403c] tám nghìn con voi quyến thuộc cũng đến ở xung quanh để ngầm bảo vệ voi chúa. Cách gò cao ấy hai mươi do-tuần về phía nam có bảy hàng cây chúa sa-la to lớn tên Thiện Trụ. Những cây sa-la khác đều mọc khắp xung quanh nó. Bộ rễ của cây chúa Thiện Trụ có đường kính khoảng mười bốn gang tay, rễ của hàng cây thứ nhất có đường kính mười ba gang tay, rễ của hàng cây thứ hai có đường kính mười hai gang tay, rễ của hàng cây thứ ba có đường kính mười một gang tay, rễ của hàng cây thứ tư có đường kính mười gang tay, rễ của hàng cây thứ năm có đường kính chín gang tay, rễ của hàng cây thứ sáu có đường kính tám gang tay, rễ của hàng cây thứ bảy có đường kính bảy gang tay. Cành lá của cây chúa Thiện Trụ um tùm, rậm rạp phủ lên hàng cây thứ nhất; cành lá của hàng cây thứ nhất lại phủ lên hàng cây thứ hai,... Cứ như thế, hàng cây thứ ba cho đến hàng cây thứ sáu theo thứ tự phủ lên nhau, cành lá của hàng cây thứ bảy rất sum suê, cao vút trên không trung. Mặt đất nơi đó phẳng và đẹp, đáng ngắm nhìn. Các con đường nơi đó dài hai mươi do-tuần, rộng một phẩy do-tuần, cũng đều sạch sẽ. Khi từ chỗ ở của mình đi đến chỗ cây chúa Thiện Trụ, voi chúa Thiện Trụ hoặc giữ nguyên hình mà đi một cách thoải mái, hoặc dùng sức uy đức thần thông hiện thành thân người hay trời, cưỡi trên đầu hoặc trên vai một con voi. Tự nhiên trên không trung vang lên tiếng trống và tiếng ca hát mỗi khi voi chúa dạo chơi. Khi voi chúa nghỉ ngơi ở chỗ cây chúa kia, tám nghìn con voi quyến thuộc của nó nghỉ ngơi trong bóng của bảy hàng cây sa-la. Chúng ở trong bóng của hàng cây thứ hai, thứ ba, cho đến hàng cây thứ bảy cũng giống như ở hàng cây thứ nhất, tất cả đều ngầm bảo vệ coi chúa. Cách chỗ cây sa-la chúa Thiện Trụ hai mươi do-tuần về phía đông có một cái ao lớn tên Mãn-đà-kết-nễ dài và rộng đều năm mươi do-tuần, chu vi hai trăm do-tuần; lúc nào cũng đầy nước sạch, mát, ngọn, ngọt; các loài hoa ưu-bát-la, bát-nạp-ma, câu-mẫu-đà, bôn-noa-lợi-ca phủ khắp mặt nước. Nhiều loài thủy cầm bơi đùa trong ao, phát ra những âm thanh rất hay: âm thanh thánh thót, âm thanh thích ý, âm thanh du dương. Hoa sen mọc trong ao đều lớn như bánh xe, cuống hoa lớn như trục xe, lá đẹp và to như cổ của bò chúa, còn củ tròn to như đùi đàn ông và có vị rất ngọt như sữa. Xung quanh ao lớn ấy còn có tám nghìn cái ao nữa, cũng đều đẹp, luôn đầy nước và hoa sen đẹp, [404a] thường có các loài thủy cầm bơi đùa, phát ra những âm thanh rất hay. Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, cuống hoa, lá và củ rễ đều to lớn. Những con đường quanh đó đều dài hai mươi do-tuần, rộng một do-tuần, phẳng, đẹp và sạch sẽ. Khắp mặt đường được trải vàng cát và tưới nước hương chiên-đàn, hai bên đường có giăng dây vàng và treo chuông gió bằng vàng, tự nhiên luôn luôn sạch gai góc, cát sỏi. Khi từ chỗ cây chúa sa-la Thiện Trụ đi đến ao Mãn-đà-kết-nhĩ kia, voi chúa Thiện Trụ hoặc giữ nguyên hình của mình mà đi thoải mái, hoặc dùng sức thần thông hiện thành thân người hay trời cưỡi trên đầu hoặc trên vai voi. Tự nhiên trên không trung vang lên tiếng trống và tiếng ca hát mỗi khi voi chúa đi dạo chơi. Khi voi chúa vui đùa trong ao ấy, tám nghìn con voi quyến thuộc cũng vây quanh đó ngầm bảo vệ voi chúa. Vui đùa thoải mái trong ao ấy xong, voi chúa Thiện Trụ nằm nghỉ bên bờ ao. Bấy giờ, con voi đứng đầu số tám nghìn voi kia mới vào trong ao lấy mầm rễ sen, rửa sạch, rồi dâng đến trước mặt cho voi chúa ăn. Sau khi voi chúa ăn đã no, những con voi thuộc hạ mới theo thứ tự vào trong ao vui đùa thoải mái, rồi cũng lấy những mầm rễ sen, rửa sạch và ăn. Đức Phật nói: - Đại vương! Voi chúa Thiện Trụ ở cõi trời Ba Mươi Ba có uy lực như thế. Về sau, a-tu-la trang bị chỉnh tề bốn đạo quân: tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh. Quân lính đều mặc bốn thứ giáp trụ cứng chắc bằng vàng, bạc, lưu li và pha-lê rất đẹp, cầm bốn thứ binh khí sắc bén: cung tên, kiếm, thương và đao, ra khỏi cung điện a-tu-la tiến đánh trời Ba Mươi Ba. Lúc ấy, nhìn thấy bốn đạo quân a-tu-la kia mặc giáp trụ, cầm binh khí ra khỏi cung a-tu-la tiến đánh trời Ba Mươi Ba, Thủy Cư long vương cũng huy động bốn đạo quân mặc giáp trụ bằng bốn thứ báu vàng, bạc, lưu li và pha-lê xen nhau rất đẹp, cầm binh khí tiến đánh quân a-tu-la. Nếu long vương thắng thì quân a-tu-la sẽ rút lui về cung của mình. [404b] Nếu a-tu-la thắng thì binh lực thứ nhất bảo vệ trời Ba Mươi Ba bị phá tan, quân a-tu-la sẽ từ biển cả tiến đến tầng thứ nhất của núi Tu-di, nơi ở của Kiên Thủ thiên vương. Thế rồi, quân a-tu-la đã thắng ... Bấy giờ, Kiên Thủ thiên vương liền hợp sức với Thủy Cư long vương đánh quân a-tu-la kia. Nếu lực lượng bảo vệ thứ hai thắng thì quân a-tu-la sẽ rút lui về cung của mình. Nếu quân a-tu-la thắng thì lực lượng bảo vệ thứ hai của trời Ba Mươi Ba bị phá tan, quân a-tu-la sẽ từ tầng thứ nhất của núi Tu-di tiến lên tầng thứ hai, nơi ở của Trì Man thiên vương. Rồi, quân a-tu-la đã thắng .
Chú thích: [19] Câu-mẫu-đà俱母陀 (S: kumuda): tên loài hoa. Các sách dịch nghĩa khác nhau: hoa sen trắng, hoa sen đỏ, hoa sen đỏ sậm, hoa địa hỉ, hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoặc hoa sen chưa nở. [20] Đế thanh帝青 (S: indranilamuktā): viên ngọc quí màu xanh chỉ Đế Thích có. 6Khi ấy, Trì Man thiên vương hợp sức với Kiên Thủ thiên vương và Thủy Cư long mình. Nếu quân a-tu-la thắng thì lực lượng bảo vệ thứ ba của trời Ba Mươi Ba bị phá tan, quân a-tu-la sẽ từ tầng thứ hai của núi Tu-di tiến lên tầng thứ ba, nơi ở của Thường Kiêu thiên vương. Thế rồi, quân a-tu-la đã thắng ... Bấy giờ, Thường Kiêu thiên vương liền hợp sức với Trì Man thiên vương, Kiên Thủ thiên vương và Thủy Cư long vương chiến đấu chống quân a-tu-la. Nếu lực lượng bảo vệ thứ tư của trời Ba Mươi Ba thắng thì quân a-tu-la sẽ rút lui về cung của mình. Nếu quân a-tu-la thắng, tức binh lực bảo vệ thứ tư của trời Ba Mươi Ba bị phá tan, [404c] quân a-tu-la sẽ từ tầng thứ ba của núi Tu-di tiến lên tầng thứ tư, nơi ở của Tứ Đại thiên vương. Và rồi, quân a-tu-la đã thắng ... Tứ Đại thiên vương liền hợp sức với Thường Kiêu thiên vương, Trì Man thiên vương, Kiên Thủ thiên vương và Thủy Cư long vương chiến đấu chống quân a-tu-la. Nếu lực lượng thứ năm bảo vệ trời Ba Mươi Ba thắng thì quân a-tu-la sẽ rút lui về cung của mình. Nếu quân a-tu-la thắng, tức binh lực bảo vệ thứ năm tan rã thì quân a-tu-la sẽ từ tầng thứ tư của núi Tu-di tiến đến nơi ở của Đế Thích. Cuối cùng, quân a-tu-la đã thắng, lực lượng thứ năm liền chấn chỉnh bốn binh chủng, kéo đến để xin Đế Thích ra quân chiến đấu. Sau khi đến cung Đế Thích, Tứ Đại thiên vương tâu: - Thưa Thiên chủ! A-tu-la đã kéo bốn binh chủng đến gây chiến, năm đạo binh bảo vệ của các trời đã bị phá tan, nay chạy đến chỗ Thiên chủ đây. Thế giặc kia rất mạnh mẽ, chúng tôi không thể ngăn nổi. Nay xin Thiên chủ xuất quân đánh. Nghe xong, Đế Thích thiên chủ bảo các trời Ba Mươi Ba: - Các nhân giả nên biết, quân a-tu-la rất mạnh và hiếu chiến, năm đạo quân bảo vệ đã tan rã chạy đến đây xin ta đánh a-tu-la. Nay các nhân giả nên dũng cảm! Đế Thích thiên chủ lại nghĩ: “Bây giờ ta phải cưỡi voi chúa Thiên Trụ”. Đang ẩn mình ở châu Thiêm-bộ, biết được ý nghĩ của Thiên chủ, voi chúa Thiện Trụ chỉ trong khoảnh khắc đã đến cõi trời Ba Mươi Ba. Nó hiện ra thêm ba mươi hai cái đầu, mỗi đầu đều có sáu ngà, trên mỗi ngà có bốn mươi chín cái ao, mỗi cái ao có bốn mươi chín hoa sen, trong mỗi hoa sen có bốn mươi chín cái đài, trong mỗi cái đài có bốn mươi chín căn lầu gác, trong mỗi căn lầu gác có bốn mươi chín người bảo vệ, cạnh mỗi người bảo vệ có bốn mươi chín thiên nữ, mỗi thiên nữ có bốn mươi chín thị nữ, mỗi thị nữ đánh bốn mươi chín cái trống. Đế Thích cưỡi trên cái đầu đẹp nhất, ba mươi hai vị thiên vương kia theo thứ tự cưỡi trên ba mươi hai cái đầu mới hiện ra, các vị trời còn lại tùy ý cưỡi trên các phần thân khác của voi chúa. Voi chúa đi nhanh như gió cuốn, các vị trời nam và nữ đều không nhìn thấy được phía trước và phía sau. Thường thường sau khi đến cõi trời Ba Mươi Ba, voi chúa Thiện Trụ ra cửa Nam đến vườn Thô Kiên, [405a] dùng thần lực hiện thành thân người hoặc thân trời, cùng chơi đùa vui vẻ với các vị trời. Nhưng lúc này, Đế Thích thiên chủ cưỡi voi chúa, ra lệnh bốn binh chủng sửa soạn chỉnh tề, mặc giáp trụ bằng bốn thứ báu rất đẹp, cầm bốn thứ khí giới bén nhọn để chiến đấu chống quân a-tu-la. Thấy thế, vua Đỉnh Sinh bảo Đế Thích: - Nay Ngài hãy khoan xuất quân. Tôi muốn đọ sức với quân a-tu-la. Thiên chủ đáp: - Vậy nay chính là lúc Ngài có thể làm theo ý muốn. Bấy giờ, vua Đỉnh Sinh cùng mười tám ức binh tướng hùng mạnh bay lên không trung, kéo dây cung bật ra tiếng kêu nhanh và mạnh. Nghe thấy tiếng kêu ấy, quân a-tu-la hỏi: - Đó là tiếng tên bắn của ai? Có người hiểu biết liền đáp: - Đó là tiếng tên bắn của vua Đỉnh Sinh. A-tu-la vương thầm kinh ngạc trước phép bắn tên như thế. Quân a-tu-la đang đánh nhau với các trời, lực lượng hai bên cân bằng, không bên nào thêm bớt gì. Nay vua Đỉnh Sinh vừa xuất binh, thế hùng mạnh hơn quân a-tu-la, đã bay ngay lên không trung, cho nên a-tu-la nghĩ: “Từ lâu ta đã nghe danh vua loài người tên Đỉnh Sinh là vị chính sĩ[21] dũng mãnh, có phúc đức và uy lực lớn, không ai sánh bằng, có thể bay cao trong không trung hơn chúng ta”. Nghĩ thế rồi, quân a-tu-la khiếp sợ, liền rút lui về cung của mình. Lúc ấy, vua Đỉnh Sinh hỏi các tướng: - Nay quân nào thắng? Các tướng đáp: - Nay đại vương đã thắng. Nhà vua liền nghĩ: “Ta mạnh hơn cả trời Ba Mươi Ba. Ta đã cai trị các châu Nam Thiệm-bộ, Đông Thắng Thân, Tây Ngưu Hóa và Bắc Cu-lô, có đủ bảy thứ báu, có một nghìn con trai tướng mạo cực quí, can đảm, mạnh mẽ có thể hàng phục quân địch, đã được trời mưa tiền vàng suốt bảy ngày trong cung. Nay ta đến cõi trời Ba Mươi Ba, vào cung Đế Thích, được ngồi nửa tòa của Đế Thích trong Thiện Pháp đường. Nếu Đế Thích thiên chủ qua đời khi đang ở trên tòa này, ta sẽ làm vua cõi trời lẫn cõi người. Trở thành bậc tôn quí trong cõi trời và cõi người sao lại chẳng khoái!” Vừa dấy lên ý nghĩ như thế, nhà vua liền mất hết thần thồng và uy lực, bị rơi trở về cung điện của mình ở châu Thiêm-bộ, lại bị bệnh tật và buồn khổ hành hạ, thân thể gầy yếu sắp chết. Trong số các cận thần lúc ấy có một vị đại quan cao tuổi đến trước mặt nhà vua tâu: - Tâu thiên tử! Nếu sau này có người hỏi về thời vua Đỉnh Sinh sắp qua đời thì nên đáp thế nào? [405b] Nhà vua nói: - Sau khi ta qua đời, nếu có người hỏi như thế thì ngươi nên đáp: “Đại vương Đỉnh Sinh là bậc rất tôn quí và uy đức, có đủ bảy báu và đủ bốn thứ thần lực. Bốn thứ thần lực ấy là gì? Đại vương Đỉnh Sinh có tuổi thọ rất cao, sống ở thế gian trải qua hết một trăm mười bốn đời Đế Thích. Đó là thần lực thứ nhất về tuổi thọ. Đại vương Đỉnh Sinh có dung mạo tuấn tú tột bậc, quí hơn tướng mạo của loài người, có đủ tướng mạo của trời, đáng chiêm ngưỡng. Đó là thần lực thứ hai về tướng mạo. Đại vương Đỉnh Sinh còn được hưởng thụ đầy đủ mọi thứ, ít bệnh, ít buồn khổ, thân thể khỏe mạnh, ăn uống tiêu hóa tốt, không lạnh không nóng, thuận theo thời tiết, luôn tự điều chỉnh để được an vui. Đó là thần lực thứ ba về sự không bệnh. Đại vương Đỉnh Sinh lại được tất cả mọi người ưa thích chiêm ngưỡng, không chán như con nhìn cha. Đại vương chăm sóc và vỗ về nhân dân, như cha thương con, khiến họ được vui vẻ. Khi đi ngắm vườn hoa, Đại vương luôn bảo người đánh xe nên cho xe đi từ từ để mọi người được chiêm ngưỡng. Dân chúng còn bảo người đánh xe: “Ngài ơi! Hãy giong xe đi từ từ để chúng tôi đi theo ngắm tướng quí và vẻ đẹp của Đại vương”. Đó là thần lực thứ tư về sự yêu mến. Đại vương Đỉnh Sinh là vị vua tối cao cai trị bốn Đại châu, về sau nhà vua đến cõi trời Ba Mươi Ba, được Đế Thích chia nửa tòa báu. Tuy được đầy đủ những việc như thế, nhưng nhà vua vẫn không chán thú vui ngũ dục. Lúc sắp qua đời, vua Đỉnh Sinh đọc kệ: Khổ thay cảnh tham dục thế gian! Vàng bạc tuy nhiều, vẫn không chán, Nơi đó vui ít, khổ lại nhiều, Người trí thường nên hiểu biết rõ. Ngay cả dục lạc trên cõi trời, Do lòng ham muốn, chẳng giải thoát. Người nào tát cạn được nguồn ái? Chỉ Thánh đệ tử của Phật thôi! Giả sử chứa thật nhiều vàng ròng, Bằng cả ngọn núi chúa Tu-di, Cũng chẳng ai thấy đủ trong lòng, Người trí khéo hiểu được như thế. Ai biết ham muốn là nhân khổ, Đối với cảnh dục nào muốn ham, Tham ái, mối lo của thế gian, Người trí khéo biết nên chế ngự, Đức Phật nói: - Đại vương! Vua Đỉnh Sinh kia vì nhân duyên ấy nên lại nói rằng cho đến lúc chết người đời ít ai có thể hiểu rõ và biết đủ cảnh ngũ dục, [405c] cũng rất nhiều người không thể hiểu và không thấy chán cảnh ngũ dục. Thế rồi, vì muốn người đời sau được nhiều lợi ích, vua Đỉnh Sinh nói kệ: Lưu chuyển trong sinh tử cùng khổ, Tuổi thọ, nên biết, cũng giảm đi, Phải nên chóng tu các thiện phúc, Chẳng tu phúc sẽ chịu đau khổ, Nên tu phúc là ham muốn tốt, Cần phải bố thí đúng pháp nghi, Đời này và cả những đời sau, Nhờ tu phúc nên thường được vui. Bấy giờ, hàng trăm ngàn dân chúng nghe tin nhà vua lâm bệnh, tất cả đều đến thăm hỏi. Vua Đỉnh Sinh liền giảng đầy đủ cách đối trị các chướng duyên như tham dục, ... như thế cho dân chúng nghe và bảo họ nên từ bỏ gia đình để học đạo. Lúc ấy, vô số người nghe xong liền xuất gia tu bốn Phạm hạnh[22], cũng vô số người dứt sạch tham dục, sinh vào trời Phạm Thế. Đức Phật nói: - Đại vương! Vua Đỉnh Sinh kia, từ lúc còn là trẻ con đến lúc làm thái tử, rồi làm Chuyển luân vương cai trị bốn đại châu: Nam Thiệm-bộ, Đông Thắng Thân, Tây Ngưu Hóa, Bắc Cu-lô, đến ở Thất Kim sơn, rồi lại đến cõi trời Ba Mươi Ba, đã trải qua hết một trăm mười bốn đời Đế Thích. Đại vương nên biết, một trăm năm ở thế gian bằng một ngày một đêm ở cõi trời Ba Mươi Ba. Ở cõi trời này, một tháng cũng có ba mươi ngày đêm, một năm cũng có mười hai tháng, cho nên, trời Đế Thích thọ một nghìn tuổi của trời, tính ra, bằng ba cu-chi sáu trăm vạn tuổi ở thế gian. Ngoài ra, đại vương, ngày xưa lúc ở cõi trời Ba Mươi Ba, tì-kheo Ca-diếp đang là Đế Thích, vua Đỉnh Sinh khởi ý muốn được Đế Thích thiên chủ chia cho nửa tòa ngồi. Còn khi vua Đỉnh Sinh nghĩ rằng: “Nếu Đế Thích thiên chủ qua đời ở trên tòa để mình làm vua cả cõi người và cõi trời thì sướng biết bao”, là lúc Ca-diếp Như Lai đang làm Đế Thích thiên chủ. Vua Đỉnh Sinh có phúc lớn, tiếng tăm lẫy lừng, nhưng do khởi một niệm tội lỗi, nên bị mất thần lực, thân thể bị bệnh tật và các khổ đau hành hạ mà qua đời. [406a] Đại vương! Vua Đỉnh Sinh kia đâu phải ai xa lạ, nay chính là thân ta. Bấy giờ, ta làm lợi ích rộng lớn giúp chúng sinh an vui và hướng đến Vô thượng trí, nhưng ta gặp nhiều ma chướng cản trở quả Vô thượng Bồ-đề. Do sức nhân duyên nên khiến như thế. Bấy giờ, vua nước Kiều-tát-la, Thắng Quân đại vương chợt sinh nghi, liền thưa: - Thưa Thế Tôn! Vua Đỉnh Sinh kia từ xa xưa ở trong nhân vị[23] đã tu tập hạnh nghiệp gì mà cảm được trời tự nhiên mưa tiền vàng trong cung điện suốt bảy ngày như thế? Đức Phật đáp: - Đại vương! Trong quá khứ xa xưa có Phật ra đời hiệu Nhất Thiết Tăng Thượng Như lai, Ứng cúng, Chính đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Lúc ấy, trong nước nọ có người con trai của một ông trưởng giả kết duyên vợ chồng với một thiếu nữ theo đúng nghi lễ thế gian. Một hôm, người vợ ấy vừa đem bông hoa đẹp bằng bốn thứ báu và các thức ăn uống thơm ngon dâng cho chồng. Người chồng nhận lấy, rồi cầm hoa bằng bốn báu, lên xe trở về. Giữa đường, anh ta nhìn thấy Nhất Thiết Tăng Thượng Như lai, Ứng cúng, Chính đẳng giác đang bước đi thong thả. Thấy Đức Phật có ba mươi hai tướng quí và trang nghiêm, anh ta sinh lòng tin ưa thanh tịnh, liền xuống xe, cung kính dâng hoa cúng dường Ngài. Nhờ sức uy thần của Đức Phật, bông hoa ấy liền biến thành lớn như bánh xe, xoay tròn trên không trung, lúc chuyển lúc dừng. Bấy giờ, người con ông trưởng giả khởi tâm thanh tịnh, nói kệ: Nhờ nhân cúng dường to lớn ấy, Được Phật, thế trí, tự nhiên trí, Nguyện con sớm thoát biển sinh tử, Độ hết người Phật xưa chưa độ. Con dâng Nhất Thiết Tăng Thượng Phật, Những đóa hoa đẹp và vừa ý, Nguyện con nhờ nhân rộng lớn này, được tròn vô thượng đạo hằng mong. Đức Phật nói: - Đại vương! Nhờ nhân ấy nên vua Đỉnh Sinh được trời mưa tiền vàng suốt bảy ngày trong cung. Đại vương Thắng Quân bạch Phật: - Thưa Thế Tôn! Vua Đỉnh Sinh kia nhờ duyên gì mà được làm vua bốn Đại châu và đến được cõi trời Ba Mươi Ba? Đức Phật nói: - Vào đời quá khứ xa xưa, có Đức Phật ra đời, hiệu Tì-bà-thi Như Lai, Ứng cúng, Chính đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. [406b] Đức Phật ấy đi khắp nơi dùng chính pháp dạy chúng sinh, dần dần Ngài đến thành Mãn-độ-ma-đế. Một hôm, Đức Phật đang đi khất thực trong thành ấy, một thương gia tên Quảng Tác nhìn thấy tướng quí hiếm có của Ngài, liền khởi tâm thanh tịnh đem một ít đậu xanh đặt vào bát để cúng dường Thế Tôn. Lúc ấy, có bốn hạt đậu nằm yên trong bát, nhưng có một hạt đậu chạy quanh trong bát làm phát ra tiếng kêu, rồi rơi xuống đất, những hạt đậu khác cũng rơi vãi hết ra đất. Thấy việc như thế, vị thương chủ khởi tâm thanh tịnh đọc kệ phát nguyện: Nhờ nhân cúng dường to lớn ấy, Được Phật, thế trí, tự nhiên trí, Nguyện con sớm thoát biển sinh tử, Độ hết người Phật xưa chưa độ. Đức Phật nói tiếp: - Đại vương! Vị thương chủ lúc ấy ở chỗ Phật Tì-bà-thi tuy cúng dường chỉ một ít vật cho Thế Tôn, nhưng nhờ tâm thanh tịnh nên bốn hạt đậu nằm lại trong bát của Phật, nên đến đời sau, người ấy cảm được quả báo làm vua bốn Đại châu. Bởi có một hạt đậu chạm vào bát làm phát ra tiếng, rồi rơi ra đất, nên đời sau người ấy cảm được quả báo đến được cõi trời Ba Mươi Ba. Nếu hạt đậu ấy không rơi ra đất, mà nằm được trong bát thì đời sau hẳn sẽ cảm được quả báo làm vua cõi trời. Nhưng bởi hạt đậu ấy rơi ra đất, nên người ấy chỉ cai trị cõi người, không được làm Thiên chủ. Đại vương! Vị thương chủ ấy chính là vua Đỉnh Sinh. Nhờ gieo căn lành ở chỗ Phật và được Thế Tôn dùng tâm Đại bi nhiếp thọ, nên vị ấy được quả báo lớn có tiếng tăm lẫy lừng và ánh sáng uy nghi rực rỡ. Do đó, người có trí phải nên tùy sức mà tu tập hạnh cúng dường Thế Tôn. Ngài nên tu học những điều ta đã nói.
Chú thích: [21] Chính sĩ 正士 (Cg: bồ-tát): bậc đại sĩ cầu chính đạo. [22] Phạm hạnh 梵行 (S: Brahma-caryā): hành vi thanh tịnh của cả người xuất gia và người tại gia. Vì Phạm thiên dứt bỏ việc dâm dục, nên gọi là Phạm hạnh; ngược lại là phi Phạm hạnh. Người bà-la-môn xem việc giữ gìn giới không dâm dục, học kinh Phệ-đà và các nghi thức cúng tế là Phạm hạnh. Phật giáo xem việc không dâm dục và giữ gìn các giới khác là Phạm hạnh. [23] Nhân vị: (nguyên văn: nhân因): địa vị tu hành Phật nhân, tức những địa vị tu hành trước Phật quả. Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 2 của KINH NHÂN DUYÊN CỦA VUA ĐẢNH SINH. -------------oooo0O0oooo-------------