KINH THẦN CHÚ THIÊN ĐỊA BÁT DƯƠNG - Bản dịch Việt ngữ số 1 Dịch giả: Thanh Tâm (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T85 - Kinh số 2897 - Tổng cộng kinh này có 1 quyển.) PHẦN THỨ NHỨT TRONG PHÁP HỘI THÀNH TỰU Tôi nghe như vầy: Thuở nọ, Phật ở trong một ngôi nhà rộng lớn tại ngoài thành Tỳ Gia Ly Đạt Ma, khai hội thuyết pháp. Có mười phương đàn việt đều theo tới nghe pháp và cả hàng Bồ tát cùng bốn chúng vây quanh đông đủ. PHẦN THỨ HAI MỞ BÀY CÁC VIỆC CHÁNH KIẾN Khi ấy Bồ tát Vô Ngại cũng ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy đi tới trước Phật quì gối chấp tay mà bạch rằng: Ngưỡng bạch Đức Thế Tôn, chúng sanh ở trong cõi Nam Diêm Phù Đề này từ đời vô thủy tới nay cùng nhau sanh đổi qua lại nối tiếp hoài chẳng dứt, nhưng xét thấy trong nhân loại hạng người học thức thì ít, kẻ dốt nát thì nhiều; người tu hành niệm Phật thì ít, hạng mê tín chuyên cầu tà thần thì nhiều; người trì trai giữ giới thì ít, chúng lợi dưỡng phá giới thì nhiều; bực tinh tấn tu hành thì ít, hạng biếng nhác dải đải thì nhiều; người thông minh trí huệ thì ít, kẻ ngu si đần độn thì nhiều; người sống lâu thì ít, kẻ chết yểu thì nhiều; người tịnh tâm thiền định thì ít, kẻ vọng động tán loạn thì nhiều; người giàu sang thì ít, kẻ nghèo hèn thì nhiều; người nho nhã dịu dàng thì ít, kẻ cang cường hung dữ thì nhiều; người chân chánh ngay thẳng thì ít, bọn a dua nịnh bợ thì nhiều; người trong sạch thì ít, kẻ tham lam thì nhiều; người có tâm rộng rải bố thí thì ít, kẻ gian giảo bỏn xẻn thì nhiều; người tín cẩn thành thật thì ít, kẻ giả dối quỉ quyệt thì nhiều. Bởi vậy khiến nên tình đời thấp hèn bạc bẽo, luật pháp khắc nghiệt, sưu cao thuế nặng, trăm họ nghèo khổ, thời kỳ khuẩn bách, làm chẳng đủ sống. Nguyên do chỉ vì mê tín trái ngược, nên mới phải chịu những cảnh khổ dường ấy. Cúi xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi thương xót những kẻ tà kiến, diễn giải các pháp chánh kiến cho chúng nghe, khiến được tỏ ngộ, bỏ tà theo chánh, hầu thoát khỏi các nạn khổ kia. Phật khen: Ông luận như vậy hay lắm! Này Bồ tát Vô Ngại, ông có tâm đại từ bi nên mới vì các người tà kiến kia mà cầu thỉnh Như Lai nói pháp chánh kiến, thật phước đức ấy không thể kể xiết. Ông nên chú ý nghe cho rõ và ghi nhớ lấy. Tôi nay vì ông mà phân rõ Kinh Thiên Địa Bát Dương này. Kinh này không phải chỉ riêng tôi nói đâu, mà các đức Phật đời quá khứ đã nói; đời vị lai, chư Phật cũng sẽ nói và đời hiện tại, chư Phật đương nói. Như trong khoảng trời đất, duy chỉ có con người là cao quí và khôn ngoan hơn muon vật. Luận về chữ Nhân ấy là chân, vì tâm con người không hề tưởng quấy và tự mình chỉ làm những việc chân chánh. Bởi thế nên mới chiết tự chữ Nhân là người như sau: Nét phẩy bên trái là chân, còn nét mác bên phải là chánh, thường làm những việc chân chánh nên mới được gọi là người. Nên biết người hay mở rộng mối Đạo, còn Đạo khá làm cho con người thuần nhã. Phải giữ đúng theo qui tắc của người và Đạo thìsẽ làm nên đạo Thánh. Phật lại kêu Vô Ngại Bồ tát mà nói: Thân người khó được mà nay tất cả chúng sanh đã được thân người rồi, sao không chịu tu nhân tích đức mà lại bỏ việc chân chánh, làm điều giả dối, gây biết bao nhiêu nghiệp ác để đến khi thân mạng chết rồi thần hồn phải sa đọa trong biển khổ, đau đớn trăm bề. Bằng hết thảy người đời nghe Kinh này, sanh lòng tin kính làm theo, không hề trái nghịch thì sẽ thoát khỏi hết tai nạn và được ra khỏi biển khổ, vì có các vị thiện thần gia hộ, không có việc chi ngăn trở, mà lại được sống lâu, không bao giờ chết yểu. Nguyên do nơi tấm lòng tin chân chánh, nên mới được phước như vậy. Còn nếu ai biên chép Kinh này thọ trì đọc tụng, y theo chánh pháp mà tu hành thì công đức của người ấy vô lượng vô biên, không biết đâu mà tính kể cho xiết, đến ngày lâm chung người ấy sẽ chứng được quả Phật. Phật lại bảo: Này Bồ tát Vô Ngại, như có người nào kiến thức sai lầm thường hay tin bậy, tất nhiên phải bị nạn tà ma ngoại đạo, các loài quỉ ly mị vọng lượng cũng như các loài chim cú chim ụt kêu lên những tiếng quái ác, lại thêm ác quỉ ác thần cùng tranh nhau đến làm náo loạn cả trong nhà, khiến cho xào xáo bệnh hoạn, sưng phù nhức nhối, chịu đủ chứng bệnh đau đớn khổ sở, không ngày giờ nào được yên ổn. Bằng muốn hết tai nạn kia, cần phải thỉnh vị chân tu đạo đức giúp tụng Kinh này ba biến thì những hung thần ác quỉ ấy thảy đều tiêu diệt mà bệnh cũng khỏi ngay, thân thể lành mạnh, bình phục như xưa. Ấy là nhờ công đức tụng Kinh Bát Dương này mà được chuyển họa thành phước vậy. Bằng có người nào quá nhiều dâm dục, sân độc, ngu si, tham lam, ganh ghét, nhưng khi nghe thấy Kinh này liền phát tâm chánh tín cúng dường, nguyện tụng ba biến thì các tật xấu kể trên thảy đều biến mất, rồi nhân đó phát tâm từ bi hỷ xả, sau sẽ chứng được quả Phật. Lại nữa, Bồ tát Vô Ngại, bằng có thiện nam tín nữ nào muốn làm bất cứ công việc chi, trước cần tụng Kinh này ba biến, rồi sau mới làm, như: đắp nền xây tường, dựng nên nhà cửa, hoặc làm nhà phía nam, nhà phía bắc, xưởng bên đông, xưởng bên tây, nhà bếp, nhà khách, cửa ngõ, đào giếng, đóng cối xay, cối giã, làm kho tàng, chuồng trại nuôi các loài súc vật, v.v... Hoặc cất nhằm các phương hướng xung phạm tới Nhựt Du, Nguyệt Sát, Tướng Quân cùng Thái Tuế, Huỳnh Phan, Báo Vĩ, Ngũ Thổ (1), Địa Kỳ, Thanh Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Huyền Vũ, hoặc phạm ngày giờ xung khắc như sáu ngày giáp (2), mười hai giờ địa chi (3) cùng là Thổ Úy, Phục Long. Tất cả hung thần ác quỉ cảm thấy oai lực của Kinh nên thảy đều ẩn trốn, lánh xa đi bốn phương, tiêu tan hình bóng, chẳng dám nhiễu hại nữa. Công việc làm được tốt lành, hưởng phước vô lượng. Nếu có thiện nam tín nữ nào y theo lời Phật dạy mà thi hành thì sau khi xây cất nhà cửa xong rồi, tất nhiên gia đạo được bình an lâu dài, lại thêm giàu sang vinh hiển, chẳng cần nhọc sức mưu cầu mà tự nhiên cũng có của cải đem tới. Như có người nào đi buôn bán phương xa, hoặc làm quan phó nhậm, cùng tùng quân nhập ngũ mà tụng Kinh Bát Dương này ba biến thì đều được an lành, nhà cửa hưng thạnh, bực người cao sang, con cháu vinh hiển, cha hiền con thảo, trai trung gái trinh, anh nhường em kính, vợ chồng hòa thuận, hết lòng hiếu kính phụng dưỡng song thân, các điều ước nguyện đều được thỏa mãn. Bằng có người nào bị quan quyền giam giữ, hoặc bị giặc cướp bắt đi, nên để hết tâm thành tụng Kinh này ba biến thì tức khắc tai qua nạn khỏi. Còn như có người thiện nam tín nữ nào thường thọ trì đọc tụng cùng giúp người biên chép Kinh Bát Dương này thì người ấy dầu rủi sa trong nước lửa cũng khỏi bị chìm đắm thiêu đốt, hoặc ở trong núi rừng có nhiều hùm sói thú dữ, chúng nó thấy bóng người tụng Kinh Bát Dương thì đều lánh xa không bao giờ dám hại đến tánh mạng, vì người ấy có các vị thiện thần theo hộ vệ, chẳng những thế mà sau còn chứng được quả Phật nữa. Hoặc có người nào miệng lưỡi xảo quyệt hay nói gian dối, thêu dệt, đâm thọc, thô tục, mà người ấy tự biết lỗi chừa bỏ, chuyên đọc tụng Kinh này thì tiêu hết bốn lỗi trước, lại được tài biện thuyết không hề ngăn ngại, rồi sau cũng chứng được quả Phật. Này các thiện nam tín nữ, phàm cha mẹ có tội, đến ngày lâm chung, chắc phải đọa vào địa ngục chịu trăm phần khổ não, nếu được con cháu thành tâm tụng Kinh này bảy biến thì cha mẹ thoát khỏi khổ ở địa ngục, thần hồn được sanh lên thiên đường, gặp phật nghe pháp, chứng được pháp nhẫn vô sanh trọn nên Phật đạo. Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Kiếp quá khứ, dưới thời đức Phật Tỳ Bà Thi giáo hóa, có hàng nam nữ cư sĩ không hề tin bọn tà sư ngoại đạo mà chỉ tin theo Phật pháp, ra công biên chép Kinh Bát Dương và thường thọ trì đọc tụng Kinh này, muốn làm việc chi thì cứ làm, không cần bói toán, coi ngày lựa giờ chi cả, cứ giữ một lòng tin chân chánh, lại thường làm việc bố thí, cúng dường bình đẳng, nên mới được thân vô lậu, làm nên đạo Bồ tát, rồi sau chứng được quả Phật, hiệu là Phổ Quang Như Lai, thành bực Chánh Giác, kiếp tên Đại Mãn, nước gọi Vô Biên. Nhân dân trong nước ấy đều có tâm chánh tín, tu hành theo hạnh Bồ tát nên mới được hưởng phước báo tốt đẹp như vậy. Ấy cũng do oai lực trì tụng Kinh Bát Dương này. Lại nữa Bồ tát Vô Ngại, trong cõi Diêm Phù Đề, chỗ nào có để Kinh Bát Dương này thì đều có tám vị Bồ tát, các vị phạm thiên vương cùng hết thảy thần linh đồng vây xung quanh ủng hộ Kinh ấy. Cho nên người trì tụng Kinh này cần phải sắm sửa hương hoa cúng dường như cúng Phật vậy. Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Bằng có thiện nam tín nữ nào giúp các người đời, diễn nói Kinh này, giải rõ cho họ hiểu thấu được thực tướng, thông suốt lý cao sâu huyền diệu, thì liền biết được chân lý của tâm mình, tâm Phật và tâm Pháp. Hiểu biết được lý ấy rồi, tức nhiên trí huệ đầy đủ, sáu căn thanh tịnh. Mắt thường thấy biết bao nhiêu là than sắc, song nhờ trí huệ liền nhận biết các than sắc ấy đều thuộc về lý không thật (giả tạm), mà cái không thật kia tạo nên thân sắc này, cho đến thọ tưởng hành thức cũng đều thuộc về lý không thật. Đó tức là Diệu Sắc Thân Như Lai. Tai thường nghe biết bao nhiêu là thứ tiếng, song nhờ trí huệ liền nhận biết các thứ tiếng ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên tiếng nói này. Đó tức là Diệu Âm Thinh Như Lai. Mũi thường ngửi biết bao nhiêu là mùi hương, song nhờ trí huệ liền nhận biết các mùi hương ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên mùi hương này. Đó tức là Hương Tích Như Lai. Lưỡi thường nếm biết bao nhiêu là mùi vị, song nhờ trí huệ liền nhận biết các mùi vị ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên mùi vị này. Đó tức là Pháp Hỷ Như Lai. Thân thường cảm thấy biết bao nhiêu là sự đụng chạm êm dịu, song nhờ trí huệ liền nhận biết các sự đụng chạm êm dịu đó đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên sự đụng chạm này. Đó tức là Trí Thắng Như Lai. Ý con người thường suy nghĩ phân biệt biết bao nhiêu là việc, song nhờ trí huệ liền nhận biết các việc ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên các việc này. Đó tức là Pháp Minh Như Lai. Bằng có thiện nam tín nữ nào thấy sáu căn đều hiển hiện trong nhân gian. Nếu miệng mình nói những điều lành thì nghiệp lành càng thêm nhiều, rồi sẽ làm nên Phật đạo. Còn miệng nói những điều độc ác thì nghiệp ác càng thêm nhiều, ắt phải đọa vào địa ngục. Phật bảo Bồ tát Vô Ngại: Về chân lý của việc lành việc ác rất rõ ràng, chẳng nên không tin. Ông nên hiểu thân tâm con người, thật là pháp khí của Phật. Cũng như 12 bộ Đại Tạng Kinh đã có từ đời vô thủy đến nay mà tụng hoài vẫn không hết và không hề hao tổn chút nào. Kinh tạng của Như Lai duy có những bực thức tâm kiến tánh mới tỏ biết mà thôi, còn các bực thinh văn, phàm phu làm sao hiểu thấu được. Phật lại bảo Bồ tát Vô Ngại nữa rằng: Bằng có người nào đọc tụng kinh này mà tỏ ngộ được thực tướng, tức biết thân tâm này chính thật là pháp khí của phật. Còn như người nào say mê đàng dục lạc, không tỉnh giấc mộng hồn, chẳng biết thân tâm mình là căn bổn của Phật pháp, chắc người đó phải trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi, đọa đày trong ba đường dữ, đắm chìm liên mien trong biển khổ, không được nghe đến danh từ Phật pháp. Lúc đó, có năm trăm vị thiên tử ở trong đại chúng nghe Phật thuyết pháp rồi đều chứng được pháp Nhãn Tịnh, rất đổi vui mừng, liền phát nguyện sẽ tu tới quả vị Phật. PHẦN THỨ BA GIẢI RÕ CHÁNH ĐẠO VỀ VIỆC SANH TỬ TẨN TÁNG Bồ tát Vô Ngại lại bạch Phật rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, tất cả người đời đều lấy việc sanh tử là quan trọng, nhưng khi sanh chẳng lựa ngày, hễ tới giờ thì sanh; còn khi chết cũng không lựa ngày, hễ tới giờ thì chết, cớ sao việc tẩn liệm an táng lại phải chọn ngày lành giờ tốt rồi mới tẩn liệm an táng? Nhưng sau khi tẩn liệm an táng rồi thì chỉ thấy tai họa đem tới, phần nhiều con cháu thường nghèo hèn khốn khổ, chứ ít thấy giàu sang vinh hiển. Thỉnh cầu đức Thế Tôn mở lượng từ bi thương xót các người mê tối kia, giảng rõ chánh pháp nhân duyên sanh tử do đâu mà có, khiến cho họ được tỉnh ngộ trở về với chánh đạo, không còn làm những việc sai lầm như trước nữa. Phật nói: Lành thay, tốt thay! Ông thật có lòng thương những người mê tối ấy mà cầu hỏi Như Lai về việc sanh tử cùng phép tẩn táng. Vậy ông hãy chú ý mà nghe, tôi nay vì ông mà nói rõ về chân lý của trí huệ và chánh pháp của đại đạo. Luận về cái thể trời đất rộng lớn, còn mặt trời mặt trăng vẫn luôn tỏ sáng thì năm tháng ngày giờ đều tốt, không có chi là khác lạ cả. Này Bồ tát Vô Ngại, xưa kia ông Nhân Vương Bồ tát có tấm lòng từ bi rộng lớn, thương xót người đời không khác nào cha mẹ thương con, nên mới giáng sanh xuống cõi trần làm vị nhân chủ, cũng như cha mẹ nhân dân. Đó rồi mới thuận theo người đời mà dạy bày ra phong tục, làm lịch để biết tính năm tháng ngày giờ, ban truyền trong thiên hạ, cho biết mỗi năm có bốn mùa tám tiết, rồi còn phân ra những ngày trực bình, trực mãn, trực thành, trực thâu, trực khai, trực trừ, trực chấp, trực nguy, trực phá, trực định, trực bế, trực kiên. Những người ngu tối không biết xét theo chân lý mà dùng, lại nhè tin theo văn tự, nên không tránh được tai họa. Chẳng những thế, lại còn rước bọn tà sư về nhà vẽ bùa yểm trấn, nói năng hoang đàng, bày đặt cúng cầu tà thần, lễ tế ngạ quỉ. Làm như thế chỉ gây thêm tội lỗi, rồi tự mình phải chịu lo phiền khổ não. Mấy người như vậy chẳng những gây tai họa cho mình mà còn mắc tội trái nghịch chánh lý của trời đất, thành thử không khác nào bỏ ánh sáng của mặt trời mặt trăng mà chui vào chỗ tối, trái hẳn với chánh đạo rộng lớn. Không những thế, lại còn thường kiếm coi kinh sách của tà sư ngoại đạo, đó mới thật là trái ngược vậy. Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Ông nên khuyên những thiện nam tín nữ là lúc gần sanh, nên tụng Kinh Bát Dương này ba biến thì sẽ sanh được dễ dàng và rất tốt lành, đứa con ấy sẽ được thông minh trí huệ, đầy đủ phước đức, không sợ chết yểu. Còn trong lúc gần chết, cũng nên tụng Kinh Bát Dương này ba biến thì sẽ được tốt lành không có việc chi làm cho tổn hại cả. Này Bồ tát Vô Ngại, ngày nào cũng tốt, tháng nào cũng tốt, cho đến năm nào cũng đều tốt cả. Chẳng có năm tháng ngày giờ nào mà không tốt. Bởi vậy, hễ lo việc tẩn liệm an táng rồi, nên tức thời tụng Kinh Bát Dương này bảy biến rất là tốt lành, không những vong nhân được hưởng phước rất nhiều mà con cháu cũng được giàu sang sống lâu, đến khi lâm chung đều nên Phật đạo. Lại nữa Bồ tát Vô Ngại, như chỗ đất mai táng đó, chẳng cần phân Đông Tây Nam Bắc làm gì, thấy cuộc đất ấy được yên ổn, người đời bằng lòng vui thích thì quỉ thần cũng ưng thuận vui thích, nhưng cốt yếu phải tụng Kinh Bát Dương này ba biến rồi sẽ mai táng, xây cất phần mộ, tuyệt nhiên không có tai họa gì cả mà gia đình thân quyến lại giàu sang, thật rất tốt lành. Khi đó, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa trên, nên mới nói kệ rằng: Ngày nào tính việc cũng đều tốt, Giờ nào tẩn táng cũng đều hay, Sanh tử cần phải tụng kinh này, Thật rất tốt lành nhiều lợi ích. Tháng nào cũng là tháng lành hết, Năm nào cũng là năm tốt cả, Tụng kinh rồi mới lo tẩn táng, Muôn đời sung sướng hưởng vinh hoa. Lúc ấy trong đại chúng có bảy ngàn muon người nghe Phật thuyết pháp xong, thì long dạ mở mang sáng suốt, bỏ tà theo chánh, vì nhờ nghe pháp của Phật dạy mà dứt hẳn lòng nghi hoặc, cùng đều phát tâm rộng lớn, nguyện sẽ tu đến bực Phật. PHẦN THỨ TƯ LUẬN VỀ VIỆC CƯỚI GẢ Ở ĐỜI Lúc bấy giờ, Bồ tát Vô Ngại lại bạch Phật rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, tất cả người đời đều lấy sự cưới gả làm nghĩa than tình, nhưng trước đó, họ còn so đôi tuổi coi có hợp, rồi mới chọn ngày giờ tốt, làm lễ cưới hỏi, nhưng sau ngày thành hôn, thường nhận thấy vợ chồng ăn ở hòa thuận, giàu sang, sống lâu thì ít; còn gặp cảnh nghèo khổ, sanh ly tử biệt thì nhiều. Tất cả sự mê tín lựa chọn đó, tại sao kết cuộc lại sai khác như vậy? Ngưỡng cầu đức Thế Tôn dạy rõ về vấn đề đó để chúng tôi được hết sự nghi ngờ. Phật nói: Các ông hãy chú ý nghe cho rõ lời ta giải đây. Luận trong trời đất về âm dương cần phải tương đối. Như mặt trời hợp khí âm, mặt trăng hợp khí dương, nước hợp âm, lửa hợp dương, trai hợp âm, gái hợp dương (4). Ấy là khí trời đất hòa hợp, nên hết thảy cỏ cây đều nương theo khí âm dương mà sanh sôi nẩy nở. Mặt trời mặt trăng xây vần thuận theo bốn mùa tám tiết, mưa nắng điều hòa, tất cả muôn loài mới tồn tại. Trai gái hòa hợp mới sanh sản ra con cháu. Đó là lẽ thường của trời đất, cũng là lý tự nhiên và cũng là vấn đề cần thiết ở đời vậy. Này Bồ tát Vô Ngại, những hạng người thiếu học mê tối chẳng biết phân biệt tà chánh, nên tin theo thầy tà bày đặt bói toán để cầu sự tốt lành mà họ lại không chịu làm những việc lành, chỉ cứ gây ra toàn nghiệp ác! Chẳng những khi sanh tiền bị tai họa liên miên mà tới khi mạng chung, họ ít tránh khỏi sa đọa vào ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Trong bọn họ, nếu ai được trở lại làm người thì rất ít, ít như chút đất dính nơi đầu móng tay; còn những người bị sa đọa vào ba đường dữ thì rất nhiều, nhiều như đất nơi đại địa vậy. Lại nữa, Bồ tát Vô Ngại, những người được trở lại làm người tin theo chánh pháp tu hành chỉ có một số ít, ít như chút đất dính nơi đầu móng tay; còn hạng người mê tín, chuyên gây nghiệp ác thì lại rất nhiều, nhiều như đất nơi đại địa vậy. Này Bồ tát Vô Ngại, nếu người đời muốn kết hôn nhơn, chẳng cần phải coi mạng thủy mạng hỏa khắc nhau hay bào thai niên mạng chẳng hợp làm chi, duy chỉ cần coi trong bộ sách Lộc Mạng (5) để biết rõ phước đức của đôi bên nhiều ít, rồi nương theo đó mà kết làm quyến thuộc, song đến ngày cưới, phải tụng kinh này ba biến rồi mới thành thân thì mọi việc đều tốt lành cả, nào cửa cao nhà rộng, hưởng cảnh giàu sang. Còn con cháu đều làm nên danh phận, thông minh sang suốt lại thêm tài năng tột chúng, biết ăn ở hiếu thuận kính nhường, thật rất tốt đẹp, không hề có nạn thương vong yểu tử, phước đức đầy đủ. Tất cả về sau đều thành Phật đạo. Khi ấy có tám vị Bồ tát nương nhờ oai thần của Phật mà chứng được phép Đại Tổng Trì (6) đều phát nguyện thường ở trong thế gian đồng sanh chung lộn với người đời, đem hết tài năng phá bọn tà giáo để lập lại nền chánh đạo, hầu cứu độ tất cả bốn loài (7) tu tới bực giải thoát. Danh hiệu tám vị Bồ tát kể ra như sau: 1) Bạt Đà Bà La Bồ tát lậu tận hòa. (8) 2) La Lân Na Kiệt Bồ tát lậu tận hòa. 3) Kiều Việt Đẩu Bồ tát lậu tận hòa. 4) Na La Diên Bồ tát lậu tận hòa. 5) Tu Di Thâm Bồ tát lậu tận hòa. 6) Nhâm Kỳ Đạt Bồ tát lậu tận hòa. 7) Hòa Luân Điều Bồ tát lậu tận hòa. 8) Vô Duyên Quan Bồ tát lậu tận hòa. Lúc đó, tám vị Bồ tát đều bạch Phật rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, chúng tôi nhân trước kia nhờ được chư Phật truyền dạy cho phép thần chú đà la ni, nay chúng tôi định đọc thần chú ấy để ủng hộ những người thọ trì đọc tụng Kinh Bát Dương, tuyệt nhiên không có chi lo sợ. Vì thần lực của chú ấy khiến cho hết thảy những loài hung dữ không dám thương tổn đến những vị nào tụng kinh này. Ngay lúc ấy, tám vị Bồ tát đồng ra đứng trước Phật mà tụng chú rằng: “A dà ni, a dà ni, a tỳ la, mạn lệ, mạn đa lệ, xà lê.” Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, bằng có kẻ hung dữ nào muốn đến làm phiền vị đang tụng Kinh Bát Dương, hễ nghe chúng tôi đọc thần chú này, tức thì đầu kẻ ấy sẽ bể ra làm bảy mảnh như nhánh cây A lê vậy. PHẦN THỨ NĂM CHỈ RÕ VỀ TÊN KINH Lúc bấy giờ, Bồ tát Vô Biên Thân liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi tới trước Phật, quỳ gối chấp tay mà bạch rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, duyên cớ nào tên Kinh lại kêu là Bát Dương? Thỉnh cầu đức Thế Tôn giải rõ cho chúng tôi được hiểu nghĩa lý, khiến cho tất cả được tỏ ngộ bổn tâm, thấu rõ tri kiến của Phật, hầu đoạn trừ hết lòng nghi hoặc. Phật bảo Bồ tát Vô Biên Thân rằng: Lành thay lời ông vừa hỏi! Các ông hãy lóng nghe cho rõ, nay tôi sẽ vì đại chúng mà giải rõ nghĩa lý Kinh Bát Dương này. Chữ BÁT có nghĩa là phân chia rành rẽ. Còn chữ DƯƠNG thì có nghĩa là giải rõ cái lý đại thừa thành phật. Hiểu thấu được lý ấy thì mới hay phân rành được nhân duyên của tám thức, không có chỗ nào là không thấu hiểu. Phật lại nói: Dùng tám thức ấy làm bề ngang, còn chữ Dương Minh làm bề dọc. Ngang dọc phù hợp với nhau tức thành bộ kinh giáo, cho nên mới kêu là Kinh Bát Dương. Tám thức ấy là: 1) Con mắt thấy liền nhận biết sắc tốt hay xấu. 2) Lỗ tai nghe liền nhận biết tiếng lành hay dữ. 3) Lỗ mũi ngửi liền nhận biết mùi thơm hay hôi. 4) Cuống lưỡi nếm liền nhận biết vị mặn hay lạt. 5) Cái thân đụng tới vật gì liền nhận biếtvật ấy mềm hay cứng. 6) Cái ý biết phân biệt tất cả mọi thứ. 7) Cái thức Hàm tàng chứa đầy đủ các thứ hột giống. 8) Còn thức A lại da thì bao trùm hết thảy. Như vậy là phân chia rành rẽ cội gốc của tám thức, có chi đâu mà không thấu hiểu. Phải biết hai con mắt thật là Quang Minh Thiên, mà trong Quang Minh Thiên đó, liền hiện ra đức Nhựt Nguyệt Quang Minh Thế Tôn. Hai lỗ tai thật là Thinh Văn Thiên, mà trong Thinh Văn Thiên đó, liền hiện ra đức Vô Lượng Thinh Như Lai. Hai lỗ mũi thật là Phật Hương Thiên, mà trong Phật Hương Thiên đó, liền hiện ra đức Hương Tích Như Lai. Cái cuống lưỡi thật là Pháp Vị Thiên, mà trong Pháp Vị Thiên đó, liền hiện ra đức Pháp Hỷ Như Lai. Cái thân thật là Tỳ Lư Giá Na Thiên, mà trong Tỳ Lư Giá Na Thiên đó, liền hiện ra đức Thành Tựu Tỳ Lư Giá Na Phật. Người nào tự thấy trong tâm mình có Cảnh Tượng Phật thì liền hiện ra đức Phật Tỳ Lư Giá Na Quang Minh. Cái ý thật là Vô Phân Biệt Thiên, mà trong Vô Phân Biệt Thiên đó, liền hiện ra đức Bất Động Như Lai. Cái tâm thật là Pháp Giới Thiên, mà trong Pháp Giới Thiên đó, liền hiện ra đức Không Vương Như Lai. Cái thức Hàm tàng thật là Thức Thiên nên mới diễn nói ra Kinh A Hàm và bộ Kinh Đại Bát Nhã Niết Bàn. Còn cái thức A lại da thật là rộng lớn nên mới diễn nói ra bộ Kinh Đại Trí Độ luận và bộ Kinh Lăng Già luận. Này Bồ tát Vô Biên Thân, ông nên hiểu: Phật tức là Pháp, mà Pháp cũng tức là Phật, hiệp lại làm một thể tướng liền hiện ra đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai. Trong khi Phật nói Kinh Bát Dương này thì hết thảy núi sông đất bằng cùng sáu phương đều chuyển động và lại có ánh sang rực rỡ chiếu khắp trời đất lồng lộng mênh mông không thể kể xiết, tất cả những chỗ tối tăm đều đồng loạt tỏ sáng, cho đến tất cả địa ngục cũng đều tiêu mất, tất cả tội nhân đều được thoát khổ. Khi ấy trong đại chúng, có tám muôn tám ngàn vị bồ tát đồng thời chứng quả Phật và cùng chung một hiệu là Không Vương Như Lai, kiếp kêu Ly Cấu. Còn một vị Phật xuất thế độ đời bấy giờ tên hiệu là Vô Biên. Hết thảy nhân dân trong kiếp đó đều được quả vị Bồ tát. Vì những người ấy đồng cương quyết tu theo sáu pháp ba la mật, không có lòng phân chia ghen ghét, nên chứng được bực Vô Tranh Tam Muội (chánh định). Có sáu muôn sáu ngàn vị tỳ khưu, tỳ khưu ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ đều chứng được pháp Đại tổng trì, nên hiểu thấu được lý nhứt thừa của Phật. Cũng trong hội đó, có vô số hàng trời, rồng, quỉ dạ xoa, thần càn thát bà, thần a tu la, thần ca hầu la, thần khẩn na la, thần ma hầu la dà cùng hàng người và hạng không phải người đều chứng được pháp Nhãn Tịnh, dốc lòng tu hạnh Bồ tát. PHẦN THỨ SÁU LỜI PHÚ CHÚC Phật kêu Bồ tát Vô Biên Thân mà nói: Bằng có người nào được làm quan thăng chức, cùng ngày dọn về ở nhà mới, phải trai giới thiết lễ tụng kinh này ba biến thì được lợi lộc rất lớn vì có các vị thiện thần theo ủng hộ, nên nội gia quyến đều được khương ninh trường thọ, phước đức đầy đủ. Này Bồ tát Vô Biên Thân! Bằng có thiện nam tín nữ nào phát tâm tụng kinh này một biến thì cũng được phước như tụng hết thảy các bộ kinh một biến. Còn như biên chép kinh này một quyển thì công đức cũng bằng biên chép hết thảy các bộ kinh khác. Kể về công đức thì rất rộng lớn như cõi hư không, chẳng biết đâu là bờ bến mà đo lường được, rồi sau đó, các người ấy cũng đều được thành quả Phật. Phật lại bảo Bồ tát Vô Biên Thân: Bằng trong chúng sanh, có người nào không tin chánh pháp của Phật, chấp tâm tà kiến, vừa nghe Kinh Bát Dương này đã buông lời phỉ báng, bảo kinh ấy không phải Phật nói. Người ấy trong lúc sanh tiền phải mang bệnh cùi, lở lói đầy người, máu mủ cùng khắp, dơ bẩn tanh hôi, ai trông thấy cũng nhờm gớm. Chẳng những thế mà bệnh còn hành cho tới ngày chết, rồi thần hồn phải đọa ngay vào Vô gián địa ngục. Cái ngục này quanh năm suốt tháng bốn bề đều có lửa cháy đỏ rực, trên táp xuống, dưới bốc lên, nóng như thiêu đốt. Lại còn bị quỉ sứ hành hình, lấy giáo nhọn đinh ba đâm nát thân thể, còn cho uống nước đồng sôi làm cho gân xương đều tan nát rã rời. Vì nghiệp báo chưa hết, nên lại được hoàn hình để chịu hành tội, một ngày một đêm chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần. Cứ đành phải chịu cực hình đau khổ như thế, không có giây phút nào ngừng. Vì bọn đó không tin chánh pháp, phỉ bang chân kinh, nên mới bị quả báo như vậy! Phật vì những người mắc tội đó, nên mới nói bài kệ này: Thân này vốn tự nhiên mà có, Năm vóc cũng tự nhiên đầy đủ, Thân lớn cứ tự nhiên lớn lên, Còn già vẫn tự nhiên già lần. Sanh ắt tự nhiên phải sanh ra, Chết hẳn tự nhiên phải chết mà, Muốn cầu sống lâu cũng không được, Mà mong chết sớm cũng không xong. Sự khổ sự vui do mình tạo, Điều tà điều chánh tự mình theo, Định muốn khởi làm công việc chi, Chí thành tụng kinh chẳng coi bói. Ngàn đời muôn kiếp gieo giống lành, Chứng đạo bồ đề chuyển pháp luân. PHẦN THỨ BẢY CHỨNG NGỘ LÝ NHIỆM MẦU Khi Phật nói kinh này rồi, tất cả đại chúng đều khen xưa nay chưa từng được nghe pháp này. Nay Phật nói cho nghe pháp huyền diệu, nên tâm trí được mở mang trong sáng, vui mừng hớn hở đều hiện bày ra sắc tướng Phật mà chẳng phải tướng Phật vì là không chấp tướng. Thấu được chỗ tri kiến của Phật và tỏ ngộ chỗ tri kiến của Phật mà không chấp sự thấu hiểu và tỏ ngộ đó, và cũng không chấp một pháp nào cả. Như thế mới hiểu được cái vui của cõi niết bàn. Khi ấy đức Thế Tôn muốn nhắc lại những lời mầu nhiệm trên, nên nói bài kệ này: Thân tướng tốt, sáu căn trọn đủ, Muôn ức người lành đã được sanh, Hăng hái chuyên làm hạnh bố thí, Làm người chẳng xẻn cũng không tham. Phụ nữ được nghe pháp này rồi, Phát tâm hớn hở rất vui mừng, Ngày sau thoát khỏi thân phụ nữ, Tái sanh ắt được làm nam tử. Các thứ đao binh chẳng hại đặng, Độc trùng thú dữ cũng lánh xa, Quan quyền cho chí phường giặc cướp, Muốn hại người đó cũng không xong. Người đời trông thấy đều kính mến, Trăm ngàn tai nạn đều tiêu hết, Trước sau rốt ráo chẳng bị hại, Trai gái ai ai tụng Kinh này, Thì được phước đức như trên nói. PHẦN THỨ TÁM PHỤNG HÀNH THỦ HỘ Khi bấy giờ, các vị Bồ tát cùng Bồ tát Di Lặc và bốn vị Đại thiên vương đồng bạch Phật rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, chúng tôi cùng nhau phát nguyện ủng hộ Kinh Bát Dương thần chú và xin gắng sức cứu giúp bảo hộ những người nào chí thành tụng kinh này, dầu có mắc bệnh tật chi đi nữa, cũng khiến cho được lành mạnh hết. Rồi đó, các vị Bồ tát cùng ông Xá Lợi Phất và các vị tỳ khưu, tỳ khưu ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, hiệp với hàng trời, rồng, quỉ, thần, a tu la, và chuyển luân thánh vương đồng vui mừng đứng lên đảnh lễ Phật và nguyện để hết lòng tin làm theo chánh pháp của Phật đã dạy. Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 1 của KINH THẦN CHÚ THIÊN ĐỊA BÁT DƯƠNG. -------------oooo0O0oooo------------- KINH THẦN CHÚ THIÊN ĐỊA BÁT DƯƠNG - Bản dịch Việt ngữ số 2 Dịch giả: Nguyên Hảo (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T85 - Kinh số 2897 - Tổng cộng kinh này có 1 quyển.) I.- Phần thứ nhât: Pháp Hội Thành Tựu Tôi nghe thế nầy, Một thưở nọ, Phật ở trong thành Tỳ Da Ly Ðạt Ma, ấp Liêu Quách. Mười phương hướng về, bốn chúng vây quanh. II.- Mở bày Chánh Kiến Lúc bấy giờ, Vô Ngại Bồ tát, từ trong chúng đứng dậy, chấp tay hướng về phía Phật, cung kính thưa rằng: - Bạch Thế Tôn! Chúng sanh trong cõi Diêm phù đề nầy từ vô thủy đến nay, xoay vần sanh ra, lên miên không dứt, người hiểu biết thì ít, người thiếu trí thì nhiều, người niệm Phật thì ít, người cầu Thần thì nhiều, người giữ giới thì ít, người phá giới thì nhiều, nguời cố gắng thì ít, người biếng nhác thì nhiều, người trí tuệ thì ít, người ngu si thì nhiều, người sống lâu thì ít, người ngắn mạng thì nhiều, người thuyền định thì ít, người tán loạn thì nhiều, người giàu sang thì ít, người nghèo hèn thì nhiều, người dễ dạy thì ít, người cứng đầu thì nhiều, người thẳng ngay thì ít, người cong vạy thì nhiều, người trong sạch thì ít, người tham lam thì nhiều, người bố thí thì ít, người gian lận thì nhiều, người thành thật thì ít, người dối trá thì nhiều, tình đời cạn lợt, phép quan dữ tợn, thuế dịch nặng nề, trăm họ nghèo khổ, việc cầu khó được, do vì tin tà bỏ chính chịu khổ như vậy. Nguyện xin Thế Tôn vì những chúng sanh tà kiến, giảng dạy pháp chánh kiến, làm cho được hiểu ngộ, thoát khỏi các khổ. Phật dạy: - Lành thay! lành thay! Vô Ngại Bồ Tát! Ông có lòng từ bi, vì những chúng sanh tà kiến mà hỏi Như Lai pháp Chánh kiến không thể nghĩ bàn. Ông hãy lắng nghe, khéo léo suy nghĩ, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói kinh Thiên Ðịa Bát Dương. Kinh nầy chư Phật quá khư đã nói, chư Phật vị lai sẽ nói, chư Phật hiện tại đang nói. Phàm trong trời đãt, thân người là trên hết, là quí nhất trong vạn vật. Nhơn là chơn, tâm không vọng niệm, thân làm việc chơn chánh. (Phảy) bên trái là Chơn, (nét) bên phải là Chánh, thường làm việc chơn chánh, nên gọi là nhơn. Do đó biết rằng con người có thể mở Ðạo, Ðạo nhuần nơi thân, cùng đạo cùng nhơn, bèn thành Thánh Ðạo. Lại nữa, Vô Ngại Bồ Tát! hết thảy chúng sanh, có được thân người, không lo tu phước, bỏ thật theo giả, tạo các ác nghiệp, khi đến lúc chết, chìm đắm biển khổ, chịu các thứ tội, nếu nghe Kinh nầy, tâm tin không trái, liền được giải thoát các nạn do tội gây ra, ra khỏi biển khổ, thiện thần bao vệ, không các chướng ngại, tốt lành ích thọ, không bị chết yểu. Do lòng tin tưởng, được phước như vậy, huống lại có người chịu khó biên chép, nhận lãnh tụng đọc, đúng pháp tu hành, công đức người nầy không thể nói được, không thể đo lường, không có ngần mé, sau khi thọ hết, thành tựu Phật đạo. Phật bảo Vô Ngại Bồ Tát Ma Ha Tát: - Nếu có chúng sanh, tin tà thấy ngược, liền bị tà ma, ngoại đạo, li, mị, vọng, lượng, chim kêu, trăm quái, các quỷ thần ác, đến gần làm hại, các loại bệnh hiểm, chịu các bệnh khổ không lúc nào dừng, đọc Kinh (nầy) ba biến, các ác quỷ ấy thảy đều tiêu diệt, các bịnh tiêu trừ, thân mạnh sức đủ. Công đức đọc Kinh được phước như vậy. Nếu có chúng sanh bị nhiều dâm dục, sân giận, ngu si, tham lam đố kỵ, nếu gặp Kinh nầy, tin tưởng cúng dường, tụng đọc ba biến, các ác ngu si thảy đều tiêu diệt, từ bi hỉ xả, được vào Pháp Phật. Lại nữa Vô Ngại Bồ Tát! Nếu thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhơn, làm pháp hữu vi, trước hết tụng đọc Kinh nầy ba biến, phá tường động thổ, xây dựng nhà cửa, nhà nam nhà bắc, chái đông chái tây, nhà bếp, nhà khách, cửa cổng giếng bếp, chày, thang, kho chứa, chuồng nuôi lục súc, Nhựt Du Nguyệt Sát Tướng quân, Thái Tuế, Hoành phan, Báo vĩ, Ngũ thổ địa kỳ, Thanh long, Bạch hổ, Châu tước, Huyền vũ, lục giáp cấm kỵ, mười hai thời thần, Thổ úy, Phục long, tất cả quỉ mị, thảy đều lẩn trốn, rời xa bốn phương, hình tiêu bóng diệt, không đến làm hại, tốt lành rất lớn, được phước vô lượng. Thiện nam tử! sau khi khởi công, chỗ ở mãi yên, đất nhà bền bỉ, giàu sang tốt đẹp, không cầu tự có. Nếu có đi xa, đi lính, làm quan, được nhiều lành tốt, cửa nhà hưng thịnh, người được sang quí, con cháu đông vầy, cha hiền con hiếu, trai trung gái trinh, anh nhường em nhịn, vợ chồng hòa thuận, tín nghĩa đốc thân, mong cầu thành tựu. Nếu có chúng sanh, bị huyện bắt giam, giặc cắp rình rập, đọc Kinh (nầy) ba biến tức được giải thoát. Nếu thiện nam tử, hay thiện nữ nhơn, nhận lãnh đọc tụng, vì người biên chép Kinh Bát Dương nầy, khi vào lửa nước, không bị đốt, trôi, nếu tại núi rừng, cọp sói ẩn dấu, không bị tám họa, thiện thần bảo vệ, thành Vô Thượng Ðạo. Lại nếu có người nói lời dối trá thêu dệt đủ điều, lời ác hai lưỡi, nếu hay thọ trì đọc tụng Kinh nầy, trừ được bốn tội, được bốn vô ngại biện, thành được Phật Ðạo. Nếu người thiện nam, hay người thiện nữ, cha mẹ có tội, đến ngay lâm chung phải đọa địa ngục, chịu vô lượng khổ, các con các cháu tụng đọc kinh nầy cho đến bảy biến, cha mẹ tất được thoát khỏi địa ngục, sanh vào cõi trời, thấy Phật nghe Pháp, ngộ vô sanh nhẫn, thành được Phật đạo. Phật bảo Vô Ngại Bồ Tát: - Trong thời Tỳ Bà Thi Phật có ưu bà tắc và ưu bà di tâm không tin tà, kính tin Phật Pháp, sao chép Kinh nầy, nhận lãnh đọc tụng, nên làm liền làm, không có chút nghi, niềm tin chân chánh, làm việc bố thí, cúng dường bình đẳng, được thân vô lậu, thành tựu đạo Bồ tát, tên là Phổ Quang Như Lai ứng đắc chánh giác, kiếp tên Ðại Mãn, nước tên Vô Biên, nhân dân nước đó, hành đạo Bồ tát, không pháp thể được. Oai lực của Kinh, quả báo như vậy. Lại nữa Vô Ngại Bồ Tát! Kinh Bát Dương nầy, lưu hành trong cõi Diêm Phù Ðề nầy, bất cứ nơi nào, có tám Bồ tát, các Phạm Thiên Vương, hết thảy minh linh, nhiễu quanh quyển Kinh, cúng dường hương hoa như Phật không khác. Phật bảo Vô Ngại Bồ Tát Ma Ha Tát: - Nếu thiện nam tử, hay thiện nữ nhơn, vì lợi chúng sanh, giảng nói Kinh nầy, hiểu sâu thật tướng, được lý sâu xa, tức biết thân tâm, Phật tâm, Pháp tâm. Biết được như vậy, tức được trí tuệ. Mắt thường thấy các thứ vô tận sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng tức thị không, tức Diệu Sắc Thân Như Lai. Tai thường nghe các thứ vô tận thanh, thanh tức thị không, không tức thị thanh, tức Diệu Âm Thanh Như Lai. Mủi thường ngửi các thứ vô tận hương, hương tức thị không, không tức thị hương, tức Hương Tích Như Lai. Lưỡi thường hiểu rõ các thứ vô tận vị, vị tức thị không, không tức thị vị , tức Pháp Hỷ Như Lai. Thân thường biết các thứ vô tận xúc, xúc tức thị không, không tức thị xúc, tức thị Trí Thắng Như Lai. Ý thường tư tưởng phân biệt các thứ vô tận pháp, pháp tức thị không, không tức thị pháp, tức thị Pháp Minh Như Lai. Nếu người thiện nam, hay người thiện nữ, với sáu căn nầy hiện ra trong đời, miệng nói lời lành: pháp lành thường chuyển, thành tựu Thánh Ðạo; nếu nói lời tà, pháp ác thường chuyển, bị đọa địa ngục. Thiện nam tử! Lẽ thật thiện ác không thể không tin, thân tâm con người: pháp khí của Phật. Củng như vậy đó, mười hai bộ (Ðại Tạng) Kinh, từ xưa đến nay, chuyển tụng không dứt, không hao mảy lông trong tạng Kinh điển của Ðức Như Lai, chỉ người thấy Tánh mới rõ biết được, Thanh văn, phàm phu không thể biết được. Thiện nam tử! Ðọc tụng Kinh nầy, đạt lý tướng thật, tức biết thân tâm chính là pháp khí của các đức Phật. Nếu mê không tỉnh, không biết thân tâm chính là nền tảng của Pháp Giác Ngộ, trôi lăn các cõi, đọa vào đường ác, chìm mãi biển khổ, không dịp nghe được danh tự Phật Pháp. Lúc bấy giờ có năm trăm thiên tử từ trong đại chúng nghe Phật thuyết Kinh được Pháp nhãn tịnh, tâm rất vui mừng, liền phát Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. III.- Phần ba: Sanh tử Táng theo Chánh Ðạo Vô Ngại Bồ Tát lại bạch Phật: - Thưa Thế tôn, người trong thế gian, sống chết việc lớn, đến lúc thì sanh, chết không định ngày, đến lúc thì chết. Tẩn táng thì coi lương thần kiết nhựt, rồi mới tẩn táng. Sau khi tẩn táng, lại cũng không yên. Kẻ nghèo khó nhiều, thuận lợi thì ít. Kính mong thế tôn vì những chúng sanh tà kiến không trí, nói nhân duyên nầy, làm cho họ được vào trong chánh kiến, trừ các điên đảo. Phật dạy: - Lành thay, lành thay! Này Thiện nam tử! Ông hỏi Như Lai về phép tẩn táng, ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông nói về trí tuệ, chánh pháp đại đạo. Trời đất xưa nay tánh vốn trong trẻo, mặt trời mặt trăng mãi mãi sáng sủa, ngày tháng thời gian mãi mãi tốt lành, chưa từng sai khác. Này thiện nam tử! Nhơn Vương Bồ Tát, rất đại từ bi, thương xót chúng sanh, coi như con đỏ, làm chủ loài người, làm cha mẹ dân, thuận theo người đời, dạy phép tắc đời, sai làm lịch nhật, ban bố thiên hạ, cho biết được thời tiết, gồm các tự Bình, Mãn, Thành, Thâu, Khai, Trừ, các văn Chấp, Nguy, Phá, Sát. Người ngu chỉ biết theo tự mà dùng, khi gặp hung lỗi lại nhờ thầy tà tìm cách yểm trấn, nói đó là đạo, cầu khẩn tà thần, cúng tế quỷ đói, rước lấy tai ương, tự nhận khổ não. Người như làm vậy là phản lại thiên thời, làm nghịch địa lý, che mất sự sáng của vầng nhật nguyệt, thường vào nhà tối, ngăn đường Chánh Ðạo, hay tìm tà kinh, điên đảo vô cùng. Lại nữa. Này thiện nam tử, và thiện nữ nhơn, trong lúc sanh sản tụng kinh (nầy) ba biến thì sanh con lạ, lành tốt rất lớn, thông minh trí tuệ, đầy đủ phước đức, không chết lúc sanh. Lúc chết cũng tụng kinh nầy ba biến, sẽ không chút hại. Này thiện nam tử! Ngày ngày đều tốt, tháng tháng đều tốt, năm năm đều tốt, thiệt không ngăn cách. Về việc tẩn táng, vào ngày tẩn táng, đọc Kinh (nầy) bảy biến, được nhiều lợi lành, được phước vô lượng, người nhà phú quí, mạnh khỏe sống lâu, đến ngày mạng hết, thành tựu Phật đạo. Này thiện nam tử! Về đất tẩn táng đừng bàn đến chuyện đông tây nam bắc, nơi có an ổn, người được yên vui, quỉ thần yên vui, tụng Kinh (nầy) ba biến, sau đó sửa dinh, an trí mồ mã, mãi không tai chướng, nhà giáu người thịnh, được kiết lợi lớn. Bấy giờ Thế Tôn nói lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Sanh ra ngày ngày lành Chôn cất giờ giờ tốt Sinh, chết đọc Kinh nầy Ðược kiết lợi rất lớn. Tháng tháng đều lành sáng Năm năm đều năm tốt Ðọc kinh khi tẩn táng Vinh hoa mãi hưng thịnh. Lúc bấy giờ bảy vạn người trong chúng nghe Phật thuyết dạy, tâm mở ý tỏ, bỏ tà về chánh, được phần Phật Pháp, vinh viễn cắt trừ được mối nghi hoặc, được tâm Vô Thượng Chánh Giác Bồ Ðề. IV.- Phần thứ tư: Pháp thế gian về Hôn cấu Bãy giờ Vô Ngại Bồ Tát lại bạch Phật: - Kính thưa Thế Tôn! Hết thảy phàm phu đều lấy hôn phối để kết thành thân, trước hỏi tương nghi, lại tìm ngày tốt, sau mới thành thân. Sau khi thành thân, giàu sang đến già là việc ít thấy, nghèo hèn sanh ly tử biệt thì nhiều. Một loại tin tà, sai khác ra sao, xin nguyên Thế Tôn giải rõ mối nghi. Phật dạy: - Này thiện nam tử! Ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói rõ. Phàm lý âm dương ở trong trời đất, nhựt âm nguyệt dương, thủy âm hỏa dương, nam âm nữ dương, khí trời đất hợp thì cỏ cây sinh, trời trăng giao hòa làm cho bốn mủa tám tiết thuận trôi, nước lửa giao hòa làm cho hết thảy vạn vật trưởng thành, nam nữ hòa thuận, con cháu hưng thịnh, đó là đạo thường ở trong trời đất, cái lẽ tự nhiên, pháp tắc thế tục. Này thiện nam tử! người ngu không trí, tin nơi thầy tà, bói toán cầu tốt, không chịu tu thiện, tạo nhiều nghiệp ác, sau khi mạng chung, được lại thân người như đất móng tay, đọa vào địa ngục, súc sanh, quỷ đói, như đất đại địa. Này thiện nam tử! Ðược lại thân người, chánh tín tu thiện như đất móng tay, còn người tin tà tạo các ác nghiệp như đất đại địa. Này thiện nam tử! khi kết hôn thân, không cần phải coi thủy hỏa khắc nhau, bào thai yểm nhau, niên mạng không đồng, chỉ coi lộc mạng mà biết phước đức có nhiều hay ít, bảo với bà con vào ngày hô nghinh đọc tụng kinh nầy thì được thành tựu. Ðó là lành lành cùng đến với nhau, sáng sáng cùng quyện vào nhau, cửa cao người quí, con cháu hưng thịnh, thông minh trí tuệ, có nhiều nghề khéo, hiếu kính lẫn nhau, kiết lợi vô cùng, không bị trúng yểu, phước đức đầy đủ, thành tựu Phật đạo. Lúc bấy giờ có tám vị Bồ tát, do thần lực Phật, được đại tổng trì, trong chỗ thường ở, cùng hòa ánh sáng, phá tà lập chánh, cứu bốn loài sanh, đủ tám giải thoát, các vị tên là: Bạt Ðà Bà La Bồ tát lậu tận hòa, La Lân Na Kiệt Bồ tát lậu tận hòa, Kiều Việt Ðảm Bồ tát lậu tận hòa, Na La Diên Bồ tát lậu tận hòa, Tu Di Thâm Bồ Tát lậu tận hòa, Nhơn Kỳ Ðạt Bồ tát lậu tận hòa, Hòa Luân Ðiều Bồ tát lậu tận hòa, Vô Duyên Quán Bồ tát lậu tận hòa. Các vị Bồ tát nầy bạch Phật rằng: - Kính thưa Thế Tôn! Chúng con ở nơi chư Phật nhận giữ đà la ni chú giờ xin nói ra để ủng hộ người thọ trì đọc tụng Kinh Bát Dương nầy vĩnh viễn xa lìa hết những sợ hãi, làm cho hết thảy những vật không lành không thể làm hại, pháp sư đọc tụng, như ở trước Phật. Nói thần chú rằng: A dà ni, a dà ni, a tỳ la, mạng lệ, mạng đa lệ, xà lê. Kính thưa Thế Tôn! nếu có người ác muốn đến não loạn nơi vị pháp sư, nghe thần chú nầy, đầu vỡ bảy phần như nhánh A lê. V.- Phần thứ năm: Mở bày tên Kinh Lúc bấy giờ Vô Biên Thân Bồ Tát, từ tòa đứng dậy, thưa cùng Ðức Phật: - Kính thưa Thế Tôn! Vì sao tên gọi là Bát Dương Kinh, nguyện xin Thế Tôn vì người nghe Pháp, nói rõ ý nghĩa, làm cho tỉnh ngộ, chóng thấu gốc Tâm, vào tri kiến Phật, vĩnh viễn rời nghi. Phật dạy: - Lành thay, lành thay, nầy thiện nam tử! Ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói rõ về Kinh Bát Dương. Bát là phân biệt. Dương là hiểu rõ chân lý vô vi của pháp Ðại Thừa, phân biệt rõ ràng nhân duyên tám thức là không chỗ được. Lại nói, Tám Thức là kinh (đường giọc), Dương Minh là vĩ (đường ngang), kinh vĩ hợp nhau tựu thành kinh giáo, cho nên gọi tên là Bát Dương Kinh. Tám thức, mắt là sắc thức, tai là thanh thức, mũi là hương thức, lưỡi là vị thức, thân là xúc thức, ý: phân biệt thức, hàm tàng là thức, thức A Lại Da phân biệt căn nguyên không vô sở hữu của tám thức. Tức biết hai mắt là quang minh thiên. Trong quang minh thiên, hiện Nhật Nguyệt Quang Minh Thế Tôn. Tai: Thanh Văn thiên. Trong Thanh Văn thiên, hiện Vô Lượng Thanh Như Lai. Mũi: Phật Hương thiên. Trong Phật Hương thiên, hiện Hương Tích Như Lai. Lưỡi: Pháp Vị thiên. Trong Pháp Vị thiên, hiện Pháp Hỷ Như Lai. Thân: Tỳ Lư Giá Na thiên. Trong Tỳ Lư Giá Na thiên, hiện Thành Tựu Tỳ Lô Giá na Phật. Cảnh Tượng Phật tức hiện Lư Giá Na Quang Minh Phật. Ý : Vô Phân Biệt thiên. Trong Vô Phân Biệt thiên, hiện Bãt Ðộng Như Lai. Tâm: Pháp Giới thiên. Trong Pháp Giới thiên hiện Không Vương Như Lai. Hàm Tàng: Thức thiên, diễn xuất A hàm Kinh, Ðại Bát Nhã Niết Bàn Kinh. A Lại Da Thức thiên diễn xuất Ðại Trí Ðộ Luận kinh, Lăng Già Luận kinh. Này thiện nam tử! Phật tức là Pháp, Pháp tức là Phật, hiệp làm một tướng, tức hiện Ðại Thông Trí Thắng Như Lai. Phật thuyết kinh nầy, hết thảy cõi đãt, chấn động sáu cách, ánh sáng chiếu khắp, không có ngần mé, không thể diễn tả, các chốn u minh đều được soi sáng, hết thảy đîa ngục đều bị tiêu diệt, hết thảy tội nhơn đều được thoát khổ. Bấy giờ tám vạn tám ngàn Bồ tát trong chúng hội một lúc đều chứng quả Thánh, hiệu là Không Vương Như Lai Ưng Ðắc Chánh Giác, kiếp tên Ly Cấu, Phật hiệu Vô Biên, hết thảy nhân dân đều được Bồ Tát Ðạo, Sáu Ba La Măt, chứng Không Chỗ Ðược (Vô Sở Ðắc), không còn đó đây, được Vô Tránh Tam Muội. Sáu vạn sáu ngàn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, được Ðại tổng trì, vào pháp Bất Nhị. Vô số thiên, long, Dạ xoa, Càn thác bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người cùng phi nhơn được pháp nhãn tịnh, tu Bồ tát đạo. VI.- Phần thứ sáu: Chúc lụy Này thiện nam tử! Người nhận chức quan, vào ngày đăng vị, người vào nhà mới, đọc Kinh (nầy) ba biến, được kiết lợi lớn, thiện thần ủng hộ, thọ mạng dài lâu, phước đùc đầy đủ. Này thiện nam tử! Nếu đọc Kinh nầy một biến như đọc hết tảy Kinh một bộ, nếu sao chép Kinh nầy một quyển, như sao chép hết thảy Kinh một bộ, công đức không thể nói, không thể đo, bằng với hư không, không có ngằn mé, những người đó đều thành tựu Thánh Ðạo. Lại nữa, Vô Biên Thân Bồ tát Ma ha tát! Nếu có chúng sanh không tin Chánh pháp, thường sanh tà kiến, khi nghe Kinh nầy sinh lòng phỉ báng, bảo không phải lời Phật, người nầy hiện đời bị chứng bạch lại, ác thủng nủng huyết, toàn thân giao lưu, hôi hám dơ bẩn, người thêm tật bệnh, đến ngày mạng chung, đọa ngục Vô gián, lửa trên đót xuống, lửa dưới xông lên, thương sắt xe sắt, toàn thân bị đâm, đồng sôi cho uống, gân cốt tiêu họai, một ngày một đêm, vạn lần chết vạn lần sống, chịu các khổ đau không lúc dừng nghỉ, chê bai Kinh nầy bị tội như vậy. Phật vì những người bị tội nói lời kệ rằng: Thân là thân tự nhiên Năm vóc tự đầy đủ Lớn lên tự nhiên lớn Già đến tự nhiên già Sanh thì tự nhiên sanh Chết tức tự nhiên chết Cầu dài không được dài Cầu ngắn không được ngắn Khổ vui tự mình gánh Tà Chánh do chính mình Nếu muốn có công đức Tụng kinh chớ sinh nghi Ngàn ngàn vạn vạn đời Ðắc đạo chuyển Pháp luân. VII.- Phần thứ bảy: Chứng Nhập Diệu Hạnh Khi Phật nói Kinh nầy, hết thảy đại chúng, được điều chưa từng có, tâm sáng ý tịnh, vui mừng hớn hở, đều hiện tướng phi tướng của chư Phật, vào tri kiến Phật, ngộ tri kiến Phật, không nhập không ngộ, không có pháp để được, tức vui Niết bàn. Bấy giờ Thế Tôn muốn nói lại những lời vi diệu trọng yếu, nói kệ như sau: Tướng đoan chánh đầy đủ Sanh từ nhà cự ức Lòng bố thí dũng mãnh Làm người không tham lam Người nữ nghe pháp nầy Rất phấn khởi mừng vui Ðược bỏ thân người nữ Sanh ra làm thân nam Ðao binh không thể hại Trùng độc không thể hại Huyện quan và giặc cướp Không hại được người nầy Cung kính chấp tay lễ Trăm ác đều trừ sạch Trước sau không thể hại Người hành theo Kinh nầy. VIII.- Phần thứ tám: Phụng Hành Thủ Hộ Lúc bấy giờ, các vị Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, cùng bốn Ðại Thiên vương cùng bạch Phật rằng: - Kính thưa Thế Tôn! Chúng con đều cùng ủng hộ kinh Bát Dương Thần Chú, con nguyện giúp đỡ ủng hộ người có lòng tin, nếu bị tật bịnh làm cho tiêu trừ. Các vị Bồ tát, ngài Xá Lợi Phật, các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, trời, rồng, quỉ thần, A tu la, Chuyển luân thánh vương vui mừng đảnh lễ, tin lãnh làm theo. Tán rằng: Kinh Bát Dương là Ðạo chân chính Ba đời chư Phật hiểu đành rành Trời Phạm, thần minh đều vi nhiểu Quá khứ tu trì huệ thành Phật Nghe Kinh suy tư đều đốn hiểu Nếu có người tụng tạo công đức Người thiện nầy sanh không chết yểu Con nguyện với tất cả chúng sanh Các nguyện các cầu đều đầy đủ Vô thủy đến nay theo sóng dạt Trên thân chồng chất chuyện không an Bốn rắn cùng bơi, ba độc huân Sắc giặc điên cuồng, mười triền sử Dập dồn gió nghiệp về bức bách Mịt mù trong núi lớn vô minh Lẫn lộn hoang mang niềm dục lạc Bồn chồn tham sân si đốt cháy Trôi lăn sanh tử biển ân ái Mịt mờ chìm đắm sông vọng tình Rùa mù gỗ nổi việc chẳng thường Hạt cải đầu kim gặp gỡ khó Phật hiện trong đời đừng chểnh mãng Thánh hiền răn dạy chớ coi thường. Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 2 của KINH THẦN CHÚ THIÊN ĐỊA BÁT DƯƠNG. -------------oooo0O0oooo-------------