NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG LUẬN - Bản dịch Việt ngữ số 1 Dịch giả: Định Huệ (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T47 - Kinh số 1967 - Tổng cộng kinh này có 3 quyển.) Có một vị khách đức tin rất cao đến chỗ tôi, làm lễ thưa hỏi, lời lẽ rất thanh bai cởi mở. Khách hỏi tôi: Người tu tâm, nếu luận về con đường thẳng tắt thành Phật thì hạnh Bất Khinh Pháp Hoa tam-muội và tông Bát-chu Niệm Phật tam-muội đều là môn thiền thâm diệu vô thượng. Tôi xin được nghe ý nghĩa đó. Đáp: Tôi từ lâu chỉ chắp tay ngồi yên trên dãy núi Cửu Hoa lo việc khác với thế gian. Tôi lại nhận được chiếu chỉ của nhà vua ban, từ chùa Thảo Đường ở núi Tử Các đến trông nom đạo tràng Pháp Hoa ở Thiên Phước gần ba mươi năm nay, những người đến hỏi đạo chưa có ai đặt câu hỏi như ông. Ông là kẻ muốn qua bờ Vô Sanh, lại muốn cất cánh bằng qua phương Nam. Tôi chẳng phải là người tài ba, thông suốt, nên chỉ thử bàn luận xem sao! Tôi xin được trình bày hai mươi môn để thuyết minh tông chỉ này. MÔN THỨ 1 NIỆM PHẬT VỊ LAI CHÓNG THÀNH TAM-MUỘI Luận về tâm, thấy tâm có hai, vì sanh vọng tưởng, các vọng tưởng đều hư giả, người mê lầm vẫn thường vướng mắc không cởi mở được, đó là lý do chư Thánh phải lo âu. Lời diệu được tuyên bày nhưng vẫn là vô thuyết, pháp thân tuy không mà vẫn đầy đủ tướng tốt. Những tướng kia nếu chẳng được hiển bày và lời nói kia nếu không viên mãn thì ý chỉ nhất vị đầy đủ các tướng và con đường tuyệt ngôn của vô thuyết đâu có thể biết được chỗ quy hướng ở nơi nào? Tông tam-muội là muốn làm cho kẻ thiếu khí lực biết rằng pháp môn bất nhị thu nhiếp cả nói năng và nín lặng, không những bao hàm cái im lặng của ngài Tịnh Danh mà cả lời xưng tán của đức Văn-thù nữa. Sao vậy? Vì lưới báu chưa giăng thì đâu thấy được ngàn viên ngọc quý, khi giềng lưới cất lên thì muôn mắt lưới đều mở bày. Một người tắm trong biển lớn thì đã dùng hết đủ nước của trăm sông, người niệm danh hiệu Phật nhất quyết sẽ thành tựu tam-muội. Một lời nói bao trùm hết cả là ở đây vậy. Cũng dụ như đem viên thanh thủy châu ném vào nước đục, nước đục không thể nào chẳng trong, tâm tưởng Phật để vào tâm loạn thì tâm loạn không thể không Phật. Sau khi đã khế hợp rồi thì tâm, Phật cả hai đều quên (song vong). Song vong là định, song chiếu là huệ. Ngay lúc định huệ đồng đều thì tâm nào chẳng phải là Phật, Phật nào chẳng phải là tâm. Tâm, Phật đã vậy thì tất cả mọi cảnh, mọi duyên đều là tam-muội. Nhưng ở thế gian, người ta thường niệm khuôn mặt như trăng rằm của Phật Thích-ca trong quá khứ, quán tưởng mắt biếc như biển trong của Phật A-di-đà, giống như nhổ tên độc, lên cung vui, tôi cũng cho là chí giáo, mà từ lâu tôi chưa thấy ai niệm tới Phật vị lai. Sao vậy? Bởi vì chúng ta không biết đức Như Lai vì đối với cái thô của chúng sanh mà nói cái diệu của chư Phật, do đó, tưởng đâu có chúng sanh ở ngoài cách xa chư Phật, cho nên chúng ta không nghe nói đến niệm Phật vị lai, vì có ai chịu niệm đâu! Trong kinh Tịnh Danh có ghi: Người ngửi hoa chiêm-bặc thì không nghe những mùi thơm khác, cùng câu chuyện hoa dính và không dính trên thân. Đó là pháp ức dương của Đại thừa: Ức Tiểu thừa ở chỗ bỏ bát vì mờ mịt, dương Đại thừa là ở chỗ cùng dạo chơi nơi pháp môn Bất nhị. Kinh Pháp Hoa là vua trong các kinh giải quyết xong pháp Thanh Văn, thể hiện ý chỉ tất cả hương đều là chiêm-bặc, Đại, Tiểu đều chẳng dính thật rõ ràng. Nếu chẳng phải là bậc lợi căn thì sẽ cho rằng chư Phật là đấng Chí Tôn, còn chúng sanh là bọn hèn kém thì sinh ra sự cao thấp, khởi vọng phân biệt, một khi sự cung kính và ngạo mạn dựng lên thì đạo nhất chân bị ẩn mất. Như thế trước mặt kẻ đó muôn loài như cỏ rác, thiên hạ nhẹ như truy thù([1]), dựng cờ ngạo mạn vòi vọi nhiều tầng, mắt dõi theo cánh chim hồng, tâm dạo cõi trời xa, không thể điều phục được. Tâm hạnh như vậy trái với lời dạy “cung kính tất cả là pháp cúng dường tối thắng” trong kinh Duy-ma. Lại nữa, chẳng tin kinh Lăng-già nói: “Như Lai tạng tự tánh thanh tịnh, chuyển ba mươi hai tướng vào trong tâm của tất cả chúng sanh như viên ngọc báu vô giá quấn trong cái áo bẩn”, thì đâu thấy được người hành khất hạ tiện nhất trong thành cùng với đức Nan Thắng Như Lai như nhau không khác. Nếu niệm cả chư Phật ba đời, quán khắp mười phương các đức Thế Tôn thì chắc chắn phù hợp với văn kinh Lý Thú Bát-nhã: “Tất cả hữu tình đều có Như Lai tạng, tự thể Bồ-tát Phổ Hiền trùm khắp”. Nếu thấy rõ được cái ý nghĩa cô gái nghèo mang thai vua, gạo ở trong trấu cám thì đâu mắc phải lời chê trách về tám thứ kiêu mạn([2]). Người ta ai cũng đều xem thường Phật vị lai, mà không dám xem thường Phật quá khứ, hiện tại. Họ chẳng biết đó là nguồn gốc của tội lỗi, vì chẳng nhận ra ngay chúng sanh này đương lai là Phật. Chúng ta biết người mẹ nhờ đứa con mà sang, hạt gạo lấy ra từ trấu cám, nếu sự tu tập khế hợp với tâm Bất Khinh của kinh Pháp Hoa thì niệm Phật tam-muội không bao lâu sẽ thành tựu. Hỏi: Pháp Hoa là pháp, niệm Phật là Phật, đâu được lấy pháp làm Phật, lấy Phật làm pháp hỗn loạn như thế? Đáp: Chẳng hỗn loạn đâu! Nguyên là một môn, lấy gì để hỗn loạn. Cũng như thuốc chi truật, và các vị Tiên, khi xưa ở chân trời (thiên nhai) vốn chưa có danh từ Tiên, vì người uống thuốc ấy hóa cánh bay lên mây nên thuốc mang hiệu là thuốc tiên, còn người được gọi là tiên nhân, người và thuốc tuy khác mà tính chất Tiên vẫn là một. Nếu không có bậc Thánh nhân thì ai vui cùng với đạo. Pháp mà không có Phật ngộ thì pháp đâu thể tự ngộ. Pháp mà không phải Phật thì không ngộ, do đó niệm Phật tam-muội sanh; Phật mà chẳng phải pháp thì không hiểu rõ, do đó Pháp Hoa tam-muội khởi. Tiên nhân và thuốc tiên tuy được gọi hai cách mà đều cùng một chỉ định từ Tiên. Niệm Phật và Pháp Hoa đồng tên là Phật huệ, Phật huệ đã đồng thì ngay nơi đây liền ngộ môn thiền thâm diệu vô thượng của Bất Khinh và Bát-chu. Chưa từng khác thì làm gì có hỗn loạn! MÔN THỨ II GÁI GIANG HỘ VÀ KẺ CƯỚP KHÔNG ĐÁNG KHINH Hỏi: Tất cả chúng sanh đều là Phật vị lai. Vâng, tôi xin tin nhận lời này. Còn gái giang hồ và lũ trộm cướp đều là những kẻ hèn hạ xấu xa, có thể được người niệm Phật tỏ lòng cung kính chăng? Đáp: Sự phô diễn, tuyên thuyết của đức Phật có hai loại là môn đối đãi và môn quyết liễu. 1. Môn đối đãi thì người nữ là hư ngụy, còn Như Lai là bậc chí chân, nên Phật là đấng đáng tôn kính sùng phụng, còn người nữ thì cần nên nhàm chán và xa lìa. Thế nào là yểm ly? Có hai thứ: Một là quở trách tham dục, hai là phóng tâm. a. Quở trách tham dục: Kinh Bồ-tát Quở Sắc Dục nói: “Nữ sắc là xiềng xích của thế gian, phàm phu mê luyến không thể tự thoát ra. Nữ sắc là bệnh nặng của thế gian, phàm phu bị nguy khốn bởi nữ sắc, đến chết cũng không khỏi. Nữ sắc là suy họa của thế gian, phàm phu chạy theo ắt chịu khổ ách. Bậc tu hành đã bỏ được nữ sắc rồi, nếu còn nghĩ nhớ đến nó, ấy là từ ngục tù được ra, lại nghĩ muốn vào ngục tù nữa, từ cuồng điên được hết mà lại muốn cuồng điên, từ bệnh được lành, lại muốn bị bệnh. Người trí thấy vậy xót thương, người điên đảo ấy không bao lâu phải chết. Phàm phu quí trọng nữ sắc, cam tâm làm nô lệ, cho nên họ suốt đời theo đuổi, cay đắng vì nó. Dù bị đặt trên bàn chông sắt nhọn hay trên ngàn lưỡi dao bén, họ cũng vẫn đành lòng nhận chịu chớ cũng không cho đó là tệ hại. Ấy, kẻ cuồng thích điên như vậy cũng chẳng đáng trách làm gì! Người tu hành nếu bỏ được nữ sắc, chẳng màng đến, đó là phá xiềng xích, ghét điên, chán bệnh, thoát khỏi suy họa, được an ổn ra khỏi lao ngục, không còn hoạn nạn. Người nữ, lời như mật ngọt, tâm như thuốc độc, ví như suối dừng sóng lặng mà giao long ẩn mình, núi vàng hang báu mà sư tử nương thân. Phải biết đó là nơi nguy hiểm chẳng nên đến gần. Gia đình bất hòa đều do người nữ, phá hư tông tộc cũng tội người nữ, đúng là kẻ giặc ngầm tiêu diệt trí tuệ sáng suốt của người. Ví như bẫy giăng của bọn thợ săn, ít có loài thú nào thoát khỏi. Như lưới dầy cao rộng, bầy chim sa vào không thể bay ra, lại như lưới chài, đàn cá mắc vào sẽ bị moi ruột xẻo da, như người mù bị rơi vào hầm tối, như con thiêu thân bay vào ngọn lửa. Thế nên, người trí biết rõ, xa lánh sắc dục, không để sắc dục làm hại, ghét và tởm sắc dục nên không bị nó mê hoặc”. Kinh Đại Bảo Tích, đức Phật vì vua Ưu-đà-diên nói kệ: Núi đao bén nhọn Tên độc khổ não Từ người nữ nhóm Tất cả các khổ. Giả dùng hương hoa Trang điểm sắc thân Người ngu thấy vậy Móng tâm tham cầu. Như chim qua biển Mỏi cánh giữa chừng Chết ắt bị đọa Địa ngục A-tỳ. Hiện đời thấy khổ Tập hợp nơi thân Bạn lành xa lánh Thiên đường mất luôn. Thà vào ngục sắt Đi trên núi dao Nằm trên lò lửa Chẳng gần nữ sắc. Như chim tìm mồi Chẳng biết tránh bẫy Đám yêu người nữ Bị hại cũng vậy. Như cá trong nước Đâm đầu vào lưới Bị ngư phủ bắt Tự mình hại mình. Gái như ngư phủ Dối gạt như lưới Người nam như cá Bị lưới cũng vậy. b. Phóng tâm: Kinh Đại Bảo Tích chép: “Ngài Văn-thù nói với thiên tử Thiện Trụ: Nếu người nhất tâm chuyên tinh tự giữ, khi tâm tham dục nổi lên liền hay biết, lập tức dùng phương tiện đuổi trừ để cho thân tâm trở lại thanh tịnh. Làm thế nào để đuổi trừ? Nên nghĩ như vầy: Tâm tham dục là không, là bất tịnh, tìm chỗ sanh chỗ diệt của tâm tham dục, nó từ đâu đến và đi về đâu, ở trong đó xét xem cái gì nhiễm, ai là người bị nhiễm, cái gì là pháp nhiễm”. Lúc quán sát như vậy chẳng thấy năng nhiễm, sở nhiễm, cũng chẳng thấy nhiễm sự. Vì không thấy như thế nên không có chấp thủ. Vì không thủ nên không xả. Vì không có xả nên không có ái. Vì không xả không ái nên được gọi là ly dục tịch tịnh Niết-bàn. Nếu lại buông lòng theo đám trần lao sanh tử và cũng chẳng quan tâm đến mối họa phiền não tham sân si, thì gọi đó là phóng tâm. 2. Môn quyết liễu([3]): Nếu rốt ráo lìa các vọng, không nhiễm như hư không thì đã là Phật quá khứ, hiện tại, chớ chẳng phải Phật vị lai. Ông chẳng nghe: “Muốn tìm ngọc báu vô giá ắt phải xuống đáy biển sâu, người muốn được của báu trí tuệ, ắt hẳn trước hết phải tìm trong phiền não” đó sao! Tướng ngũ nghịch tức là tướng giải thoát, Phật giới Như tức ma giới Như. Nếu nghe tiếng Phật mà mừng, nghe tiếng ma mà giận thì người này chẳng nhập vào pháp môn âm thanh, chẳng trụ âm thanh thật tế, chẳng ngộ tánh các pháp, đây là người quay hướng xe về phía Bắc mà muốn đi qua nước Việt ở phương Nam, thì đâu thể cùng người này luận đạo. Tôi xin nói thêm cho ông rõ, kinh chẳng nói: “Xưa có vị tiên tên Lộc Đề, một hôm vì trời mưa rất trơn trợt ông bị té, ông liền dùng thần chú làm hạn hán, nhân dân trong nước đều phải chịu nạn tai ấy. Nhà vua cho mời cô gái giang hồ đến quyến rũ tiên nhân, rồi cưỡi cổ tiến vào thành. Lúc đó, mây vần vũ bốn phương mưa tuôn tầm tã. Tiên nhân tuy có pháp thuật có thể đi trên không, vượt qua biển, nhưng lúc đó cũng đành bó tay, không làm gì được. Vị tiên nhân ấy là tiền thân của đức Phật Thích-ca, còn cô gái giang hồ kia là tiền thân của công chúa Gia-du, trong hội Pháp Hoa được thọ ký làm Phật vị lai hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai” đó sao! Do đó, người niệm Phật chỉ thấy hình dung đẹp đẽ của cô gái giang hồ mà lại không nhớ đến tướng hảo sắc vàng sáng chói của thân Phật là đã đánh mất ý chỉ “Bất Khinh” rồi, thì sự niệm Phật tam-muội đâu chẳng dối! Ngài A-na-luật, tiền thân là đầu đảng bọn cướp, trong lúc vào chùa trộm viên ngọc trên trán tượng Phật, dùng mũi tên khêu ngọn đèn thờ Phật khiến cho ánh tịnh quang chẳng tắt. A-na-luật được phiên dịch là Vô Diệt là do sự kiện này, đương lai làm Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai. Người niệm Phật đối với kẻ trộm cướp còn không dám khinh huống chi là đối với người không trộm cướp. Đấy là gương sáng về hai vị Phật vị lai, thì ông lo gì tam-muội không thành. MÔN THỨ III TRÌ GIỚI, PHÁ GIỚI CHỈ TƯỞNG LÀ PHẬT Hỏi: Hai vấn nạn trên Ngài đã giải thích cặn kẽ rồi. Kinh Phạm Võng có dạy: “Nếu người thọ giới Phật tức là vào ngôi vị của chư Phật”. Người xuất gia mang cái giới như trăng sáng, như chuỗi báu anh lạc, được tham dự vào ngôi Tam tôn([4]), ở trong phạm vi Thất chúng([5]), thật là bậc đáng kính trọng. Nếu người không trì giới tinh nghiêm, mà lại làm điều sai quấy, chúng ta khinh khi họ, có lỗi chăng? Hoặc đánh đập, mắng rủa họ, có tội chăng? Xin Ngài phân tích giải thích cho. Đáp: Đức Như Lai trong kinh Tam-muội Hải, vì phụ vương nói rằng: “Ngày xưa có bốn vị tỳ-kheo phạm luật. Họ lấy làm xấu hổ và tự cho rằng không thể cứu vãn được. Bỗng họ nghe trên hư không có tiếng nói: “Các ngươi phạm luật, cho rằng không cứu vãn được, điều đó không đúng. Đức Không Vương Như Lai tuy đã nhập Niết-bàn song hình tượng của Ngài vẫn còn, các ngươi nên vào tháp quán tưởng tướng lông trắng giữa chặng mày của bảo tượng”. Các tỳ-kheo làm y theo lời dạy, họ cảm động đến rơi lệ, bảo nhau rằng: “Phật tượng còn như thế, huống là Phật thật”. Rồi họ dập mình xuống đất như núi lở. Ngày nay bốn vị tỳ-kheo đó đều thành Chánh Giác ở bốn phương: Phương Đông Phật A-súc, phương Nam Phật Bảo Tướng, phương Tây Phật Vô Lượng Thọ, phương Bắc Phật Vi Diệu Thanh. Vì lẽ đó, đức Như Lai gọi pháp Quán Phật Tam-muội này là Đại Bảo Vương Giới Phẩm Hải, có năng lực tẩy sạch mọi tội cấu của sự phá giới, được thanh tịnh. Bốn vị tỳ-kheo ấy do quán bảo tượng mà thành bậc Thế Hùng, như thế, người niệm Phật còn có lòng nghi ngại đối với tăng sĩ phá giới nữa sao! Kinh Đại Tập nói: “Nếu các vua quan đánh mắng người xuất gia trì giới hay phá giới đều có tội đồng với tội làm trăm ức thân Phật chảy máu”. Nếu thấy các vị mặc ca-sa bất luận là người trì giới hay phá giới đều phải tưởng là Phật. Tưởng Phật tức là niệm Phật Tam-muội vậy. Ý nghĩa sâu xa của hạnh Bất Khinh do chính đức Phật nói ra chắc thật như vậy, chúng ta đâu nên đánh đập, mắng nhiếc người mà chẳng sợ tội hay sao? Kinh nói: “Nên làm thầy của tâm, đừng để tâm làm thầy”. Thấy người tham lam bỏn xẻn phải khởi ý tưởng bố thí, thấy người phá giới nên phát khởi ý tưởng trì giới. Được như thế, ắt không bị ràng buộc trong sáu trần, vì đã thành tựu được quán môn lục độ cứu cánh. Nếu trụ nơi tâm phân biệt tức là tự chiêu lấy hình phạt của địa ngục, chẳng đáng thương ư! Nếu có thể vô phân biệt thì ngay nơi đó chính là niệm Phật Tam-muội như dòng nước chảy trong sông. MÔN THỨ IV NGAY TRONG ĐỊA NGỤC VẪN KHÔNG NGẠI CHO SỰ THỌ KÝ Hỏi: Người phá giới do quán Phật được thành Chánh Giác, cho nên chẳng thể khinh, điều này tôi vững tin. Còn như người ở trong địa ngục, hoặc trong loài quỷ, tâm Bồ-đề có phát, không biết bao giờ mới được an lạc, đối với hạng người này, người niệm Phật vẫn cung kính không có gì sai khác chăng? Đáp: Ông há chẳng nghe người ta hay nói: “Hễ muốn hái thuốc hay phải lặn lội vào núi rừng hiểm trở, không thể tìm ở chốn yên ổn” đó sao! Còn cái pháp dược này cũng xuất phát từ chỗ hiểm nguy, đâu phải bỗng nhiên mà được. Vì thế, kinh Lăng-nghiêm có đề cập đến bốn loại thọ ký: 1. Chưa phát tâm được thọ ký. 2. Vừa phát tâm được thọ ký. 3. Bí mật thọ ký. 4. Hiện tiền thọ ký. Nay tuy hiện đang ở địa ngục, ngạ quỷ tức là chưa phát tâm mà được Phật thọ ký cho về sau được thành Phật ắt họ phát chí nguyện rộng lớn, gặp bậc thiện hữu chân chánh, họ sẽ thực hành hạnh Bồ-tát, trở thành bậc Chánh Giác, do đó đối hạng người này, chúng ta chẳng nên khinh thường. Đó là sự thọ ký cho kẻ chưa phát tâm. Trong lúc Phật nói về bốn loại thọ ký, ngài Ca-diếp bạch Phật: - Chúng con từ nay trở đi, đối với tất cả chúng sanh đều tưởng là Thế Tôn, nếu sanh tâm khinh thường ắt hẳn chúng con tự làm tổn thương cho chính mình. Phật bảo: - Lành thay! Ông nói đúng lắm! Mọi người không ai có thể lường được tâm tánh của chúng sanh, duy có Phật mới thấu suốt. Do nhân duyên này ta dạy các Bồ-tát và Thanh Văn đối với chúng sanh phải tưởng là Phật. Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện trong kinh Hoa Nghiêm nói: Phá trăm vạn chướng môn cũng dùng cái tưởng này. Nếu như vậy, thì kẻ ở trong đường ác được Phật thọ ký cũng như báu vật ở trong nhà tuy chưa khám phá ra nhưng nhà vẫn quý vì có chứa báu vật, như hạt châu trên trán vì đánh nhau mà lún sâu, nhưng nào có mất hạt châu trong trán. Nếu không niệm chúng sanh là Phật đương lai, ắt lấy sáu trần làm giặc cướp, như phòng ngự quân ma mà lại tự phá hoại vách thành, tự mình duy trì nước địch để cho nó thường khởi dậy oán cừu, giặc giã chưa dẹp yên, tiếng chiêng trống vẫn còn chấn động thì làm sao có thể cao gối nghỉ ngơi. Nếu kẻ nào có thể khiến cho người không hàng phải hàng, người không phục phải phục thì người đó mới là kẻ có đủ khả năng làm cho thiên hạ nhất thống. Cờ xí dập dìu cần chi nữa, vùn vụt phi tướng đi đâu, quân ta bỏ ngựa về bón ruộng, mặt trời mọc thì ra đồng, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi, đâu cần đến bậc Thánh như vua Nghiêu, bá tánh cũng được yên ổn mà không tự rõ lợi ích của việc Thánh hóa. Nếu có thể ngộ sắc thanh là Phật, niệm chúng sanh là Phật đương lai thì ắt chẳng lập cảnh phàm ở trước tâm, hoặc tưởng chính mình là bổn tôn, thì quán môn sâu xa mầu nhiệm Du-già chân ngôn chẳng cần lo cũng hội. Phàm cái do tưởng mà có thì chẳng phải là không. Như vậy, đại bàng với chim sâu bằng nhau, Thái Sơn cùng mảy lông là một, không có cái quái lạ của núi cao bị san bằng, cái lo của chim le le được nối chân([6]). Hỏi: Những kẻ ở địa ngục dù chưa phát tâm, đấng Pháp Vương Như Lai cũng tha thứ tội lỗi của họ và thọ ký cho. Ngàn muôn ánh sáng soi khắp, mười hiệu viên minh, lời Phật chân thật, ai dám chẳng tin, còn như người chưa ngộ thì do đâu được thức tỉnh? Đáp: Nói về người chưa ngộ thì cái gốc mê lầm lớn lao ngay nơi cái thấy hai, cũng như nguồn nước của con sông dài bắt đầu từ lạch suối nhỏ. Nếu cho rằng ngoài niệm lập vô niệm, ngoài sanh lập vô sanh ắt sanh tử khác với Niết-bàn thì dù chư Phật đông nhiều cũng không thể giáo huấn được. Nếu rõ niệm mà vô niệm, quán sanh mà vô sanh, phiền não tức Bồ-đề ngay đây tỏ ngộ được nhất tướng trang nghiêm. Cũng như thấy bầy ong trên chóp núi, biết có tổ ong đầy mật, như thất bảo trong giếng, đâu nên cho là không quý, các thứ đó đều là sẵn có, chứ đâu phải bây giờ mới có. Niệm Phật vị lai thì tội không do đâu phát sanh, phóng tâm cùng khắp tất cả chỗ sở duyên đều thấy Như Lai, đạo từ tham sân v.v … sanh ra là lý này vậy. Trong kinh Như Lai Tạng, Phật bảo Bồ-tát Kim Cang Huệ: “Này thiện nam tử! Ta dùng Phật nhãn quán sát tất cả chúng sanh ở trong các phiền não tham dục, sân si đều có Như Lai trí, Như Lai nhãn, Như Lai thân ngồi kiết già nghiễm nhiên bất động và đầy đủ đức tướng như ta không khác. Nói rộng ra tất cả chúng sanh đều có Như Lai Tạng, ta dùng chín ví dụ để giảng nói”. Luận Bảo Tánh giải thích và kết bằng bài tụng: Chư Phật trong hoa héo. Vàng ròng trong phẩn uế. Kho báu ở trong đất. Mầm mộng trong hạt trái. Trong áo cũ rách rưới Bọc gói tượng vàng ròng. Cô gái nghèo xấu xí Mang thai chuyển luân vương. Trong khuôn bằng đất đen Có tượng báu tốt đẹp. Chúng sanh tham sân si Vọng tưởng và phiền não Trong các cảnh trần lao Đều có Như Lai tạng. Dưới địa ngục A-tỳ Đều có Như Lai thân. Pháp chân như thanh tịnh Chính là Như Lai thể. Theo văn đã dẫn chứng, nếu hiểu được sự thọ ký ở địa ngục thì môn tam-muội tự nhiên thông suốt. Hỏi: Bậc chí nhân dụng tâm đạm nhiên thanh tịnh, dứt bặt phan duyên, nay nói phóng tâm duyên khắp tất cả, chỗ sở duyên nào cũng đều thấy Như Lai, như vậy đâu là lời Phật dạy? Đáp: Phật cũng có dạy khởi tâm duyên sáu trần, ba nghiệp, nhưng vẫn luôn luôn phát diệu nguyện nhập vào cảnh giới chư Phật, mỗi mỗi duyên khởi đều chẳng rời Như Lai thì được gọi là thấy Như Lai, cái thấy đó gọi là viên kiến, không phải do mắt thấy. Vì thế trong kinh Niết-bàn nói rằng: “Hàng Thanh Văn tuy có thiên nhãn nhưng gọi là nhục nhãn, người học Đại thừa tuy có nhục nhãn nhưng được gọi là Phật nhãn. Tại sao vậy? Vì rõ biết chính mình có Phật tánh”. Trong kinh Thắng Thiên Vương, Phật dạy Thiên Vương: “Bậc Đại Bồ-tát dùng sức phương tiện thực hành Bát-nhã ba-la-mật, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại. Tâm duyên tất cả sắc nguyện được Phật sắc, vì vô sở đắc. Tâm duyên tất cả thanh, nguyện được âm thanh vi diệu của Như Lai. Tâm duyên các thứ hương, nguyện được giới hương thanh tịnh của Như Lai. Tâm duyên các vị, nguyện được tướng đại trượng phu bậc nhất trong Như Lai vị. Tâm duyên các xúc, nguyện được bàn tay mềm mại dịu dàng của Như Lai. Tâm duyên các pháp, nguyện được tâm tịch tịnh của Như Lai. Tâm duyên thân mình, nguyện được thân Phật. Tâm duyên nơi miệng, nguyện được miệng Phật. Tâm duyên nơi ý, nguyện được ý bình đẳng của Như Lai. Này Thiên Vương! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật không có một tâm, một hạnh nào luống không, mà đều hướng đến nhất thiết trí. Duyên khắp các pháp mà tâm không dính mắc, quán thấy các pháp đều hướng về đạo Bồ-đề”. Bồ-tát tu tập các hạnh đều do ngoại duyên mà được thành lập cũng như đất ở trên nước, nếu chịu đào giếng thì liền có nước, còn nếu không đào giếng thì làm sao có nước để dùng. Cũng thế, cảnh giới thánh trí trùm khắp tất cả, nếu chuyên cần tu tập phương tiện Bát-nhã ắt đạt được cảnh giới ấy, còn như không tu thì làm sao được. Cái lý tâm duyên há chẳng rộng lớn sao? MÔN THỨ V QUÁN KHÔNG, VÔ NGÃ, CHỌN THIỆN LÀM THEO Hỏi: Ngay nơi động mà tịnh, tịnh ở tại trong động, ngay nơi phàm là thánh, thánh ẩn trong phàm, tôi đã được nghe ý chỉ cao xa ấy rồi. Lại nữa, vô ngã của Tam giáo, lý đã không có chi khác, vì đều chọn thiện làm theo, nghĩa đó như thế nào? Đáp: Lý vô ngã của Tam giáo trên mặt danh từ tuy đồng, nhưng lý thì khác. Chẳng hạn như trong tứ tuyệt của Phu Tử, cái nghĩa của đức sáng mà khiêm nhường chính là Vô ngã. Còn Vô ngã của Đạo giáo (Lão Trang) là cái lớn mà không hề làm chủ tể. Còn Vô ngã của Phật Giáo là quán năm uẩn đều không. Cả hai giáo môn trên không hiểu rõ về năm uẩn thì đâu biết được pháp tứ đế, lục độ, vạn hạnh và tuyệt nhiên không nghe đến cấp bực của Hiền Thánh. Nhưng “hòa quang đồng trần”, “bảo thư thủ tịnh”([7]) đã từ lại kiệm, không dám tỏ ra hơn thiên hạ, mỗi vị đều là Thánh, đâu cần phải thương xác chỗ cạn sâu của các Ngài. Như thế, cái nghĩa vô ngã của Tam giáo rõ ràng rồi vậy. Chọn điều thiện làm theo, nghĩa là lý của ba tánh([8]), lý này ở khắp mọi nơi, người tu tâm nên chọn điều thiện mà theo. Bởi vì bất thiện thì vô ích đối với chỗ chí chân, còn vô ký thì thiện ác đều mất. Cái nguyên do làm hỗn loạn Phật lý đều do bất thiện và vô ký nầy gây ra, cho nên thánh nhân lựa nó bỏ ra. Kinh Niết-bàn nói: “Kẻ Nhất-xiển-đề tâm không phan duyên tất cả thiện pháp, cho đến chẳng sanh một niệm thiện”. Thế mới biết, niệm Phật Tam-muội là pháp thiện tối thượng, là đứng đầu trong muôn hạnh, nên gọi là vua Tam-muội vậy. MÔN THỨ VI KHÔNG ĐIỀU THIỆN ĐÁNG CHỌN, KHÔNG ĐIỀU ÁC ĐÁNG BỎ Hỏi: Nếu chọn điều thiện để theo, tại sao không chọn cái thiện của của chư Phật, bỏ cái ác của chúng sanh. Nếu như vậy thì niệm Phật vị lai làm sao đồng với các bậc Chánh Giác quá khứ, hiện tại được? Đáp: Không cần đổi câu hỏi, tự nó thành lời đáp của tôi. Sao vậy? Vì chọn thiện để theo là bất đắc dĩ mà nói đó thôi, bởi phàm phu trí lực yếu kém không thể nhận nổi ngay nơi ác mà thiện, ngay nơi vọng mà chân, cho nên phải nói như thế. Nếu có thể niệm Phật vị lai phù hợp với hạnh Bất Khinh thì trời đất chỉ là một, muôn vật không hai, chúng sanh đều là Phật, cõi này vẫn thường tịnh, khác với ngài Xá-lợi-phất thấy là đất đá, cát sỏi, mà đồng với Phạm Vương thấy là tướng trân bảo trang nghiêm. Đó là chỗ tột cùng của sự chọn thiện, không có điều ác nào có thể bỏ. Đó chính là chỗ dẫn chứng của ngài Thiên Thai Trí Giả về sự vi diệu của lý tuyệt đãi trong lời giải thích kinh Pháp Hoa: Chúng sanh thấy kiếp tận Lửa lớn bừng đốt cháy Cõi Phật ta an ổn Trời người thường đầy đủ Vườn rừng và lầu gác Các thứ báu trang nghiêm. Kinh Thắng Thiên Vương nói: “Trụ xứ của Phật thật không có cõi nước nhơ xấu, vì chúng sanh phước mỏng nên thấy bất tịnh”. Tiếng Phạn Nam-mô, người Trung Hoa đời Đường dịch là Quy mạng. A-di-đà dịch là Vô Lượng Thọ. Các đức Phật trong ba đời đâu phải chỉ có một đức Phật thọ mạng vô lượng. Nay tôi cùng ông niệm ba đời A-di-đà, đồng sinh về mười phương Cực Lạc, có gì không được đâu mà muốn thoái lui. Như thế, cũng không khác nào ngọn lửa tam-muội mãnh liệt khiến cho muỗi mòng vọng kiến không ghé vào đặng (vọng kiến không còn trong niệm Phật tam-muội). Mười niệm như dộng hồng chung chẳng khác tâm tán loạn xưng danh hiệu Phật (tán loạn chẳng khác định). Niệm Phật A-di-đà thông cả chư Phật ba đời, niệm chư Phật, Bồ-tát nào có khác chi. Hỏi: Niệm Phật vị lai cũng đồng với chư Phật quá khứ, hiện tại, xin Ngài nói cho nghe rõ lý đó? Đáp: Kinh Hoa Nghiêm nói: Tất cả các Như Lai Đồng chung một pháp thân Một tâm, một trí tuệ Lực, vô úy cũng vậy. Kinh Lăng-già có bài kệ: Ca-diếp, Câu-lưu-tôn Câu-na-hàm là ta Vì có bốn thứ đồng Ta vì Phật tử nói. Bốn thứ đồng là: 1. Danh tự đồng vì cùng gọi là Phật. 2. Ngữ đồng vì đều đủ tướng âm thanh thanh tịnh như Ca-lăng-tần-già. 3. Pháp đồng vì đều được Bồ-đề phần pháp vô chướng ngại trí. 4. Thân đồng vì sắc thân tướng hảo không sai khác. Luận Khởi Tín nói: “Y nơi phương hướng mà chuyển, phương hướng thật không có chuyển”. Cũng thế, người ngộ chỉ ngộ một phương thì các phương sẽ tự đúng. Người niệm Phật chỉ niệm một danh hiệu Phật thì tất cả chư Phật đều hiện tiền. Kinh nói: “Nước chẳng chảy lên, trăng không rơi xuống, do vì bầu trời trong sáng nên mặt trăng trên hư không hiện bóng trong nước. Đức Phật kia chẳng đến, thân ta cũng chẳng đi, nhờ nhân duyên niệm Phật vầng trăng báu Như Lai sẽ hiển hiện trong nước tâm thuần tịnh của ta, như bài kệ tụng: Bồ-tát như trăng sáng Dạo trong tất cánh không Nước tâm chúng sanh lặng Bồ-đề hiện ở trong. MÔN THỨ VII KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT CHÚNG SANH Hỏi: Thịt là món ăn của con người, thế mà người niệm Phật tuyệt nhiên không ăn, vì cớ chi? Đáp: Thử xét chuyện vua Thi-tỳ cứu bồ câu bằng cách tự treo mình trên giá cân, vua và chim tuy khác nhưng sanh mạng đâu khác. Vì thế nên không được ăn thịt loài vật để nuôi cái thân bại hoại này, vậy mà cứ ngu ngốc không biết sợ tội. Nếu chúng ta biết được rằng muôn loài là chư Phật vị lai thì ai dám dùng dao bén với loài cá, thả chim ưng trước bầy thỏ để tự làm tổn hại như con thiêu thân đáp vào ngọn lửa, tự chuốt lấy cái chết. Phẩm Phật Ngữ Tâm trong kinh Lăng-già có nói: Vì lợi giết chúng sanh Và đem tiền mua thịt Cả hai là nghiệp ác Chết vào ngục gào thét. Thật đúng như lời Phật dạy, nếu không vì tiền của này thì những hạng người sống bằng nghề sát sanh như chài lưới hay đồ tể sẽ không có nữa. Bậc Bồ-tát như ngài Long Thọ còn không dám khinh rẻ loài bồ câu, se sẻ, bậc cao tăng không đạp trên loài trùng kiến, có người hỏi cớ sao? Các Ngài đáp rằng: Vì các loài ấy cùng với ta ở trong sanh tử, biết đâu chúng thành Phật trước nên đâu dám khinh khi. Khinh khi còn không, huống hồ là ăn thịt của chúng. Luận Bảo Tánh dẫn kinh Như Lai Tạng, Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chúng sanh là Đệ nhất nghĩa đế, là Như Lai tạng, là Pháp thân, là Bồ-đề”. Tôi cho rằng con chó dữ chỉ biết đuổi theo hòn đất chớ không biết đuổi theo người, theo đuổi hoài không ngừng. Cũng thế, nếu chỉ niệm Phật quá khứ, hiện tại, không niệm Phật vị lai thì sự khinh mạn không bao giờ dứt. Nếu như sư tử bắt ngay người, thì sự lầm lẫn tự dứt. Đấy là đạo lý về sự khinh mạn và cung kính, tất cả đều quy về một mối. Nếu từ cung kính đổi ra kiêu mạn thì đối với người thân như cha mẹ cũng ngỗ nghịch xem như người xa lạ. Trái lại, cải đổi kiêu mạn thành cung kính thì đối với tất cả mọi người đều tỏ lòng hiếu kính như cha mẹ tôn thân. Vì thế, kinh Phạm Võng có đoạn dạy: “Chúng sanh trong sáu đường là cha mẹ của ta, hiếu là giới”, cũng bao hàm ý nghĩa này vậy. Xem chúng sanh trong sáu đường là Phật vị lai, thì lời nói tất cả chúng sanh đều là cha mẹ là lời nói gần. Nếu có thể như vị sa-di dùng y chặn nước cứu bầy kiến, nhờ đó tuổi thọ ngắn ngủi được kéo dài thêm hoặc như ông Lưu Thủy (trong kinh Kim Quang Minh) cứu lũ cá, được hoa trời tuôn rải thì đổi được cái thấy chúng sanh trong nhiều kiếp, niệm chúng sanh là thân của Phật vị lai. Trong phẩn nhơ biết có vàng ròng, trong mây mù tin có vầng trăng sáng thì sương mù của sự ăn thịt, khói bụi của sanh tử bị gió huệ thổi tan trong không gian tam-muội. Trong kinh Phạm Võng, Phật nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành, thường có lòng tin như vậy, giới phẩm được trọn vẹn”, có thể không niệm Phật mà được sao! Hỏi: Thịt không được ăn, tôi tin nhận điều này, còn năm thứ gia vị hôi nồng([9]) thì sao? Đáp: Trong kinh Lăng-nghiêm, Phật bảo ngài A-nan: “Năm thứ gia vị hôi nồng này, ăn chín thì phát dâm dục, ăn sống thì dễ nóng giận. Như vậy, người ăn năm thứ gia vị hôi nồng này dù ở thế gian nói mười hai bộ kinh cũng bị chư Thiên, Thần Tiên xa lìa vì các Ngài chê là hôi hám, còn loài quỷ thì thích liếm môi người đó. Người đó thường cùng với quỷ ở chung, phước đức ngày một tiêu mòn, không chút lợi ích. Người ăn năm thứ gia vị hôi nồng này tu thiền định, Bồ-tát, chư Thiên, mười phương thiện thần chẳng đến thủ hộ, bị Đại Lực Ma Vương rình rập hãm hại”. Phật bảo A-nan: “Người tu đạo Bồ-đề không ăn năm thứ gia vị hôi nồng này được gọi là thứ lớp tu hành tăng tấn thứ nhất”. Đấy chính là lời Phật dạy, phải hết sức thành tín. Còn sự tai hại của rượu chè không cần phải nói đến. Kinh Bách Dụ chép: Ngày xưa, có một người nghèo đi trên đường lượm được một túi tiền. Người ấy mừng rỡ, ngồi bên vệ đường đếm tiền, đếm chưa xong, người chủ của túi tiền trở lại lấy lại đem đi. Người ấy hối tiếc khi nãy không mau bỏ đi, nên lòng buồn khổ. Cũng vậy, người gặp Phật pháp không siêng năng tu hành, lại chỉ thích nghe nhiều học rộng, thoạt vậy mạng chung bị đọa vào ác đạo, đâu có khác gì người kia bị chủ túi tiền lấy túi tiền lại đi mất. Kệ rằng: Ngày nay làm việc nầy Ngày mai làm việc nọ Say mê chẳng thấy khổ Bất giác giặc chết đến. Lăng xăng lo nhiều việc Phàm phu đều như thế Như kẻ đếm tiền kia Việc này cũng như vậy.
Chú thích: [1] Truy thù: Là một đơn vị cân lường rất nhỏ, gần như không đáng kể. [2] Bát mạn: Tám thứ kiêu mạn: Mạn, đại mạn, mạn mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, bất như mạn, tà mạn, ngạo mạn. [3] Quyết liễu: Chọn lấy pháp cứu cánh. [4]Tam tôn là ba ngôi Phật, Pháp, Tăng đáng tôn quí. [5] Thất chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoa-ma-na-ni, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. [6] Sách Trang Tử nói: Chim le le tuy chân ngắn mà nối thêm thì nó lo, chim hạc chân dài, mà cắt bớt thì nó buồn [7] Bảo thư là giữ lối mềm nhũn [8] Ba tánh: Thiện, ác, vô ký. [9] Năm thứ gia vị hôi nồng (ngũ tân): Hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. 3 MÔN THỨ VIII NIỆM PHẬT HIỆN TẠI CHUYÊN CHÚ MỘT CẢNH Hỏi: Niệm Phật vị lai tức là niệm chúng sanh, tôi đã được nghe nghĩa lý huyền diệu, được hiểu nghĩa lý sâu rộng rồi. Nhưng e rằng tâm tản mác khó kiểm điểm, nay tôi muốn dùng một để xâu suốt tất cả. Chuyên chú niệm một đức Phật ở phương Tây, bước lên ngôi bất thoái, bỏ tâm hữu lậu, thả con thuyền trên ao vàng, lễ Phật A-di-đà trong điện ngọc có thể thông ba đời, lên ngôi cửu phẩm có được chăng? Đáp: Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa là bộ luận Bồ-tát Long Thọ tạo ra để giải thích kinh Hoa Nghiêm, trong phẩm Dị Hành Hạnh có nói: “Đạo Bồ-tát có hạnh khó hành như đi thuyền trên đất liền, có hạnh dễ hành như đi thuyền xuôi nước. Do sức bản nguyện của Phật A-di-đà, nếu người nào nghe danh hiệu Ngài, dốc lòng xưng niệm, nguyện sanh về cõi nước kia thì như dong thuyền xuôi nước lại gặp gió thuận chiều, một lần lướt đi ngàn dặm, chẳng phải dễ sao! Nhờ đâu mà phụ vương của đức Thích-ca và sáu muôn ngàn người quyến thuộc dòng họ Thích được sanh về nước Cực Lạc. Điều đó chứng tỏ Phật A-di-đà với chúng sanh cõi này có duyên rất sâu. Vậy chuyên chú một cảnh thông cả ba đời chẳng phải là hay ư! Hỏi: Chuyên chú một cảnh thông cả ba đời, lý này đúng lắm. Nhưng sự xưng niệm, phát nguyện vãng sanh về cõi Cực Lạc là hữu vi hư vọng cũng như gió nhiều nổi sóng. Nếu thế, chi bằng không chạy theo cái tưởng bên ngoài, nhiếp tâm vào trong để hợp với chỉ thú vô vi. Đáp: Hữu vi dù là hư ngụy nhưng nếu bỏ đó thì đạo nghiệp không thành. Vô vi tuy là chân thật nhưng nếu chấp lấy thì huệ tâm không sáng. Kinh nói: “Chán bỏ công đức hữu vi tức là nghiệp ma, ưa thích chấp trước công đức vô vi cũng là nghiệp ma”. Nay ông để sự chán bỏ và ưa thích tranh nhau thì không rơi vào lưới ma có được chăng? Nếu Thánh hiền nhiếp tâm gọi đó là trong, phàm phu theo đuổi vọng tưởng gọi đó là ngoài và nếu cho sự chạy đuổi theo bên ngoài là loạn, cái an trụ bên trong là định, rồi để cái trong cái ngoài chi phối thì thật không hợp với ý chỉ nhiếp tâm của niệm Phật Tam-muội. Trong phần chú thích kinh Duy-ma-cật, ngài Cưu-ma-la-thập ghi: “Ở nước ngoài có một cô gái thân sắc vàng xinh đẹp, con trai của vị trưởng giả tên là Đạt-mộ-đa-la đem một ngàn lượng vàng ra mời nàng vào vườn Trúc Lâm, cùng với nàng đi chung một cổ xe. Ngài Văn-thù biến làm một người cư sĩ mặc áo quý đẹp đi trên đường. Cô gái thấy áo đẹp khởi tâm ham muốn. Ngài Văn-thù nói với cô gái: - Nàng muốn được áo đẹp, phải phát tâm Bồ-đề. Cô gái hỏi: - Tâm Bồ-đề là gì? - Chính là thân của nàng. - Tại sao Bồ-đề là thân tôi? - Bồ-đề tánh không, thân nàng tánh không. Cô gái này đã từng ở thời Phật Ca Diếp trồng căn lành, rộng tu trí tuệ, sau khi nghe lời nói của ngài Văn-thù liền chứng vô sanh pháp nhẫn. Chứng vô sanh pháp nhẫn rồi, cô muốn chỉ cái lỗi của ái dục, nên cùng với con ông trưởng giả đi vào rừng. Nàng liền thị hiện thân chết rã thối, con ông trưởng giả trông thấy hết sức sợ hãi, ông liền đến chỗ Phật ngự. Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe, ông cũng đắc Vô sanh pháp nhẫn”. Chưa thành bậc đại giác thì chưa nhàn hạ, nên gọi là nhẫn. Như tự quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy, thân người nữ không, thân Phật cũng không, chưa từng khác, do đó cái nghĩa Bồ-đề cũng đâu có khác. Nếu như thế thì tất cả hữu vi đều là vô vi, tất cả trong ngoài đều chẳng phải trong ngoài. Vậy ở nơi có mà chưa từng có, có mà thường không, ở trong không mà chưa từng không, không mà thường có. Như vậy, đâu có ngại gì Phật có tướng và tâm có niệm! MÔN THỨ IX ĐỜI NÀY, ĐỜI KHÁC VÀ MỘT NIỆM, MƯỜI NIỆM Hỏi: Luận về sự dễ hành, khó hành và quán thân tức là Bồ-đề, ý chỉ đã sáng tỏ. Đời người thoắt qua như đá bật lửa, nếu một niệm dần dà e hối không kịp. Người tu hành không chấp tâm, huống là chấp thân, thân còn không chấp huống là chấp vật ở ngoài thân. Người ta thường sợ một hơi thở ra không trở vào, đã thuộc đời sau, như trận cuồng phong thổi cọng cỏ khô không biết về đâu. Xin Ngài chỉ dạy cho môn một niệm, mười niệm và sự dự bị cho đời này, đời khác. Đáp: Công nghiệp của hội Tịnh Độ vĩ đại thay! Hàng Nhị thừa lóng thần nơi hư vô, mê chấp vào không, sợ hãi sự tướng, không nghĩ nhớ đến chúng sanh nên không có Tịnh Độ, còn Đại thừa do phát tâm Bồ-đề nên có Tịnh Độ. Căn cứ lời kinh Bi Hoa như sau: “Đức Phật A-di-đà xưa kia làm Chuyển Luân Thánh Vương, hiệu là Vô Tránh Niệm. Vua có đủ bảy báu và một ngàn người con trai, nhờ ngài Bảo Hải làm thiện tri thức, nhà vua phát tâm Bồ-đề nơi đức Phật Bảo Tạng, tạo nên cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Theo như trên, thì chư Phật, Bồ-tát, Thanh Văn trong các kinh đều là hậu thân của một ngàn vương tử. Vị vương tử lớn nhất tên là Bất Thuấn tức Quán Thế Âm, lần lượt kế tiếp các vị vương tử như ngài Ma-ni tức Đại Thế Chí, Vương Chúng tức Văn-thù-sư-lợi, Năng-già-nô tức Kim Cương Trí Huệ Quang Minh Bồ-tát, Vô Úy tức Liên Hoa Tôn Như Lai, Am-bà-la tức Hư Không Quang Minh Bồ-tát, Thiên Tý tức Sư Tử Hương Bồ-tát, Dẫn Đồ tức Phổ Hiền Bồ-tát, Mật-tô tức A-súc Phật. Vương tử Mật-tô từ lúc mới phát tâm cho đến nay cứ mỗi bước đi tâm và tâm sở chuyên chú tưởng niệm chư Phật, nên trở thành bậc Chánh Giác ở thế giới Diệu Hỷ”. Tôi cho rằng dù đi trên đường rộng hay thả bước trong rừng sâu vẫn không khác vương tử Mật-tô. Khi khua hốt ngọc bước vào công đường hay vào chầu vua nơi điện ngọc, trang nghiêm oai vệ, rần rộ ngựa xe, há không thể dụng tâm trong mỗi bước đi hay sao? Chẳng lẽ lại thay đổi cái động dụng thông thường từ trước sao? Luận về người đến bên bờ sông chết, lúc chưa tắt hơi, chỉ một hơi thở ra không trở vào phút chốc đã qua đời sau, thật đúng như lời ông hỏi. Người đời phần nhiều dùng châu ngọc, thủy tinh, bồ-đề, kim cang, các thứ hột cây để làm chuỗi niệm Phật, còn tôi thì lấy hơi thở ra vào làm xâu chuỗi niệm Phật, xưng danh hiệu theo hơi thở, có chỗ nương tựa vững chắc, không còn sợ hơi thở chẳng vào đã qua đời khác. Tôi đi đứng nằm ngồi thường dùng xâu chuỗi này, lúc mỏi mệt thì ngậm Phật mà ngủ, thức dậy tiếp tục niệm Phật, ắt trong chiêm bao được thấy Phật A-di-đà, giống như dùi cây lấy lửa, thấy có khói biết là sắp có lửa. Nếu cứ chiêm bao như thế thì tam-muội chắc chắn sẽ thành, tận mắt sẽ được thấy ngọc hào, được Phật thọ ký thì muôn người vãng sanh không sót một, do đó ông nên cố gắng! Hỏi: Một niệm và mười niệm vãng sanh Tịnh Độ, cái nào là chánh? Đáp: Chỉ một niệm vãng sanh trụ bậc bất thoái là chánh. Như lời Phật nói: Chê bai đức Phật, hủy hoại kinh điển, đánh Tăng, chưởi cha mắng mẹ, tội ngũ nghịch và tứ trọng đều do một niệm ác nghiệp mà thành, bị đọa vào địa ngục mau như tên bắn. Ngày nay niệm Phật sanh về Tịnh Độ cũng do một niệm thiện nghiệp mà thành, về Cực Lạc trong khoảnh khắc co cánh tay. Một niệm trước, năm ấm diệt, một niệm sau, năm ấm sanh như cái ấn bằng sáp ấn trên bùn, ấn hoại mà dấu chữ in vẫn còn, hai niệm còn không cần đến, huống chi là mười niệm. Còn sự đánh Tăng, chưởi cha mắng mẹ tuy không phải chánh tội nghịch, song cũng thuộc về ngũ nghịch. Về vấn đề một niệm, xin dẫn kinh có chuyện tích như sau: Một chú sa-di thích bơ sữa, vì một niệm tâm ưa thích mà sau khi chết bị đọa làm con trùng ở trong bơ sữa. Vợ một ông trưởng giả tên Đại-tát-bà soi gương, yêu thích dung nhan của mình trong lúc đi thuyền. Bỗng đâu biển dậy sóng gió đánh đắm thuyền, vợ trưởng giả chết, đời sau liền sanh làm con dòi trong thây cũ, chơi đùa qua lại trong thây đó. Đây cũng chỉ do một niệm thôi, chứ đâu đến mười niệm. Kinh Vô Lượng Thọ nói: Một niệm niệm Phật chắc chắn vãng sanh, còn Quán Kinh nói mười niệm là vì người bệnh sức yếu, tâm lực kém cỏi, cho đến cần phải mười lần xưng danh hiệu Phật A-di-đà để trợ giúp cho một niệm ấy. Nếu người tâm vững mạnh, sáng suốt, không mê muội thì một niệm vãng sanh cũng như vun trồng một cái mầm bằng mảy tơ sợi tóc mà được cội cây xum xuê lớn gấp trăm lần. MÔN THỨ X TÂM NÀY LÀ PHẬT,TÂM NÀY LÀM PHẬT Hỏi: Như kinh đã dạy: Tâm này là Phật, tâm này làm Phật, thì đâu cần đến việc xa vời như xưng danh hiệu Phật A-di-đà, quán tưởng cõi Cực Lạc và việc gần gũi như niệm chư Phật, cung kính các đức Phật vị lai. Tất cả những việc ấy đều là tìm cầu từ bên ngoài, há bảo tâm này là Phật sao? Đáp: Ông hỏi như vậy không đúng. Ông chỉ dẫn lời trong kinh mà không hiểu chỉ thú của kinh. Kinh này chính là kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, chuyên thuyết minh về ý nghĩa của niệm Phật A-di-đà. Do niệm Phật mà Phật từ tâm tưởng sanh nên gọi tâm này là Phật. Đâu được trộm lấy pháp quán A-di-đà rồi trở lại chê tâm niệm A-di-đà. Nếu ta không niệm Phật mà nói tâm này là Phật, thì cũng như tâm không nghĩ điều ác mà nói tâm này là ác sao! Không thể nào được! Vấn đề này cũng thế. Huống chi ở cõi Cực Lạc, đức A-di-đà như núi chúa Tu-di, mười muôn ức ([10])không làm chướng ngại con mắt, hằng hà sa quang minh tướng hảo do nguyện lực của Phật mà sự quán tưởng được thành tựu. Chỉ trong khoảnh co cánh tay là được vãng sanh, đâu tính chi đến sự xa gần của cõi ấy. Hỏi: Tâm này là Phật, tôi đã được nghe ý nghĩa rồi. Nhưng chỗ thuyết minh của kinh này về mười sáu diệu quán mà bà Vi-đề-hy đạt được, như băng và mặt trời đều có thể quán tưởng, còn thân Phật như hòn núi vàng chói lọi thì ánh sáng của Phật, ánh sáng của ma, tự quán, tha quán, chánh tà hỗn tạp làm sao phân biệt. Xin Ngài chỉ dạy để người niệm Phật không cần ở bên thầy mà vẫn an tâm tu tập. Đáp: Quán tưởng băng là căn bản cho sự quán tưởng đất bằng lưu ly, còn quán mặt trời là để dần dần dẫn đến quán tưởng ánh sáng của bạch hào. Đúng theo sự quán tưởng mà hiện thì gọi là tự, là chánh, còn không đúng theo sự quán tưởng mà hiện thì gọi là tha, là tà. Bản tâm quán tưởng bạch hào mà bạch hào không hiện, chưa tưởng mắt biếc mà mắt biếc đã hiện, như vậy là trái với bản tâm, như vậy chẳng phải là tà sao! Huống chi những điều nghĩ tưởng khác nữa. Vả lại, ánh sáng của ma có bóng và làm chói mắt, còn ánh sáng của Phật không có bóng, không làm chói mắt. Cho nên kinh Lăng-già có bài kệ: Phật địa là tối thắng Thanh tịnh diệu trang nghiêm Chiếu sáng như lửa lớn Ánh sáng đến khắp nơi Rực rỡ không chói mắt Trùm khắp độ ba cõi([11]). Hỏi: Ánh sáng xuất hiện rực rỡ làm hư mắt không phải là ma sao? Còn ánh sáng không chói mắt không phải của Phật sao? Đáp: Ánh sáng chân thật làm cho người niệm Phật cảm thấy thân tâm được lóng lặng thanh tịnh, còn ánh sáng giả tạo khiến người niệm Phật tâm bị xao động hoảng hốt. Vì thế, kinh Niết Bàn có nói: “Lóng lặng thanh tịnh là chân giải thoát”. Chân giải thoát hẳn là ánh sáng của đức Như Lai rồi. Hỏi: Bậc chí nhân vô tư, mà nay lại dùng đến tưởng, há chẳng lầm sao? Đáp: Như kinh Đại Oai Đức Đà-la-ni nói: “Muốn vượt qua phiền não, phải phát tâm dục nghĩ về cái vô dục”. Hiện tại cũng vậy, muốn tu niệm Phật phải phát tâm tưởng tưởng về cái vô tưởng. Cho nên kinh Phương Đẳng Hiền Hộ: “Ý muốn xấu ác nghĩ tưởng người nữ thì mộng thấy người nữ, ý muốn tốt lành nghĩ tưởng đến Phật, nằm mộng thấy Phật”. Tôi cho rằng hai cái tưởng ấy đều được gọi là tưởng, nhưng thiện ác cách xa nhau như trời với đất, do đó không nên nghe nói đến tưởng rồi chán bỏ hết. Nếu như chán bỏ hết, thì tuy chẳng phỉ báng kinh Phật ắt hẳn sanh vào cung trời Vô Tưởng. Nếu cố chấp vào vô tưởng, chê bai người tưởng Phật thì đó là kẻ hủy báng pháp. Vì hủy báng Phật pháp, e rằng ở trong địa ngục không hẹn ngày ra, như vậy còn hy vọng gì ở Thiên cung nữa. Dẫu cho được sanh về Trời cũng thuộc về ngoại đạo thiên, không phải là con đường giải thoát. Kinh Niết-bàn ghi: “Âm thanh giết người của tiếng trống được phát lên, dù xa hay gần kẻ nghe tiếng trống đều phải chết”. Ở đây cũng vậy, tùy theo sự bài bác quán tưởng mà xa gần gì cũng đều bị đọa. Trong kinh gọi là: Hoặc có lúc rời khỏi mặt đất một thước hay hai thước lui tới đi lại, là cái nghĩa này vậy. Há ra khỏi sự lưu chuyển của ba cõi, há đồng với sự vãng sanh về chín phẩm ư! Huống là sự làm đắm thuyền hay đẩy thuyền đi cũng do dòng nước, sự té ngã hay đứng dậy cũng ngay nơi đất. Phát tưởng hư vọng là chúng sanh, khởi tưởng chân thật là Phật. Ngoài cái tưởng này ra, còn dùng tới cái chi nữa đâu. Hỏi: Phần sự Ngài đã giải thích rồi, còn phần lý thì như thế nào? Như kinh Bát-chu Tam-muội nói: “Tâm khởi tưởng tức là si, vô tưởng tức Niết-bàn”. Nay dùng đến cái tưởng là không đúng chăng? Đáp: Không phải vậy đâu! Nếu còn ý niệm cho Phật là sở tưởng, tâm là năng tưởng rồi tránh tưởng Phật, lấy ác thủ không làm vô tưởng thì là quá ngu si. Nay tôi hiểu rằng Phật đều từ tưởng sanh, vô Phật vô tưởng thì đâu có si. Đó chính là pháp quán không Tam-muội, không còn tà kiến. Ông lại hỏi tôi cái lý ở tại chỗ nào? Bậc chí nhân thầm khế hợp với chân thể tịch lặng, lòng rỗng rang, tuy chiếu soi vạn pháp mà tâm chưa từng có, ắt được chân trí vô duyên cho nên được gọi là vô niệm. Tục trí hữu duyên cho nên niệm tưởng phát sanh. Lại nữa, tưởng chẳng khác với không, không chẳng khác với tưởng, gọi là cái Lý trung đạo đệ nhất nghĩa, đây là hiển bày Pháp thân. Không tức là tưởng được gọi là lý tục đế, hà sa công đức đều nương nơi tục đế, đây là hiển bày Báo thân. Tưởng tức là không được gọi là lý chân đế, phá hai mươi lăm cõi([12]), được hai mươi lăm môn tam-muội([13]) thường không mà thường ứng hóa, hòa quang lợi vật, đây là hiển bày Hóa thân. Như vậy là dùng tam quán([14]) mà quán tam đế([15]), chứng tam đức([16]), thành tam thân([17]) cho đến mười thứ ba pháp([18]) có gì không được mà lại muốn bỏ cái tưởng thanh tịnh để giữ lấy cái tưởng vô tưởng, đó là làm bế tắc cửa thiền định bám lấy ngạch cửa của sự thành Phật. Kinh Lăng-già và Mật Nghiêm đều có dạy: Thà khởi cái chấp “có” như núi Tu-di vì còn tin nhân quả, vì còn nghĩ đến niệm Phật sinh về cõi Cực Lạc, cho nên nói: “Thà chấp có”. Không khởi quan niệm chấp “không” dù như hạt cải vì như thế là bài bác nhân quả, chê bai sự niệm Phật ắt bị sa vào địa ngục A-tỳ, do đó nói: “Đừng nên khởi quan niệm chấp không”. Ôi! Quan niệm này đáng sợ thay! MÔN THỨ XI TO TIẾNG NIỆM PHẬT VÀ DAY MẶT VỀ HƯỚNG TÂY Hỏi: Tưởng tức là vô tưởng, tôi đã được nghe rồi. Nhưng trong kinh Phương Đẳng dạy tu môn thiền định vô thượng thâm diệu là phải quán tưởng tướng bạch hào liên tục kiêm cả xưng danh hiệu Phật để mong đạt tới cái định thù thắng. Sau khi đã khế hợp rồi thì tâm, Phật đều quên, tôi tin điều đó. Tuy nhiên, niệm thầm như dòng suối lóng trong tức thì tam-muội tự đến, hà tất phải niệm huyên náo cả xóm làng, làm chấn động cả núi rừng mới gọi là Đạo sao? Đáp: Đúng như lời ông nói. Song âm thanh cũng không lỗi lầm gì. Nay chúng ta thử bàn về âm thanh: Yếu thuật trừ tán loạn là phải nhờ đến âm thanh. Tiếng nhỏ thì tâm tản mát không định. Như nhổ cây cả gốc rễ, phải nhờ tiếng to thúc giục, trọn đời tinh tấn ắt dứt sạch trăm mối lo âu, đây là nghĩa thứ nhất. Nói gần thì tiếng vang đến đâu thì muôn tai họa đều dứt tuyệt, công đức tòng lâm tăng trưởng thịnh đạt, đó là nghĩa thứ hai. Nói xa thì kim dung chói lọi ánh sáng soi khắp, hoa báu rãi tuôn phơi phới rõ ràng như chỉ vật trong lòng bàn tay([19]), đều do âm thanh mà được, đó là nghĩa thứ ba. Như kéo gỗ, đá nặng, kéo không nổi phải phát tiếng to để kéo được nhẹ nhàng, đó là nghĩa thứ tư. Như chiến đấu với quân ma, phải đủ cờ trống, dùng tiếng to cổ vũ để quân đội tập trung ý chí phá cường địch, đấy là nghĩa thứ năm. Âm thanh có những ý nghĩa như thế, có gì đáng chán bỏ đâu! Có gì hay cho bằng niệm to tiếng và tưởng thầm đều vận dụng cả hai, tu cả hai pháp chỉ quán là phù hớp với ý Phật. Định huệ nếu đồng đều thì tâm, Phật đều quên, đó là đúng với điều ông vừa hỏi. Vì thế trong bài tựa niệm Phật tam-muội của ngài Huệ Viễn ở Lô Sơn có nói: “Công cao mà dễ tu thì niệm Phật đứng đầu”. Tâm lắng nghe tiếng huyền được gõ thì mọi trần lụy đều dứt, trệ tình đều thông, không phải là chỗ chí diệu của thiên hạ thì ai chịu tham dự vào. Tôi xin dẫn bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm để làm chứng cứ: Thà chịu vô lượng khổ Nghe được âm thanh Phật Không thọ mọi thú vui Không được nghe danh Phật. Vậy thì, tiếng niệm Phật vang xa làm nẩy nở căn lành cho muôn loài cũng như tiếng sấm mùa xuân làm động sinh lực của cây cỏ, chớ nên khinh thường. Hỏi: Xưng danh hiệu Phật bằng tiếng lớn hay tiếng nhỏ, tôi đã nghe ý nghĩa ấy rồi. Mười phương Tịnh Độ đều có Như Lai, sao lại chấp vào sự day mặt về hướng Tây? Đáp: Ông hỏi như vậy không đúng, vì đó là lời Phật dạy trong các kinh Phương Đẳng, chớ chẳng phải là ý của các sư, ông đâu nên hủy báng kinh Phương Đẳng. Hỏi: Tôi xin được nghe lời dạy về lý ấy. Đáp: Cũng có cái lý của việc ấy. Như nói người ngu thấy đức Quán Thế Âm có mười một mặt, rồi đặt câu hỏi tại sao không có mười hai mặt. Nếu đức Quán Thế Âm có mười hai mặt như lời của họ thì họ sẽ hỏi sao không mười một mặt. Ông muốn đem Đông để hỏi Tây, ý nghĩa cũng như vậy. Như người mê chưa tỉnh, phải đem cái thân này đặt yên một chỗ không cho quay về một phương nào khác ắt sẽ tự ngộ, còn như không ngộ thì chắc chắn là không thể giáo hóa, chỉ đáng thương thôi. Kinh Thắng Thiên Vương, phẩm Nhị Hạnh có nói đến tám mươi vẻ đẹp của đức Như Lai, trong đó có một tùy hảo quang minh công đức tên là Nhất thiết hướng bất bối tha. Vậy chư Phật không quay lưng mà lúc nào cũng hướng về tất cả chúng sanh, chứ không phải như kẻ oán thù không muốn thấy nhau, đủ thấy lòng từ bi tột cùng của chư Phật. Đại sư Trí Giả từ bé đến lớn lúc nào nằm cũng chắp tay, ngồi cũng day mặt về hướng Tây, lúc sắp viên tịch bảo chúng đọc bốn mươi tám lời nguyện và chín phẩm vãng sanh, ánh sáng tỏa đầy núi, thiên nhạc trỗi vang, Ngài được sanh về Tịnh Độ. Ý nghĩa của sự day mặt về hướng Tây chẳng rộng lớn sao? Hỏi: Lý “day mặt về hướng Tây” tôi đã nghe rồi, còn ý nghĩa của Bát-chu thì như thế nào? Đáp: Tiếng Phạn Bát-chu, Trung Hoa dịch là Hiện tiền, nghĩa là nghĩ nhớ không thôi, Phật hiện trong định. Nói trong suốt 90 ngày đi mãi không nằm ngồi đó là trợ duyên cho Bát-chu, chớ chẳng phải giải thích ngay cái nghĩa Bát-chu. Hỏi: Nghĩa của Bát-chu trong diệu môn Tịnh Độ đã được nghe phân tích đầy đủ rồi. Nhưng gần đây có vị nào được sanh về cõi nước An Dưỡng, đã không trở lại báo tin thì làm sao biết họ về đâu. Mong Ngài thuyết minh cho. Đáp: Vào đời Tấn ở Lô Sơn có pháp sư Huệ Viễn là người đầu tiên đề xướng môn niệm Phật tam-muội, cùng với sư đệ là Huệ Trì, cao tăng Huệ Vĩnh và những vị cao sĩ thượng hiền sống đời ẩn dật thanh bần như các ông Tôn Bính, Trương Dã, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tôn, Châu Tục Chi, Khuyết Công Tắc v.v…một trăm hai mươi ba người khắc bài minh vào núi, phát nguyện vãng sanh Tịnh Độ. Ông Lưu Di Dân viết bài văn đại lược như sau: “Xét sự chìm đắm có thể xảy ra trong khoảnh khắc, bỗng ngộ được một cách thống thiết về lẽ vô thường. Nghĩ đến nghiệp báo trong ba đường hiểm khó ra. Do đó các bạn đồng chí nên sớm tối tinh cần để mong giải thoát. Nhờ diệu quán mở tâm chánh chiếu mà biết y chánh cõi kia. Tạm mượn cái thân như phù dung sớm nở tối tàn giữa dòng dưới bóng cây quỳnh để niệm Phật. Áo mây bay lúc tám chục, gió hương thoảng lúc tàn niên. Thân quên an mà càng hòa, tâm vượt trên lạc thú để tự vui. Đến trong ba đường nhưng không vướng mắc, dạo chốn thiên cung mà vẫn tạ từ. Giới thiệu với mọi người về con đường tốt đẹp tiếp nối mai sau, chỉ cho thấy cái chỗ an nghĩ hoàn toàn lấy làm điểm hẹn”. Xét kỹ đạo lý này, há chẳng rộng lớn sao! Ngài Huệ Viễn viết bài tựa niệm Phật tam-muội như sau: “Thế nào là tam-muội? Chính là nhớ chuyên, tưởng lặng. “Nhớ chuyên” thì ý chí không đổi dời, “Tưởng lặng” ắt khí thanh thần sáng. Khí thanh thì trí soi ngộ đến lý nhiệm mầu, thần sáng thì không chỗ u vi nào chẳng thấu. Hai điểm này tự nhiên thầm hợp với lý huyền mà lại phát sanh diệu dụng. Lại, các môn tam-muội danh mục rất nhiều, mà công cao dễ tu thì niệm Phật là hơn hết”. Như vậy, không thể nào đem các định sở duyên của phàm phu so sánh được với tam-muội này. Tạ Linh Vận có làm bài vịnh Tịnh Độ như sau: Pháp Tạng ở vương cung Mến đạo bỏ quốc thành Phát bốn mươi tám nguyện Thệ độ khắp quần sanh. Tịnh Độ cõi vi diệu Người đến đều tinh anh Cõi không có suy lão Được độ, sớm vãng sanh. Ông hỏi: Chưa thấy có người vãng sanh nào trở lại báo tin. Tôi xin trả lời: Có ông Khuyết Công Tắc ở đời Tấn nguyện vãng sanh rồi trở lại báo tin. Sau khi ông chết, người bạn đồng tu với ông đến chùa Bạch Mã ở Đông Kinh tụng kinh hồi hướng công đức cho ông, đêm đó trong điện bỗng sáng rực, trên hư không có tiếng nói: Tôi là Khuyết Công Tắc, nguyện sanh Cực Lạc nay được kết quả, cho nên về đây báo tin cho mọi người biết”. Nói xong ẩn mất. Ông Chi Đạo Lâm có làm bài tán: Cao cả thay! Khuyết Công Thần dị linh thiêng Thần sanh Cực Lạc Ứng tích Đông Kinh Bay trên hư không Thân sáng, giọng hòa Kính dâng vài lời Ghi truyền cõi thế. Ngu Hiếu Kính cũng làm bài tán: Lạ thay! Ngài Công Tắc Được nếm pháp vị trước Mấy ai biết được Ngài Đạo huyền vi mới quý Kim quang rực bóng đêm Ngọc nhan bừng mặt nhật Không bỏ người hữu duyên Báo cùng bạn đồng hạnh. MÔN THỨ XII LẤY MỘT TÂM MỘNG VÀ THỰC ĐỂ THUYẾT MINH TAM-MUỘI Hỏi: Việc ông Khuyết Công Tắc vãng sanh trở lại báo tin, tôi đã tin rồi. Đức Phật nói tất cả pháp như mộng, chẳng biết đức Phật được niệm và cõi Tịnh Độ để sanh về có như mộng chăng? Nếu không phải là mộng thì Phật ở ngoài tâm. Nếu là mộng thì Phật ở trong tâm như trong mộng thấy vàng mà thức dậy không thấy gì cả. E rằng luống niệm ba thân, rốt cuộc chỉ là một vọng. Xin Ngài vì tôi trình bày điều ấy. Đáp: Không phải vọng đâu! Vì sao biết như thế? Nếu người tu pháp niệm Phật tam-muội như người nằm mộng thấy vàng mà thức dậy không có vàng thì đồng là vọng. Song người niệm Phật cứu cánh nhân niệm Phật mà được vãng sanh Tịnh Độ, thì đâu được gọi là vọng. Cũng như người tập pháp thiên nhãn, lúc đầu tưởng ánh sáng của châu, của lửa v.v.. Tưởng như thế không ngừng cho đến khi thiên nhãn thật sự phát sanh thì ai gọi là vọng. Như thế đâu có giống với trường hợp mộng thấy vàng mà rốt cuộc không có chi cả. Chớ đem việc xa thấy gần (pháp thiên nhãn) ví với mộng, cũng như chẳng nên việc niệm Phật vãng sanh cho là đồng với mộng. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm, Phật, chúng sanh, cả ba không sai khác”. Tâm mê thì như mộng ắt hiện bày đủ chín pháp giới chúng sanh. Tâm ngộ như tỉnh thức thì một pháp giới tức là pháp giới chư Phật. Sự mê ngộ chỉ ở tại một tâm, mộng và thức không có hai, cho nên kinh thường nói: “Liễu ngộ vọng vốn tự chân ắt thấy Lô-xá-na”. Dẫu cho mộng này là vọng cũng đâu sai lầm, chỉ nên dùng duy tâm để quán sát chớ nên cố chấp. MÔN THỨ XIII NIỆM BA THÂN PHẬT ĐỂ PHÁ BA CHƯỚNG Hỏi: Phật có ba thân, làm thế nào ức niệm? Xin Ngài chỉ cho phương tiện để tôi tránh được chỗ sơ sót. Đáp: Ba thân Phật là pháp thân, báo thân và hóa thân. Pháp thân như cái thể của mặt trăng. Báo thân như ánh sáng của mặt trăng. Hóa thân như bóng mặt trăng. Trong muôn dòng nước đều có mặt trăng hiện, mặt trăng này là nhiều hay là một? Không thể nói là một, vì ánh trăng trong muôn dòng nước khác nhau, cũng không thể nói là nhiều, vì ánh trăng trên hư không vẫn là một. Như chữ “ ... ” (Y) trong Phạn ngữ gồm ba chấm, cũng như vị trời Ma-hê có ba mắt, dọc ngang đều sai khác, đều chẳng thể nghĩ bàn vậy. Kinh nói: “Hoặc hiện thân nhỏ một trượng sáu hay tám thước” đều là Phật ở trong nước tâm của chúng sanh. Phật còn không có hình tướng, há lại có hai thân sao? Tịnh độ, uế độ có ra cũng từ tâm chúng sanh. Nếu muốn đem sự tưởng niệm ba thân để phá ba chướng, nay tôi xin thử thuyết minh điều này. Sự tưởng niệm thân Phật phát khởi là nhờ tu pháp chỉ quán. Nếu chỉ quán không đồng đều thì các chướng nổi lên. Người niệm Phật tu chỉ, tâm bị chìm đắm, chướng hôn ám khởi che mất hóa thân Phật, cần phải nhờ sự quán chiếu giúp thêm cho phấn chấn, đó là quán tướng bạch hào mới phá được chướng hôn ám. Tu quán, tâm phù động, vọng niệm nổi lên làm chướng báo thân Phật, trở lại tu chỉ để dừng vọng niệm, nhờ niệm cái nhân thuở quá khứ của chư Phật có hà sa công đức, trí huệ viên mãn, vì thù đáp cái nhân trước kia nên gọi là báo, phá được cái chướng của vọng niệm. Nếu cái chướng của hai bên (hôn, tán) phát động, bày ra muôn tướng sai khác lăng xăng, cả hai thứ giặc này (hôn, tán) hoặc mạnh hoặc yếu đều ngăn che pháp thân Phật, nên phải dùng Trung đạo đệ nhất nghĩa không để phá trừ. Kệ rằng: Không sắc, không hình tướng Không căn, không trụ xứ Vì không sanh, không diệt Kính lễ Vô sở quán. Lý của sở quán như cơn gió mạnh Tỳ Lam thổi tan đám mây dày đặc, hiện rõ vầng trăng báu pháp thân thanh tịnh phá cái chướng bức não, cũng không khác chi với việc tùy bệnh cho thuốc. Ta đã giáo hóa người, người lại giáo hóa người khác, mình người đều thành tựu, tam-muội càng hưng thạnh, vì chúng sanh vô tận nên tam-muội không bao giờ dứt. Sáu môn đã trình bày trên đều mang cái ý: “Niệm Phật A-di-đà hiện tại thông tam thế”. Trong các tập như Anh Lạc Tập, Thập Nghi Luận của ngài Thiên Thai, Thích Quần Nghi Luận của Pháp sư Hoài Cảm, Vãng Sanh Truyện, Pháp Bảo Nghĩa Luận của Trù thiền sư đều giải thích vấn đề này một cách rộng rãi. Phi Tích tôi trước kia cũng có soạn một quyển sách nhan đề Vô Thượng Thâm Diệu Thiền Môn Truyền Tập Pháp Bảo cũng với mục đích nói rộng về pháp môn này.
Chú thích: [10] Trong kinh A-di-đà nói: Cõi Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi Phật. [11] Ba cõi (tam hữu): Dục giới, sắc giới, vô sắc giới. [12] Hai mươi lăm cõi: 1. Địa ngục, 2. Súc sanh, 3. Ngạ quỷ, 4. A-tu-la, 5. Đông Phất-sa-đề, 6. Tây Cù-da-ni, 7. Bắc Uất-đan-việt, 8. Nam Diêm-phù-đề, 9. Tứ Thiên Xứ, 10. Tam Thập Tam Thiên Xứ, 11. Diêm-ma Thiên, 12. Đâu-suất Thiên, 13. Hóa Lạc Thiên, 14. Tha Hóa Tự Tại Thiên, 15. Đại Phạm Thiên, 16. Sơ Thiền, 17. Nhị Thiền, 18. Tam Thiền, 19. Tứ Thiền, 20. Vô Tưởng, 21. Tịnh Cư A-na-hàm, 22. Không Xứ, 23. Thức Xứ, 24. Bất Dụng Xứ, 25. Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ. [13] Hai mươi lăm tam-muội: 1. Vô cấu tam-muội, 2. Bất thoái tam-muội, 3. Tâm lạc tam-muội, 4. Hoan hỷ tam-muội, 5. Nhật quang tam-muội, 6. Nguyệt quang tam-muội, 7. Nhiệt diễm tam-muội, 8. Như huyễn tam-muội, 9. Bất động tam-muội, 10. Nan phục tam-muội, 11. Duyệt ý tam-muội, 12. Thanh sắc tam-muội, 13. Hoàng sắc tam-muội, 14. Xích sắc tam-muội, 15. Bạch sắc tam-muội, 16. Chủng chủng tam-muội, 17. Song tam-muội, 18. Lôi âm tam-muội, 19. Chú vũ tam-muội, 20. Hư không tam-muội, 21. Chiếu cảnh tam-muội, 22. Vô ngại tam-muội, 23. Thường tam-muội, 24. Lạc tam-muội, 25 Ngã tam-muội. [14] Tam quán: Không quán, giả quán, trung quán. [15] Tam đế: 1. Không đế còn gọi là chân đế, vô đế; 2. Giả đế còn gọi là tục đế, hữu đế; 3. Trung đế còn gọi là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. [16] Tam đức: Ba đức Niết-bàn: Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát. Ba đức của Phật quả: Trí đức, Đoạn đức, Ân đức. [17] Tam thân: Pháp thân, Hóa thân, Báo thân. [18] Mười thứ ba pháp: Thuyết của tông Thiên Thai: 1. Ba đạo (hoặc, nghiệp, khổ) 2. Ba thức (Am-ma-la thức, A-lê-da thức, A-đà-na thức) 3. Ba Phật tánh (chánh nhân, liễu nhân, duyên nhân) 4. Ba Bát-nhã (thật tướng, quán chiếu, tam-muội) 5. Ba Bồ-đề (thật tướng, thật trí, phương tiện) 6. Ba đại thừa (lý, tùy, đắc) 7. Ba thân (pháp thân, báo thân, ứng thân) 8. Ba Niết-bàn (tánh tịnh, viên tịnh, phương tiện tịnh) 9. Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) 10. Tam đức (Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát) [19] Đoạn này ý nói Thánh cảnh hiện tiền. 3 MÔN THỨ XIV NIỆM PHẬT QUÁ KHỨ NHÂN QUẢ TƯƠNG ĐỒNG Hỏi: Ý nghĩa uyên áo của sự niệm Phật hiện tại chuyên chú một cảnh đã được nghe Ngài dạy rồi. Đức Phật được niệm là bậc đã đạt đến chỗ tột của đạo nên được tôn xưng là Như Lai, còn người niệm Phật là kẻ mới phát tâm vào đạo, hãy còn ở địa vị phàm phu, đâu được trộm nói là đồng Chánh Giác. Đáp: Kinh Tam-muội Hải nói: Đức Phật được niệm như sư tử vương đã ra khỏi thai, dụ cho quả Phật, còn người niệm Phật như sư tử vương còn ở trong thai, dụ cho Phật tử. Nhân quả tuy sai khác nhưng oai thần liên hệ với nhau, vì luận về tánh Phật thì đâu có chi sai khác. Muốn sư tử vương còn ở trong thai gầm rống làm cho chim chóc sợ hãi rơi xuống, muông thú trốn chạy thì chưa thể được. sau khi ra khỏi thai, có thể kiểng chân mà chờ, đâu có lỗi gì? Song cái nghĩa nhân quả tương đồng là một vậy. Kinh Pháp Cổ nói: “Vua Ba-tư-nặc cùng nước địch giao chiến, vua bị trúng tên độc đau đớn không chịu được. Vua nghe nói có thứ thuốc hay tên là tiêu độc vương dùng bôi lên mặt trống, rồi đánh trống lên khiến cho tên độc theo tiếng trống vọt ra ngoài. Nhà vua làm theo và được bình phục. Nếu người nào nghe được danh hiệu đức Phật Thích-ca Mâu-ni và danh hiệu bậc tỳ-kheo thâm tín kinh Phương Quảng thì đủ khiến cho mũi tên ba độc trong thân vọt ra ngoài, vì thế kinh này được gọi là Đại Pháp Cổ”. Đức Thích-ca là Phật quá khứ tức là quả. Bậc tỳ-kheo thâm tín kinh Phương Quảng là nhân, mà sự diệt trừ tội chướng đồng nhau, ý nghĩa chỉ là một vậy. Hai kinh này nói tuy chưa đến bậc cực quả mà người khác nghe danh hiệu còn được sự lợi ích đồng như nghe danh hiệu chư Phật không khác. Do đó trong quyển thứ năm của bộ Pháp Hoa Tam-muội Sư Tư Truyện có ghi: Đời Tùy, đại thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc có người đệ tử là thiền sư Đại Thiện đắc được Từ bi Tam-muội. Bấy giờ, ở Hoành Dương có quan nội sử Trịnh Tăng Kiểu vốn không phải là người tin Phật sâu, mở hội đi săn, ông vây bắt được vài mươi con nai và bảo Trần Chánh Nghiệp rằng: “Ngài thường nói thiền sư Đại Thiện có sức từ bi, ông ta làm thế nào đối với bầy nai này?” Chánh Nghiệp đốc xuất những người bên cạnh mình đồng xưng một tiếng “Nam-mô Đại Thiện Thiền sư”, lúc đó bầy nai liền bay lên không mà thoát, xem thế, có khác nào thần lực của Quán Thế Âm. Đại Thiện cùng với ngài Trí Giả là hai người nổi tiếng đương thời. Nếu không khinh thường lời Thánh nhân thì niệm Phật tam-muội sẽ trừ được ma, dứt được họa, cũng như kim loại được tinh luyện trong lò, sự chuyển biến ngày đêm không ngừng vậy. MÔN THỨ XV VÔ TÂM NIỆM PHẬT, LÝ SỰ SONG TU Hỏi: Viên niệm chư Phật ba đời hoặc chuyên day mặt về một hướng, tôi đã được nghe ý nghĩa u huyền, song đều có niệm, có nhớ, có sanh, có diệt thì đâu thể đồng với ý chỉ “Dùng tâm vô sở niệm mà tu niệm Phật” của kinh Thắng Thiên Vương Sở Vấn. Đáp: Lời nói vô niệm, như nhiều người vì không xét xem kỹ lưỡng nên dễ bị lầm. Nay chúng ta thử đem lý sự biện luận. Nói lý môn là nói chân vô niệm. Giải thích rằng: Có cùng với không, chính là cái niệm này mà nó vốn là không. Vì sao? Vì Phật từ tâm sanh, tâm tức là Phật. Như dao không tự cắt dao, ngón tay không tự sờ lấy nó, Phật đã không tự là Phật, tâm cũng chẳng tự là tâm thì đâu có thể ngoài Phật lập tâm, ngoài tâm lập Phật, Phật đã không có, há tâm lại có sao? Ý nghĩa của vô tâm niệm Phật được giải rõ ràng rồi. Nhiều người nói niệm Phật là hữu niệm, còn tôi cho rằng niệm Phật là vô niệm. Niệm chính là “không” đâu được cho là “hữu”, chẳng phải niệm diệt mới thành không, đâu được cho là “vô”. Tánh của niệm tự không, đâu được cho là “sanh diệt”. Lại “tâm vô sở niệm” đó là “ưng vô sở trụ”, “mà tu niệm Phật” đó là “nhi sanh kỳ tâm”. Lại “tâm vô sở trụ” đó là “tòng vô trụ bổn”, “mà tu niệm Phật” đó là “lập nhất thiết pháp”. Lại “tâm vô sở niệm” đó là “niệm tức thị không”, “mà tu niệm Phật” đó là “không tức thị niệm”([20]), ý chỉ chẳng khác, đây là thuyết minh trung đạo vậy. Song tịch là chỉ, song chiếu là quán. Định huệ không đồng đều thì chẳng chánh thọ, làm sao có thể gọi là tam-muội. Chiếu mà thường tịch tức là “tâm vô sở niệm”, tịch mà thường chiếu tức là “mà tu niệm Phật”. Đức Như Lai chứng chánh định tịch chiếu là vị cứu cánh của niệm Phật tam-muội. Do đó, tam-muội này có thể làm phát sanh Thủ-lăng-nghiêm Vương Sư Tử Hống Định. Như bài kệ phá tướng trong kinh Bồ-tát Niệm Phật Tam-muội nói: Niệm Phật thân sắc vàng An trụ tâm vô trước Ngẫm pháp gì là Phật? Nhiếp tâm quán sát luôn Sắc vàng không phải Phật Bốn ấm sau cũng vậy. Lìa sắc chẳng phải Phật Người quán sắc nên biết Đây là chỗ tối thắng Tịch tịnh của Như Lai. Khéo hay diệt tất cả Tà kiến của ngoại đạo Như Long Vương giáng mưa Nhuần thấm khắp tất cả. Kinh này nói lục độ, vạn hạnh chưa có một hạnh nào chẳng phải là niệm Phật tam-muội. Hỏi: Lý môn đã giải thích xong, xin Ngài chỉ dạy sự môn để người học được chân vô niệm hợp với Bát-nhã ba-la-mật hầu mở rộng thiền định sâu xa Đại thừa vô tướng. Đáp: Lý cùng với sự cách nhau là bao! Đoạn trước thuyết minh lý tức sự, đoạn này nói sự tức lý. Kinh Đại Phẩm Bát-nhã nói: “Phật vì kẻ độn căn mà nói các pháp là không tịch, vì hạng người này hay chấp trước. Phật vì người lợi căn mà nói tướng hảo của chư Phật vì biết họ như hoa sen không nhiễm trần”. Vì thế. Ngài Tu-bồ-đề trong hàng Tiểu thừa là người Giải Không đệ nhất, không danh không tướng, mà đến khi được thọ ký thì hiệu là Danh Tướng Như Lai. Nếu ngài Tu-bồ-đề không phải là bậc Đại thừa thì còn sợ bị sắc, thanh, hương, vị, xúc khuấy nhiễu, trốn tránh chưa xong, thì đâu dám dạo chơi trong vườn danh tướng. Nhưng vì Ngài đã đạt danh tướng nên mới được Phật thọ ký. Nói sự môn là nói Phật sanh nơi tâm, Bát-chu không niệm mà đã đến; muôn cảnh đều từ tâm mình sanh, Pháp Hoa không bao lâu sẽ tự đạt. “Tâm vô sở niệm” tức là dứt các loạn tưởng, “mà tu niệm Phật” tức là khéo tưởng một đức Phật. Kinh Văn-thù Sở Thuyết Ma-ha Bát-nhã nói: “Như người học bắn tên, luyện tập lâu ngày sẽ giỏi, sau đó tuy vô tâm mà bắn vẫn trúng. Nếu người nào muốn nhập Nhất Hạnh Tam-muội, nên tùy theo phương của đức Phật, day mặt về hướng ấy mà xưng danh hiệu, niệm niệm nối nhau tức thì trong một niệm được thấy chư Phật ba đời, như người tập bắn kia sau khi đã tập thuần thục, vô tâm vẫn bắn trúng”. Chẳng phải vô niệm hay sao? Thế nên kinh Phương Đẳng nói: “Khăng khăng niệm không ngừng thì Phật sẽ hiện ra”. Kinh Anh Lạc nói: “Đạo là nhất tâm, nhiều tưởng không phải là Đạo”. Kinh Tọa Thiền Tam-muội nói: “Bồ-tát tọa thiền không tưởng niệm tất cả pháp khác, chỉ niệm một đức Phật như núi Tu-di vàng ở giữa biển rộng trong mát, nhẫn đến các công đức pháp thân cũng niệm như vậy”. Hỏi: Nếu bảo vô niệm là tam-muội, sao không đi thẳng vào vô niệm, mà phải quanh co dùng đến niệm? Đáp: Kinh Lăng-già nói: “Dùng chốt để tháo chốt”. Ngạn ngữ nói: “Sai giặc đi bắt giặc”. Nay dùng niệm để dừng niệm, không được hay sao? Huống chi khi niệm thuần thục rồi, không lo vô niệm mà vô niệm vẫn tự thành, chẳng cần phải phí sức. Như kiếm khách múa kiếm, đang múa bổng tra kiếm vào vỏ sau lưng mà vẫn không chút trở ngại. Như tên đầu bếp nhà nghề vung dao mổ trâu mà tiếng dao hòa cùng tiếng múa của rừng dâu. Đó rõ ràng đều là do sự thuần thục. Cho nên Luận Khởi Tín nói: “Nếu biết tuy thuyết mà không có năng thuyết khả thuyết, tuy niệm mà không có năng niệm khả niệm thì được gọi là tùy thuận. Nếu ly nơi niệm, được gọi là đắc nhập”. Đắc nhập tức là Chân như tam-muội. Huống chi ngôi vị Vô niệm ở bậc Diệu giác, vì bậc ấy liễu ngộ cái tướng của tâm mới bắt đầu sanh, nên nói rằng sơ tướng là chỗ vô niệm, không phải là chỗ hiểu biết của hàng Bồ-tát Thập Địa. Nay người chưa đến địa vị Thập Tín mà không y theo Đại sĩ Mã Minh dạy từ thuyết nhập vào vô thuyết, từ niệm nhập vào vô niệm thì nào có khác chi sùng mộ cái đài cao mà khinh chê sự nhóm đất đắp nền, cầm ngược chiếc áo để tìm bâu, có thể được ư? Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: “Ngài Đại Thế Chí pháp vương tử cùng 52 vị Bồ-tát đồng hạnh từ chỗ ngồi đứng dậy lễ chân Phật, rồi bạch Phật rằng: Con nhớ lại hằng hà sa số kiếp về trước có Phật xuất hiện hiệu là Vô Lượng Quang, mười hai đấng Như Lai tiếp nối, vị Phật cuối cùng là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật ấy dạy con môn niệm Phật tam-muội. Ví như có người luôn luôn nhớ, còn một người luôn luôn quên, hai người ấy dù gặp nhau hay không gặp cũng chẳng thấy biết nhau. Nếu hai người cùng nghĩ đến nhau, sự nghĩ nhớ càng sâu xa, như vậy từ đời này cho đến đời khác sẽ gần nhau như hình với bóng. Các đức Như Lai trong khắp mười phương thương xót, nghĩ nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con bỏ đi, mẹ tuy có nhớ cũng không làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như khi mẹ nhớ con thì mẹ con cả đời chẳng hề xa nhau. Nếu tâm chúng sanh luôn luôn nhớ Phật, niệm Phật thì hiện tiền, đương lai quyết định thấy Phật, cách Phật không xa, không cần phương tiện tự được tâm khai như người dùng hương thơm xoa thân, thân có mùi thơm, đó gọi là “Hương quang trang nghiêm”. Bổn nhân địa của con là dùng tâm niệm Phật nhập Vô sanh nhẫn. Nay con ở cõi này nhiếp người niệm Phật hướng về Tịnh Độ. Phật hỏi viên thông, con không lựa chọn, thu nhiếp sáu căn tịnh niệm nối luôn đắc Tam-ma-địa, đây là bậc nhất”. MÔN THỨ XVI LIỄU ĐẠT TÂM VÀ CẢNH THÌ VỌNG TƯỞNG KHÔNG SANH Hỏi: Không liễu đạt tâm và duyên liền khởi hai thứ vọng tưởng, hiện nay còn Phật sở niệm và tâm năng niệm, há không phải là hai thứ vọng tưởng sao? Đáp: Kinh Lăng-già nói: “Liễu đạt tâm cùng cảnh giới, thì vọng tưởng liền không sanh”. Không sanh tâm chính là xa lìa tướng năng sở. Tôi nay niệm các tướng như thiên bức luân hoặc chữ , mắt biếc, bạch hào v.v… đều là tự tâm của tôi, không thấy Phật có thể tìm được, duyên đã không có thì tâm há lại có sao! Như vậy, cái niệm năng tưởng và Phật sở tưởng đều tự xa lìa, đâu được nói là trụ nơi hai vọng tưởng. Theo chỗ giác ngộ của các bậc hiền thánh thuở xưa nối tiếp truyền trao cho nhau là “vọng tưởng vô tánh”, phải ngay nơi đó tỏ ngộ. Lại, như quán thật tướng Phật, quán thân cũng vậy, gặp cảnh nào cũng vậy, gặp cảnh nào cũng đều chân, không tâm nào chẳng phải Phật, lý trung đạo trùm khắp, há còn đức Phật sở duyên ư? Thêm lời giải thích như sau: Như có người mũi dính một vết mực, lấy kính soi, không ưa vết mực nhưng chỉ một bề lo lau kính, như thế có được chăng? Đối với cảnh đẹp xấu, phải trái trước mắt nếu chẳng liễu đạt tự tâm, chỉ dẹp cảnh có thể được không? Chi bằng chúng ta rửa sạch sự phân biệt như lau vết mực trên mũi thì gương soi được tròn sáng, muôn cảnh toàn chân và ngay khi đó nắm đá thành vàng, chúng sanh tức là Phật. Do đó, Tục Cao Tăng Truyện có ghi: Nước Tề, có Hướng cư sĩ viết một bức thư cho thiền sư Huệ Khả, nội dung như sau: “Bóng do hình hiện, âm vang theo tiếng. Bắt bóng nhọc hình, không biết hình là gốc của bóng. Phát ra tiếng mà muốn ngừng âm vang, không biết tiếng là gốc của âm vang. Người trừ phiền não để cầu Niết-bàn giống như kẻ tránh hình tìm bóng, còn người lìa chúng sanh mà cầu tánh Phật khác nào kẻ bặt tiếng mà tìm vang. Cho nên biết: Mê ngộ chỉ một đường, trí ngu không khác, không có danh mà đặt danh, do cái danh mà thị phi sanh, không có lý mà lập lý, do cái lý mà tranh luận khởi. Huyễn hóa chẳng phải chân thì cái gì đúng, cái gì sai? Hư vọng không thật thì cái gì không, cái gì có? Thế mới biết đắc cái vô sở đắc, thất cái vô sở thất. lời mạn đàm này xin trình lên Ngài, mong giải đáp cho!” Thiền sư Huệ Khả tạm mượn bút mực đáp lời cư sĩ: Bảo rằng chân pháp đều như thật Khế hợp lẽ chân, lý không khác Vốn mê ma-ni cho sỏi đá Hoát nhiên tự ngộ biết chân châu Vô minh, trí huệ đồng không khác Cho nên phải biết vạn pháp Như Mục đích nhằm phá bọn nhị kiến Mượn lời thay ý viết thư này Quán thân và Phật không sai khác Cần gì phải kiếm ở đâu xa! Hai vị thượng sĩ kể trên đều theo Xứng pháp hạnh của Đại sư Đạt-ma, lý quán dụng tâm đều là niệm pháp thân Phật trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Như thế, quyết định không lìa niệm để gìn vô niệm, lìa sanh để lập vô sanh. Nếu lìa niệm cùng sanh mà lập vô niệm, vô sanh tức là chưa rõ lý “Phiền não tức Niết-bàn, chúng sanh tức chư Phật”, làm sao có thể ngộ được sỏi đá như chân châu. Đã lìa chẳng thể được thì chính niệm Phật mà thật là vô niệm, chính vãng sanh mà thật là vô sanh. Nghĩa này sáng tỏ như đêm thu trong lặng ánh trăng ra khỏi lùm mây, đâu giống như kẻ ngu si thấy ngón tay mà không thấy mặt trăng. MÔN THỨ XVII TRONG TÂM HÀNH CẦU SỰ GIẢI THOÁT CỦA CHƯ PHẬT Hỏi: Niệm Phật gọi là chân vô niệm, vãng sanh được gọi là chân vô sanh. Tôi đã tin rồi. Kinh Duy-ma nói: “Làm thế nào để cầu sự giải thoát của chư Phật? Phải ở trong tất cả tâm hành của chúng sanh mà cầu”. Đã nói ở trong tất cả tâm hành mà cầu, sao không cầu ngay tự tâm mà lại cầu Phật bên ngoài? Đáp: Ông nói pháp Niệm Phật Tam-muội vô thượng diệu thiền chẳng phải là cầu ở trong tâm hành. Điều đó chẳng đúng. Tôi sẽ nói rõ cho ông nghe. Tâm hành là hành nơi ba cảnh: Thứ nhất là hành nơi cảnh thiện, chính pháp Niệm Phật Tam-muội là pháp thiện trong cái thiện, như trời trong các vị trời; thứ hai là hành cảnh bất thiện là những cảnh giới xấu ác như tham, sân, si v.v… thứ ba là hành cảnh vô ký nghĩa là tâm không trụ, không duyên thiện ác. Nếu luận về lý tánh thì lý bao hàm cả ba, còn nói về thuận lý thì chỉ để lại cảnh thiện. Kinh nói: “Chấp ngã là cấu, không chấp ngã là tịnh” có nghĩa là không rõ pháp tánh thể không xan tham, trái pháp tánh mà không hành thí. Dẫu có bố thí mà trụ bố thí, chẳng thể buông xả được ý niệm bố thí, chẳng phải cấu thì là gì! Nếu có thể liễu tri tùy thuận pháp tánh thực hành Đàn ba-la-mật (Bố thí ba-la-mật) không thấy có tướng lẫn tiếc và bố thí, khéo tùy thuận lý, không phải tịnh thì là gì! Bất thiện, vô ký trái với pháp tánh không dính dáng gì đến thiện. Do đó Thắng Thiên Vương hỏi Phật: - Thế nào là Bồ-tát thông đạt thiền ba-la-mật? Phật đáp: - Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật, hành Thiền ba-la-mật nên quán tâm này hành trong những cảnh nào hoặc thiện hoặc bất thiện hay vô ký. Nếu hành cảnh thiện thì nên siêng năng tu tập ví như hoa sen không dính nước, đến một pháp bất thiện cũng không cho dính. Căn cứ lời Phật dạy như thế há có cái bất thiện và vô ký mà chẳng chịu từ bỏ sao! Vậy thì thiện tâm thuận lý hành trong thiện cảnh hăng hái niệm Phật giải thoát ở trong tâm hành. Nếu cho rằng tâm hành niệm Phật không phải là giải thoát thì hai tâm hành bất thiện và vô ký há có được sự giải thoát ư? Nếu mê nơi sự giải thoát này thì bị chìm đắm cho đến cùng kiếp, còn trực ngộ thì ngay đó liền chứng mau như trở bàn tay. Trông lại các gương của những bậc thiền đức cũng đều như thế. Như Lai là bậc Thế Hùng, trong pháp thiền định của ngài, vẫn lấy pháp niệm Phật tam-muội làm tối thượng, các tam-muội khác còn có đối đãi thuộc những món định của phàm phu. Vậy Bảo vương tam-muội không trụ nơi tướng cao, tướng thấp, tướng tà, tướng chánh, tướng sanh tử, tướng Niết-bàn, tướng phiền não, tướng Bồ-đề, tướng tịnh, tướng loạn, tướng thành chánh giác, tướng độ chúng sanh, tướng tọa đạo tràng, tướng vô sở đắc, đối với các tướng này đều không trụ cũng như từ mộng tỉnh thức không có đến đi, cho nên Đại Phẩm nói: “Không đến, không đi là Phật” và như thế phù hợp với lý trung đạo rồi, đâu còn trụ nơi biên tế nào. Như bài kệ trong kinh Chư Pháp Vô Hành nói: Ví như người ở trong mộng Đắc Phật đạo, độ chúng sanh Đây không đạo, không chúng sanh Pháp tánh Phật cũng như thế. Ngồi đạo tràng vô sở đắc Nếu chẳng đắc ắt chẳng có Minh, vô minh đồng nhất tướng Biết như thế là Thế Tôn. Tánh chúng sanh tức Bồ-đề Tánh Bồ-đề tức chúng sanh Chúng Bồ-tát cũng không hai Biết như thế là Thế Tôn. MÔN THỨ XVIII BA NGHIỆP CÚNG DƯỜNG CHÂN THẬT BIỂU KÍNH Hỏi: Tôi đã được nghe ý nghĩa huyền diệu của quán môn tam-muội, còn về việc ba nghiệp cúng dường sau khi Phật diệt độ rồi, được phước có nhiều hay chăng? Đáp: Luận về cúng dường pháp giới hải thì ở trong muôn hạnh, thanh tịnh được ba nghiệp, đó gọi là cúng dường, huống chi tư duy chân cảnh mà chẳng phải cúng dường sao? Kinh Lý Thú Bát-nhã nói: “Tất cả pháp hoặc thường hoặc vô thường đều không thể được”. Lý rộng cúng dường các đức Như Lai chẳng rõ ràng ư! Lúc Như Lai còn tại thế, dâng cúng để bày tỏ lòng thành kính đều nói biển hương, mây hoa xông rải khắp các cõi nước nhiều như vi trần, như vậy vẫn còn cho là ít. Đại sĩ nhập quán, tưởng Tu-di là ngọn đèn, biển cả là chén dầu cũng chưa thỏa lòng ân cần kính trọng. Cho nên ngài Hỷ Kiến Bồ-tát đốt cánh tay sắc vàng cúng dường tháp Phật Tịnh Minh, toàn thân rực lửa chiếu sáng mười phương. Còn người đời nay chỉ đề cao tự tâm chỉ đó là bông hoa, trái với nghi thức cúng dâng, thật là kiêu mạn biết bao! Ông hỏi tôi: Phật diệt độ rồi, cúng dường có phước được nhiều chăng? Tôi cũng thử bàn luận xem! Như chuyện Đinh Lan tạc tượng cha mẹ bằng gỗ thờ ở nhà, cung phụng như lúc còn sống, danh thơm vẫn còn lưu lại sử xanh cho đến ngày nay ai cũng xưng tụng là người con hiếu. Nếu Như Lai còn tại thế, thân như hòn núi vàng sáng rực, nghiêm tướng rỡ ràng, ai trông thấy mà chẳng phát đạo tâm và có ý thành khẩn hiến cúng, thật dễ dàng. Bây giờ, bậc Thế Hùng đã ẩn mất, trăng đà khuất núi điệp trùng, chúng ta không được cung phụng chân nghi mà chỉ nhờ kinh điển, đối trước hình tượng phát ý vô thượng cúng dâng một cành hoa. Chí ấy, tâm ấy thật quý hoá thay! Như thế không phải là khó hơn sao? Kinh Niết-bàn nói: “Cho đến dâng cúng một cánh hoa ắt được sanh về cõi Bất Động”. Do đó, một nén hương, một cành hoa, một ngọn đèn, cho đến một tiếng nhạc hoặc đồ ăn thức uống, tận tâm hoan hỉ cúng dường chư Phật ba đời đều là diệu nhân của Tịnh Độ, là cội nguồn của sự thành Thánh, đâu thể khinh thường những việc nhỏ nhặt đó mà chẳng vâng làm ư! Nếu bỏ những hạnh này mà nghe theo những lời không căn cứ như: Dâng tâm hoa, thắp tâm đăng, đốt tâm hương, lễ tâm Phật mà muốn cầu Chánh Giác, chẳng khác nào chạy theo cái khéo léo của khỉ vượn mà trông mong giữ cả rừng mai. Đến khi bảo họ hãy mặc cái áo tâm, ăn cơm tâm thì họ khốn khổ cự lại không thôi. Cho đến lục độ, vạn hạnh chẳng phải là để bày trừ cái tâm không-kiến đó sao! Lời nói theo kiểu “chỉ tâm vọng không”([21]) có sự lỗi lầm như thế, không thể nào không thận trọng được. Song môn Chân Ngôn Du-già quán hạnh cũng dụng biểu tướng của sự môn, chứ không phải một bề chấp tâm, nên luôn luôn sáu thời cúng dường hương hoa không hề phế bỏ. MÔN XIX VÔ TƯỚNG HIẾN HOA, TIN VÀ HỦY BÁNG ĐỀU CÓ QUẢ BÁO Hỏi: Hoa là sự, còn lý ở đâu? Tin và hủy báng có quả báo thế nào? Đáp: Hoa tức là lý, sắc tức là không vậy. Quả báo của sự tin tưởng được nói trong kinh Bi Hoa: “Ngày xưa có vị vương tử tên là Vô Sở Úy tay cầm hoa sen dâng cúng Phật Bảo Tạng. Phật nói: “Ngươi đem hoa sen nầy ấn trên hư không, nay ta ban cho ngươi hiệu là Hư Không Ấn, đương lai thành Phật, thế giới tên là Liên Hoa, Phật hiệu là Liên Hoa Tôn, chính là ngươi vậy”. Quốc độ và Phật nầy đều do ngày xưa hiến hoa sen mà có danh hiệu, đó là để cho biết cái nghĩa “từ nhân cảm được quả”, đâu phải vì tuân theo ý chỉ vô tướng mà làm trở ngại cho sự cúng dường hương hoa! Còn nói về quả báo của sự hủy báng, kinh Đại Phương Đẳng Tổng Trì có nói: “Xưa, có một vị tỳ-kheo tên Tịnh Mạng an trụ chánh kiến đem hoa cúng dường. Lại có một tỳ-kheo khác tên Pháp Hạnh có tà kiến, do đắc Tứ thiền nên thường nói không tông Bát-nhã là tối thắng, chê Pháp sư Tịnh Mạng rằng: “Tịnh Mạng nhận được hoa, chẳng đem cúng dường, mà tự thọ dụng”. Do lời nói nầy, bị quả báo sáu muôn đời không có lưỡi, cho đến khi thành Phật cũng vẫn ở trong ngũ trược. Tỳ-kheo đó là ai? Chính là Phật Thích-ca vậy. Phật dạy: “Người không chịu học hiểu đạo lý, ở trong pháp ta, vọng chấp nhị biên, sau khi chết bị đọa địa ngục đến trăm ngàn kiếp. Nếu nhìn người phát tâm Bồ-đề bằng mắt độc ác sẽ bị quả báo đui mù, nếu nói lời ác hủy báng người phát tâm Bồ-đề sẽ bị quả báo không lưỡi. Nếu chỉ tu Bát-nhã ba-la-mật mà chứng đắc Bồ-đề, ngày xưa Ca-thi-ca Vương lúc thực hành hạnh Bồ-tát xả thân mạng đáng ưa thích như đầu, mắt, tủy, não, Vua ấy há chẳng phải là bậc trí tuệ hay sao? Do đó biết cần phải tu hành đầy đủ sáu pháp ba-la-mật, chỉ chấp trước vào một môn cũng đủ là nghiệp ma, đâu nên bỏ sự cúng dường hiến hoa mà đem cái “ác thủ không” xâm hại đến Bát-nhã chân vô tướng. Nếu không có quả báo không lưỡi, làm sao tự biết được lỗi lầm mà chừa. Như Lai sở dĩ tự dẫn chứng lỗi lầm trước kia của mình là vì muốn chúng sanh không giẫm phải vết xe trước. Một cành hoa còn như thế, thì đối với tất cả hình tượng bằng đất, bằng gỗ, kinh sách bằng giấy, bằng lụa hay quý vị tăng ni tu hành trụ trì tam bảo, các môn học giới định huệ, bất luận là phước điền hay chẳng phải phước điền cũng đều đáng tôn kính. Tất cả đều nhập vào trong pháp giới hải ba nghiệp cúng dường chân thật, có gì không được mà muốn bỏ qua. Bài kệ Pháp Hoa như sau: Nếu người nơi tháp miếu Bảo tượng và tượng vẽ Dùng hoa, hương, phan, lọng Cung kính mà cúng dường Dù một âm thanh nhỏ Đều đã thành Phật đạo. MÔN THỨ XX VẠN THIỆN ĐỒNG QUY ĐỀU THÀNH TAM-MUỘI Hỏi: Phàm cứ thắp đèn sáng mãi sẽ được sinh vào cung Nhật Nguyệt, hương hoa, tàng lọng cũng không khác với đèn nến, cũng đều được phước báo sanh cõi Trời, nhưng kinh Phật lại cho rằng: “Đã thành Phật đạo”, sự thù đáp quả báo như thế quá sâu xa chăng? Đáp: Như Đế vương ra ngoài du lãm, muôn xe ngàn quan quân lính đều đến để hộ vệ, kẻ nào phạm vào lệnh vua thì chết ngay. Đến khi vua quày xe về hoàng cung, quân lính giải tán, ai nấy về doanh trại, nếu tự xưng là kẻ cận vệ cũng chết tức khắc. Quân lính ấy vẫn là một nhưng sống chết có khác, bởi vì duyên khởi khác biệt nên có sự quý chuộng và khinh nhục. Nếu chúng ta chỉ một bề dùng hương hoa, tàn lọng, đèn nến mà không gặp được ý nghĩa cứu cánh như vương mệnh của kinh Pháp Hoa thì quả thật chịu quả báo ở thiên cung. Ngày nay đã gặp được tam-muội bảo vương hỗ trợ thì cho đến dâng một cành hoa cũng đều đã thành Phật đạo. Duyên khởi của Phật chủng cũng phát xuất từ đó, lý giáo cũng thế, cũng như chim ở trong núi Tu-di đều cùng một màu với núi, muôn sông đổ ra biển rộng không có tên khác. Vì thế, trong kinh Đại Bảo Tích, hội Văn-thù Phổ Môn, hội tất cả thiên long, bát bộ, địa ngục, súc sanh, sắc, thanh, hương v.v… tất cả muôn pháp đều là tam-muội, cũng như một mảy lông hàm dung biển lớn, một hạt cải chứa cả Tu-di. Mảy lông và hạt cải thần diệu đến thế sao? Bởi vì thần diệu là thần diệu cái đó([22]) mà thôi. Cho nên biết giải cũng như mắt, hạnh cũng như chân, giải chánh tức là hạnh chánh, giải tà tức là hạnh tà, ma Phật cạn sâu đều căn cứ vào giải. Do đó kinh Niết-bàn nói: “Đối với giới mà hoãn, không gọi là hoãn, đối với thừa mà hoãn mới gọi là hoãn. Thừa là tên khác của huệ giải. Một hạnh đã thế, muôn hạnh cũng thế. Pháp Hoa Tam-muội tức là niệm Phật tam-muội. Tam-muội này được Như Lai gọi là thắng định, là Bảo Vương tam-muội, là quang minh tạng, là hạt châu trừ tội, là ngọn đèn phá tà kiến, là kẻ hướng dẫn ra khỏi đường mê, là ấn vàng của vua, là kho báu của kẻ nghèo, là không tam-muội, Thánh tam-muội, Đà-la-ni, chân tư duy, tối thắng quán, như ý châu, Phật tánh, Pháp tánh, Tăng tánh, Vô tận tạng, là phương tiện thù thắng, là đại huệ quang minh, là Tiêu ác quán pháp tam-muội v.v…Vì thế, nên biết tất cả giáo lý hạnh quả, tám muôn bốn ngàn môn ba-la-mật đều là tên khác của niệm Phật tam-muội. Và như vậy, dâng cúng một cành hoa cũng là phụng cúng khắp tất cả cõi nước nhiều như số cát bụi trong ba thời gian. Niệm một đức Phật, thể thông tất cả các bậc Thế Hùng vị lai, như trên đất rộng bắn tên, thế nào mà không trúng được! Nếu không như thế, thật đáng chê trách, như trong kinh Tư Ích nói: Sợ không, xả không, hành không, tìm không. Khách nói: Thầy thuốc đi để lại thuốc, khách buôn đi gởi lại vàng. Đạo lý mà các bậc tiền hiền gìn giữ duy trì nếu chẳng phải là người xứng đáng thì không thể đảm đang được. Đệ tử đạo lý chưa thông được hé nhìn cửa tam-muội, mong mõi vô sanh, hy vọng lẽ nhất thật được xương minh như sắc chỉ của nhà vua, và pháp được xem là bảo ấn. Động tịch song chiếu, lý sự viên dung, khởi tâm đều chân, gặp duyên đều làm tăng trưởng đạo. Xưng một tiếng “Nam-mô” đều thành Phật đạo, rải hoa, khảy móng tay, đều thẳng đến Bồ-đề. Cho nên kinh Pháp Hoa tự tôn là vua trong các kinh, là cây kim vàng lể màng che mờ mắt. Hai mươi môn huyền nghĩa chưa từng được nghe này đã làm tiêu tan cái tội khinh chúng sanh, được dạo chơi trên cõi đất trân bảo trang nghiêm. Thật hân hạnh thay! Tôi xin nguyện chẳng đổi thân này, được diệu ký đề hồ, ngộ chư Phật đương ở ngay nơi chúng sanh. Sau đó, tôi xin cúi đầu đảnh lễ tháp Đa Bảo, xin đối diện trước Liên Hoa tăng cùng với tôi phổ quán mười phương chư Thế Tôn, viên niệm tam thế Phật, quỳ dài chắp tay đọc bài tụng: Nhất tâm ức niệm Phật quá khứ Ức niệm Thế Tôn đời vị lai Các bậc Thế Hùng trong hiện tại Cũng học đúng như lời thuyết pháp. Chẳng có Phật nào thuộc quá khứ Cũng không hiện tại và vị lai Chỉ môn thanh tịnh vi diệu thiền Không thể nói được, chứng năng thuyết.
Chú thích: [20]“Tâm vô sở niệm” thuộc lý quán, “mà tu niệm Phật” thuộc sự tu. Đem câu“Tâm vô sở niệm mà tu niệm Phật” phối với câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” của kinh Kim Cang, câu “Tòng vô trụ bổn lập nhất thiết pháp” của kinh Duy-ma-cật, câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” của Tâm kinh. [21] Chỉ tâm vọng không: Chỉ tâm tánh mà bỏ sự tướng, nói lý không mà bác hình thức. [22] Thần diệu cái đó: Thần diệu của bản tánh chân như của các pháp (chân pháp thật tướng) Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 1 của NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG LUẬN. -------------oooo0O0oooo------------- NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG LUẬN - Bản dịch Việt ngữ số 2 Dịch giả: Tịnh Sĩ (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T47 - Kinh số 1967 - Tổng cộng kinh này có 3 quyển.) Một hôm có vị khách đến viếng tịnh cốc của tôi, trước lễ chào, sau dùng lời rất thanh nhã hỏi rằng : “ Từng nghe : đối với người tu tâm, đường tắt để thành đạo thì hạnh Thường Bất Khinh của Pháp Hoa Tam muội và Pháp Ban Châu của Niệm Phật tam muội đều là môn Vô Thượng Thâm Diệu Thiền. Xin được nghe về vấn đề này”. Ðáp : “Tôi đã lâu mặc tu ở Cửu Phong. Không để tâm đến việc thế sự bên ngoài, sách vở cũng không đọc đến. Từ khi ở chùa Thảo Ðường núi Tử Cát, Linh Ðiển Thiên Phước Pháp Hoa Thắng Tràng đến nay đã 30 mươi năm, nhiều lần mừng được bậc hữu danh đến thăm hỏi, song chưa nghe ai hỏi như ông. Ông muốn bước đến bến rồng vô sanh, muốn tung cánh chim bằng vuợt bể nam, tôi tự thẹn mình chưa đuợc sáng suốt, xin thử luận bàn, nay lượt chia làm 20 điều để nói rõ yếu chỉ ấy”. I NIỆM VỊ LAI PHẬT CHÓNG THÀNH TAM MUỘI. Luận về tâm nhị nguyên phân biệt nó hay khởi ra vọng niệm. Các vọng tuy hư giả huyễn hoặc mà lại hay ngăn ngại. Chỗ ngăn ngại này chưa được trừ bỏ thì thánh nhân còn phải lo toan. Vốn đủ các âm vận mà không nói, pháp thân tuy rỗng rang mà có đủ mọi hình tướng. Chỉ vì các tướng không hiện bày nên nói là không có tướng vậy. Ðối với yếu chỉ Nhất vị (nhất tâm) dứt bặt các đường nói năng làm sao biết được chỗ về của nó. Cái tông thú Tam muội quét sạch các tri kiến, hiển bày qua việc nói nín, đâu phải chỉ Duy Ma im lặng, Văn Thù khen ngợi mà thôi. Vì sao? Bởi lưới Ðế Thích chưa căng đâu thấy được ngàn ngọc anh lạc. Một khi lưới được trương rồi thì muôn mắt đều mở ra thôi (chưa nhất tâm niệm Phật nên chưa thấy, khởi niệm Phật thì rõ tất cả là Phật). Tắm biển lớn tức đã dùng nước trăm sông, niệm danh hiệu Phật thì thành tựu tam muội. “Một lời có thể ngăn dứt tất cả” chính là ý này. Giống như bỏ ngọc ma ni vào nước đục, nuớc đục không gì không trong; Ý tưởng Phật đưa vào tâm loạn, tâm loạn chẳng gì chẳng Phật. Khi tâm và Phật đã khế hợp rồi thì cả hai đều mất. Cả hai đều mất là định vậy. Cả hai đều sáng soi là tuệ vậy. Cảnh giới này gọi là định tuệ đồng đều, cũng là chỗ nói: “Tâm nào chẳng là Phaät, Phật nào chẳng là tâm”. Tâm và Phật đã như vậy thì mọi cảnh mọi duyên không đâu không là tam muội. Song người đời phần nhiều chỉ niệm tướng mặt tròn như trăng của đức Thích Ca quá khứ, tưởng tượng tướng mắt trong như biển của Phật Di Ðà hiện tại giống như nhổ tên độc, như vào an lạc cung. Ðó là pháp rất hay, nhưng chưa nghe nói việc niện tưởng tướng sáng soi như mặt trời của Chư Phật vị lai. Ấy cũng tại chưa thấu rõ rằng Ðức Như Lai đối với thô tâm của chúng sinh mà nói ra những điều vi diệu của chư Phật, mới ngăn cách chúng sanh ra ngoài chư Phật. Do vậy mà chưa nghe nói về tướng Phật vị lai và không có ai niệm tưởng. Trong Kinh Tịnh Danh (Duy ma) có nói việc: chỉ ngửi hoa Ðởm bặc, không ngửi mùi gì khác và hoa có dính thân cùng chẳng dính thân. Ðó là hạ tiểu thừa xuống, đưa đại thừa lên vậy. Hạ tiểu thừa xuống thì bày chỗ ôm bát mà dầm dề nước mắt. Ðưa Ðại thừa lên thì hiển việc đồng vui ở cảnh giới bất nhị. Còn trong Kinh Pháp Hoa là Kinh định rõ pháp thanh văn, là Kinh vua trong các Kinh thì tất cả mùi hương Ðởm bặc này (quả vị Phật) ai cũng có đủ nhưng không hiện rõ thôi Do chưa phải là bậc liễu ngộ nên thấy chư Phật là bậc chí tôn, chúng sanh là kẻ chí tiện; tức là còn ý cao thấp sanh ra, còn tâm vọng niệm khởi phát. Có tâm niệm cung kính khinh ngạo khởi sanh thì tánh chơn như nhứt vị ẩn mất. Như thế tất coi vạn vật tầm thường như cây cỏ, xem thiên hạ nhỏ nhoi chẳng ra gì, khinh ngạo lễ nghi, ngông nghênh với người trưởng thượng, mặc tình buông thả tầm mắt theo cảnh vật, chẳng chịu nép mình. Ðó là trái với Duy Ma Kinh: “mọi cái nhìn, mọi cái cung kính đều là món cao quí nhất trong các món cúng dường”. Ðó cũng là không tin Kinh Lăng già nói: “Như Lai tạng tự tánh thanh tịnh, chuyển 32 tướng vào trong tâm tất cả chúng sanh như cột bảo châu raát quí giá vào trong áo bẩn”. Ðã vậy, làm sao thấy được kẻ cùng tử xin ăn trong thành và đức Như Lai cao quí bình đẳng không khác. Nếu niệm đủ chư Phật 3 đời, quán khắp mười phương thánh chúng thì mới phù hợp với lý thú bát nhã. Thấy tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng, tự thể của Phổ Hiền Bồ tát ẩn khắp trong các tướng, bần nữ có ngọc báu, gạo ngay trong thóc lúa như gương trong dễ nhìn thì đâu còn lo vướng phải tám điều kiêu mạn đáng trách kia. Người đời không dám khinh Phật quá khứ hiện tại nhưng lại coi thường Phật ở vị lai (chúng sanh). Thật không biết đó là cội nguồn khởi nên tội lỗi. Bởi đặt mình trên Phật vị lai chẳng khác nào coi mình trên Phật hiện tại. Bỏ chúng sanh ra thì Phật vị lai làm sao có. Chúng ta phải biết: mẹ nhờ con mà quí, gạo nhờ cám mà bổ, nhờ Phật vị lai mà Phật hiện tại có giá trị. Thế nên, tu kèm thêm tâm Thường bất Khinh của Pháp Hoa ấy thì niệm Phật tam muội chẳng sớm muộn chắc chắn thành tựu vậy. - Hỏi: Pháp Hoa là pháp. Niệm Phật là Phật. Ðâu thể lấy Pháp làm Phật, lấy Phật làm pháp được. Ðó là lộn lạo lớn vậy! - Ðáp: Chẳng lộn lạo gì cả. Cội gốc chỉ là một thì có gì là lộn lạo. Xét như loại thuốc Chi Truật là thuốc của các vị Tiên. Khi xưa còn ở trên trời; nó không có tên “Tiên”. Chỉ vì có người uống vào, mọc cánh bay trên mây, nó mới mang tên là “ Thuốc tiên”, và người đó được gọi là “người tiên”. Người và thuốc khác nhau nhưng gốc tiên là một vậy. Nếu không có Thánh nhân thì ai vui với đạo. Pháp không có Phật giác ngộ, há có thể tự ngộ được ư! Pháp không có Phật thì không thể ngộ, niệm Phật tam muội làm sao sanh được? Phật chẳng có Pháp thì chẳng sáng tỏ, Pháp Hoa tam muội há khởi được ư? Chỉ một loại tiên mà hai thứ đều được tên Tiên _ Niệm Phật và Pháp Hoa đồng gọi là Phật huệ. Ðã đồng là Phật huệ thì pháp môn Vô thượng thâm diệu thiền tức Thường bất Khinh và Ban Châu tam muội ngay đấy được ngộ. Chưa từng có dị biệt, có gì đâu mà lộn lạo? II- NGƯỜI NỮ, KẺ TRỘM ÐỀU KHÔNG NÊN KHINH. Hỏi: Xin được nghe chỗ “tất cả chúng sanh đều là Phật vị lai”. Người nữ, kẻ trộm đều là thức rất xấu, làm sao người niệm Phật cung kính được? Ðáp: Pháp môn Phật giảng thuyết có hai loại là “ Ðối đãi môn” và “ quyết liễu môn”. Ở Ðối đãi môn coi đàn bà con gái là thứ hư ngụy và Như Lai là bậc Chí Chơn, nghĩa là Phật thì đáng tôn sùng còn đàn bà thì phải yểm ly (xa chán). Và để yểm ly người nữ, có 2 cách là “quở trách sự ham muốn” và “ khởi tâm quán sát” Về việc quở trách sự ham muốn, trong kinh “Bồ tát ha sắc dục” nói: “Nữ sắc là gông xiềng của thế gian, phàm phu đắm luyến thì không thể tự dứt ra được. Nữ sắc là bệnh nặng của thế gian, phàm phu khổ sở vì nó đến chết vẫn chưa thôi. Nữ sắc là họa suy đồi của thế gian, phàm phu gặp phải thì không tai nạn nào chẳng đến”. Hành giả đã bỏ được lại còn nghĩ tưởng thì khác gì ra được tù ngục lại muốn trở vào, đã hết điên cuồng lại muốn điên nữa, đã khỏi được bệnh lại mong có bệnh. Người trí thấy vậy xót thương vì biết kẻ mắc bệnh cuồng si điên đảo ấy đến chết vẫn chưa thấy mặt trời (sáng suốt)”. Kẻ phàm phu quí trọng người nữ, cam làm nô bộc, suốt đời bôn ba làm việc khổ cực; Ở trong búa sắt chông gai, gần gũi mũi dùi tên nhọn vẫn cam tâm nhẫn chịu không lấy làm lo. Bởi kẻ say cuồng thường thích hạng say cuồng không bao giờ cho là lỗi. Hành giả nếu bỏ được rồi không để tâm nữa, ấy là phá gông, thoát xiềng, bỏ cuồng, chán bệnh. Lìa xa cái họa suy đồi (nữ sắc) thì đã an ổn lại tốt lành, là ra được tù ngục vĩnh viễn không còn tai nạn. Luận về người nữ, lời nói họ như mật nhưng tâm họ lại là thuốc độc. Họ khác nào như dòng suối lặng trong mà có giao long ở, như núi vàng hang báu có sư tử nằm trong. Nên biết thứ nguy hại này là thứ không nên gần vậy. Gia đình bất hòa là bởi người nư õ; phá tông môn hư gia nghiệp cũng tại lỗi người nữ. Người nữ thật là giặc ngầm tiêu diệt trí tuệ sáng suốt của con người; giống như thợ săn giăng lưói bao bọc, thú không đường ra khỏi; như lưới bủa trên cao, chim sa xuống rồi không thể tung bay; như lưới thả ngang sông, cá đã đâm vào tất nằm trên thớt; lại như hầm tối, kẻ đui vào đó là bồ hong vào lửa đỏ. Thế nên người trí biết rõ và lánh xa, không để bị hại; chán và gớm, không để bị mê hoặc. Kinh Ðại Bảo Tích chép Phật vì vua Ưu Ðà diên (Ưu Ðiền) nói kệ rằng: “Là núi đao gai nhọn tên độc và các khổ Nữ nhơn là chỗ tụ của nhiều thứ khổ đau Nhờ có các huơng hoa mà thân trang nghiêm đẹp Kẻ ngu si theo đó khởi vọng tâm tham cầu Như chim đuối giữa biển mê muội bờ bên kia Khi chết tất phải đọa vào địa ngục a-tỳ Hiện đời thấy các khổ đều theo thân đến mãi Bị bạn lành xa lánh mất hẳn nẻo về trời Lại còn vào ngục sắt chạy nhảy trên núi đao Nằm ngủ trên lò lửa Ðừng nên gần nữ sắc!” “Như chim tìm thức ăn không biết tránh xa lưới Kẻ tham aí nữ nhân bị hại cũng như vậy Giống như cá trong nước bơi vào trong lưới giăng Liền bị người ta bắt há chẳng tự hại ư! Nữ nhơn như kẻ chài lừa dối giống như lưới Ðàn ông đồng như cá bị lưới cũng như vậy”. Về cách “Khởi tâm quán sát”, như Kinh Ðại Bảo Tích chép:[Văn Thù Sư Lợi bảo Thiện Trụ thiên tử rằng: “Nếu là người nhứt tâm chuyên ròng tu tập giữ gìn thì khi tâm tham dục phát sanh, liền nên nhận biết rồi dùng phương tiện phá trừ để tâm trở lại thanh tịnh. Phá trừ như thế nào? Bằng cách khởi nghĩ rằng: _ ‘Ðó là không, là bất tịnh. Tâm dục này sanh ra diệt đi, nó không từ đâu đến và cũng chẳng đi đâu. Trong tâm ấy nào có ai nhiễm, nào ai được nhiễm và đâu là pháp nhiễm’ _ Lúc quán sát như thế, không thấy có năng nhiễm, sở nhiễm và việc nhiễm. Không thấy thì không nắm giữ. Không nắm giữ thì không có xả. Không có xả thì không có ái. Không xả không ái gọi là ly dục tịch tịnh niết bàn vậy. Bấy giờ giả như buông tâm vào trong trần lao sanh tử cũng hkông lo hoạ hoạn tham sân si”]. Ðây gọi là “Khởi tâm quán sát”. Trên đã nói xong Ðối Ðãi môn (tương đối) Thứ hai nói về Quyết liễu môn (cứu cánh). Nếu xét trên phương diện rốt ráo xa lìa các vọng hoặc, không còn ô nhiễm như hư không thì đó là chư Phật quá khứ và hiện tại chớ chẳng phải là Phật vị lai. Còn trên phương diện đưa đến rốt ráo thì tất cả chúng sanh trần lao phiền não là Phật vị lai vậy Người há chẳng nghe : “muốn được ngọc vô giá, phải lặn dưới biển sâu; muốn có trí tuệ báu, phải tìm trong phiền não. Tướng ngũ nghịch là tướng giải thoát, cõi ma như chính là cõi Phật như”. Nếu nghe tiếng Phật mà vui, nghe giọng ma lại giận thì không vào được “Pháp môn âm thinh”, chẳng trụ được trong “cảnh giới chơn thật âm thinh”, và chẳng giác ngộ đối với tất cả pháp. Ðò là kẻ quay ngược xe mà lại muốn tiến lên. Làm sao cùng họ luận đạo được? Ðể nói cho ông rõ, kinh há chẳng chép: Xưa có vị tiên gọi là Lộc Ðề. Nhân vì trời mưa, đất trơn trợt, ông đi dường bị ngã. Giận tức, ông dùng chú tiên làm trời hạn hán. Trong nước ai cũng lo lắng, vua sai một cô gái được nhiều người ưa thích đến dụ dỗ ông. Khi dụ được, cô ta cởi trên cổ ông vào thành. Liền đó mây ùn ùn từ bốn phương kéo đến, mưa tuôn xối xả đầy ngập. Ông tiên ấy tuy có thần thông chế ngự gió, có phép lấn áp cả tự nhiên mà không thể bỏ được sắc là vì còn thấy đó là người nữ. Trong khi Ðức Thích Ca đối với người nữ là Da Du thì bảo “tương lai là Phật hiệu Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai”. Người niệm Phật nếu chỉ thấy dung nhan cô gái yêu mà không nghĩ sắc vàng tốt của Phật Quang Tướng (chỉ nghĩ đó là người nữ mà không nghĩ đó là Phật vị lai) thì đánh mất yếu chỉ Thường Bất Khinh (không khinh), làm sao đạt được niệm Phật tam muội. Lại như A na luật xưa đời quá khứ từng làm kẻ trộm. Một hôm vào tháp thờ Phật định trộm châu báu. Khi vào trong điện thờ thấy đèn bị lụn tim gần tắt. Ông bèn dùng que tre đẩy tim cao lên để đèn cháy sáng, không bị tắt. A na luật có nghĩa là “không tắt” có nguyên do từ đó. Tương lai, ông là Phật hiệu Phổ Minh Như Lai cũng từ nhân duyên ấy. Người niệm Phật còn không khinh kẻ trộm huống lại khinh người không trộm. Thấy người nữ và kẻ trộm là hai vị Phật tương lai như mặt trời rực rỡ thì lo gì tam muội không thành. III-THẤY NGƯỜI TRÌ GIỚI PHÁ GIỚI CHỈ SANH Ý TƯỞNG PHẬT. Hỏi:Trường hợp hai loại người trì giới và phá giới khoù hiểu. Kinh Phạm Võng nói: “Người nào thọ giới Phật thì vào hàng chư Phật”. Những vị xuất gia giữ tròn cấm giới như trăng rằm, như đeo ngọc anh lạc, được dự vào hàng Tam Bảo trong phạm vi Thất chúng là những bậc đáng kính. Còn vơí kẻ chẳng trì giới tinh nghiêm, hành động điên đảo sa đọa, ta há coi thường lỗi lầm của họ được ư, há mặc kệ tội ác của họ được ư? Mong ngài vì tôi phân giải. Ðáp: Ðức Như Lai từng ở “Kinh Tam Muội Hải” nói với phụ vương rằng: “Xưa có 4 tỳ kheo phạm luật vì hổ thẹn muốn buông xuôi không tu niệm, bỗng nghe trong hư không có tiếng nói: “Chỗ các ngươi vi phạm cho rằng không cứu được là điều sai lầm. Ðức Không Vương Như Lai tuy đã vào Niết bàn nhưng hình tượng vẫn còn. Các người hãy vào tháp nhứt tâm quán tưởng tướng bạch hào (lông trắng giữa hai chân mày) của thánh tượng! ”. Các Tỳ kheo liền rơi lệ khóc nói rằng “Tượng Phật còn có năng lực kỳ diệu như vậy huống hồ chân dung của ngài (hình dáng chân thật)”, rồi gieo mình xuống đất đảnh lễ như núi lớn ngã đổ. Các đấng chánh giác ở bốn phương hiện nay như A Súc Phật ở phương Ðông, Bửu Tướng Phật ở phương Nam, Vô Lượng Thọ Phật ở phương Tây và Vi Diệu Thinh Phật ở phương Bắc tức là bốn Tỳ kheo phá giới đó vậy”. Vì thế nên như Lai gọi pháp Quán Phật Tam Muội này là Ðại Bảo Vương Giới Phẩm Hải có thể dùng để tẩy trừ toiä nhơ phá giới, chứng đắc sự thanh tịnh trong cõi trần lụy. Bốn Tỳ kheo ấy chỉ nhất tâm quán tưởng bửu tượng mà tất cả đều thành Ðấng Thế Tôn. Người niệm Phật há có thể sanh tâm nghi hoặc khinh thường đối với thầy Tăng phá giới ư?. Kinh Ðại Tập nói: “Nếu các vua quan đánh đập chửi mắng người xuất gia trì giới hoặc phá giới thì mắc tội giống như làm trăm ức thân Phật chảy máu. Khi thấy người đắp ca sa, không luận là trì giới hay phá giới chỉ nên khởi tưởngn “gười ấy là Phật”. Tưởng “người ấy là Phật” là niệm phật tam muội. Ðây là lời từ kim khẩu của Phật thuyết minh về tông chỉ Bất Khinh thâm diệu. Há dám đánh đập mắng chửi mà không sợ ư? Kinh nói: “Thà để tâm bắt chước ta, chứ đừng bắt chước theo tâm”. Thấy người xan tham thì khởi tư tưởng bố thí. Thấy người phá giới thì khởi ý tưởng trì giới. Như vậy thì không bị cảnh giới lục tệ (tham sân...) trói buoäc, lại thành tự được pháp môn quán lục độ Ba La Mật. Nếu cứ trụ vào tâm phân biệt thì tự lãnh lấy hình phạt ở chốn minh ty (địa ngục), chẳng đáng buồn ư? Còn chuyển đổi tâm thấy biết ấy thì niệm Phật tam muội được thuaän lợi như dòng sông xuôi chảy, chẳng đáng mừng sao?. IV- HIỆN ÐANG ÐỌA Ở ÐỊA NGỤC CŨNG VẪN ÐƯỢC THỌ KÝ. Hỏi: Ðối với kẻ phá giới quán Phật thành tựu Chánh Giác, không nên khinh thì có thể tin theo. Còn với kẻ đang đọa ở địa ngục hoặc vướng trong đường ma quỉ không thể phát bồ đề tâm, chưa có ngày đầu thai vào nẻo thiện, người niệm Phật há lại cung kính họ ư? Ðáp: Người há chẳng nghe: Muốn lấy thuốc quí phải lấy nơi núi hiểm, chẳng phải vườn hoa sân cảnh có được. Muốn thu hoạch pháp dược cũng phải vào trong cõi hiểm, chẳng phải chốn vô vị tự sanh. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm có 4 loại thọ ký: Một là chưa phát tâm thọ ký, hai là mới phát tâm phát tâm thọ ký, ba là ngầm thọ ký, bốn là đối trước mặt thọ ký. Nay hiện còn đọa ở địa ngục tức là kẻ chưa phát tâm. Họ đều được Phật thọ ký tương lai sẽ phát đại trí, gặp chơn thiện hữu, hành Bồ Tát hạnh và cuối cùng thành Chánh giác; nên không thể khinh thường. Ðây là kẻ chưa phát tâm được thọ ký vậy. Lúc Phật nói 4 loại thọ ký, Ngài Ca Diếp bạch Phật: “Chúng con từ nay đối với tất cả chúng sanh đều sanh tư tưởng ‘Ðây là Phật’, nếu còn khởi một tâm niệm khinh khi tức là tự làm tổn thương mình”. Phật nói: “Hay thay! Ông nói rất phải! Không ai lượng xét được chúng sanh, chỉ có Như Lai mới lượng biết được mà thôi. Vì nhân duyên như thế nên ta baûo các Thanh Văn và chư Bồ tát đối với chúng sanh nên khởi tưởng ‘đây là Phật’”. Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phổ Hiền Hạnh, phần Phá Bá Vạn Chướng môn cũng dùng tư tưởng này. Như vậy thì kẻ hiện đang đọa trong đường ác được Phật thọ ký giống như nhà có báu vật, tuy cửa chưa mở, vẫn chẳng ngại gì đến ngọc báu bên trong; hay như trên trán có hột châu, dù có đánh nhau làm nó lún trong da, bên ngoài không còn thấy, nhưng hột châu vẫn chẳng mất. Nếu chẳng nghĩ chúng sanh là Phật vị lai, tất coi lục trần là giặc cướp, thì khác nào muốn ngăn ma quân mà tự phá thành lũy mình (bỏ ý tưởng Phật) và giống như để nước địch sống chung cùng khiến gây mãi mối oan cừu không dứt (giữ ý tưởng lục trần để phải chịu luân hồi sanh tử). Giáp sắt chưa yên thì trống trận còn vang đâu thể nghỉ ngơi (trần còn động thì tâm không thành tam muội). Nếu khiến được kẻ chẳng hàng đến hàng, người không phục đều khuất phục thì có thể gom thiên hạ về một mối (nếu đem lục trần hoà hợp với tâm thì vào tam muội). Cờ đã được trương lên phất phới thì tất cả đều ồ ạt đi theo (khởi ý tưởng “ tất cả là Phật vị lai” thì mọi chướng đều tiêu). Bấy giờ từ giã yên ngựa về đồng quê vui cùng ruộng rẫy, mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ (không còn gì bận bịu vướng mắc, sống một cách tự tại). Như thế, dù là Thánh như vua Nghiêu cũng chẳng hơn ta được. Thấy bá tánh haèng ngày mà chẳng biết một ai (chẳng phân biệt xác thể khác nhau, chỉ thấy đều là Phật), lúc ấy mới rõ chỗ giáo hóa của Phật rộng khắp. Nếu ngộ được mọi thứ sắc thinh hương... đều là Phật, nghĩ chúng sanh đều là Phật vị lai thì còn có cảnh tượng phàm tục nào đối ở trước tâm nữa. Cũng như tưởng tự thân là đấng Bổn Tôn thì nơi pháp “ Du Già Chơn Ngôn Diệu Quán Môn” chẳng cầu mà đạt được vậy. Như vậy do nghĩ tưởng mà có, đâu phải rỗng không chẳng được gì. Từ đó mới có thể thấy rõ Ðại bàng và chim sâu như nhau, thái sơn với lông hồng là một; không còn tâm hạn hẹp về giống nòi giòng họ, hết cả lo toan về sắc trần huyễn cảnh. Hỏi: với kẻ đọa trong địa ngục chưa Phát Bồ đề tâm, Ðức Như Lai tha thứ thọ ký cho họ thành tựu chánh giác với muôn ngàn hào quang tỏa chiếu, tròn đủ mười hiệu v.v. đúng như lời Phật nói thì ai dám không tin. Song họ vốn chưa tỉnh ngộ, vậy do đâu mà họ tỉnh ngộ. Ðáp: nói vốn chưa tỉnh ngộ cũng có nghĩa như nói: nguồn của Trường giang nước chỉ đầy chừng một chén, kẻ vốn rất mê vẫn còn đủ hai kiến (thân kiến, tà kiến). Nếu bảo rằng: ‘ngoài niệm là vô niệm, ngoài sanh là vô sanh’, tức sanh tử khác với Niết bàn thì muôn lời của Phật đều không dạy ai được. Còn rõ biết niệm mà vô niệm, sanh mà vô sanh, tức phiền não là bồ đề thì ngay đấy ngộ được “nhứt tướng trang nghiêm”. Như bầy ong trên núi, trong tổ toàn là mật, dưới giếng sâu thăm thẳm lại có sẵn bảo châu. Ðó đều là vốn có, chẳng phải mới sanh vậy. Ðã nghĩ tất cả là Phật vị lai thì tội từ đâu sanh được. Ðã trải tâm ở khắp mọi duyên, thấy tất cả đều là Phật thì mọi thứ tham sân si... đã từng sanh ra, ngay đó làm sao còn được. Trong Kinh Như Lai Tạng, Phật bảo Kim cương Tuệ Bồ tát rằng: “Thiện nam tử, ta dùng Phật nhãn quán thấy trong tất cả chúng sanh phiền não tham sân si... có đủ Như Lai trí, Như Lai nhãn, Như Lai thân, vững ngồi kiết già bất động... cho đến có đủ các đức tướng của Như Lai không khác”. Rồi ngài rộng nói: “Tất cả chúng sanh đều có Như lai tạng” và dùng 9 ví dụ để hiển rõ. Trong Bửu tánh Luận có giải thích ý nghĩa này và kết luận bằng lời kệ tụng rằng: “Trong hoa héo ẩn tàng chư Phật, Giữa phân nhơ cũng có Kim thân, Như trong đất hàm tàng trân bảo, Như hạt sen sẵn có mầm non, Ngay cây mục vẫn đủ Ca Sa, Trong ràng buộc vốn đầy Phật tượng Ở con gái nghèo hèn xấu xí, Sẵn có hình Thánh Chuyển Luân Vương, Ngay trong chỗ than bùn đen cháy, Ðều đủ đầy tượng báu Như Lai, Trong chúng sanh còn tham sân si, Ðầy vọng tưởng đảo điên phiền não, Cùng mọi cảnh trần lao ô nhiễm, Ðều sẵn đủ đầy Như Lai Tạng Dưới chí đến a tỳ địa ngục, Cũng đều có cả Như Lai Thân, Các pháp chơn như thuần thanh tịnh, Ðược gọi tên là Như Lai Thể”. Kệ văn này đủ chứng minh việc thọ ký kẻ còn ở địa ngục sẽ bừng khởi giác ngộ, tự nhiên thấu suốt các môn tam muội. Hỏi: người dụng tâm tu tập phải giữ tâm luôn bằng an thanh tịnh, dứt bặt sự phan duyên. Ở đây lại nói nên trải tâm duyên khắp tất caû và thấy mọi thứ đều là Như Lai. Chỗ nào dạy như thế? Ðáp: Ðã có lời dạy rằng: Khởi tâm duyên khắp lục trần tam nghiệp đồng thời phát nguyện “được vào cảnh giới Phật” mỗi lúc duyên ra đều chẳng lìa Như Lai nên nói “Ðều thấy là Như Lai”. Ðây là cái thấy viên mãn, chẳng phải thấy bằng mắt. Nên kinh Niết Bàn nói: “Hàng Thanh Văn tuy có Thiên nhãn mà vẫn gọi là nhục nhãn, hàng Hữu học Ðại thừa thuy chỉ có nhục nhãn mà được gọi là Phật nhãn. Vì sao? Vì thấu rõ mình có Phật tánh vậy”. Lại trong Kinh Thắng Thiên Vương, Phật bảo Thiên Vương rằng: “Bồ tát ma ha tát dùng sức phương tiện thực hành Bát nhã ba la mật đối với tấc cả pháp, tâm duyên tự tại. Duyên với sắc thì nguyện được sắc tướng vô sở đắc của Phật. Tâm duyên với thinh thì nguyện có được âm thinh vi diệu của Như Lai. Duyên với hương thì tâm nguyện đạt được giới hương thanh tịnh của Như Lai. Duyên với vị thì nguyện thành tựu được tướng đại trượng phu trong các vị của Như Lai. Duyên với xúc thì nguyện được bàn tay mềm dịu (không chấp trước) của Như Lai. Duyên với pháp thì nguyện chứng được tâm tịch tịnh của Như Lai. Duyên vào thân mình thì nguyện được thân của Phật. Duyên đến miệng mình thì nguyện được miệng của chư Phật. Duyên lại ý mình thì nguyện được ý bình đẳng của Phật”. “Thiên vương! Bồ tát ma ha tát thực hành bát nhã ba la mật không có một tâm một hạnh nào trải qua một cách trống rỗng chẳng hướng về trí tuệ, tâm duyên khắp các pháp mà chẳng dính mắc vào các pháp được quán thấy và không lúc nào chẳng hướng về đạo bồ đề. Bồ tát tu tập các hạnh đều do các duyên bên ngoài mà được thành tựu. Giống như đất bằng nằm trên một vùng nước rộng nếu đào ao giếng thì sẽ được nước, còn chẳng đào thì không do đâu mà thấy nước được. Cũng như vậy, cảnh giới Thánh trí có ở khắp cả pháp nếu chuyên cần tu bát nhã phương tiện thì chứng được, còn không tu thì chẳng làm sao mà đạt được”. Như vậy, ý nghĩa tâm duyên vào các pháp há chẳng quan trọng ư? V- QUÁN KHÔNG, VÔ NGÃ CHỌN THIỆN MÀ THEO Hỏi: Ðộng mà tịnh, tịnh là chủ của động. Phàm mà Thánh. Thánh ẩn ở trong phàm. Xin nghe theo ý chỉ sâu xa ấy. Còn vấn đề vô ngã cuûa tam giáo (nho, đạo, Phật,) lý đã không khác và việc chọn thiện để theo, cả hai có nghĩa như thế nào? Ðáp: Về lý vô ngã, 3 giáo (nho, đạo và Phật) đều chưa từng khác cũng chưa từng giống. Song Khổng giáo thí lấy nghĩa khiêm hạ sáng suốt làm vô ngã, Ðạo giáo lấy chỗ trường tồn không đoạn kết là vô ngaõ, Phật giáo thì lấy quán “ngũ uẩn giai không” làm vô ngã. Hai giáo trước (Nho và Ðạo) đều chẳng thấu rõ ngũ uẩn, chẳng biện biệt được Tứ đế, lục độ vạn hạnh. Về tầng bậc Thánh Hiền, trong hai giáo này bỏ qua không nói đến, chỉ có Phật giáo mới diển tả Thánh là bậc hòa quang đồng trần (hoà lẫn với thế gian nhưng sống sáng suốt), luôn giữ lấy vẻ mềm dịu yên lặng, đã từ hoà lại kiệm ước, không xông xáo trong vòng tranh đua thế sự. Ở mỗi bậc thánh trong Phật giáo này, xét theo phương diện động dụng thì có cạn sâu khác nhau. Ðó là nói về vô ngã của ba giáo. Việc chọn thiện mà theo là nói về lý 3 tánh: thiện, ác và vô ký. Lý này không đâu không có (cả 3 giáo đều có) người tu tâm nên chọn thiện mà theo. Bởi vì đối với pháo chí chơn, điều bất thiện gây ra nhiều bất lợi; còn vô ký thì làm mất hết cả hai thiện và ác. Mọi sự trái loạn lý Phật chẳng gì chẳng do hai tánh (ác và vô ký) này nên Thánh nhân trừ bỏ chúng, không theo. Do đó Kinh Niết bàn nói:“Kẻ nhứt siển đề tâm chẳng duyên đến một pháp thiện nào, đến nỗi chẳng sanh một niệm thiện”. Thế thì biết: đối với niệm Phật tam muội, điều thiện là pháp tối thượng, là hạnh đứng đầu trong muôn hạnh, nên nói “Thiện là vua của tam muội” vậy. VI- KHÔNG CÓ THIỆN ÐỂ CHỌN KHÔNG CÓ ÁC ÐỂ BỎ. Hỏi: Nếu chọn thiện mà theo thì đâu khác gì: chọn thiện chư Phật bỏ ác chúng sinh (chọn Phật bỏ chúng sanh), làm sao gọi là “niệm chư Phật vi lai (chúng sanh) đồng như niệm chư Phật quá khứ hiện tại” được? Ðáp: Ngay câu hỏi đó đã tự trả lời cho tôi rồi. Vì sao? Vì chọn thiện mà theo thì bất đắc dĩ mà nói vậy. Có nghĩa, kẻ trí lực yếu lại mang nghiệp chướng nặng nề không thể thấy “ác mà thiện” được, không thấy “vọng mà chơn” được nên phải chọn lực cho minh bạch. Còn nếu người đã từng niệm Phật vị lai hợp cùng hạnh bất khinh, đã thấy được đất trời như một ngón tay không phân cách, vạn vật như con ngựa độc nhất không gì sai biệt, thấy chúng sanh đều là Phật và cõi này thường thanh tịnh hoàn toàn khác cái nhìn đất bùn sỏi đá của Thu Tử (Xá lợi Phất), đồng một cái thấy trân bảo trang nghiêm của Phạm Vương Thiên, như thế thì đã đến chỗ cùng tột của việc chọn thiện và không còn ác để xả vậy. Ðây chính là chỗ mà ngài Thiên Thai Trí gỉa dẫn chứng khi ngài giảng Kinh Pháp Hoa nói về diệu lý tuyệt đối: “Chúng sanh thì thấy kiếp cùng tận Như lúc bị đại hỏa đốt thiêu Còn ta thấy cõi này an ổn Thường xuyên có các bậc đại nhân Vườn rừng với nhà cửa lâu đài Có nhiều thứ báu rất trang nghiêm”. Kinh Thắng Thiên Vương lại nói: “Chỗ của Phật an trụ vốn thật không phải cõi nhơ. Vì chúng sanh bị phiền não bức bách ràng buộc mà thấy là bất tịnh”. Cũng một ý ấy vậy Tiếng Phạn là namo (nam mô), tàu dịch là Qui mạng (Kính nương về). Tiếng Phạn Amita (Adiđà), tàu dịch là Vô lượng Thọ tam thế chư Phật, Há chỉ riêng kính một Phật là Vô Lượng Thọ sao. Nay đồng niệm tam thế Di Ðà (Di đà quá hiện lai vi) nguyện đồng sanh mười phương Cực lạc có gì đâu chẳng được mà muốn bỏ lối nhanh theo đường chậm lụt (chỉ nghĩ một Phật, mà không nghĩ tất cả là Di Ðà). Chỉ như thế, mới bừng được ngọn lửa tam muội đốt cháy; không một mảy may ong muỗi tri kiến hư vọng nào còn sót lại; mới gióng được tiếng chuông thập niên ngân vang, không giây phút nghỉ ngưng xưng hiệu Phật, mới thấy rõ ràng chúng sanh là Phật. Niệm Di Ðà suốt 3 đời (tam thế Di Ðà) đã được như thế thì niệm Chư Phật Bồ Tát há chẳng được như vậy ư! Hỏi: Niệm Phật vị lai không k hác gì niệm Phật quá khứ và hiện tại, ý nghĩa thế nào, xin được nghe biết? Ðáp: Hoa Nghiêm Kinh nói: “Tất cả các Như Lai đồng chung một pháp thân, một tâm, một trí huệ, lực và vô úy cũng vậy”. Trong kinh Lảng già có kệ nói: “Ca Diếp, Câu Lưu Tôn, Câu na hàm cả ta có 4 thứ bình đẳng. Ta nói cho Phật tử, bốn thứ bình đẳng là: một chữ bình đẳng: có nghĩa đều được gọi là Phật; hai - lời bình đẳng tức đều đầy đủ tưóng Phạm âm thinh Ca- Lăng-tân-gìa; ba - pháp bình đẳng là đều chứng đắc rốt ráo các pháp bồ đề phần và trí vô chướng ngại; bốn - thân bình đẳng là tất cả đều có pháp thân và tướng sắc thinh tốt đẹp không sai biệt”. Khởi Tín Luận nói: “Do đường đi nên thấy đổi chớ phương hướng thật không đổi”. Như vậy,khi nhận ra (ngộ) chỉ cần nhận ra một hướng thì tất cả Phật đều đúng, khi niệm chỉ cần niệm một Phật thì tất cả Phật đều hiện tiền. Kinh nói: nước chảy thăng lên, trăng chẳng rớt xuống. Do nhân duyên ánh sáng của trăng và sự lặng lẽ của nước mà mặt trăng lồ lộ giữa hư không mới hiện ở trong nước. Cũng vậy; Phật chẳng đến đây, ta cũng chẳng đi. Chỉ do nhân duyên niệm Phật, mà mặt trăng Như Lai mới hiện trong nước tâm ta. Ðồng một ý này, tụng chép: “ Bồ tát như trăng trong lành mát Vận hành nơi cứu cánh hư không Nước tâm chúng sanh khi tịch tịnh Bóng Bồ đề sẽ hiện vào trong.” (Bồ tát thanh lương nguyệt Thường du tất cảnh không Chúng sanh tâm thủy tịnh Bồ đề ảnh hiện trung). VII-KHÔNG NÊN ĂN THỊT CHÚNG SINH. - Hỏi: Thịt là thức ăn của con người. Sao người niệm Phật lại không ăn? - Ðáp: Ngày xưa vua Thi Tỳ còn tự leo lên giá cân, cân thịt mình để cứu chim bồ câu, bởi vua nghĩ mình và chim tuy khác loài nhưng vẫn cùng một tánh bảo thủ mạng sống. Lẽ nào ta nay lại ăn thịt chúng để nuôi dưỡng thân hư hoại này mà vô tư không biết gì đến nỗi sợ hãi của chúng ư. Nếu đã hiểu được chúng đều là Phật vị lai thì ai còn làm các việc săn mồi bẩy thú để phải mang lấy cái chết đọa lạc như phù du vào lửa. Trong Kinh Lăng già, phẩm Phật Ngữ Tâm chép: “Vì lợi mà giết chúng sanh “Vì lợi mà giết chúng sanh “Vì lợi mà giết chúng sanh “Vì lợi mà giết chúng sanh Theo đó mà biết, nếu chẳng đặt ra việc tiền tài thì các việc bắt và giết tự chấm dứt vậy. Thế nên Ngài long Thọ không bao giờ coi thường cả con chim nhỏ, bậc Cao Tăng chẳng dẫm đạp kiến trùng. Có ai hỏi lý do thì các ngài đáp rằng: “Chúng và ta cùng ở trong sanh tử. Biết đâu chúng thành Chánh giác trước ta. Chẳng nên Kinh thường chúng vậy”. Khinh thờng còn không nên, há lại cướp lấy máu thịt của chúng để ăn ư? Bửu Tánh luận chép: [Trong Kinh Như Lai Tạng, Phật bảo xá lợi Phất rằng: “Chúng sanh là đệ nhứt nghĩa đế, là Như Lai Tạng, là Pháp thân, là Bồ đề”] Chúng ta khác nào như con chó chạy theo vật động trước mắt, chẳng biết nhắm ngay vào người nên vật ấy không bao giờ ngừng.(vì vật này do người ấy giựt dây); Chỉ biết niệm Phật quá khứ hiện tại chẳng chịu niệm Phật vị lai (chẳng kính trọng chúng sanh) nên tâm khinh mạn không đoạn dứt được. Nếu biết làm như Sư tử nhắm ngay vào người thì vật ấy tự ngưng, biết tưởng niệm chúng sanh là Phật vị lai thì tâm khinh mạn dứt vậy. Song đã nghe lẽ Kính Khinh rồi, để cải đổi mà lại đổi kính ra khinh, coi cha mẹ ngang bằng kẻ bình thường thì thành kẻ đại nghịch; còn đổi khinh ra kính, coi người bình thường ngang bằng cha mẹ thì là người đại hiếu. Do đó Kinh Phạm Võng nói: “Sáu đường chúng đều là Cha mẹ ta, hiếu gọi là giới”. Ýù muốn nói về việc này vậy. Ðối với việc xem chúng sanh là Phật vị lai, thì bảo rằng “Chúng sanh là cha mẹ”ø đó chỉ mới nói chỗ gần thôi. Nếu có thể như chú Sa di cứu kiến khiến thọ mạng ngắn trở nên dài, có thể đồng làm như Lưu Thủy trưởng giả cứu cá cảm hoa trời rơi xuống như mưa, bỏ cái thấy là chúng sanh từ vô thỉ kiếp”, chỉ nghĩ đó là thân của đức Phật tương lai, biết trong phân nhơ vốn có vàng ròng, tin giữa mây dày có vầng trăng sáng thì cái “sương mù” ăn thịt, cái”bụi khói” sanh tử sẽ bị “ngọn gió” trí tuệ trong “bầu trời” tam muội quét sạch Phạm võng Kinh nói: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành. Thường có lòng tin như thế, thì giới phẩm được trọn vẹn”. Sao chẳng nghĩ suy? Hỏi: Thịt không thể ăn thì tin được rồi. Còn ngũ tân thì thế nào? Ðáp: Lời Phật dạy rõ ràng. Trong Kinh Ðại Phật đảnh chép [ Phật bảo Anan “năm thứ cay nồng này ăn chín thì phát dâm, còn ăn sống thì tăng nóng giận. Người ăn ngũ tân giả như đọc tụng 12 bộ Kinh thì mười phương Tiên thiên đều do ghét mùi hôi nhơ ấy mà tránh xa cả. Các ngạ quỉ vì thấy người ấy ăn ngũ tân nên đến liếp môi mép họ. Họ thường chung đụng với quỉ, mặt trời phước đức dần dần lặn mất làm tăng trưởng nhiều điều bất lợi. Người ăn ngũ tân này khi tu Tam ma địa(Samadi), các Bồ tát Thiên Tiên trong mười phương cũng không đến bảo hộ được, bọn ma vương có nhiều dịp để quấy phá”. Phật lại bảo Anan: “Người tu đạo bồ đề bỏ vĩnh viễn ngũ tân được gọi là người tu hành có trình tự tiến nhanh nhất”]. Ðây là lời từ Kim Khẩu của Phật, há chẳng thành thật ư? Với rượu, cố nhiên chẳng cần nói cũng phải biết. Trong Kinh Bách Dụ chép: Xưa có người nghèo đi đường gặp túi tiền vàng. Ôâng ta rất vui mừng liền đếm tới đếm lui. Ông đếm chưa xong, người chủ túi tiền bỗng lấy lại hết rồi đi. Ông ta mới hối hận “sao mình chẳng đi sớm?” rồi trong lòng buồn tức, dáng vẻ rất là khổ não. Người gặp Phật pháp cũng như thế. Tuy được gặp Tam Bảo mà chẳng chuyên cần tu hành, chỉ ham thích nghe nhiều. Lúc ấy chợt mạng chung sẽ đọa vào ba đường ác, khác nào kẻngu kia bị người chủ lấy hết tiền rồi bỏ đi vậy. Kệ viết: “Hôm nay lo việc này Ngày mai lo việc kia Vui đắm chẳng thấy khổ Bất ngờ giặc chết đến Vội vàng lo các việc Phàm nhân đến thế cả So kẻ đếm tiền kia Việc này cũng như vậy”. Bảy điều trên đều nói về niệm chư Phật vị lai để thấu suốt ý nghĩa tam thế chư Phật. Nếu thích niệm Phật Di Lặc thì được sanh lên cung trời Ðâu suất gặp ngài Từ Thị. Ðây là chỗ ngài Di Thiên Thích Ðạo An tán thán vậy. 3 VIII- NIỆM CHUYÊN CHÚ 1 CẢNH PHẬT HIỆN TẠI Hỏi: Về niệm Phật vị lai tức là Chúng sanh, đã biết rõ huyền nghĩa và sự lý sâu rộng rồi. Song, sợ niệm như thế tâm tán loạn khó kiểm soát. Nay muốn hợp nhất bằng cách chuyên hướng về Tây phương niệm một Phật Di Ðà ngõ hầu đến được địa vị bất thối, dứt trừ tâm hữu lậu, bơi chiếc xuồng con ở ao Huỳnh Kim, lễ đức Di Ðà trong điện Bạch Ngọc, thấu suốt được ba đời, thấm nhuần ngôi cửu phẩm. Như thế có được hay chăng? Ðáp: Trong Thập Trụ Bà Sa Luận của Long Thọ Bồ Tát viết để giải thích Kim Hoa Nghiêm, phần luận về hạnh dễ hành có nói: “Bồ tát đạo có hạnh khó hành như bơi xuồng trên lộ, cũng có hạnh dễ hành như chèo ghe dưới nước. Ðức Phật A di Ðà vốn có nguyện lực. Nếu ai nghe đến danh hiệu của ngài rồi xưng niệm tự muốn về nước ấy thì khác nào như ghe gặp nước, lại được thuận gío, phút chốc vượt cả ngàn dặm, rất là dễ dàng. Nhờ thế mà phụ vương và quyến thuộc của Ðức Thích Ca Như lai gồm 6 muôn người họ Thích đều sanh về cõi Cực lạc cả. Bởi vì Phật A di Ðà cùng với chúng sanh ở cõi này có nhân duyên rất sâu xa”. Như vậy, chuyên chú niệm một cảnh ấy cũng là phương pháp rất hay để thấu suốt trọn vẹn ba đời chư Phật. Hỏi: Chuyên chú niệm một cảnh thì thấu suốt trọn vẹn ba đời là điều chắc thật rồi. Song, xưng niệm tự muốn vãng sanh về nước ấy cũng là việc hữu vi hư ngụy như gío nhiều sóng to, làm tâm thêm loạn. Vì sao không bỏ các ý tưởng giong ruỗi bên ngoài ấy, chỉ gom tâm vào trong cho hợp với yếu chỉ vô vi? Ðáp: Hữu vi tuy hư ngụy nhưng xả bỏ thì đạo nghiệp không thành. Vô vi tuy chơn thật nhưng chấp thủ thì tuệ tâm cũng chẳng sáng. Kinh nói: “Chán lìa công đức hữu vi tức là ma nghiệp, đắm thích công đưùc vô vi cũng là ma nghiệp”. Nay người còn có tâm chán thích thì làm sao ra ngoài vòng ma. Lại như thấy Thánh Hiền nhiếp tâm mà gọi là trong, thấy phàm phu giong ruỗi tư tưởng mà bảo là ngoài. Rồi cho rằng “duyên ra là loạn, trụ vào là định” thì cũng là cái giong ruỗi trong ngoài, chẳng phải ý chỉ nhiếp tâm của niệm Phật tam muội. Khi giải nghĩa kinh Duy ma, ngài La Thập pháp sư có kể: “Ởû một nước nọ có một cô gái, thân mình màu vàng ròng. Cô ta được con một trưởng gỉa tên là Ðạt-mô-đa-la đem ngàn lượng vàng làm lễ mời vào rừng trúc cùng đi. Bấy giờ ngài Văn Thù Bồ Tát hiện thân làm một người cư sĩ mặc y phục bằng ngọc báu đứng ở giữa đường. Cô gái trong thấy, trong tâm liền khởi lòng tham. Ngài Văn Thù đoán biết nên nói rằng: “Cô muốn được y này phải phát tâm bồ đề”. Cô gái hỏi: “Thế nào là tâm bồ đề?” Ngài Văn Thù đáp: “Chính là thân cô”. Cô gái hỏi: “Sao là thân tôi?”, ngài Văn Thù trả lời:” Tánh của Bồ đề là không, thân của cô cũng không nên tâm bồ đề là thân cô vậy”. Cô gái này đã từng ở nơi đức Phật Ca Diếp gieo trồng nhiều căn lành, rộng tu trí tuệ nên nghe lời ấy rồi liền chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ðắc xong Pháp Nhẫn, cô bèn bày tỏ lỗi lầm ham muốn của mình, sau đó quay ra đi với con trưởng gỉa vào rừng. Khi đã vào trong rừng, cô hoá hiện thân mình chết, sình trướng hôi thối. Người con trưởng giả thấy vậy rất ghê sợ, bèn đi đến chỗ Phật. Ðức Phật vì ông nói pháp. Ông cũng chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn”. Chưa thành tựu Ðại giác tức chưa rảnh việc làm nên gọi là nhẫn. Quán thật tướng của thân mình và thật tướng của thân Phật, thì thân người nữ là không, thân Phật cũng không, chưa từng có dị biệt. Cũng thế, nghĩa của bồ đề há có dị biệt sao? Vậy thì tất cả hữu vi đều là vô vi, mọi thứ trong ngoài đều chẳng phải trong ngoài. Song, tại hữu mà chưa từng có hữu, hữu mà thường vo â; ở nơi vô mà chưa từng vô, vô mà luôn luôn hữu, như thế thì lo gì Phật có tướng, tâm có niệm. IX – ÐỜI NÀY ÐỜI SAU TÙY THUỘC MỘT NIỆM VÀ MƯỜI NIỆM. Hỏi: Vấn đề dễ hành, khó hành và quán thân là bồ đề, yếu chỉ ấy đã rõ ràng không còn thắc mắc nữa. Xét nghĩ, con người sống trong thế gian, thế gian thoáng mau như chớp lóe lưaû xẹt, một niệm sai lạc rồi thì ăn năn không kịp. Người tu đạo đã không yêu tiếc tâm há lại yêu luyến thân, thân mình còn không thương yêu há lại thương yêu thân ngoài ư? Thường sợ hơi thở đi ra rồi không trở lại phải thuộc đời sau như cỏ bồng trong gió cuốn mờ mịt không biết về đâu. Xin ngài chỉ bày pháp một niệm và mười niệm ngõ hầu dự bị cho đời này và đời sau. Ðáp: Gặp được pháp môn tịnh độ là có phước nghiệp và công đức lớn vậy. Hàng nhị thừa ngưng thần trong cảnh giới hư vô, đắm trước ngoan không sợ hãi các tướng, chẳng nghĩ đến chúng sanh nên không có tịnh đoä. Chỉ có đại thừa mới có Tịnh độ mà thôi. Kinh Bi Hoa nói: “Phật A Di Ðà, thuở xưa là vua Chuyển Luân tên Vô Tránh Niệm có đủ các báu và ngàn người con. Nhờ có Ðại Thần Bảo Hải làm Thiện tri thức, nên ngài ở nơi đức Phật Bảo Tạng phát bồ đề tâm, nguyện giữ lấy cõi Tây phương Cực lạc tịnh độ”. Trong tất cả các kinh, những vị Phật Bồ Tát Thinh Văn đều là ngàn người con của ngài thưở xưa cả. Trong đó vị thái tử đều tên Bất Thuấn tức ngài Quán Thế Âm. Vị kế tên Ma ni là ngài Ðại Thế Chí. Vị kế nữa tên Vương Chúng là ngài Văn Thù Sư Lợi. Vị kế nữa tên Năng-gìa-nô là ngài Kim Cương Trí Tuệ Quang minh Bồ Tát. Vị kế nữa tên Vô Uý tức là Liên Hoa Tôn Như Lai. Vị kế nữa tên Am-bà-la tức Hư Không Quang Minh Bồ Tát. Vị kế nữa tên Thiện Tý tức Sư Tử Hương Bồ Tát. Vị kế nữa tên Miên đồ tức ngài Phổ Hiền Bồ Tát. Vị kế nữa tên Mật-Tô tức là Phật A Súc. Ngài Vương tử Mật-tô từ khi phát tâm đến nay, mỗi lúc đi, ở từng bước chân từng tâm niệm đều luôn niệm chư Phật. Hiện nay ngài đã thành Chánh giác sanh về cõi Diệu Lạc. Chúng ta đây cũng thấy mình đi trên đường rộng, bước chỗ rừng sâu thì có khác gì cái thấy của Ngài Mật tô. Như vậy lúc vào nơi náo nhiệt, khi đi chỗ bình yên, với đủ vẻ trang nghiêm hay đang ngựa xe vội vã há chẳng thể dụng tâm niệm Phật trong từng bước một được ư? Ðược thế thì so với xưa, tiết tháo vẫn không sai khác vậy. Phàm lúc uống ăn, làm việc, giao tiếp trong vòng sanh tử, không ai không có hơi thở ra vào. Một hơi thở ra mà không trở lại thì thuộc đời sau đúng như điều ở trên đã hỏi. Người ở đời phần nhiều dùng ngọc báu, thủy tinh, kim cương, hột bồ đề hoặc các thứ cây để làm chuỗi. Chúng ta nếu lấy hơi thở làm chuỗi, tùy theo hơi thở mà xưng niệm Phật tức có chỗ nương nhờ thì đâu còn sợ “hơi thở không trở vào liền thuộc đời sau” (chẳng còn lo tái sanh). Tôi thường đi đứng nằm ngồi đều dùng chuỗi hơi thở này, giả như có ngủ mê thì ngậm Phật mà ngủ, tỉnh dậy liền tiếp tục. Như thế chắc chắn trong mộng sẽ được thấy Phật. Như cọ cây lấy lửa, khói là tướng trước của lửa, thấy có khói thì lửa sẽ co ù; cũng vậy trong mộng thấy Phật thường xuyên thì tam muội chắc chắn thành, tương lai chắc chắn được tận mặt thấy đức Phật Di Ðà, được thân cận ngài và được ngài thọ ký. Ðược như thế thì muôn việc chẳng mất một điều gì vậy. người hãy nên cố gắng! Hỏi: Một niệm vãng sanh và mười niệm vãng sanh, điều nào đúng? Ðáp: Chỉ một niệm được vãng sanh trụ vào hàng bất thối. Ðây là điều đúng vậy. như Phật nói: “báng Phật, huûy kinh, đánh tăng,chửi thánh, làm tội ngũ nghịch tứ trọng đều chỉ một niệm mà ác nghiệp thành tựu, đọa vào vô gián địa ngục nhanh như tên bắn. Nay niệm phật sanh về tịnh độ, cũng chỉ một niệm mà thiện nghiệp thành tựu, vãng sanh cực lạc chóng tợ co tay. Một niệm trước ngũ ấm diệt, một niệm sau ngũ ấm sanh giống như sáp đèn cầy dính vào vật, sáp hết thì thành dấu. Như thế còn chẳng cần đến hai niệm há cần đến mười niệm ư? Lại một niệm như kinh nói: Chú Sa di thích ăn Lạc tô, chỉ vì khởi một tâm niệm ham muốn mà sau bị sạnh làm con trùng trong lạc tô. Hay như vợ trưởng giả Ðại-Tát-bà ngồi soi gương tự yêu thích thân mình, sau đi trên biển bị gió thổi lật thuyền làm chết đuối, sanh làm trùng trong tử thi của mình, cứ vui chơi qua lại chẳng rời tử thi ấy. Ðó đều là một niệm chẳng phải mười niệm. Lại Kinh Ðại Vô Lượng Thọ nói: “Chỉ một niệm niệm Phật cũng đều được vãng sanh”. Trong Quán kinh nói mười niệm là có lý do. Bởi người mắc bệnh gầy yếu, sức kém, tâm yếu đuối cần phải xưng 10 lần đức Di Ðà để trợ lực cho tâm niệm bên trong. Nếu kẻ có tâm mạnh mẽ không mê muội thì chỉ được một niệm liền được vãng sanh. X-TÂM NÀY LÀ PHẬT, TÂM NÀY LÀM PHẬT Hỏi: Kinh đã nói: “Tâm này là Phật, tâm này làm Phật”, sao lại còn dụng tâm xưng niệm Di Ðà, giữ tư tưởng nơi nước Cực lạc xa xôi? Vả lại niệm Phật hiện tại và khởi cung kính Phật ở vị lai đều là cầu bên ngoài làm sao gọi “tâm này là Phật” được? Ðáp: Ông hỏi như thế chẳng đúng! Ông chỉ biết dẫn Kinh mà chẳng biết chỗõ qui thú của Kinh. Câu ấy ở trong Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh là kinh nói về niệm Phật A Di Ðà. Vì niệm Phật, Phật từ tư tưởng sanh ra nên nói “tâm này là Phật”. sao lại trộm lấy pháp quán Di Ðà rồi trở lại bêu rêu tâm Di Ðà. Nếu hiểu như thế thì chẳng niệm Phật vẫn bảo rằng tâm là Phật, chẳng tưởng ác lại nói rằng tâm là ác được sao? Cả hai đều đã chẳng phải như vậy. Huống hồ đối với đức Di Ðà, 10 vạn ức núi tu di chẳng ngăn được nhãn căn của ngài, hà sa tướng hảo quang minh đều do nguyện lực tạo thành; và đối với Cực Lạc, chỉ trong khoảng co cánh tay liền được vãng sanh, sao còn lo ngại phương ấy gần xa? Hỏi: Xin nghe theo sưï giảng giải về lý “Tâm này là Phật” của ngài. Song, về 16 pháp quán trong kinh này trình bày thì có thể tưởng băng, mặt trời, núi vàng sáng chói...; còn ánh sáng ma ánh sáng Phật, quán của mình, quán của người có tà chánh lẫn lộn nếu cả hai đều trong lặng thì làm sao phân biệt. Xin ngài chỉ bày các việc này để người niệm Phật tu tập một mình không gần thầy có thể tự an tâm. Ðáp: Tưởng về băng là gốc để mở rộng tưởng đến đất lưu ly, tưởng mặt trời để dần dần tưởng đến ánh sáng bạch hào. Y theo tư tưởng mà hiện thì gọi là của mình là chánh. Còn chẳng hiện đúng với sự tưởng tượng thì gọi là của kẻ khác, là tà. Như vốn tưởng về bạch hào, bạch hào chưa hiện rõ; trong khi chưa tưởng về mắt xanh mà mắt xanh lại hiện ra, như thế là trái với tâm gốc, gọi là tà. Tưởng tượng về các thứ khác cũng vậy. Lại nữa, ánh sánh ma thì có bóng và chóa mắt, ánh sáng Phật thì không có bóng và chẳng chóa mắt. Nên trong Lăng Già Kinh có kệ nói: “Cõi Phật hơn tất cả Rất thanh tịnh trang nghiêm Rực rỡ như lửa hừng Quang minh soi cùng khắp Sáng bừng không hại mắt Bao trùm hết ba cõi”. Hỏi: Như thế thì ánh sáng bừng chiếu làm hại mắt là ma, còn ánh sáng không chóa mắt là Phật phải chăng? Ðáp: Nếu là ánh sáng chơn thì nó làm cho thân tâm người niệm Phật được lặng trong thanh tịnh. Còn ánh sáng ngụy thì khiến người niệm Phật tâm xao động hoảng hốt. Do đó kinh Niết Bàn nói: “Trong ngần thanh tịnh là chơn giải thoát. Chơn giải thoát tức là Như lai”. Hỏi: Ðấng Chí Nhơn (Thánh) vô tư, ta nay lại dùng tưởng há chẳng sai lầm ư? Ðáp: Chẳng sai lầm. Như Kinh Ðại Uy Ðức Ðà la ni nói: “Muốn vượt ngoài sự ràng buộc của các cõi phải phát tâm ham thích tưởng nghĩ điều vô dục”. Nay cũng vậy, muốn tu niệm Phật cũng phải phát tâm tưởng để nghĩ tưởng điều vô tưởng. Vì lẽ đó mà Kinh Phương Ðẳng Phổ Hiền nói: “Lòng ham muốn ác, tưởng về người nữ thì mộng thấy người nữ; lòng ham thích thiện; tưởng đến Phật thì mộng thấy Phật”. Nên biết hai tư tưởng ấy tuy đồng là tưởng mà có thiện ác cách biệt như trời vực. Ðừng nghe nói “đó là tưởng” rồi chán bỏ. Nếu chán bỏ tưởng thì tuy chẳng hủy kinh báng Phật cũng vẫn chỉ sanh vào cõi trời cô tưởng. Nếu cứ cố chấp vô tưởng rồi dèm chê việc tưởng Phật thì gọi là báng Pháp. Báng pháp thì đọa trong tù ngục ở mười phương không có ngày ra, há có thiên cung để mong cầu. Giả như được sanh lên cõi trời vô tưởng ấy thì cũng gọi là ngoại đạo thiên, chẳng phải đường giải thoát. Niết bàn kinh nói: “Nghe nhằm tiếng trống độc, gần xa đều chết cả”. Ðiều này cũng như vậy. người nào bỏ tư tưởng thì gần xa đều sa đọa. Kinh nói: “Có khi cách mặt đất một thước hai thước du hành qua lại” là ý nói chỗ này. Như thế thì làm sao khỏi trôi lăn trong ba cõi, đồng vãng sanh vào cửu phẩm liên hoa. Huống hồ làm chìm ghe, làm nổi ghe đều do nước; nguyên nhân vấp ngã, nguyên nhân đứng dậy là đất; Cũng vậy tư tưởng vọng là chúng sanh, tư tưởng chơn là Phật, lìa ngoài tư tưởng thì lấy gì mà dùng. Hỏi: Sự đã giải xong, còn lý thì thế nào? Như Kinh Ban Châu tam muội nói: “Tâm khởi tư tưởng tức là si mê, vô tưởng là Niết bàn”. Nay nói phải dùng tư tưởng thì chẳng trái với kinh sao? Ðáp: Chẳng trái. Vì giữ tư tưởng Phật, tâm thường nghĩ tưởng đến Phật thì chẳng phải si. Chỉ có bỏ tư tưởng Phật lấy tư tưởng ác và chấp thủ cái Không làm vô tưởng mới là điều rất si mê. Chúng ta nay rõ biết Phật từ tư tưởng sanh, vốn thật không có Phật không có tưởng, như thế thì có gì là si. Ðó là quán “Không tam muội” là chẳng tà kiến vậy. Ông lại hỏi về lý, tôi nói cho ông rõ. Người đã thể nhập được thể tánh chơn thật lặng lẽ thì tâm thường rỗng rang như hư không, tuy vaïn pháp soi chiếu mà tâm chưa từng có niệm. Ấy là Chơn trí không duyên vào đâu thì không có niệm, Tục trí có duyên neân niệm tưởng sanh. Lại nữa “Tưởng chẳng khác Không, Không chẳng khác tưởng” gọi là “Ðệ nhất nghĩa trung đạo”; đây là hiển bày pháp thân. “Tưởng tức là Không” gọi là chơn đế; phá 25 cõi đắc 25 tam muội, thường không tịch thường hóa hiện hòa quan lợi vật đều từ chơn đế, đây là hiển nói hóa thân. “Không là tưởng” gọi là tục đế, hằng sa vạn đức đều nương vào tục đế, đây là hiển báo thân. Như thế là lấy tam quán để quán tam đế chứng tam đức thành tựu tam thân, cho đến thập chủng tam pháp, có gì lại chẳng được mà muốn loại trừ tư tưởng thanh tịnh, thủ lấy cái tưởng vô tưởng, bế tắc nẽo thiền định giữ mãi sự cách ngăn với việc thành Phật. Kinh Lăng Già Mật Nghiêm chép: “Thà khởi cái thấy có như núi tu di, đừng khởi cái thấy không dù chỉ bằng hột cải” cái thấy có nghĩa là tin nhân quả, giữ tư tưởng Phật. khởi thấy như thế được sanh về cõi tịnh độ Cực Lạc nên bảo “thà khởi thấy có”. Khởi thấy”Không” nghĩa là bài bác nhân quả, hủy báng niệm Phật. Khởi thấy như vậy chắc chắn sanh vào A tỳ địa ngục nên răn bảo “đừng khởi thấy không”. Ðây là điều đáng sợ vậy. XI- TO TIẾNG NIỆM PHẬT MẶT HƯỚNG VỀ TÂY Hỏi: Trong Phương Ðẳng Kinh nói: “Muốn tu pháp môn vô thượng thâm diệu thiền định, nên tưởng liên tục tướng bạch hào của Phật kèm theo xưng danh hiệu để được thắng định. Khi đã khế hợp với định rồi thì tâm và Phật đều mất”. Ðiều này có thể tin nhận, nhưng xét nghĩ: Mặc niệm lặng lẽ thì tam muội tự sanh cần gì phải to tiếng niệm Phật mới thành tựu chánh đạo? Ðáp: Ðúng như điều đã hỏi thì to tiếng niệm Phật cũng không có gì sai, mà trái lại hỏi như thế là làm rõ công năng của nó vậy. Vì sao? Bởi điều thiết yếu để trừ tán loạn là phải giữ cho có tiếng. Tiếng niệm chẳng rõ ràng thì tâm niệm rời rạc lông bông không định. Còn tiếng niệm rõ ràng thì tâm được chuyên nhất không còn lo nghĩ, đây là nghĩa thứ nhất. Nghĩa thứ hai là tiếng vang ra thì tai họa tiêu mất, công đức được sung thạnh. Nghĩa thứ ba là to tiếng niệm thì cảm ứng đến chư Phật bồ tát, khiến sanh ra các tướng lành như Phật soi ánh sáng đến, hoa báu rơi xuống lác đác như mưa... Nghĩa thứ tư, to tiếng là một phương tiện trợ niệm thần diệu, giống như khúc cây nặng không khiên đi nỗi nhưng chỉ một tiếng hô mà nhấc bổng đi được. Nghĩa thứ năm, to tiếng niệm Phật có năng lực hàng phục các ma não, giống như trong trận chiến, biết dùng tiếng trống lấn áp tinh thần đối phương thì chắn chắn thắng được địch. To tiếng có đủ năm nghĩa như thế sao lại bỏ đi. Nếu vừa tưởng tướng bạch hào vừa to tiếng xưng hiệu Phật thì chắc chắn khế hợp với ý Phật, được định tuệ quân bình, và vào được cảnh giới tâm Phật đều mất. Vì vậy mà ở bài tựa trong “Niệm Phật Tam muội”, ngài Huệ Viễn nói: “Xét về công đức cao lại dễ tu tiến thì niệm Phật là pháp đứng đầu”. Còn nói về niệm thầm, khởi tiếng liên tục trong tâm, tâm chuyên chú lắng nghe làm cho trần lụy tiêu tan, các tình niệm trệ ngăn được sáng thông thì không phải là pháp dễ dàng để mọi người hành theo được. Ðể minh chứng, Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thà chịu vô lượng khổ để được nghe tiếng Phật, Chớ chẳng nhận điều vui mà không nghe tiếng Phật.” Vậy thì to tiếng niệm Phật là mầm mống phát sanh điều thiện, giống như tiếng sấm muà xuân là khởi động cỏ cây, sao lại khinh chê? Hỏi: Kính nhận ý nghĩa về to tiếng và nhỏ tiếng niệm Phật. Xin hỏi: Ở mười phương tịnh độ đều có Như Lai, nay chỉ hướng mặt về phương tây, như thế có phải vướng mắc không? Ðáp: Chẳng phải. Ðiều này trong Kinh Phương Ðẳng có nói, không phải do người bày ra, há có thể hủy báng Kinh Phương Ðẳng ư? Hỏi: Xin được nghe lý này thế nào? Ðáp: Cũng có lý của nó. Như người si mê thấy đức Quán thế Âm có 11 mặt, liền vấn nạn rằng “Sao không là 12 mặt?”; rồi tùy theo trả lời thế nào, liền hỏi trở lại: “sao không là 11 mặt”. Ông nay muốn lấy Ðông để nạn vấn Tây thì cũng như người ấy. Lại nữa, vì chúng sanh còn mê chưa tỉnh, cần phải giữ thân an ổn, để tâm theo một hướng không rời thì có thể tỉnh ngộ được, còn bằng chẳng ngộ được thì không làm sao giáo hóa được, chỉ đáng thương vậy. Trong “Thắng Thiên Vương Kinh” phẩm “Nhị hạnh” nói Như Lai có 80 tướng đẹp, trong đó coù tướng “Tùy hảo quang minh công đức” là tướng luôn hướng về chúng sanh không lìa bỏ một ai, sẵn sàng phóng hào quang đến chúng sanh nào cần cầu, thật rất từ bi. Ngài Trí Giả Ðại sư từ lúc còn bé luôn luôn giữ lệ là nằm thì chấp tay, ngồi thì day một về Tây. Về sau lớn lên khi đọc 48 lời nguyện và chín phẩm vãng sanh, cảm ứng được tướng lành ánh sáng soi rực núi, thiên nhạc tấu vang trời. Sau cùng ngài được sanh Tây phương Cực Lạc. Như thế, việc day mặt hướng về phương Tây chẳng đáng rộng tuyên dương ư? Hỏi: Xin được nghe về ý nghĩa của Ban Châu Ðáp: Tiếng Phaïm là Ban Châu, tàu dịch la “Hiện tiền”, nghĩa là nghĩ nhớ Phật liên tục không ngừng thì Phật sẽ hiển hiện tring định. Vấn đề 90 ngày thường hành đạo là để trợ duyên cho pháp ban châu chớ không phải là chính nghĩa. Hỏi: Về diệu môn của tịch độ là Ban Châu đã được giải rồi. Song thời cận đại đến nay có ai đến được An dưỡng Quốc, đã không có tướng báo tin làm sao biết là đã đến nơi ấy. Xin ngài giảng rõ. Ðáp: Ðời nhà Tấn, ngài Huệ Viễn ở Lư Sơn là vị đầu tiên khởi xướng tu tịnh độ. Ðược ngài Phật-Ðà-bạt-đà-la truyền pháp môn niệm Phật tam muội, ngài cùng các huynh đệ là Huệ Trì, Huệ Vĩnh nhóm họp các sĩ phu, quan lại về hưu, người ẩn dật, bậc có uy tín như Tông Nạp, Trương Dã, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Châu Tục Chi, Khuyết Công Tắc,... 123 người cùng nhau đục núi làm bài minh phát thệ sanh Tịnh Ðộ. bài văn do Lưu Di Dân trước tác đại lược như: “Buông xả vòng thế gian chìm đắm, tỉnh ngộ kiếp vô thường chóng vánh, rõ ba báo thường xuyên thôi thúc, cõi hiểm nguy biết khó thoát ra. Thế nên các hiền sĩ cùng chí khí hướng đây ngày đêm kính cẩn chuyên cần mong đức Di Ðà từ bi sang cứu độ. Dùng diệu quán đại nghi để khai mở tâm hồn, luyện trí quán chiếu luôn rõ ràng chánh trực. Ðể ý thức nhờ đó mà tỏ ngộ, thể xác bởi đó được đổi thay. Ngõ hầu mượn thân phuø dung giả tạm để vào dòng thánh chúng, núp bóng Quỳnh Kha chư Phật để trưởng dưỡng tánh linh, mặc áo giải thoát bay nơi cực lạc có ao sen bát đức, thổi ngọn gió thơm thanh tịnh trở về độ kẻ cùng niên (cùng tử) lầm lạc. Thân hết mọi an nguy mà luôn luôn hòa mục, tâm vượt cả khổ vui mà vẫn tự tươi vui. Trông xuống Tam đồ thấy sâu hun hút, nhìn lại thiên cung thì đã bỏ xa. Theo con đường của hàng Thánh chúng; mong được về tịch tịnh Niết bàn”. Rõ xét, đạo như thế, há chẳng nên hoằng dương ư? Ngài Huệ Viễn viết lời tựa sách “Niệm Phật tam muội” có nói rằng: “Sao gọi niệm Phật tam muội? Là nhớ chuyên, tưởng lặng vậy. Nhớ chuyên (luôn nhớ không ngừng) thì chí Không dời đổi. Tưởng lặng (các tưởng đều lặng) thì khí thanh thần sáng. Khí thanh thì trí giác soi khắp, thần sáng thì chiếu suốt chỗ tối tăm. Hai điều này thầm hợp nhau và chung hội lại mà thành ra diệu dụng. Các môn tam muội rất nhiều, nhưng về phần công đức cao dễ tu tiến thì niệm Phật là bực nhất. vì mỗi người đều có nhân duyên với các thứ định khác nhau nên không thể nói định nào hay dỡ được”. Tạ Linh Vận có bài thơ vịnh tịnh độ như: “Pháp Tạng trưởng vương cung Hoài đạo xả quốc thành Nguyện ngôn tứ thập bát Hoằng thệ chủng quần sanh Tịnh độ nhất hà diệu Lai giả giai tinh anh Ðồi niên an khả ký Thừa hóa tất thần chinh”. Tạm dịch: “Pháp Tạng xưa vốn ở Vương Cung Lòng say mến đạo xả quốc thành Từ tâm khởi bốn mươi tám nguyện Thề cứu khắp cùng các chúng sanh Lập một tịnh bang đầy thắng diệu Ai về đây đủ vẻ tinh anh Không già nua không điều đau khổ Nương đài sen hoá hiện du hành”. Ông hỏi rằng chưa thấy ai báo tin được vãng sanh, sao chẳng nhớ chuyện Khuyết Công Tắc đời tấn vãng sanh rồi trở lại báo tin. Ông Khuyết Công Tắc lúc còn sống có lời nguyện khi được vãng sanh xong sẽ trở về báo tin cho mọi người biết. Về sau ông mất, vào một đêm trong chùa Bạch Mã ở Ðông Kinh những người bạn từng cùng ông phát thệ tu hành đang tụng kinh là lễ kỵ giỗ ông. Giữa lúc ấy bỗng đại diện trở nên sáng lòa màu vàng kim, trong hư không có tiếng nói rằng: “Tôi là Khuyết Công Tắc trước kia cầu sanh về Cực Lạc, nay đã đạt kết quả nên trở về đây báo tin”. Nói xong các tướng lạ này liền mất. Ông Chi Ðạo Lâm thấy vậy có lời tán thán rằng: Ðại tai Khuyết Công Hâm hư nạp linh Thần hóa Tây vức Tích nghiệm Ðông Kinh Bồi hồi tiêu hứ Lưu hưởng diệu hình Khởi khâm nhứt tán Thị dĩ phi mình”. Tạm dịch: Cao cả thay Khuyết Công Lặng sáng mà hiển linh Chánh niệm thần về miền lạc cảnh Giác mê ứng tích tại Ðông Kinh Trong mây dường rõ tiếng Nét ngọc khó quên hình Nhiệm mầu khen nói khôn cùng tận Phật thánh ai rằng chuyện mộng minh. (Trích Mấy Ðiệu Sen Thanh) ông Ngô hiếu Kính cũng có lời khen: “Y dư Công Tắc Tiên cam pháp vị Tri ngã gỉa hi Kỳ đạo nãi quí Kim Quang dạ lãng Ngọc nhan triều túy Bất xả hữu duyên Ngôn cáo kỳ lụy (loại)”. tạm dịch: Hay thay Công Tắc Trước nếm Pháp Vị Biết tôi mong cầu Ðạo ấy thật quí Nên hiệu Kim Quang Diệu tướng rõ ràng Không quên nguyện cũ Về báo Tây phang”. XII-MỘNG TỈNH ÐỀU CHỈ MỘT TÂM. Hỏi: Phật nói tất cả pháp đều như mộng, Không biết đức Phật ta niệm và tịnh độ ta cầu sanh đây có như mộng chăng? Nếu chẳng mộng thì thành ra Phật ở ngoải tâm, còn Phật là mộng thì Phật chỉ là điều trong mộng, giống như trong mộng thấy vàng, tỉnh dậy chẳng có gì cả, e rằng niệm tưởng 3 thân thành ra rỗng tuếch rốt cùng đều là hư vọng. Xin ngài giảng giải thêm. Ðáp: Chẳng phải hư vọng. Vì sao biết như vậy. nếu người niệm Phật tam muội đều giống như chiêm bao thấy vàng thì cái cứu cánh nhờ niệm Phật mà sanh tịnh độ rõ ràng như thế, há cho rằng vọng ư? Lại như người tập thiên nhãn, mới đầu tưởng tượng ánh sáng của viên ngọc lửa, tưởng mãi không dừng nghĩ, sau phát sanh thiên nhãn thật sự, điều này cũng bảo là vọng được ư, cũng đồng với chiêm bao thấy vàng rốt cuộc không có gì ư? Thế nên đừng xem sự việc xa bằng con mắt cận rồi cho rằng mộng, đừng bao giờ cho niệm Phật vãng sanh toàn là điều trong mộng. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm, Phật và chúng sanh ; cả ba không sai biệt”. Tâm mê giống như mộng đó là chín cõi của chúng sanh, tâm ngộ đồng như tỉnh tức là pháp giới của chư Phật. Mê ngộ đều chỉ ở một tâm, mộng tỉnh chưa từng ở hai nơi. Song Kinh nói: “Rõ vọng vốn là chơn”. Như vậy thì thấy Lô-xá-na như mộng cũng chẳng sai. Ðây là do tâm xét thấy vậy. XIII-NIỆM BA THÂN PHẬT PHÁ BA CHƯỚNG Hỏi: Phật có 3 thân làm sao nhớ niệm, xin ngài chỉ bày để lúc niệm không còn sai thất. Ðáp: Ba thân Phật là pháp thân, báo thân và hóa thân. Pháp thân như mặt trăng thật trên hư không. Báo thân như ánh sáng của mặt trăng. Hóa thân như bóng của trăng in trên mặt nước. Trong muôn ngàn mặt nước đều có trăng như vậy trăng này nhiều hay chỉ có một? Chẳng thể nói một vì ở muôn ngàn mặt nước đều có trăng riêng biệt, cũng chẳng thể nói nhiều vì trên hư không chỉ có một mặt trăng. Kinh nói: “Hoặc hiện thân nhỏ cao một trượng sáu, ngang 8 thước đều là Phật trong tâm chúng sanh”. Như vậy hình dáng còn không có, há Phật có hai ư? Cõi tịnh, cõi trược đều trong tâm mình vậy. Nếu muốn dùng pháp niệm ba thân Phật để phá ba chướng thì nay nên xét rõ rằng: Thân Phật ấy có ra là do ta chỉ quán sanh, tu chỉ quán chẳng đồng đều thì các chướng phát Khởi. Người niệm Phật tu chỉ tâm trầm thì “hôn ám chướng” khởi động làm chướng ngại hóa thân Phật. lúc ấy nên dùng pháp quán để phấn chấn tâm bằng các niệm tưởng ánh sáng bạch hào của Phật, như thế thì phá được “hôn ám chướng”. Nếu tu quán tâm phù động, nghĩ tưởng các việc ác, làm chướng ngại báo thân thì nên trở lại tu chỉ để ngăn trừ tất cả ác niệm bằng cách niệm tưởng “các nhân lành xưa của Phật có hằng sa công đức tròn đầy trí tuệ, do nhân ấy mà được báo thân”, như thế thì phá được “ác niệm chướng”. Nếu “nhị biên chướng”(chướng phân biệt chấp trước) phát động sanh ra nhiều hình trạng lạ lùng, các tướng mạo lẫn lộn, mềm cứng phá rối là chứng ngăn Pháp thân Phật thì dùng pháp “Trung Ðạo đệ nhất nghĩa Không” để phá nó. Như Kệ nói: “Vô sắc vô hình tướng Vô căn vô trụ xứ Bất sanh bất diệt cố Kính lễ vô sở quán” Tạm dịch: Không có sắc cũng không hình tướng Không có căn cũng không chỗ trụ Tất cả vốn chẳng sanh chẳng diệt Kính lễ diệu quán “vô sanh hữu”. Ý nghĩa của pháp quán vô sở hữu này giống như luồng gió mạnh thổi tan đám mây dày đặc để hiện bày rõ ràng mặt trăng Pháp thân thanh tịnh, phá dẹp các chướng phiền não bức bách. Tùy theo bịnh cho thuốc thích hợp không ngoài các điều này. Khi ta đã đồng hóa với người, người đồng hóa với vật, ta và vật như nhau thì tam muội tròn đầy mạnh mẽ. Bấy giờ, chúng sanh mà vô tận thì tam muội cũng vô cùng. Sáu điều trên đây là nói về niệm Phật A Di Ðà hiện tại để thấu suốt ý nghĩa niệm Phật ba đời (tam thế Phật). Rộng như trong An Lạc Tập, Thiên Thai thập nghi luận, Thích Quần Nghị Luận (Hoài Cảm Pháp Sư) Vãng Sanh truyện, Pháp bửu nghĩa luận (trù Thiền Sư), Vô thượng thâm diệu thiền môn truyện tập pháp bửu (Phi tích thiền sư) đã giảng. 3 XIV- NIỆM PHẬT QUÁ KHỨ, NHÂN QUẢ NHƯ NHAU. Hỏi: Phật mà chúng ta niệm là bậc Chí Thánh tột cùng huyền diệu được tôn gọi là Như Lai. Còn người niệm Phật, kẻ mới trộm nhìn vào cửa Chơn như vẫn còn là hàng phàm phu, làm sao lạm nói là đồng bậc Chánh Giác được?. Ðáp: Trong Kinh Tam Muội Hải có chép: “Phật như Sư tử Chúa đã ra thai”, đây là dụ cho Phật quả. “Người niệm Phật như Sư tử Chúa còn ở trong thai”, đây là dụ cho Phật tử. Nhân quả tuy khác biệt mà uy thần tiếp nối nhau. Như vậy, luận nói người niệm Phật đồng là Phật thì đâu có gì sai lầm. Muốn cho Sư tử trong thai gầm rống làm chim đang bay phải rớt xuống, thú đang chạy phải ẩn mình thì vị lai sẽ có. Cũng như sư tử đã ra ngoài thai vẫn ở đó để đợi thì có lỗi gì. Ðây là ý nghĩa “nhân quả như nhau” vậy. Trong Kinh Pháp Cổ cũng chép: Vua Ba tư nặc dẫn binh đánh nước địch bị trúng tên độc đau đớn không thể chịu nổi. Ông nghe biết có vị thuốc hay tên “Tiêu độc vương” lấy thuốc này thoa lên mặt trống rồi dùng dùi trống đánh có thể làm cho tên độc vọt rớt ra. Ông bèn làm theo và bình phục như xưa. Cũng thế, nếu nghe danh hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni và nghe hiểu tin nhân danh hiệu Tỳ kheo xuất gia thì có thể làm ba mũi tên độc trong thân vọt ra rớt xuống”. Thế nên kinh này gọi là Ðại Pháp Cổ. Thích Ca Mâu Ni là Phật quá khư,ù là quả. Tỳ kheo là người xuất gia, là nhân. Ðây cũng có nghĩa “nhân quả như nhau” vậy. Như thế, ở hai kinh trên đã nói rõ tuy chưa phải là hàng Cực Thánh chỉ là người nghe danh Phật được lợi ích mà đối với Phật vẫn không sai biệt. Do đó trong sách Pháp Hoa Tam Muội, quyển trung, truyện Sư tư (thiên tính của Sư) kể rằng: [ vào Triều đại nhà Tùy, Ngài Nam Nhạc Huệ Tư Ðại Thiền Sư có người đệ tử tên là Ðại Thiện Thiền sư đắc Từ Bi tam muội. Bấy giờ trong xứ Hoành Dương, Thứ Sử Trịnh Tăng Cảo khi chưa tin Phật pháp thường hay cùng mọi người đi săn thú. Một hôm ông bủa lưới vây được mười con nai, ông bèn nói với Huyện Lịnh Trần Chánh Nghiệp rằng: “Ông thường khen ngợi Ðại Thiện thiền sư có thần lực từ bi, vậy hãy đem thần lực ấy cứu các con nai này xem nào”. Ông Chánh Nghiệp nghe vậy bèn bảo những người chung quanh đồng hô lên một tiếng rằng: “Nam mô Ðại Thiện Thiền Sư”. Ngay lúc ấy bầy nai đều bay lên hư không mà thoát ra ngoài.] Như vậy, so với thần lực của đức Quán Âm đâu có gì sai khác. Ðại Thiện thiền sư và Ngài Trí Giả đều là bậc nổi danh đương thời. Nếu chẳng coi thường lời dạy của Thánh Nhân thì niệm Phật tam muội có thể triệt ma dứt nạn. Giống như vàng ở trong lò luyện, nó đã trở màu sáng đẹp rồi mà bợn nhơ chẳng hết ư?. XV- SONG TU LÝ SỰ VÔ TÂM NIỆM PHẬT. Hỏi: Huyền nghĩa của pháp niệm tam thế Phật và day mặt về hướng tây đã được nghe. Song các pháp ấy đều có niệm có tư duy, có sanh có diệt, làm sao tương đồng với yếu chỉ “Ðem tâm vô niệm mà tu niệm Phật” trong Kinh “Thắng Thiện Vương Sở Vấn”? Ðáp: Về thuyết “Vô niệm”, nhiều người hiểu lầm, nếu chẳng nghiên cứu tin tường thì e phải mù mịt đường tu thẳng tắt ấy. Nay sẽ đem hai phương diện Lý và Sự để nói rõ. Về phương diện Lý tức là Chơn thật vô niệm. Trên phương diện này, “Hữu” và “Vô” có nghĩa: “niệm vốn vô niệm”. Là sao? Có nghĩa: Phật do tâm sanh, tâm tức là Phật. Giống như dao không tự cắt, tay không tự xúc, Phật cũng chẳng tự thành Phật, tâm cũng chẳng tự có tâm. Tâm không thể lập ở ngoài Phật, Phật cũng chẳng có ở ngoài tâm. Phật đã chẳng có thì tâm há có? Ý nghĩa vô tâm niệm Phật rõ ràng như vậy. Do đó thế gian nói “niệm Phật là có niệm”, còn tôi nói “niệm Phật là vô niệm” vẫn chẳng sai vậy. Laïi nữa, niệm tức là “không”, há có niệm ư? Chẳng phải niệm diệt mới “không”, vậy há có vô niệm? Tánh của niệm là “không”, há có sanh diệt ư? Lại nữa, “Tâm vô niệm” là “không chỗ trụ” và “tu niệm Phật” là “khởi tâm”. “Tâm vô niệm” là từ gốc vô trụ và “tu niệm Phật” là thành lập tất cả pháp. (“Ðem tâm vô niệm mà tu niệm Phật” là “nên ở trong không chỗ trụ mà khởi tâm”, là “từ gốc vô trụ mà thành lập tất cả pháp”). Tâm vô niệm thì “niệm tức là không”, Tu niệm Phật thì “không tức là niệm”. Như thế, niệm Phật chẳng khác với yếu chỉ vô niệm, đây là nói về Trung Ðạo. Tâm niệm và Phật đều bặt (lặng) là chỉ, cả hai đều sáng tỏ là Quán. Chỉ Quán tức Ðịnh Huệ đều đồng há chẳng phải là chánh định ư? chẳng phải là tam muội ư? Nay chỗ sáng tỏ mà thường lặng tức là “tâm vô niệm” vậy, lặng mà thường sáng tỏ là “tu niệm Phật” vậy. Ðức Như lai chứng “tịch chiếu tam-ma-địa” tức là chứng cảnh giới “Cứu cánh niệm Phật” này. Nên tam muội ấy mới sanh ra “Thủ Lăng Nghiêm Vương Sư Tử hống định”. Như Kinh “Bồ Tát niệm Phật tam muội”, phẩm Phá Tướng có kệ nói: “Niệm Phật Chơn Kim Sắc, An Trụ tâm vô trước(chẳng chấp) Nhiếp tâm không gián đoạn, quán pháp nào là Phật. Kim Sắc chẳng phải Phật, Bốn ấm kia cũng vậy Lìa sắc cũng chẳng Phật, Lìa bốn ấm cũng thế. Bậc tối thắng tịch tịnh Khéo diệt trừ tất cả, Ngoại đạo các tà kiến Như Long Vương làm mưa, Thấm mát cả vạn vật Ðấy là Phật Thế Tôn”. Kinh này nói rõ Lục độ vạn hạnh, không một pháp nào chẳng là “Niệm Phật tam muội”. Hỏi: Về phương diện “Lý” đã giải xong, xin ngài trình bày về “Sự” để người tu học đạt được “Chơn thật vô niệm”, hợp với Bát-nhã-ba-la mật, rõ thông pháp “Ðại Thừa Vô tướng thâm Diệu Thiền định”. Ðáp: Lý và Sự đi đôi với nhau. Trước đã nói lý và sự, nay sẽ nói về Sự của lý. Ðại phẩm kinh nói: “Ðối với kẻ độn căn, Phật nói các pháp đều không tịch là vì họ hay sanh chấp kiến. Ðối với người lợi căn, Ngài nói đến tướng hảo của Chư Phật giống như sen không nhiễm bùn”. Bởi thế nên Ngài Tu Bồ đề tuy là tiểu thừa mà thành bậc đệ nhất thấu rõ Không, thấu đạt các pháp vô danh vô tướng và được thọ ký tương lai thành Phật hiệu là Danh Tướng Như Lai. Nếu chẳng phải đại thừa tất còn sợ sắc thinh hương vị xúc lôi cuốn, còn lo trốn tránh không phút giây thong thả thì dám đâu đi quanh quẩn trong “vườn hoa” sắc tướng. Nay đã thấu đạt Danh Tướng nên được Phật thọ ký vậy. Nói về Sự. Phật đã sanh nơi tâm thì ban Châu tam muội, không niệm vẫn đạt được. cảnh đã không làm động được ta thì Pháp Hoa Tam muội, chẳng cầu mà tự có. “Tâm vô niệm” là dứt mọi loạn tưởng và “tu niệm Phật” là khéo tưởng Phật. Kinh “Văn Thù Sở thuyết ma ha bát nhã” nói: “Như người học bắn cung, tập lâu thành thiện xảo. Sau đó dù vô tâm bắn mà tên pháp ra đều trúng cả. Cũng thế, người muốn thâm nhập nhất hạnh tam muội nên hướng về nơi Phật đang ngự chuyên ròng xưng niệm danh hiệu của ngài, niệm niệm tiếp nối không gián đoạn. Ðược vậy thì ngay trong mỗi niệm đều thấy tam thế chư Phật như người tập bắn cung kia sau khi tập thuần thục, vô tâm vẫn bắn trúng”. Như thế thì “vô tâm” chẳng phải là không khởi niệm. Cũng vậy Kinh Phương Ðẳng nói: “Niệm luôn luôn không dừng nghỉ Phật sẽ hiện”. Anh Lạc kinh nói: “Ðạo là nhứt tâm, đa tưởng chẳng phải Ðạo”. Tọa thiền tam muội Kinh noí: “Bồ Tát tọa thiền chẳng nghĩ gì cả, chỉ chuyên niệm một Phật như núi chúa Tu Di vàng chói giữa biển cả trong xanh. Cho đến niệm công đức Pháp thân cũng như vậy”. Hỏi: Nếu nói Vô niệm là tam muội thì cứ việc để tâm thẳng vào chỗ vô niệm, sao lại đi xa nẻo ấy mà dụng ý niệm. Ðáp: Lăng Già Kinh nói: “dùng cây gài cửa để mở cây gài cửa”, và tục ngạn nói: “Khiến giặc đuổi giặc”. Nay ta dùng niệm để dứt niệm thì có gì chẳng được, huống hồ niệm mà thuần thục thì chẳng cầu mà thự thành vô niệm, Không cần dùng sức. Giống như kiếm sĩ múa gươm, múa đến khi rung động cả mây xanh rồi bỏ kiếm vào bao đeo bên lưng mà chẳng mất nội lực. Lại như đầu bếp chặt thịt nếu bỏ dao thì chẳng làm được. đó là niệm thuần thục, chẳng quá rõ ràng rồi ư? Nên Khởi tín luận nói: “Nếu biết rõ tuy nói mà không có người nói để nói, tuy niệm mà không có tâm niệm để niệm thì gọi là tùy thuận tam muội. Còn lìa niệm mà gọi là chứng nhập thì chỗ chứng nhập này tức là Chơn thật tam muội. Huống hồ cảnh giới Vô niệm ở vào hàng Diệu giác vì chỉ đấng Như Lai mới liểu tri được tướng ban đầu khi tâm chưa sanh khởi này (vô niệm). Ðối với tướng này, Bồ tát thập địa còn chưa biết được huống là chúng ta chưa vào được hàng thập tín”. Nếu chẳng y theo ngài Mã Minh, từ chỗ nói vào nơi không nói, từ chỗ niệm vào nơi voâ niệm thì e phải vướng lỗi “thích lầu cao mà khinh đất thấp, bỏ quần mà mặc áo”, như thế há được ư? Kinh Ðại Phật Ðảnh Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm nói: [Ngài Pháp Vương tử Ðại Thế Chí cùng 52 vị Bồ tát đồng bực, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, rồi bạch Phật rằng: “Con nhớ hằng hà sa số kiếp về trước có Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang và liên tiếp mỗi kiếp 12 vị Như lai ra đời. Vị Phật rốt sau tên là Siêu nhật nguyệt Quang. Phật này dạy con pháp môn niệm Phật tam muội: ‘Như một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như thế dù có gặp nhau cũng như chẳng gặp, có thấy nhau cũng như không thấy. Nếu hai người nhớ nhau và nhớ niệm sâu chặt thì dù có trải qua đời này đời khác cũng vẫn bên nhau như bóng với hình chẳng trái lìa. Cũng thế, mười phương như lai luôn thương tưởng chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con cứ trốn tránh thì dù mẹ nhớ thương cũng chẳng làm sao gặp được. Nếu con nhớ mẹ đồng như mẹ nhớ con thì mẹ và con đời này đời khác (muôn đời) vẫn không xa cách. Nếu chúng sanh luôn nhớ Phật niệm Phật thì hiện tại tương lai chắc chắn thành Phật, theo Phật không xa?’ Nghe như thế chẳng nhờ phương tiện, tự tâm con liền được khai ngộ như người ướp hương thơm nơi thân có mùi thơm, đây gọi là Hương Quang Nghiêm. Chỗ tu nhân thuở xưa của con là dùng tâm niệm Phật để chứng nhập vô sanh nhẫn. Ngày nay con ở cõi này để dẫn dắt người niệm Phật trở về Tây phương Tịnh độ. Phật hỏi viên thông, con nghĩ không cần chọn lựa, cứ thu nhiếp hết lục căn, tiïnh niệm liên tục thì đắc tam ma địa. Ðây là đệ nhất”] XVI-LIỄU ÐẠT TÂM VÀ CẢNH THÌ VỌNG TƯỞNG CHẲNG SANH: Hỏi: Chẳng liễu đạt tâm và cảnh thì còn khởi hai vọng tưởng. Nay còn Phật để niệm và còn tâm khởi niệm, như vậy chẳng phải là hai vọng tưởng sao? Ðáp: Kinh Lăng Già nói: “Liễu đạt tâm và cảnh thì vọng tưởng liền không sanh” tức là nói: mọi thứ đều phải xa lìa hai tướng năng và sở vậy. Nay các tướng ta niệm như chữ vạn--, mắt xanh, bạch hào đều là tâm ta cả, thì không Phật nào bên ngoài có được Duyên (cảnh) đã không có thì tâm há có ư? Thế thì niệm tức năng tướng và Phật tức sở tướng liền tự xa lìa, đâu còn vướng mắc ở hai vọng tưởng. Chỗ các thánh xưa truyền thọ cho nhau chính là cái ngộ “vọng tưởng vô tánh” này vậy. Lại nếu, quán thật tướng của Phật và thân ta đều như nhau thì đối cảnh đều là chơn, không tâm nào chẳng là Phật tức lý trung đạo trùm khắp tất cả, như thế há còn trụ nơi Phật tức sở duyên ư? Lại giải rằng: như trên mũi có đốm mực, khi soi vào gương, người không thích đốm mực ấy lại đi lau mặt gương há được ư? Người ghét việc thị phi, khi đối tiếp trần cảnh, chẳng roõ chúng đều do tâm mình, lại cứ oán trách cảnh, há lại được sao? Ðâu bằng cứ tẩy trừ mực trên mũi, xả bỏ tâm phân biệt tấm kiếng sẽ tròn sạch, vạn cảnh sẽ toàn chơn, sẽ thấy đá đồng ngọc báu, chúng sanh đồng là Phật. Thế nên trong Tục Cao Tăng Truyện chép: [Vào triều đại nhà Tề,có cư sĩ họ Hướng gởi thơ đến hỏi Thiền Sư Huệ Khả rằng: “Bóng do hình mà có, âm vang do tiếng mà ra. Ðùa với bóng làm mệt hình (thân) tức chẳng biết hình là gốc của bóng. Phát ra tiếng để ngăn âm vang tức chẳng rõ tiếng là cội rễ của vang. Bỏ phiền não mà cầu Niết bàn giống như trốn hình mà tìm bóng. lìa chúng sanh để cầu Phật thì khác nào im tiếng để tìm vang. “Nên biết mê ngộ chỉ một đường, ngu trí không sai khác vốn Không tên lại đặt tên thì nhân tên đó mà thị phi sanh, vốn Không lý lại lập lý thì do lý ấy mà tranh luận khởi. Ðã là huyễn hóa, chẵng chơn thì ai đúng ai sai? (ai thị ai phi);đã là hư vọng, Không thật thì đâu Không đâu có? Huống đã từng biết: “được, vốn Không có chỗ được; mất, vốn Không có chỗ mất”. “Vì chưa có dịp đến để luận bàn, nay bày tỏ vài ý, mong Ngài nghĩ đến mà phúc đáp”. Ngài Huệ Khả viết thơ phúc đáp rằng: “Những lời luận nói về chơn pháp ấy đều đúng, Khế hợp với diệu lý. Chẳng khác gì: xưa kia không biết, cho ma ni là ngói gạch; nay bỗng nhiên nhận ra đóù là chơn châu. Cũng thế, Vô minh và trí tuệ như nhau không sai biệt. Nên biết vạn pháp đều là như, quán rõ thân mình và Phật không sai biệt thì cần gì đi tìm vô dư nào khác”. Hai vị thượng sĩ này ý nói Xứng Pháp hạnh của Ðạt ma Ðại sư, theo lý quán mà dụng tâm đều là niệm Trung đạo đệ nhất nghĩa đế pháp thân Phật vậy. Rõ ràng chẳng lìa niệm mà giữ lấy vô niệm, chẳng lìa sanh để lập vô sanh. Nếu lìa ra để riêng lập tức là chẳng liễu đạt phiền não là bồ đề, chúng sanh là chư Phật, làm sao nhận được ngói gạch ấy là chơn châu. đã không thể lìa thì niệm Phật mà Chơn vô niệm, vãng sanh mà thật vô sanh. Như thế, nghĩa lý đã sáng tỏ như trời thu mưa tạnh, như trăng sáng thoát mây, há lại đồng với kẻ ngu chỉ nhìn ngón tay chẳng nhìn mặt trăng ư? XVII-NÊN Ở TRONG TÂM HÀNH MÀ CẦU GIẢI THOÁT VÀ CHƯ PHẬT. Hỏi: Kinh Duy Ma chép: “Ðối với Chư Phật và pháp giải thoát, nên ở chỗ nào mà cầu? Nên ở trong tâm hành của tất cả chúng sanh mà cầu”. đã nói rằng: “ở trong tất cả tâm hành mà cầu”, sao ở đây ta chẳng cầu nơi tự tâm mà lại cầu Phật ở ngoài? Ðáp: Ông cho rằng “Niệm Phật tam muội Vô thượng thâm diệu thiền” chẳng phải là cầu ở trong tâm thì chẳng đúng vậy. Tôi sẽ vì ông mà nói rõ. Tâm khởi ra hành, hành động theo 3 cảnh: 1- hành thiện cảnh- như niệm Phật tam muội là cảnh thiện trong các thiện, là trời trong cõi trời. 2- hành bất thiện cảnh là tham, sân, si... tức các cảnh giới ác. 3- hành cảnh vô ký nghĩa là tâm không an trụ và chẳng duyên nơi thiện ác. Nếu luận về tánh lý thì bao quát cả ba cảnh. Còn chỉ nói về thuận lý thì chỉ giữ lấy thiện cảnh mà thôi. Kinh nói “thủ ngã là bất tịnh, xả ngã là thanh tịnh”. Nghĩa là: chẳng liễu đạt bản thể pháp tánh vốn không xan tham, trái với pháp tánh mà hành bố thí, tức boá thí còn trụ nơi thí không thể xả thí, như thế chẳng phải là bất tịnh sao?. Còn liễu tri pháp tánh, tùy thuận nhơn duyên hành bố thí ba la mật không có tướng xan tham và bố thí, làm việc thiện hợp với chánh lý, như thế chẳng phải là thanh tịnh ư? Về bất thiện và vô ký, chúng trái với pháp tánh nên chẳng thể cùng thiện chung họp. Do đó Trong Thắng Thiên Vương Kinh, Thắng Thiên Vương hỏi Phật rằng: “Làm thế nào Bồ tát thông đạt được Thiền ba-la-mật”. Phật nói với Thiên Vương rằng: “Bồ tát ma ha tát học nhã ba-la-mật, hành thiền ba-la-mật nên quán tâm mình hành nơi cảnh nào, thiện hay bất thiện hay vô ký. Nếu hành nơi thiện cảnh thì chuyên cần tu tập. Như bông sen chẳng dừng trụ ở một giọt nước nào, dù chỉ một pháp bất thiện, bồ tát cũng không được tạm trụ tâm nơi ấy”. Căn cứ theo lời kim khẩu ấy, há có pháp bất thiện vô ký nào mà chẳng từ bỏ. Thế thì tâm thuận lý thiện, hành nơi thiện cảnh đã nhấn mạnh rằng: Niệm Phật và giải thoát đều ở trong tâm hành cả. Nếu nói tâm hành niệm Phật chẳng phải giải thoát thì hai thứ tâm hành bất thiện và vô ký há là giải thoát ư? Nên biết chỗ giải thoát nếu mê muội thì vướng mắc nơi đại họa, còn liễu ngộ thì chứng đắc như trở bàn tay. Tu tập thiền định nên xét rõ chỗ ấy. Ðức Như lai thế Tôn xeùt về các định ấy, ngài cho “Niệm Phật tam muội” là vua trong các thiền; các tam muội khác đều có đối đãi đều là định của kẻ bình thường vậy. Song, Bửu vương tam muội này chẳng trụ tướng Tôn quí, chẳng trụ ở tướng thấp hèn, tướng tà, tướng chánh, tướng Niết bàn, tướng sanh tử, tướng phiền não, tướng bồ đề, tướng tịnh, tướng loạn, tướng thành chánh giác, tướng độ chúng sanh, tướng ngồi đạo tràng, tướng vô sở đắc; nơi các tướng như thế đều chẳng trụ chấp, giống như tỉnh mộng rỗng rang không có đến đi. Do vậy Ðại phẩm kinh nói: “Không đi không đến là Phật”. như thế với trung đạo còn buông xả, há lại trụ chấp nơi nhị biên sao. Như Kinh Chư Pháp Vô hành có kệ nói: “Giống như người trong giấc chiêm bao Thấy chứng Phật đạo độ chúng sanh Vốn thật Không đạo Không chúng sanh Tánh Phật pháp cũng lại như vậy. Ngồi đạo tràng, chứng vô sở đắc Nếu chẳng đắc thì chẳng có gì Minh, vô minh cũng đồng một tướng Biết rõ như vậy là Thế Tôn. Tánh chúng sanh chính là bồ đề Tánh bồ đề cũng là chúng sanh Bồ đề, chúng sanh vốn không hai Biết rõ như thế là Thế Tôn”. XVIII – BA NGHIỆP CÚNG DƯỜNG CHÂN THẬT BIỂU LỘ SỰ CUNG KÍNH. Hỏi: Phật đã diệt độ rồi, đem ba nghiệp dâng lên cúng dường làm sao nhiều phước được? Ðáp: Luận về biểu pháp giới cúng dường thì trong vạn hạnh, tịnh được tam nghiệp còn đều gọi là cúng dường, há duyên nghĩ đến chơn cảnh mà chẳng là cúng dường ư? Sách Lý Thú viết: “Quán tất cả pháp thường hay vô thường đều là bất khả đắc, rồi ở nơi các Như Lai rộng thiết lễ cúng dường”. Há chẳng rõ ràng đó ư? Lại lúc Như Lai còn tại thế, để tỏ lòng thành kính cúng dường đem hoa hương nhiều như mây như biển trùm khắp vi trần cõi đất dâng cúng cũng còn thấy ít. Ngay cả bậc Ðại Sĩ (Bồ tát) nhập quán dùng tư tưởng coi núi Tu Di như cột đèn, biển cả như mâm dầu để dâng cúng Như Lai còn chưa cho là thật kính. Chỉ khi đốt tay kim sắc, dâng tháp minh tịnh, khiến thân vàng cháy rực chiếu suốt mười phương để cúng dường Chư Phật, Bồ tát mới thấy vui mừng. Nay người đời chỉ đem tự tâm hoặc đứng ở xa chỉ hoa trên cây mà nói rằng cúng dường, trái với lễ nghi kính dâng Phật, thật là ngã mạn lớn vậy. ông hỏi Phật diệt độ rồi, kính dâng cúng Phật sao có phước nhiều. Hãy nghe tôi nói rõ. Vả như đinh lan chạm gỗ (cốt hình) trong nhà, ngày đêm dâng cúng coi như cha mẹ còn sống, danh thơm lưu truyền; người như thế, đời nay gọi là con chí hiếu. Nếu đức Như Lai còn tại thế đẹp đẽ như núi vàng rực rỡ, nghiêm tướng uy nghi, ai thấy mà chẳng phát đạo tâm và dâng hoa đảnh lễ, lúc ấy cúng dường thì khó khăn gì. Gặp lúc Phật đã diệt độ như trăng khuất núi, không thể phụng đối chơn nghi của ngài; chỉ biết qua kinh sách lưu truyền mà đối trước hình tượng ngài, phát ý vô thượng dâng cúng bông hoa; tâm ý đáng qúy trọng như thế há lại dễ dàng ư?. Kinh Niết bàn nói: “Cho đến chỉ dâng cúng một bông hoa cũng được sanh vào nước Bất Ðộng” Thế thì một hương, một hoa, một đèn, một nhạc cho đến đem thức uống ăn hết lòng ưa thích kính dâng cúng dường ba đời chư Phật đều là diệu nhân sanh về tịnh độ, là cội nguồn thành tựu chánh quả. Há có thể khinh thường việc ấy, chẳng tôn qúi ư? Nếu lìa hạnh này, nghe theo những lời dạy không cung kính như dâng hoa tâm đốt đèn tâm, xông hương tâm, lễ Phật tâm mà muốn cầu chánh giác thì khác nào chạy theo cái hay của loài khỉ vượn (bắt chước), giữ lấy cái ngóng trông đến rừng mai giả đặt (giả dối). Bảo họ mặc quần áo tâm, ăn cơm tâm thì họ lại chống cự. Như vậy, sao với lục độ vạn hạnh lại bày đặt cái tâm thấy biết rỗng tuếch ấy. Nhờ chỉ tâm mà lại bảo ngó hư không, lỗi ấy cũng như thế, không thể không cẩn thận vậy. Trong pháp môn Chân ngôn, Du già quán hạnh cũng y cứ sự môn, biểu lộ hình tướng nên không chỉ một mặt xét về tâm mà thường xuyên sáu thời dâng cúng hoa hương không thiếu sót. XIX- VÔ TƯỚNG DÂNG HOA, TIN HỦY CHIÊU BÁO. Hỏi: Hoa là sự, lý ở tại đâu? Tin và hủy chiêu báo thế nào. Ðáp: Hoa là lý, sắc là không. Về quả báo của lòng tin, trong Bi hoa kinh nói: Xưa có vương tử tên Vô sở úy (không sợ gì cả). Cầm bông sen dâng cúng dường Phật Bữu Tạng, Phật nói “người đem bông sen in hình ở hư không nên nay ta cho ngươi hiệu là Hư Không Ấn tương lai sẽ thành Phật ở thế giới Liên Hoa, Phật hiệu là Liên Hoa Tôn chính là ngươi đó”. Cả nước và Phật đều y cứ bông hoa dâng cúng Phật ngày xưa mà thành hiệu. Ðiều đó cho thấy rõ ràng ý nghĩa nhân hạnh chiêu cảm quả báo. Sao lại ngăn cản việc dâng hoa làm hạnh bố thí ba la mật mà muốn riêng theo lỗi vô tướng. Còn về quả báo của việc hủy báng không tin, trong Kinh Ðại phương Quảng Tổng trì có nói: [Xưa có một vị Tỳ kheo tên Tịnh Mạng, sống chánh kiến, mang hoa cúng dường Phật. Laïi có một Tỳ kheo tên Pháp Hạnh sống tà kiến, tu đắc Tứ Thiền thường giảng thuyết rằng Không Tông bát nhã cao hơn hết. Ông bày báng Tịnh Mạng pháp sư rằng: “Ông Tịnh Mạng nhận hoa chẳng phải để cúng dường Phật mà là tự thọ dụng”. Chỉ một lời nói đó mà 6 muôn đời liên tiếp, ông luôn không có thiệt căn (lưỡi), cho đến khi thành Phật cũng vẫn còn sống trong đời ngũ trược. Pháp Hạnh tỳ kheo thuở trước ấy chính là Thích Ca Mâu Ni ngày nay vậy] Phật nói: “ người ít học, trong giáo pháp tu lại khởi sanh hai thuyết (hữu vô) thì sau khi mạng chung phải đọa vào địa ngục trải qua nhiều trăm ngàn kiếp. Nếu lấy con mắt hung ác nhìn người phát bồ đề tâm thì bị quả báo không mắt. Nếu dùng miệng ác chê mắng người phát bồ đề tâm thì bị quả báo không lưỡi”. Nếu chỉ tu mỗi một bát nhã ba la mật mới đắc đạo bồ tát thì vua Ca-Thi-Ca ngày xưa khi hành bồ tát hạnh xả thân, đầu mắt, tủy, não cũng không có trí tuệ ư? Thế thì biết: lục ba-la-mật phải tu gồm đủ, nếu chỉ chấp một mà bỏ những hạnh còn lại thì là ma nghiệp. Sao lại bỏ bố thí ba la mật dâng cúng hoa mà chấp ác thủ không, riêng giữ hạnh bát nhã chơn vô tướng dối trá. Quả báo không lưỡi không khỏi đến với lỗi này vậy. Ðức Như Lai sở dĩ dẫn chứng lỗi lầm xưa của ngài là muốn bảo chúng sanh đừng đi theo lối cũ đó của ngài. Một bông hoa còn như thế, thì tất cả đất đá cỏ cây hình tượng, kinh điển, tăng ni, trụ trì tam bảo, giới định tuệ học, không luận là phước điền hay chẳng phải phước điền đều đáng cung kính vậy. Tất cả đều thuộc trong ba nghiệp cúng dường, có gì chẳng thành tựu được mà muốn lược bỏ đi. Pháp Hoa kinh có kệ nói: “Nếu người vào bên trong tháp miếu Trước tượng báu hay là tượng vẽ Ðều dùng hoa hương và phan lọng Hết lòng cung kính để cúng dường Cho đến chỉ một âm thinh nhỏ Cũng đều được thành tựu Phật đạo” XX- MUÔN THIỆN CHUNG QUI ÐỀU THÀNH TAM MUỘI Hỏi: Thí đèn, đèn sáng mãi được sanh về cõi trời Nhật nguyệt. Hoa, hương, phan, lọng cũng như đèn đều chỉ phát sanh phước báo cõi trời, mà ở đây lại nói “đều được thành Phật đạo”. Sao nói quá lời như thế? Ðáp: Như vua đi chơi có muôn xe ngàn quan. Quân lính đi theo đều có mang phù hiệu lính ngự. Ai xúc phạm đến lính này thì chết tại đó. Khi xe vua đã về cung, quân lính được giải tán về quê cũ. Nếu họ còn xưng là lính ngự thì cũng chết tại đó. Binh lính tuy đồng mà sống chết có khác. Bởi vì duyên khởi sai biệt mà có lúc vẻ vang lúc nhục nhã vậy. Cũng thế, với hoa, lọng, hương đèn đem cúng Phật nếu chẳng gặp Pháp Hoa Kinh Vương cho làm “kẻ dưới trướng” thì cũng chỉ được quả báo ở thiên cung. nếu may mắn gặp được Tam Muội Bửu Vương thì cũng “được theo hầu”, chỉ một bông hoa cũng thành tựu Phật Ðạo. Ðây là hột giống Phật nương theo duyên mà sanh khởi, lý dạy rõ ràng. Ðiều này giống như chim đậu núi Tu di đều có cùng màu với núi, sông đổ ra biển cả không cùng biển cả khác tên (đều gọi là biển cả). Do đó Trong Ðại Bảo Tích Kinh, ở Văn Thù Phổ môn hội, chung hợp hết thiên long bát bộ, địa ngục, súc sanh, sắc, thinh, hương, vị... tất cả vạn pháp đều vào trong tam muội, giống như sợi lông chứa trọn bể lớn, hột cải gồm thâu cả Tu Di. Chẳng phải sợi lông hột cải biến hóa được, mà chỉ vì cái hóa hiện tự biến hóa đấy thôi. Thế thì hiểu biết là do nơi mắt, đi đứng là việc của chân. Hiểu biết ngay thẳng thì đi ngay thẳng, hiểu biết cong vạy thì đi cong vạy. Ma Phật, sâu cạn đều tùy theo sự hiểu biết nên Kinh Niết Bàn nói: “Bỏ sự chậm chạp, thì không gọi là chậm. Tại vì xe chậm mới gọi là chậm”. Xe là dụ cho tuệ giải (sự hiểu biết sáng suốt). Một hạnh đã như thế thì muôn hạnh khác cũng vậy. Pháp Hoa tam muội là Niệm Phật tam muội. vì thế Như lai gọi Thắng định ấy là Tam Muội Bửu Vương, là Quang Minh Tạng, là ngọc châu trừ tội, là đèn phá tà kiến, kẻ dẫn đường trong nẻo mê, ấn vàng của Vương tử, kho báu của kẻ nghèo, là Không Tam muội, là Thánh Tam muội, đà-ra-ni, chơn tư duy, tối thắng quán, như ý châu, là Phật tánh, là Pháp tánh, Vô tận tạng, Thắng phương tiện, là ánh sáng đại trí, là pháp quán tiêu ác tam muội... Nên biết Giáo lý hạnh quả tam muội bốn ngàn môn ba la mật đều là tên khác của Niệm Phật tam muội. Như thế thì dâng một bông hoa là phụng cúng khắp cùng ba đời vi trần cõi Phật. Niệm một Phật là thông đạt cả mười phương chư Phật vị lai: Giống như đất bằng đã là mục tiêu thì mũi tên nào bắn ra mà chẳng trúng. Bằng chẳng như vậy thì chính là chê ý nghĩa “Sợ là Không”, “buông là Không”, “đi là Không”, “tìm là Không” trong Kinh Tư Ích vậy. Khách nói: Thấy thuốc đã đi còn để lại thuốc, kẻ đi buôn phải nhờ có vàng. Chỗ ẩn tàng của bậc Tiên Hiền, chẳng đúng người thì không thể rõ. Ðệ tử bởi còn tối đạo dốt học nên xưa nay luôn trộm nhìn vào cửa tam muội. Vì mong có ngày chứng vô sanh nên thường cầu được một lời dạy bảo chơn thật như chiếu chỉ mầu nhiệm của vua, như ấn báu của Pháp. Ngõ hầu đạt chỗ động tịnh song chiếu, lý sự viên dung, Khởi tâm mà vẫn hàm tàng chơn trí, tiếp xúc vạn loài mà vẫn trường tồn bất hoại, xưng nam mô Phật ngay đó thành tựu Phật đạo, tán hoa cúng Phật tích tắc vượt đến Bồ Ðề, như kinh vua còn thì mình còn tôn quí, mắt kéo mây mờ mà bỏ được màng che. Hai mươi nghĩa này chưa từng được nghe. Nay mừng nhờ đây mà bỏ được lỗi khinh thường chúng sanh, đến được cõi ưu du bửu trang nghiêm, thật là may mắn. Nguyện không đổi thân này, được thọ ký thành Phật, ngộ chư Phật vị lai chính là chúng sanh. Rồi cúi đầu lễ tháp Ða Bảo, cung đối Thanh tịnh Tăng, nguyện các ngài cùng tôi quán khắp mười phương chư Phật bồ tát niệm tròn đủ ba đời chư Phật. Xin quì chấp tay nói lời rằng: “Nhứt tâm nhớ niệm Quá Khứ Phật Niệm cả vị lai Phật Thế Tôn Và hiện tại Phật giữa mọi người Cũng học theo pháp các ngài dạy Không có một Phật trong quá khứ Cũng Không hiện tại và vị lai Ðây là thanh tịnh Vi Diệu Thiền Không thể nói được, chứng thì rõ”. Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 2 của NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG LUẬN. -------------oooo0O0oooo------------- NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG LUẬN - Bản dịch Việt ngữ số 3 Dịch giả: Thích Hồng Nhơn (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T47 - Kinh số 1967 - Tổng cộng kinh này có 3 quyển.) A Phần tựa Có người khách cao ngạo đến thiền thất của tôi (Ngài Phi Tích) trước đảnh lễ rồi hỏi : Con đường thẳng tắt thành đạo là cái hạnh Bất Khinh trong Pháp Hoa Tam muội, cái Tôn của Ban Chu trong niệm Phật Tam muội đều là cửa ngõ thâm diệu thiền, nguyện nghe chỗ nhiệm mầu ấy? Đáp : Tâm ông hy vọng rất cao, nên lời hỏi rất hay ! Ông sắp bước vào bến rồng vô sanh, muốn dở cánh bằng đến Đồ Nam. Tôi biết mình không xuất sắc nhưng cũng gắng gượng mở ra hai mươi môn nói về tôn chỉ này. Quyển thượng có bảy môn niệm vị lai Phật. Quyển trung có sáu môn niệm hiện tại Phật. Quyển hạ có bảy môn chung niệm cả ba đời đều là Phật. B. Phần chánh tôn I.. Quyển Thượng. Quyển thượng gồm có bảy môn, nói về niệm Bản Giác tức niệm Ông Phật ở vị lai. 1. Niệm Ông Phật ở vị lai mau thành Tam Muội Nếu Tâm có hai thì sanh ra nhiều vọng tưởng, nhiều vọng tưởng tuy không thật, nhưng bị mê lầm làm trở ngại, việc trở ngại không giải thích là điều lo của Thánh nhân. Vần mầu nhiệm thông suốt mà không lời, Pháp thân rỗng mà đủ tướng, không rõ được tướng, không tròn được lời, như thế ý chỉ một vị, tuyệt cả nói năng thì làm sao biết được chỗ qui thú ? Khi lưới của Đế Thích chưa mở, nghìn hạt châu đâu ai thấy được, chóp lưới vừa động, muôn mắc lưới đều mở. Muốn đầy biển lớn phải dùng nước trăm sông, niệm hiệu Phật chắc thành Tam muội, một lời trùm khắp chính tại chỗ này, cũng như hạt thanh châu bỏ vào nước đục, nước đục không thể không trong, tưởng Phật đặt ở loạn tâm, loạn tâm không thể không có Phật. Người đời niệm quá khứ Thích Ca, niệm hiện tại Di Đà, hoàn toàn chưa nghe niệm vị lai chư Phật. Vì sao ? Vì không hiểu đức Như Lai đối với cái Thô của chúng sanh mà nói cái Diệu của chư Phật bèn cho chúng sanh ở ngoài Phật. Kinh Tịnh Danh nói đã có mùi hương hoa Chiêm Bồ không có mùi hương khác. Hoa có loại đeo vào thân, có loại không đeo vào thân. Đây là ý muốn chỉ bày Đại thừa. Chê Tiểu thừa vì để bác bỏ mờ mịt, chỉ bày Đại thừa đồng về với Bất Nhị. Kinh Pháp Hoa là Vua của các kinh đã chỉ rõ pháp Thinh Văn. Như thế, tất cả đều là hương Chiêm Bặc, tôn chỉ của luận này là Đại và Tiểu Thừa không chấp. Nếu chẳng phải người ấy (phá chấp) tất cả đều cho Chư Phật là bậc rất cao (chí tôn), còn chúng sanh là hàng rất thấp (chí ti). Nếu có cao và thấp là các vọng đều sinh khởi, cung kỉnh và khinh mạng lập ra thì nhất chân pháp giới đều ẩn. Người chấp chặt như thế ắt coi vạn hữu như cỏ rác, coi thiên hạ như đồ chơi, khi tràng ngã mạn đã lập nên thì cao ngạo chê người, mắt ngó mây xanh, tâm đạo trên thượng đế, không bao giờ chịu hạ thấp. Kinh Duy Ma nói : Thấy tất cả đều nên cung kỉnh, dùng đồ cúng dường là hạnh tối thắng. Kinh Lăng Già nói : Như Lai Tàng tự tính nó vẫn thanh tịnh, chuyển 32 tướng vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh, như có bảo châu đại vô giá gói trong áo dơ. Lại như người ăn xin rất hèn hạ cùng đức Như Lai cao cả đều không sai khác, vì thế, niệm tròn đủ chư Phật ba đời là khắp quán các đức Thế Tôn trong mười phương. Trong lý thú Bát Nhã nói : 'Tất cả chúng hữu tình đều là Như Lai Tạng, Bồ Tát Phổ Hiền tự thể trùm khắp các nơi. Như người con gái nghèo có mang một vị quốc vương, như hột gạo trong bao tấm cám, cảnh ấy có thể biết, đâu có thể mắc vào oan trái tám điều ngã mạn ư ? Mọi người đều khinh lờn hào quang ngọc của chư Phật thời vị lai mà không dám khinh lờn sắc vàng của chư Phật ở quá khứ và hiện tại mà khởi ra gốc tội, ở trước Phật tương lai vì được thấy chư Phật đã qua và hiện tại. Chúng sanh nếu chẳng phải là Phật, thì Phật vị lai đâu có ! Nên biết mẹ nghèo nhờ con quí mà sang, gạo nhờ cám mà được bảo toàn, điều ấy phù hợp với tâm Bất Khinh Bồ Tát trong Kinh Pháp Hoa, nếu được như vậy thì niệm Phật Tam muội không cầu mau mà tự thành tựu. Pháp Hoa niệm Phật nguyên là một môn. Như dùng linh chi nấu thành thuốc. Các người tu tiên, xưa mỗi người ở một nơi không được gọi là Tiên. Người uống thuốc tiên có phép lên mây nên nhờ có thuốc mà nêu danh ở cõi Tiên. Người được dự vào cõi Tiên, người và thuốc tuy khác nhau, nhưng uống vào sẽ được thành tiên. Nếu không có thánh nhân có ai được đạo, pháp không có Phật giác ngộ đâu ai làm cho ta tự ngộ. Pháp không có Phật thì không ai ngộ, từ đó niệm Phật Tam muội sinh ra, Phật không có pháp không sáng tỏ, nên Pháp Hoa Tam muội khởi. Một vị Tiên có hai danh xưng đều gọi là Tiên, niệm Phật Pháp Hoa đều gọi là Phật huệ. Phật huệ đã đồng chắc chẳng khinh Thiền Vô Thượng của Ban Chu, sự giác ngộ từ đây khởi xướng. 2. Dâm nữ, phường trộm đều chẳng nên khinh Hỏi : Dâm nữ, phường trộm cướp là hạng người cực ác, đâu có thể được cung kỉnh như Phật ? Đáp : Phương pháp độ của Phật có cách đối đãi và cách quyết liễu. A.-Về đối đãi : Đối với người nữ dối trá, Phật nói Như Lai là chỗ chí chơn. Phật là bậc đáng tôn sùng, người nữ là kẻ cần xa lìa. Xa lìa có hai phần là tránh lòng dục vọng và dùng tâm buông bỏ. Thứ nhất là tránh dục : Trong Kinh Bồ Tát Quở Sắc Dục có dạy : 'Sắc gái đẹp là xiềng xích của thế gian. Kẻ phàm phu yêu đắm không thể tự mình nhổ ra khỏi, nó chính là tai họa lớn của thế gian, kẻ phàm phu bị vướng vào, đến chết cũng không bỏ được, nó chính là tai họa đáng thương của thế gian. Kẻ phàm phu gặp nó thì không có tai ách nào mà không đến'. Hành giả đã bỏ được rồi, nếu còn nhớ lại, không khác người trong ngục vừa mới ra, lại nhớ ngục thất muốn vào. Như người cuồng vừa tỉnh lại muốn cuồng trở lại, người bệnh được lành lại mong mình được thêm bệnh. Người có trí tuệ biết điều đó là mê mờ điên đảo, người có niệm này sẽ chết không biết ngày nào ! Kẻ phàm phu mê đắm nữ sắc, cam lòng làm nô bộc cho tình yêu sai sử, trọn đời gánh vác những việc cay đắng khổ sở, tuy có ngàn mủi gươm dao đưa đến họ cũng cam lòng gánh chịu chẳng chút than van. Nếu hành giả có thể bỏ mà không đoái hoài tới thì phá được các gông cùm xiềng xích, ghét mê, nhàm bệnh thì lìa được tai họa lo nghĩ. Tâm được an ổn là tốt, đã được ra khỏi lao ngục, vĩnh viễn không có hoạn nạn. Người nữ có tướng yểu điệu dịu dàng, lời nói như mật ngọt ru hồn, nhưng lòng đầy thuốc độc. Suối lặng nước trong là chỗ ở của giao long, núi vàng hang báu là nơi cư ngụ của sư tử. Đây là chỗ họa hại không nên ở gần. Nhà cửa không yên là do người phụ nữ, tan nát dòng họ là hại bởi người vợ trong gia đình. Người nữ thật là một kẻ giặc âm thầm diệt hết trí huệ sáng suốt của con người. Như lưới của người thợ săn đã bủa ra rồi ít con thú thoát nạn, như lưới chim vào rọ không thể bay ra, như lưới nhặt bọn cá bị lùa vào không thể nào ra khỏi, như đường hầm tối, người mù đi vào không thể trở ra, như thiêu thân thấy lửa đua nhau lăn vào. Vì thế, người trí biết rồi nên xa lánh thì không chịu những điều tai hại. Sự mê hoặc tồi tệ và xấu ác không gì bằng nữ sắc này. Kinh Đại Bảo Tích nói : 'Người bị các khổ như tên độc bắn trúng, cây nhọn đâm thân, rớt xuống núi đao còn ít khổ hơn sự sai sử của người nữ. Họ mượn hương hoa trang sức cho đẹp đẽ, để người ngu thấy đó vọng khởi tham cầu, như chim lạc ngoài bể mong được vào bờ, chết bị đọa vào địa ngục A tỳ, hiện đời gặp nhiều thứ khổ vây quanh mình, bạn lành xa lìa, cung Trời mất vĩnh viễn. Chẳng thà ta liều vào ngục sắt nóng, chạy trên núi đao, nằm trên đống than hồng, nguyện không bao giờ thân cận nữ sắc. Như chim vì tìm miếng ăn không tránh được lưới rập, người tham ái với người nữ bị hại cũng thế. Như cá ở trong nước, bơi lội trước lưới câu do mình muốn tìm mồi đâu ai hại mình được. Người nữ như kẻ bắt cá, lời dịu dàng dối gạt giống như lưới, người con trai giống như con cá bị lưới hay câu cũng như vậy, tự mình muốn tìm đâu ai bắt mình phải đến.' Thứ hai là phương pháp phóng tâm (tâm buông bỏ). Kinh Đại Bảo Tích dạy : 'Nếu người một lòng chuyên tinh tự giữ mình, khi tâm tham dục phát khởi liền phải tỉnh giác, dùng phương tiện dẹp hết, lại làm tâm trở lại tịch tịnh như cũ.' Muốn trừ sạch hết phải làm sao ? Chúng ta phải nghĩ thế này : Tham dục này vốn không là chẳng sạch, hãy tìm chỗ sanh chỗ diệt của tâm dục này từ đâu mà đến, rồi đi về đâu, trong ấy ai là người nhiễm, ai là người bị nhiễm, và gì là pháp nhiễm ? Được như vậy mới có thể vào sanh tử chốn trần lao mà không lo bị tai họa bởi tham, sân, si, nên gọi là phóng tâm. B.-Về quyết liễu : Nếu người xa lìa các vọng tưởng được rốt ráo, không nhiễm, rỗng rang như hư không, thì Phật quá khứ và Phật hiện tại đâu chẳng phải là Phật ở vị lai. Vì sao ? Vì người muốn tìm hạt châu quý báu, vô giá phải ở thương minh (biển sâu), muốn được của báu trí huệ phải tìm từ trong phiền não. Tướng ngũ nghịch là tướng giải thoát, cõi Ma tức là cõi Phật. Nếu còn nghe lời Phật mà vui mừng, nghe lời Ma mà nỗi giận thì chẳng phải là người giác ngộ được các pháp, muốn đến Bắc phải hướng Bắc mà đi, không được có ý về Nam, ngược đường mà đi, đâu được cùng người luận đạo. Xưa có một vị đại Tiên tên Lộc Đế, dùng thần chú làm cạn cả nước, có cô dâm nữ dụ được làm trời hạn đổ mưa. Người nữ ấy chính là Bà Gia Du Đà La, vị lai sẽ thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai. A Na Luật ngày xưa là đầu đảng trộm cướp, một hôm vào chùa ăn trộm hạt châu trên trán Phật, lấy mũi tên khơi ngọn đèn trên bàn Phật, làm cho ánh sáng cháy mãi không dứt. A Na Luật Tàu dịch là Vô Diệt (không dứt cũng từ lý do này). Ngài tương lai sẽ làm Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai. Hai vị Phật ở vị lai này đủ chứng minh rõ ràng rằng dù phạm dâm hay phạm trộm cũng đều thành Phật. 3. Trì giới, Phá giới đều tướng như Phật. Trong giới luật, về giới tướng có hai loại: 1/ Giới của Thanh Văn gọi là Tăng giới, 2/ Bồ tát giới gọi là Phật Giới. Về Thinh Văn giới có bảy chúng chẳng đồng: 1. Tỳ kheo giới gồm có 250 giới. 2. Tỳ kheo Ni giới gồm có 348 giới. 3. Thức Xoa Ma Na học sáu pháp. 4. Sa Di gồm có 10 giới. 5. Sa Di Ni cũng có 10 giới. 6. Ưu Bà Tắc (cư sĩ nam) gồm 5 giới. 7. Ưu Bà Di (cư sĩ nữ) cũng có 5 giới - Về Bồ tát giới có 2 chúng tại gia và xuất gia: Căn cứ vào Kinh Địa Trí, tại gia Bồ tát giới có 6 giới trọng và 28 giới khinh. Căn cứ vào kinh Phạm Võng, xuất gia Bồ tát gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh. Giới Bồ tát này cũng gọi là Kim Cương Quang Minh Bửu Giới, cũng gọi là Tam Tụ Tịnh giới: 1. Nhiếp luật nghi giới. 2. Nhiếp thiện pháp giới. 3. Nhiêu ích hữu tình giới. Cách trì giới: Bảy chúng đệ tử của Phật giữ gìn giới hạnh ở trong 4 oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, có mật thiết quan hệ. Nếu ở trong 4 oai nghi này có một oai nghi nào không tỉnh giác thận trọng là không thể trì. Chữ trì đây có nghĩa là gìn giữ vâng làm. Vì vậy trong lúc đi đứng nằm ngồi không được lơi lỏng nên gọi là trì. Tỳ kheo có 250 giới: 4 giới đầu thanh tịnh gọi là trì căn bản giới. Còn 246 giới sau mỗi giới đều thúc liễm giữ gìn không cho mất gọi là Tỳ kheo toàn trí. Thầy Tỳ kheo trước tiên ở trên giới đàn, Thầy Yết Ma 3 lần tác bạch, bảy chứng sư vì đại chúng chứng thành, gọi là đã được giới thể. Gìn giữ như thế cho đến thành Phật, được Pháp thân đều từ giới này làm gốc. Tỳ kheo ni giữ 8 giới trọng, mãi mãi không phạm gọi là căn bản giới thanh tịnh. Còn 340 giới cũng phải bảo toàn không mất gọi là giới phẩm hoàn toàn. Nếu giới phẩm được hoàn toàn thanh tịnh thì thành Phật có dư. Còn Thức Xoa Ma Na chỉ yếu có 6 pháp không phạm là đủ. Sa Di và Sa Di Ni chỉ yếu 10 giới pháp thanh tịnh. Trong 10 giới này chỉ có giới ăn phi thời có quan hệ rất lớn không thể không trì, giới này nếu không trì thì tất cả các giới khó khỏi không phạm. Giới Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di phải giữ 5 điều giới luật, ai cũng biết rõ. Phá giới: Tỳ kheo trong 4 giới trọng, bị phạm một giới gọi là phá căn bản giới, cũng bị mất giới thể, suốt đời không được khôi phục. Các giới sau có bị phạm gọi là phá chi mạt giới, cho đến rất nhỏ gọi là đột kiết la. Ở cõi Trời Tứ Thiên Vương, một ngày một đêm bằng nhân gian 50 năm. Ở Địa Ngục, một ngày một đêm bằng ở Tứ Thiên Vương 50 năm. Cứ như thế tính thành năm tháng. Người tội ở trong Địa ngục phải trải qua 500 năm mới ra khỏi ngục. Đây là thời gian của người phá giới tội rất nhỏ, bị đọa vào Địa ngục. Sáu chúng sau so sánh như trên thì biết. Nếu người sau khi phá giới phải sanh lòng hỗ thẹn, đến trước vị A xà lê chân thành thổ lộ, không được dấu diếm dù nhỏ bằng sợi tơ. A xà lê sẽ hứa cho sám hối, nếu nhẹ thì tác pháp sám, tập hợp 20 vị Tăng, đối chúng phát lồ, khóc lóc cầu xin, cứu kính không tạo tội mới, sau khi tác pháp rồi, luôn luôn vâng lời Thầy dạy, hoặc trì chú bao nhiêu biến, hoặc tụng kinh bao nhiêu quyển, hoặc lễ sám bao nhiêu bộ, làm xong mới cho vào chúng đồng tu. Nếu phạm căn bản giới sẽ không được sám hối. Thủ Tướng sám: chẳng luận tụng kinh lễ sám hoặc thời hạn 7 ngày, 49 ngày, 90 ngày hoặc đến 1 năm, 3 năm, cần phải thấy hảo tướng như ánh sáng Phật, hoặc Phật đưa tay sờ đỉnh, hoặc chư thiên tán hoa... được các tướng như thế, tội mới sạch, gọi là Thủ Tướng sám. Vô Sanh sám: Quán sát tánh của tội ấy, không ở trong, ngoài và chặng giữa, lại không ở quá, hiện, vị lai. Cuối cùng tội từ chỗ nào mà khởi? Tội không tự tánh, do nhân duyên sanh, đã từ nhân duyên mà sanh rồi cũng từ nhân duyên mà diệt. Từ nhân duyên mà sanh là người trong không dùng tâm tàm quý (xấu hổ) làm nhân, ngoài nhờ bạn ác làm duyên, do đó mà tạo ra các tội, nên gọi là sanh. Từ nhân duyên mà diệt là người trong lấy việc tàm quý (xấu hổ) phát lồ làm nhân, ngoài nhờ thiện tri thức làm duyên, nên có thể diệt hết các lỗi lầm nên gọi là diệt. Sáu chúng sau muốn sám hối khi phá giới cũng theo ba pháp sám kể trên. Trì Bồ tát giới là người từ ở trong thân này đến khi thành Phật không được phạm gọi là Trì. 1. Nhiếp luật nghi giới là các ác đừng làm. Tất cả ác không làm gọi là trì, đã làm gọi là phạm, nên gọi không làm (chỉ) là Trì, có làm (tác) là Phạm. 2. Nhiếp thiện pháp giới: Tất cả việc lành đều làm gọi là Trì, không làm là Phạm nên gọi làm (tác) là Trì, không làm (chỉ) là Phạm. 3. Nhiêu ích hữu tình là không chúng sanh nào mà không độ. Hai cái chỉ và tác ở trên đều là tự độ, cùng độ người, nếu không độ người gọi là Phạm. Chúng ta, những người niệm Phật, phàm thấy bốn chúng đệ tử của Phật không cần so tính trì giới hay phá giới, không được vọng khởi phân biệt, dùng tâm bình đẳng như Bồ tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa thấy tứ chúng liền sanh cung kỉnh, khen ngợi, lễ bái: 'Tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài đều sẽ làm Phật'. Nên nói gặp mọi người đều sanh ý tưởng đang gặp Phật. Hỏi: Kinh Phạm Võng nói: 'Nếu người thọ giới Phật tức vào địa vị của chư Phật.' Các hàng xuất gia là bậc mang giới luật như trăng sáng, đeo châu anh lạc, dự vào địa vị tam tôn, mô phạm cho bảy chúng. Nếu không tinh trì giới luật, vọng động làm điên đảo, ô uế thiền môn. Những người như thế, khinh chê đó cũng không lỗi, đánh đó cũng chẳng tội gì? Trong Kinh Như Lai Tam Muội Hải, đức Phật vì phụ vương mà nói: 'Ngày xưa có 4 vị Tỳ kheo phạm luật, lấy làm hỗ thẹn, không biết nương tựa vào đâu. Bỗng nhiên trên hư không có tiếng nói: 'Các Ông đừng nói rằng không còn cách gì cứu! Không phải vậy, đức Không Vương Như Lai, tuy đã vào Niết Bàn nhưng hình tượng hãy còn. Các Ông nên vào tháp, một lòng quán tưởng hào quang trắng ở giữa chân mày của bảo tượng. Các Tỳ kheo nghe theo rõ lệ mà nói rằng: 'Phật tượng còn diệt được tội trọng như vậy huống hồ chân dung, khởi thân đảnh lễ đầu mặt sát đất, các tội liền tiêu. Ngày nay ở bốn phương đều thành chánh giác: phương Đông Phật A Súc, phương Nam Phật Bảo Tướng, phương Tây Phật Vô Lượng Thọ, phương Bắc Phật Vi Diệu Thinh. Bốn vị Tỳ kheo phá giới này một lòng quán bửu tướng, liền được vào vị đấng Đại Hùng của đời. Người niệm Phật đâu nên tự lầm và đem đến việc lầm lạc cho người khác. Kinh Đại Tập nói: 'Nếu các vương thần đánh mắng những người xuất gia trì giới hay phá giới, tội đồng chích một trăm ức thân Phật ra máu'. Nếu thấy có người mặc áo cà sa, không luận là trì giới hay phạm giới, chỉ tưởng như Phật, người có tưởng Phật là người chứng được Niệm Phật Tam muội vậy. Đây lời vàng của Phật dạy và cũng là ý chỉ của Bồ tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa, đâu được chẳng tin ư! Thà làm Tâm của Thầy, đừng làm Thầy của Tâm, thấy xan tham quán tưởng bố thí, thấy người phá giới quán tưởng trì giới. Vì vậy mà ta không bị cảnh giới lục tệ trói buộc, thành tựu Quán môn Lục Độ Ba La Mật. Nếu cố tâm phân biệt, tự mình nhận lấy tối tăm. Như có thể thấu hiểu được chỗ nhận thức này thì Niệm Phật Tam muội thành tựu dễ dàng như nước chảy trong sông vậy. 4. Hiện ở Địa Ngục Không Ngại Thọ Ký Hỏi: Như kẻ hiện ở nơi Địa ngục, hoặc Ngạ quỷ, Bồ đề tâm khó có thể phát khởi, dòng sông đã đục chưa biết kỳ hạn bao giờ được trong, đâu được xem đồng như Phật? Đáp: Hái thuốc quí không phải lấy từ nhà trồng hoa, lấy thuốc pháp không phải tự nhiên mà có được. Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói về 4 thứ thọ ký: 1. Thọ ký người chưa phát tâm. 2. Thọ ký người mới phát tâm. 3. Thọ ký bí mật. 4. Thọ ký hiện tiền. Nay kẻ hiện ở Địa ngục, Ngạ quỷ, Phật thọ ký tương lai chắc phát đại chí, gặp bạn lành, thực hành đạo Bồ tát, hoàn thành bậc Chánh giác, chính là Phật thọ ký cho người chưa phát tâm sẽ được thành Phật. Khi Phật nói bốn hạng người được thọ ký, ngài Ca Diếp bạch Phật: Chúng con từ nay đối với tất cả chúng sanh tưởng như Thế Tôn, nếu sanh lòng khinh, tự mình bị hại. Phật bảo, lành thay lời nói rất hay! Mọi người đều không thể suy lường chúng sanh, chỉ có đức Như Lai là có thể hiểu thấu đáo. Ta bảo các hàng Thanh văn và các vị Bồ tát đối với chúng sanh nên sanh ý tưởng như Phật. Kinh Hoa Nghiêm, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện nói: 'Muốn phá trăm vạn cửa chướng, cần dùng tưởng chúng sanh như Phật này. Phàm nhà chứa châu báu tuy chưa mở cửa, không ngại gì nói có châu báu trong nhà. Hạt châu trên trán che kín, không ngại gì nói châu ẩn trên trán. Nếu không niệm chúng sanh là đương lai Phật, ắt bị sáu trần khuấy nhiễu, lại bị ma quân, tự mình phá hoại thành lủy, bảo tồn cho nước địch, luôn luôn khởi lòng cừu oán. Hai bên chiến trận chưa yên, trống trận còn thúc vang dội, đâu có thể nằm an nhàn say ngủ. Người có thể ngộ sắc thanh là Phật, thời chúng sanh đều là Phật ở tương lai, chắc không lập tâm ở phàm cảnh trước đây, hoặc tưởng thân mình là bổn tôn, thì quán môn thâm diệu của Du Già chơn ngôn, không cần tính toán cũng có được. Hỏi: Những người ở Địa ngục là người chưa phát tâm, đức Như Lai là một đấng Pháp vương vì lòng từ bi thương xót mà thọ ký cho. Thật ra họ là người chưa ngộ thì bao giờ mới tỉnh? Đáp: Cái nguồn của trường giang (sông dài) tràn đầy chừng một chén; gốc của đại mê chỉ ở trong hai cái chấp ngã và Pháp mà thôi. Nếu ngoài niệm mà lập ra vô niệm, ngoài sanh lập ra vô sanh thì sanh tử khác với Niết bàn, thì lời vàng của chư Phật cũng không dạy được. Nếu biết rõ niệm mà vô niệm, sanh mà vô sanh, thì phiền não tức Bồ đề, một tướng trang nghiêm nhân đây mà có thể ngộ được. Cũng như đàn ong ở đỉnh núi đem về phòng vẫn cho mật tốt; bảy báu để trong giếng dơ đem lên không thể bỏ, mà không cho là của quý? Sự quý báu gốc vốn nó đã có đủ, không phải đợi đến bây giờ mới có. Chúng ta hãy xem xét khắp tất cả chỗ mà ta duyên đến đều thấy đức Như Lai thì những thứ tham, sân, si làm sao sanh ra còn được? Trong Kinh Như Lai Tạng dạy: 'Ta dùng Phật nhãn xem tất cả chúng sanh trong tham, sân, si và các thứ phiền não đều có trí Như lai, mắt Như lai, thân Như lai đang kiết già an ngồi, nghiễm nhiên chẳng động; cho đến đầy đủ các đức tướng như ta không khác gì? Dùng chín thí dụ để rộng nói rằng, tất cả chúng sanh đều có Như lai Tạng. Trong lời giải thích bài tạng của luận Thật Tánh dạy: 'Trong cành hoa héo có chư Phật, trong thùng phẩn có vàng vòng, trong đất có tạng trân bảo, trong các trái củ có mầm non, trong chiếc áo rách có tượng vàng ròng, trong người con gái nghèo xấu có mang chuyển luân vương, trong đám bùn lầy có bảo tượng thượng diệu. Chúng sanh có đầy dẫy các thứ tham, sân, si, vọng tưởng phiền não, nhưng trong cái cảnh trần lao đều có Như lai Tạng'. Qua chứng minh trên chứng tỏ rằng hiện ở trong Địa ngục không có trở ngại gì cho việc thọ ký. Hỏi: Bậc chí nhân (chí tôn) khi dụng tâm là các thứ phan duyên đều dứt hẳn, còn chúng sanh phóng tâm chạy theo duyên, đều thấy Như lai, chưa biết ở giáo lý nào? Kinh điển nào? Đáp: Trong giáo lý có dạy: 'Người khởi tâm duyên khắp sáu trần, ba nghiệp nhưng phát diệu nguyện vào cảnh giới Phật, mỗi thứ duyên khởi không lìa Như lai gọi là thấy tất cả, chỗ thấy viên mãn này không phải do mắt mà thấy được. Kinh Niết Bàn dạy: 'Thanh văn có Thiên nhãn được coi là Nhục Nhãn (mắt thịt), người học Đại thừa lấy nhục nhãn (mắt thịt) làm Phật nhãn vì hiểu rõ thân mình có Phật tánh'. Kinh Thắng Thiên Vương dạy: 'Các Đại Bồ tát dùng sức phương tiện thực hành Bát Nhã Ba La Mật, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại. Duyên tất cả sắc nguyện được Phật sắc không chỗ được. Duyên theo các tiếng nguyện được vi diệu âm thinh của Như lai. Duyên các thứ hương nguyện được thanh tịnh giới hương của Như lai. Duyên các mùi vị nguyện được vị đệ nhất Trượng Phu Tướng của Như Lai. Duyên các sự xúc chạm nguyện được bàn tay mềm mại của Như lai. Duyên các pháp nguyện được tâm tịch tịnh của Như lai. Duyên thân nguyện được thân Phật. Duyên khẩu nguyện được Phật khẩu. Duyên ý nguyện được ý bình đẳng của Như lai. Đại Bồ tát thực hành Bát Nhã Ba La Mật không có một tâm một hạnh nào luống qua mà không hướng vào Nhất thiết Chủng trí, duyên khắp các pháp mà không chấp trước. Quán thấy các pháp đều hướng về đạo Bồ đề; Bồ tát tu tập các hạnh đều do ngoại duyên mà thành lập, cũng như quả đất, trên đó nếu muốn đào ao, đào giếng liền có nước mà dùng, nếu không chịu đào, không làm sao mà có được nước? Cảnh giới thánh trí cũng thế, trùm khắp tất cả pháp, nếu người nào siêng năng tu Bát Nhã Phương Tiện thì sẽ được Thắng trí Bát nhã, nếu không chịu tu thì làm sao có thể đạt được? 5. Quán không, vô ngã chọn việc thiện mà theo. Hỏi: Tức phàm là thánh đều là vô ngã. Như thế vô ngã của Tam giáo tức không khác, nghĩa ấy thế nào? Đáp: Tên của Tam giáo ban đầu đã không khác lý lại chẳng đồng. Đức Phu Tử (Trọng Ni) ở trong Tứ Tuyệt có nói đến Vô Ngã là ý khiêm nhường; Đạo Lão nói vô ngã là nói thời gian dài không có chủ; Còn Đạo Phật nói vô ngã là quán năm uẩn đều không. Khổng giáo và Lão Giáo đều không hiểu rõ ngũ uẩn thì làm sao hiểu được Tứ Đế, Lục Độ Vạn Hạnh. Nói gì đến giai cấp. Thánh Hiền tuyệt nhiên chưa nghe, nên kẻ sĩ tu tâm cần phải chọn việc tốt nhất mà theo đó. Vì việc Bất thiện (chẳng lành) không ích lợi đối với chí chơn, không ghi và quên luôn cả thiện và ác, làm trở ngại cho Phật Pháp, đâu không phải từ đó mà ra nên Thánh Nhân đơn giản (bỏ) mà không lấy. Niệm Phật Tam Muội là bậc thiện tối thượng, là đầu của muôn hạnh, nên gọi là vua Tam Muội. 6. Không chọn thiện không bỏ ác Hỏi: Nếu chọn thiện để theo vì sao không chọn cái thiện của Chư Phật và bỏ cái ác của chúng sanh? Đáp: Không cần đổi câu hỏi lại, cũng thành câu đối đáp. Vì sao, vì chọn thiện mà theo thì bao hàm cái ác mà thiện, tức vọng mà chơn. Nếu có thể niệm Ông Phật ở vị lai, nói cái sanh của Bồ Tát Thường Bất Khinh thì trời đất là một, muôn vật là một lông ngựa vậy. Chúng sanh đều là Phật nên cõi này thường thanh tịnh, khác nào Ngài Xá Lợi Phất xem cõi này là đá, cát, ngói, gạch, đồng với cõi trân bảo trang nghiêm của Phạm Vương, vì vậy chọn chỗ chí thiện là không ai có thể bỏ. Kinh Pháp Hoa nói rõ diệu ý tuyệt đối đãi: ‘Chúng sanh thấy kiếp cuối, khi lửa lớn thiêu đốt, cõi ta đây yên ổn, trời người rất sung túc, lầu nhà và vườn rừng, các thứ báu trang nghiêm’. Trong Kinh Thắng Thiên Vương nói: ‘Chỗ Phật ở thật không phải cõi uế, vì chúng sanh phước mỏng nên thấy có bất tịnh’. Phàm năng lực mạnh mẽ của Tam Muội, không thể dùng vọng tưởng muỗi rệp (nhỏ nhít) mà có thể phá hoại. Gõ hồng chung niệm mười niệm không gián đoạn, đối với tán tâm niệm Phật có sai khác rất rõ. Niệm Phật A Di Đà là niệm chung cả Chư Phật trong ba đời, niệm Chư Phật Bồ Tát cũng như vậy. Luận Đại Thừa Khởi Tín dạy: ‘Y cứ vào một hướng nên bị lầm chuyển (Tây cho là Nam) sự thật phương hướng không có đổi. Vì thế, biết rõ được một phương là các phương khác đều đúng, niệm một vị Phật là Chư Phật hiện tiền. Đây chính là yếu nghĩa của Pháp Môn Đại Thừa vậy. 7. Không thể ăn thịt tất cả chúng sanh Hỏi : Thịt là thứ để cho người ăn, người niệm Phật cấm tuyệt là ý gì ? Đáp : Quốc Vương Thi Tỳ xã thân cứu con vịt đem toàn thân cân mới bằng, người và cầm thú tuy khác, nhưng đều tham sống sợ chết, nên đâu có thể ăn thịt nó, dùng béo thân mình để hại mạng nó đâu chẳng đáng sợ sao ? Nếu biết rằng chúng sanh là Phật vị lai, thì ai nở dùng dao giết hại mạng chúng! Kinh Thủ Lăng Nghiêm có bài kệ: 'Vì lợi giết chúng sanh, vì tiền lưới các vật. Hai món đều nghiệp ác, chết vào ngục kêu than'. Vì thế, Phật dạy nếu đem tiền của bố thí thì kẻ lưới thú và những người làm hàng thịt tự nhiên không có. Vì vậy, Tổ Long Thọ không khinh chim nhỏ, bậc cao tăng không dám đạp trùng kiến. Nếu có người hỏi việc này ta có thể đáp: Các chúng sanh lớn nhỏ cùng với ta đồng ở trong bể sanh tử, các chúng sanh kia hoặc có kẻ thành chánh giác trước ta, đâu thể dám khinh lờn. Khinh còn không được, huống gì ăn máu thịt của chúng. Luận Bửu Tánh dẫn Kinh Như Lai Tạng dạy: 'Chúng sanh là Đệ nhất nghĩa đế (Phật), là Như Lai Tạng, là Pháp Thân, là Bồ Đề'. Nếu người không hiểu ý chỉ niệm vị lai Phật, như con chó chỉ đuổi theo gói đồ ăn, không theo người, việc theo đuổi biết bao giờ dứt. Người chỉ niệm Phật quá khứ và hiện tại mà không niệm Ông Phật vị lai thì lòng ngã mạn không dứt. Nếu sư tử đuổi theo người, thì gói đồ ăn vứt ngay vì không cần thiết. Chúng ta thường nghe cung kỉnh và ngã mạn là một, nhưng tánh cách rất khác nhau. Bỏ cung kỉnh theo ngã mạn đối với cha mẹ là đại nghịch, bất đạo, bỏ ngã mạn theo cung kỉnh đối với cha mẹ là người đại hiếu. Nên kinh Phạm Võng dạy: 'Chúng sanh trong sáu đường đều là cha mẹ. Hiếu gọi là giới, thiện căn phát khởi từ đây.' Quán chúng sanh trong sáu đường đều là Phật ở tương lai rất gần với ý tưởng xem chúng sanh trong sáu đường là cha mẹ. Như vị Sa Di cứu đàn kiến tuổi thọ gia tăng, Lưu Thủy Trưởng giả dẫn nước cứu cá được Trời rưới hoa, thay cái chấp vô số kiếp lượng của chúng sanh để niệm cái thân của tương lai Phật. Phải biết trong đống phân ô uế có vàng ròng, tuy có nhiều lớp mây che, nhưng sau đó là trăng sáng. Như thế việc ham ăn thịt là những mây mù nghiệp báo sanh tử, cần phải dùng gió Huệ quét sạch thì Tam Muội hiện tiền, Kinh Phạm Võng dạy : 'Ta là Phật đã thành, các Ông là Phật đang thành.' Nếu người thường có lòng tin như vậy thì giới phẩm đã trọn vẹn, đâu được không thể niệm vị lai Phật ư? Hỏi: Thịt không được ăn tôi đã tin rồi, còn ngũ tân thì sao? Đáp: Kinh Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm dạy : 'Năm thứ rau này, nếu ăn chín thì khởi lòng dâm, ăn sống tăng giận hờn. Người ăn năm thứ rau này dù có thể nói giỏi mười hai bộ kinh, Thiên Tiên trong mười phương nghe mùi hôi hám nên đều xa lánh, các ngạ quỷ theo người ăn ngũ tân liếm môi mỏ, thường cùng quỷ ở chung. Phước đức mỗi ngày mỗi tiêu, thường không lợi ích. Những người tu thiền ăn ngũ tân này, Bồ Tát Thiên Tiên, Thiên Thần trong mười phương không đến giúp hộ, Đại Lực Ma Vương được nhiều phương tiện gia hại. Người tu Đạo Bồ Đề phải vĩnh viễn đoạn tuyệt ngũ tân, đây là việc tăng tiến thứ nhất trong việc tu hành, đây là lời vàng chúng ta đâu nên trái lại. Kinh Bách Dụ nói: 'Có người ở trên đường nhặt được một rương tiền vàng, cắm cúi đếm chưa xong, chủ rương tiền đến, lấy tiền lại. Người đi đường hối hận sao hồi trước không đi nhanh, buồn rầu khổ sở? Như người gặp Phật Pháp không gấp siêng năng tu hành, chỉ thích nghe nhiều, bất chợt mạng chung, đọa vào ba đường ác, như người ngu kia, lẩn quẩn tính toán để người chủ đến đoạt mất. Có bài kệ rằng: Ngày nay tạo việc này, Ngày mai tạo việc kia, Vui đắm không biết khổ, Không ngờ giặc chết đến, Dần dà lo các việc, Kẻ phàm đều như vậy, Như kẻ đếm tiền kia, Việc đó cũng như vậy. 3Quyển Trung gồm có sáu môn, Niệm Cứu Kính Giác là niệm ông Phật hiện tại chuyên chú vào một cảnh. 8. Niệm hiện tại phật chuyên chú vào một cảnh Hỏi : Niệm vị lai Phật chính là chúng sanh đã nghe được huyền chỉ sự rộng, lý sâu, lại e tâm tán loạn khó thúc liễm, nay muốn dùng một để thấu suốt tất cả, chuyên niệm một vị Phật ở phương Tây, niệm một vị Phật để vào vị bất thối, bỏ tâm hữu lậu, chèo thuyền ở ao vàng ròng, lễ Phật Di Đà ở Điện Bạch Ngọc, dùng chung ba đời, mong vào chín phẩm có thể được chăng ? Đáp : Luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa, Bồ Tát Long Thọ y theo Kinh Hoa Nghiêm mà tạo luận. Trong luận có phẩm hạnh dễ làm viết : 'Đường thực hành của Bồ Tát có hạnh khó làm như người đi bộ vất vả gian nan; có hạnh dễ làm như người đi thuyền khỏe thân mà mau đến. Năng lực bổn nguyện của Phật A Di Đà, nếu người nghe danh xưng niệm, chính mình được về nước Cực Lạc kia, như thuyền nước xuôi gặp gió thuận, ngày vượt xa ngàn dặm đâu có khó gì ! Vì thế, Phụ Vương và quyến thuộc của Đức Thích Ca Như Lai, sáu muôn họ Thích đều sanh về cõi Cực Lạc vì Phật A Di Đà và chúng sinh trong thế giới này có duyên sâu dày, nên chuyên chú một cảnh, viên thông cả ba đời là điều rất tốt vậy. Hỏi : Chuyên chú một cảnh, viên thông ba đời là điều rất tốt, nhưng xưng niệm tự tâm mình để được vãng sanh về nước kia là dùng hữu vi hư giả như gió làm nhiều sóng, đâu chẳng tưởng bậy ở bên ngoài, mình chỉ nhiếp tâm ở bên trong làm sao hợp với ý chỉ vô vi ? Đáp : Hữu vi tuy hư giả bỏ đi thì đạo nghiệp khó thành, vô vi tuy thật lấy đó thì tâm huệ không sáng. Trong kinh dạy : 'Nhàm lìa công đức hữu vi là ma nghiệp, ưa đắm công đức vô vi cũng là ma nghiệp. Ông nay chán hay vui sự giao tranh đâu chẳng lạc vào hang quỷ ư ? Nếu Thánh Hiền nhiếp tâm gọi là nội, Phàm phu đã tưởng gọi là ngoại, nếu cho chạy bên ngoài là loạn, trụ ở bên trong là định. Chỗ chạy loạn bên ngoài hoặc bên trong đều không phải là ý của chỗ nhiếp tâm của niệm Phật Tam Muội. Trong phần chú kinh Duy Ma Cật, Pháp Sư La Thập kể : Ở nước ngoài có một người con gái rất đẹp, thân thể như vàng ròng, có người con của một vị trưởng giả tên là Đạt Mộ Đa La dùng một ngàn lượng vàng để cưới, khi rước dâu đi ngang Tinh Xá Trúc Lâm, Bồ Tát Văn Thù ở trên đường biến thân một nữ cư sĩ, mặc bộ đồ rất quý báu sang trọng, người nữ thấy rồi lòng tham phát khởi, muốn được bộ đồ đẹp ấy. Ngài Văn Thù nói : Nếu cô muốn được bộ đồ đẹp này, cô phải phát Tâm Bồ Đề, tôi sẽ tặng cho. Người nữ hỏi thế nào là Tâm Bồ Đề ? Ngài Văn Thù trả lời : Chính là thân cô đấy ! Cô ta hỏi : đó là ý nghĩa gì ? Ngài Văn Thù đáp : Tánh Bồ Đề vốn không, thân của cô cũng không. Người con gái đời trước đã từng ở nơi Phật Ca Diếp gieo trồng nhiều căn lành, rộng tu trí huệ, nghe lời ấy rồi liền chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Được Pháp Nhẫn rồi mới biết sự ham muốn của mình là sai, liền cùng con ông trưởng giả đi vào rừng. Khi vào rừng, cô ta hiện tướng ngất xỉu mà qua đời, thời gian sau thân thể sình chương hôi thối. Con ông Trưởng giả thấy thế rất sợ, tìm đến Tinh Xá, Phật thuyết pháp cho ông cũng được Pháp Nhẫn. Người Đại Giác chưa thành, chưa rảnh rỗi việc nên gọi là nhẫn, như tự quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy, nữ thân không, thân Phật cũng không, đâu có gì là. Nếu được như thế thì tất cả hữu vi là vô vi, tất cả trong ngoài không phải trong ngoài. Vì thế, ở chỗ có mà chưa từng có, có mà thường không, ở chỗ không mà chưa từng không, không mà hằng có thì nào lo gì Phật có tướng tâm có niệm. 9. Đời này đời sau một niệm mười niệm Hỏi : Đã nói về chỗ dễ làm và khó làm, quán thân là Bồ Đề ý chỉ đã rõ ràng, người sống ở đời mong manh như điện chớp, nếu để một niệm dần dà ăn năn không kịp. Người tu hành, biết tâm vô thường huống là thân, thân còn vô thường huống là vật ngoài thân. Một khi hơi thở ra không trở vào liền thuộc đời sau, gió nghiệp thổi bồng bềnh, mờ mờ không biết về đâu, dám mong chỉ cho thế nào một niệm và mười niệm vãng sanh và cái kế của đời này và đời sau thế nào ? Đáp : Pháp môn Tịnh Độ công năng rất lớn, hàng Nhị Thừa thì lắng thần hư vô, chìm không sợ tướng, không nhớ chúng sanh, nên nói không có Tịnh Độ, nhưng Đại Thừa luôn luôn nhắc nhở. Kinh Bi Hoa dạy : Phật Di Đà xưa là một Chuyển luân vương tên là Vô Tránh Niệm có rất nhiều của báu và con cái. Nhờ có ông thiện tri thức là Bảo Hải đại thần hướng dẫn mà Ngài ở trước Phật Bảo Tạng phát Bồ Đề tâm, trang nghiêm Tịnh Độ Cực Lạc ở phương Tây, trong Kinh nói các Phật, Bồ tát, Thinh Văn đều là con cái của Ngài. Trưởng Thái Tử tên Bất Thuần là Đức Quan Thế Âm, con thứ tên Ma Ni là Đức Đại Thế Chí, con thứ tên Vương Chúng là Đức Văn Thù Sư Lợi, con thứ tên Dẫn Đồ là Đức Phổ Hiền, con thứ tên Năng Già Nô là Bồ Tát Kim Cang Trí Quang Minh, con thứ tên Vô Úy là Như Lai Liên Hoa Tôn, con thứ Am Bà La là Bồ Tát Hư Không Quang Minh, con thứ tên Hương Tý là Bồ Tát Sư Tử Hương, con thứ tên Mật Tô là Phật A Súc. Mật Tô từ khi phát tâm tu hành, thường dùng phương pháp ký số niệm Phật theo từng bước đi, nhờ đó mà mau thành chánh giác, hôm nay đã thành Phật ở nước Diệu Lạc. Chúng ta ngày nay trong lúc đi bộ ở đường cái hay dạo bước ở vườn rừng, đều nên bắt chước phương pháp niệm Phật của Ngài Mật Tô. Dù ở chốn đế đô, người qua kẻ lại, xe ngựa rộn ràng, không khí rộn rịp, ta luôn luôn nghĩ đến sinh tử là việc lớn, cần phải dụng tâm niệm Phật theo mỗi bước chân đi. Cõi đời thân người mong manh, sanh tử chỉ trong hơi thở, bất kỳ thời gian nào dù đang súc miệng, chải tóc đều cùng là bờ mé của sinh tử. Người đời phần nhiều lấy ngọc, gỗ, đá làm số châu niệm Phật, riêng tôi chỉ lấy hơi thở làm niệm châu, niệm danh hiệu Phật theo hơi thở, mỗi hơi thở là một câu, có nhiều lợi ích, không lo gì một hơi thở không trở lại liền thành đời sau. Ông nên đi đứng ngồi nằm thường dùng loại châu này để niệm Phật. Dù sắp ngủ cũng ngậm ông Phật mà ngủ, thức dậy lại tiếp tục. Chắc chắn ở trong mộng được thấy Phật A Di Đà, như người cọ lửa vừa thấy khói sanh lửa liền cháy sáng. Nếu trong mộng mà vẫn thực hành được pháp tu này thì Niệm Phật Tam Muội liền thành, tạng mặt gặp Phật A Di Đà, xin Ngài thọ ký, chắc được kết quả, ông hãy gắng đó. Hỏi : Một niệm, mười niệm vãng sanh Tịnh Độ lấy cái nào làm chánh? Đáp : Một niệm vãng sanh vào địa vị bất thối làm chánh. Như Phật dạy: Chê Phật, hủy kinh, đánh tăng, làm nhục bực tôn túc, thuộc về tội ngũ nghịch, tứ trọng đều do một niệm mà thành, bị đọa vào địa ngục nhanh như tên bắn. Hôm nay người niệm Phật sanh Tịnh Độ là nhất niệm thiện nghiệp thành tựu, được về Cực Lạc nhanh như khảy móng tay. Một niệm trước năm ấm diệt một niệm sau năm ấm sanh, như ấn sáp in vào bùn, ấn tan thì văn thành không có hai niệm. Ngày xưa có vị Sa Di ưa tô lạc, một niệm sanh ưa thích, sau sanh làm con trùng ở trong lạc. Vợ của ông Trưởng giả Đại Tát Bà, ngồi đối với gương sáng, soi gương tự khởi một niệm ưa thích thân mình, sau đó gió thổi chìm thuyền, bà sanh làm con trùng ở trong tử thi. Tất cả đều do một niệm mà ra. Trong kinh Vô Lượng Thọ viết: người có một niệm niệm Phật đều được vãng sanh. Quán Kinh dạy 10 niệm vì người tật bịnh yếu ớt, sức kém, tâm yếu, nên lấy 10 niệm xưng danh để giúp cho một niệm. Nếu tâm mạnh mẽ, không mê, chỉ cần một niệm cũng đủ sanh rồi không có gì lo ngại. 10. Tâm ấy là phật, tâm ấy làm Phật Hỏi : Trong kinh có nói rõ tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật. Vì sao lại xưng niệm danh hiệu của Phật A Di Đà ở phương xa, giữ tướng Cực Lạc, có phải là từ ngoài tâm mà tìm Phật không ? Đáp : Câu hỏi của ông là dẫn từ Quán Kinh, ý chính nói rõ về niệm Phật A Di Đà, vì nhớ Phật nên Phật từ trong tưởng mà sinh ra, nên nói tâm ấy là Phật. Đâu thể trộm lấy phương pháp Quán Tưởng Phật A Di Đà mà xoay lại nói tâm mình là Phật A Di Đà. Nếu nói rằng không cần xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà mà tâm ấy là Phật, cũng như không tưởng ác mà tâm ấy là tâm ác. Đem so sánh thì biết. Huống nữa Đức Phật A Di Đà là Bậc Chí Tôn ở nuớc Cực Lạc. Nước Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi Phật, núi Tu Di đều là vật ở trong tâm nên không làm nhãn căn ta chướng ngại, hằng hà sa tướng hảo, do sức nguyện lực của Phật mà tưởng thành, khảy móng tay liền được vãng sanh, đâu cần vọng tình cõi kia xa gần. Hỏi :Ánh sáng của Phật, ánh sáng của Ma, tự quán và tha quán, tà chánh lộn xộn mong được khai thị rõ ràng từng điểm một ? Đáp : Y theo tưởng mà hiện gọi là tự mình quán, đó là Chánh quán. Không y theo tưởng mà hiện gọi là tha quán, cũng là Tà quán. Như ta quán tưởng Bạch hào mà bạch hào không hiện, trong lúc ấy chưa tưởng mắt xanh mà mắt xanh hiện là trái với bản tâm, huống là các tưởng khác. Ánh sáng của Phật êm dịu, không bóng và không chói mắt, ánh sáng của ma thì có bóng và chói mắt. Kinh Lăng Nghiêm dạy : Ánh sáng của Ma chiếu đến làm ta nóng xót như lửa hừng, ánh sáng của Phật mát mẻ không chói mắt. Lại nữa : Ánh sáng của Phật làm người niệm Phật thân tâm lặng lẽ thanh tịnh, ánh sáng của Ma làm người niệm Phật cảm thấy tâm bồn chồn hoảng hốt. Kinh Niết bàn dạy : 'Trong suốt thanh tịnh là chơn giải thoát.' Hỏi : Bậc chí nhân không có lo nghĩ, ở đây nói dùng tưởng, đâu chẳng sai lầm ư ? Đáp : Kinh Đại Oai Đức Đà La Ni dạy : 'Muốn vượt qua ba cõi và kiến tư hoặc cần phải phát khởi tâm muốn, Tưởng không phải là Tâm ham muốn. Đây cần kể rõ : 'Muốn tu niệm Phật cần phải phát tâm tưởng, tưởng mà không có tưởng.' Kinh Phương Đẳng Hiền Hộ dạy : 'Người có ham muốn ác tưởng đến người nữ, mộng thấy người nữ, có ham muốn thiện tưởng Phật, mộng thấy Phật. Hai tưởng tuy đồng tên mà thiện và ác cách xa một trời một vực, vì thế không thể nghe nói tưởng mà sanh nhàm chán. Nếu quả nhàm chán chắc sanh về cõi trời Vô tưởng. Nếu chấp vô tưởng mà chê tưởng Phật thì vĩnh viễn rơi vào Địa ngục A Tỳ. Trong mười phương, đâu hy vọng được đến Thiên Cung! Huống nữa các cõi trời, chẳng phải là con đường giải thoát. Kinh Niết bàn dạy: 'Người nghe trống độc, xa gần đều chết.' Ở đây cũng như vậy, người bát không theo tưởng, xa gần đều bị đọa. Kinh dạy : Hoặc có người được sanh lên các cõi Trời, lên cao xuống thấp cuối cùng cũng bị đọa. Phàm nâng thuyền hay úp thuyền đều do nước, hoặc đứng hoặc té đều từ đất. Tưởng Vọng tức chúng sanh, tưởng Chơn tức chư Phật, lìa ngoài tưởng ra còn dùng được gì ? Kinh Ban Chu dạy : Tâm khởi tưởng là si, vô tưởng là niết bàn. Nên biết rằng người có tâm năng tưởng, tưởng Ông Phật sở tưởng hoặc lấy tưởng Phật, lấy chấp không làm vô tưởng đều thuộc về si. Hôm nay chúng ta rõ Phật từ tưởng sanh, không Phật cũng không tưởng làm gì có si. Đây chính là Quán Không Tam Muội, không có tà kiến. Phàm là bậc chí chơn, rõ chơn thể tịch tịnh, tâm thường rỗng rang như hư không, muôn pháp đều chiếu, tâm chưa từng chấp có, đấy là vô duyên của chơn trí, nên gọi là vô niệm, tục trí có duyên, tưởng niệm liền sinh. Lại nữa tưởng chẳng khác không, không chẳng khác tưởng, đó chính là Trung Đạo Đệ Nhất nghĩa đế, đây là hiển pháp thân. Không chẳng khác tưởng là tục đế, hằng sa muôn đức đều y theo tục đế, đây là hiển Báo thân. Tưởng tức không là chơn đế, phá 25 hữu, được 25 tam muội, thường không thường giáo hóa, hòa quang đồng trần, lợi vật độ sanh, đây là hiển thị Hóa thân. Như thế thì lấy Tam quán, quán tam đế, quán tam đế chứng tam Đức, thành tam Thân, cho đến 10 loại, ba pháp có chỗ nào chẳng được mà muốn bỏ cái tưởng thanh tịnh để lấy cái tưởng của vô tưởng ư. Các Kinh Lăng Nghiêm, Mật Nghiêm đều dạy : 'Thà khởi hữu kiến như núi Tu Di, chẳng khởi cái không kiến bằng hạt cải.' Người tin có nhân quả còn tưởng niệm Phật sanh về Tịnh độ Cực Lạc, người bát không nhơn quả, chê việc niệm Phật chắc bị đọa địa ngục A Tỳ. Than ôi ! Há chẳng sợ ư! 11. Cao tiếng niệm phật mặt hướng về tây Hỏi : Tưởng tức vô tưởng, tôi đã nghe qua. Trong Kinh Phương Đẳng dạy : Tu vô thượng Thâm Diệu Thiền Định, phải tưởng bạch hào liên tục, gồm xưng danh hiệu Phật để cầu được thắng định, đã khế hợp rồi, tâm và Phật đều quên, là có đủ niềm tin rồi vậy. Chỉ cần mặc niệm làm suối tâm tự trong, tam muội tự đến, hà tất niệm tiếng vang làng xóm, rền khắp núi rừng, như vậy cho là đạo sao ? Đáp : Âm thinh là việc tốt để tu hành, phàm chỗ cốt yếu để trị bịnh hôn trầm hay tán loạn, cần phải dùng tiếng, nếu tiếng không rõ, thì tâm bồng bềnh không định. Có 5 nghĩa : 1. Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, tiếng niệm Phật cũng vậy, dùng một tiếng tận lực, tất cả phiền niệm như mây tan biến. 2. Tiếng niệm Phật vang đến đâu, tất cả ác quỷ đều xa lìa, nên làm cho Công Đức Tòng lâm ngàn năm hưng thịnh. 3. Người xưa cao tiếng niệm Phật, liền thấy tướng tốt, Phật hiện diệu tướng, hoa tán hư không. 4. Như người kéo gỗ đá, một người xướng lớn, nhiều người hòa theo chuyển vật nặng thành nhẹ, nhờ tiếng giúp mà có sức mạnh. 5. Khi hai bên giao chiến, thắng bại chưa phân, nếu có một phía dùng tiếng để khích lòng quân có thể phá cường địch, có thể dùng trống, hoặc tiếng nói để thúc dục. Người tu tam muội trước phải cao tiếng niệm Phật là chỉ, lặng lẽ tưởng bạch hào là quán, cao tiếng niệm Phật dứt được tán loạn và hôn trầm, tâm tưởng bạch hào mới được yên tịnh. Dụng công như vậy Phật chắc gia hộ vì phù hợp với ý Phật. Trong lời tựa quyển Niệm Phật Tam Muội dạy : 'Công cao dễ tiến, niệm Phật là trước, lời niệm Phật vừa vang ra, trần lụy liền tiêu. Nếu tình trần đã tiêu thì huệ tâm liền sáng, chỗ chí diệu thoát khỏi trần lao, không do âm thinh niệm Phật thì không ai làm được'. Kinh Hoa Nghiêm dạy : 'Thà chịu vô lượng khổ mà nghe được âm thinh Phật, còn hơn thọ tất cả vui, mà không nghe hiệu Phật.' Vì thế, tiếng niệm Phật vừa vang, khai mở hạt giống Phật, như sấm chớp mùa xuân làm cây cỏ mọc mầm, đâu được khinh chê ư ? Hỏi : Tịnh Độ trong 10 phương đều có Như Lai, vì sao mặt cứ hướng Tây, đâu chẳng phải là trệ chấp ư ? Đáp : Đây là lời Phật dạy trong kinh Phương Đẳng đã nói như thế, chẳng phải là ý của các Sư. Người không thuận theo ý kinh là người chê Pháp. Người si thấy Đức Quan Âm có 11 mặt, lại vấn nạn tại sao không vẽ 12 mặt. Nếu có tượng họa 12 mặt lại vấn nạn tại sao không vẽ 11 mặt. Nếu chạy theo hý luận như thế là người si vậy. Kinh Thắng Thiên Vương dạy : ' Đức Như Lai có 80 cách đẹp, tùy theo công đức mà phát lộ hào quang gọi là hướng tới mà quay vào người khác. Nên biết Phật mặt thường hướng về tất cả chúng sinh, hành giả một hướng tất cả hướng đâu không có sự sai khác kia đây, phân biệt hướng tới quay lưng. Xưa Trí Giả Đại Sư từ thiếu niên xuất gia đến 60 tuổi, nằm thì chắp tay, ngồi mặt luôn luôn hướng về Tây, khi sắp vãng sanh, bảo tăng chúng đọc 48 đại nguyện chương cửu phẩm quán, hào quang sáng khắp núi, nhạc trời tấu vang, Ngài ngồi hướng mặt về Tây mà tịch. Vì thế, việc hướng mặt về Tây là việc lớn của người tu Tịnh Độ vậy. Hỏi : Diệu môn của Tịnh Độ, đại nghĩa của ban chu như thế nào ? Nhưng gần đây, người được về An Dưỡng đã không báo cho nhau làm sao biết được chỗ đến ? Đáp : Ban Chu là chữ Phạn, Tàu dịch là hiện tiền, ý nói tư duy chẳng dứt, Phật hiện ngay trong định. Hành giả lấy 90 ngày làm hạn kỳ đây chỉ là định kỳ trợ duyên chứ không phải nghĩa chính. Ngày xưa Pháp sư Huệ Viễn ở Lô Sơn theo Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La nhận pháp niệm Phật Tam Muội cùng em là Huệ Trí, Cao Tăng Huệ Vĩnh, các bậc triều hiền quý sĩ, các bậc ẩn dật trong sạch như Tôn Bính, Trương Giã, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tôn, Châu Thục Chi, Khuyết Công Tắc gồm chung có 123 người, làm lời minh thệ ở Lô Sơn, đều được Tam Muội, đều sanh về Tịnh Độ. Trong 123 người ấy chỉ có Ông Khuyết Công Tắc nguyện được vãng sanh sẽ trở về báo tin. Sau khi Ông Tắc viên tịch, những người bạn hữu còn lại, một đêm ở Đông Kinh, chùa Bạch Mã, vì Ông Khuyết Công Tắc mà đọc kinh truy điệu. Khi ấy ở trong điện, ngoài rừng đều trở thành màu vàng. Ở trên không có tiếng nói : 'Tôi là Khuyết Công Tắc, cầu sanh về Cực Lạc nay đã kết quả nên trở về báo cho biết'. Nói rồi, không còn thấy nữa. Chi Đạo Lâm có làm bài tán :' Lành thay Khuyết Công, thần thức hiển linh, hồn về Tây Vức, chứng nghiệm Đông Kinh, bồi hồi tưởng nhớ, lưu lại bóng hình, nay làm bài tán, chỉ rõ hành trình.' Ngu Hiếu Kỉnh cũng có bài tán : 'Lạ thay Công Tắc, thấm nhuần pháp vị, biết ta mong cầu, hiện điều tôn quý, hào quang chiếu sáng, dáng vẻ xưa nay, không bỏ hữu duyên, cho mọi người hay.' 12. Nhất tâm như mộng và tỉnh để làm sáng tỏ tam muội Hỏi : Phật dạy : Tất cả pháp như mộng, chẳng biết người niệm Phật sanh về Tịnh độ cũng như mộng chăng ? Nếu chẳng phải như mộng thì Phật ở ngoài tâm, nếu là như mộng thì khi mộng thấy được vàng, thức rồi không có, thật hoàn toàn là giả dối, chẳng được vật gì ? Đáp : Ý kệ là chỉ pháp của chúng sanh trong cữu giới, đó là pháp hữu vi, nên nói như mộng, còn niệm Phật là pháp xuất thế của chư Phật, nên phải nói như tỉnh (giác). Cổ nhân nói : 'Tâm mê như mộng là chúng sinh trong chín cõi (cữu giới), Tâm ngộ như tỉnh (giác) là Pháp giới của chư Phật'. Người nằm mộng thấy được vàng là vì họ chạy theo vọng, còn niệm Phật sanh Tịnh độ là chơn nên không phải mộng. Như người tập thiên nhãn, trước tưởng ánh sáng của hạt châu lửa, tưởng mãi chẳng thôi, liền phát thiên nhãn thật, lúc đó ai nói là thiên nhãn giả. Kinh Hoa Nghiêm nói: 'Tâm, Phật và chúng sanh, ba thứ ấy không sai khác. Tâm mê như mộng là chúng sanh trong chín cõi, tâm ngộ như tỉnh là pháp giới của chư Phật, mê ngộ đều ở trong nhất tâm, mộng và tỉnh từng không có hai vết.' Kinh nói : Rõ vọng gốc từ chơn liền thấy Đức Lô Xá Na dù mộng là vọng cũng đâu có hại gì ! 13. Niệm ba thân phật phá ba thứ chướng. Hỏi : Phật có ba thân làm sao nhớ niệm ? Đáp : Phật tuy có ba thân, nhưng vẫn là một : Pháp thân như mặt trăng, báo thân như ánh sáng mặt trăng, hóa thân như bóng nguyệt trong nước. Không thể nói là một, vì mặt trăng trong nước mọi thứ đều khác nhau, không thể nói là nhiều vì mặt trăng là một. Như chữ y có ba điểm, như Ma Hê có ba mắt, ngang dọc đều khác, thật không thể nghĩ bàn. Kinh dạy : Hoặc hiện đại thân đầy khắp hư không, hoặc hiện to thân cao một trượng sáu, tất cả đều là ông Phật ở trong tâm thủy của chúng sanh. Phật còn chẳng có hình làm gì có hai. Cõi tịnh cõi uế cũng đều từ trong tâm chúng sanh mà có. Nếu muốn đem niệm ba thân Phật để phá ba chướng, xin giải rõ. Sở dĩ điều sinh ra thân Phật là từ chỉ và quán, vì chỉ quán không quân bình nên các chướng khởi ra. Người niệm Phật tu chỉ bị trầm (chìm) thì chướng hôn ám khởi lên làm chướng Hóa thân Phật, lúc ấy cần phải dùng tâm quán để sách tấn, niệm bạch hào tướng phá tướng hôn ám. Tu quán bị tâm phù, không ác nào chẳng tạo (vọng niệm phân vân) thuộc về chướng ác nghiệp, làm chướng ngại báo thân Phật, lại phải tu chỉ, ngăn tất cả ác niệm. Chư Phật có hằng hà sa công đức, trí huệ viên mãn, đối với nhân gọi là báo, phá được chướng ác nghiệp. Nếu chướng phiền não và sở tri hai bên cùng khởi, đổi dạng khác hình, muôn tướng phân vân, hai giặc lôi kéo làm chướng Pháp thân Phật, phải dùng Trung Đạo đệ nhất nghĩa không phá đó. Có kệ rằng : “Không sắc không hình tướng, không gốc không chỗ trụ, không sanh cũng không diệt, kính lễ không sở quán”. Lý của sở quán như bị gió mạnh thổi tan khói lam làm sáng tỏ pháp thân mặt nguyệt trong sạch phá bức não chướng. Tùy bệnh cho thuốc, người phải cần hiểu rõ. Ta đã hóa người, người cũng hóa vật, vật và ta đều thành sự sự vô ngại, Tam muội càng thạnh, chúng sanh vô tận, tam muội bất tuyệt. Sáu môn ở trên là niệm hiện tại A Di Đà Phật, ý thông cả chư Phật ba đời. Rộng như trong An Lạc Tập, Thập Nghi Luận, Thích Quán Nghi Luận, Vãng sanh truyện, Pháp Bữu nghĩa luận, và Vô Thượng Thâm Diệu Thiền môn truyện có nói rõ. 3Quyển hạ gồm có bảy môn nói về niệm thỉ giác là niệm ông Phật quá khứ, nhơn và quả đồng nhau. 14. Niệm quá khứ Phật nhân và quả đồng nhau. Hỏi : Ông Phật sở niệm là bậc cùng huyền cực thánh, tôn hiệu là bậc Như Lai mà người năng niệm còn ở địa vị phàm phu đâu được sánh đồng với bậc chánh giác ? Đáp : Kinh Tam Muội Hải nói : ' Ông Phật sở niệm như vua sư tử đã ra khỏi thai dụ cho Phật quả. Người năng niệm Phật như vua sư tử ở trong thai, dụ cho Phật tử. Nhân quả tuy khác nhưng oai thần kế tiếp Phật đâu có khác gì!' Kinh Pháp cổ nói : Ngài Tiêu Độc Dược Vương có làm cái trống thuốc, chỉ cần đánh lên là làm cho tên độc tự nhổ ra, bình phục như cũ. Nếu nghe tên Thích Ca Mâu Ni hoặc nghe tên Phương Quảng Tỳ Kheo khởi lòng tin, có thể làm cho tên Ba độc trong thân tức khắc được nhổ ra. Phật Thích Ca là Phật quá khứ thuộc về quả. Tỳ Kheo Phương Quảng là nhân. Diệt tội đồng nhau nghĩa đó chỉ là một. Trong Pháp Hoa Tam Muội, quyển năm có nói : ' Thời nhà Tùy ở núi Nam Nhạc, Hành Tư Đại Thiền Sư có người đệ tử làm huyện lệnh pháp danh Đại Thiện. Khi ấy Hoành Dương có nội xứ tên Trịnh Tăng Kiểu, không tin Phật ăn chay. Ông ta thường tập hợp săn thú. Một hôm ông vây được mười con nai mới gọi huyện lệnh lại bảo : 'Ông thường xưng là Đại Thiện Thiền Sư, có sức Đại Từ Bi nhưng làm sao cứu dược bầy nai này ?' Lúc ấy Huyện lệnh và một số người bên cạnh đồng thinh niệm một câu : Nam mô Đại Thiện Thiền Sư. Bất thần, bầy nai từ trong lưới, bay lên hư không mà ra khỏi. Cùng với thần lực của Đức Quán Thế Âm nào có khác gì ? Nếu không tin lời nói của thánh nhân, niệm Phật muốn tiêu ma, dứt tai họa, cũng như vàng còn ở trong khoáng không khác. 15. Vô tâm niệm Phật sự và lý đồng tu Hỏi : Chuyên niệm một phương là niệm đủ chư Phật ba đời, đã nghe nghĩa nhiệm mầu ấy rồi. Nhưng có niệm là có sanh diệt, đâu bằng trong kinh Thắng Thiên Vương nói : Người niệm Phật cần dùng tâm vô niệm mới có kết quả tốt. Ý chỉ tu niệm Phật tam muội này có đồng với tâm vô niệm trên chăng? Đáp : Lý của vô niệm sâu xa mầu nhiệm, nhiều người bị lạc đường, nếu không nghiên cứu tinh tường, e khó khỏi lầm lạc. Ở đây lấy lý và sự để giải thích rõ. Nói về lý là nói đến chỗ chân thật của không niệm. Nói đến có và không tức niệm nầy gốc là vô niệm. Vì sao ? Vì Phật từ niệm sanh mà tâm tức là Phật, như dao không thể cắt tự nó, ngón tay không thể sờ lấy nó. Phật không tự Phật, tâm chẳng tự tâm, thì đâu có thể ngoài Phật lập tâm, ngoài tâm lập Phật. Phật đã không thì tâm cũng không. Việc vô tâm niệm Phật nghĩa ấy đã rõ ràng. Ở đời người ta thường nói niệm Phật là có niệm, theo tôi thì niệm Phật là vô niệm không thể nào lầm được. Lại nữa niệm chính là không đâu được gọi là có niệm; chẳng phải niệm diệt cái không đâu được gọi là vô niệm; vì tánh niệm tự nó là không đâu có được sinh diệt. Lại tâm không có sở niệm được gọi là không có chỗ trụ. Người tu niệm Phật minh được tâm vô sở trụ. Tâm không chỗ niệm là từ gốc vô trụ mà ra. Người tu niệm Phật lập tất cả pháp mà tâm không có sở niệm thì niệm tức là không. Như vậy người tu niệm Phật không chính là Niệm, không trái với ý chỉ Tam muội này vì hiển minh lý Trung Đạo. Song tịch gọi là chỉ, song chiếu gọi là quán. Định Huệ, nếu không quân bình thì chẳng phải là chánh thọ, làm sao gọi là Tam Muội cho được. Ở đây nói chiếu mà thường tịch chính là tâm vô niệm, tịch mà thường chiếu là địa vị cấu kết của Tam Muội niệm Phật này. Nên Tam Muội này có thể sinh Định Thủ Lăng Nghiêm Sư Tử Hống vậy. Kinh Bồ Tát niệm Phật Tam Muội có bài kệ phá tướng : Chơn kim sắc niệm Phật An trụ tâm không chấp Quán tên Phật là gì ? Nhiếp tâm hằng tiếp nối, Sắc vàng không Như Lai Bốn ấm cũng như vậy Lìa sắc không Như Lai Tưởng sắc nên phải biết, Đây là Phật Thế Tôn, Chỗ tối thắng tịch tịnh. Khéo diệt hết tất cả Ngoại đạo, các tà kiến Như vua rồng làm mưa, Thấm ướt hết tất cả. Bài kệ trên nói rõ Lục độ vạn hạnh chưa có một pháp nào không phải là niệm Phật Tam Muội. Hỏi : Lý môn đã giải thích, nguyện chỉ bày sự môn, làm cho người học đời sau được chân thật vô niệm, thực hành bát nhã ba la mật, mở cửa thiền định thậm thâm của vô tướng Đại thừa, đâu chẳng lợi ích ư ? Đáp : Lý và sự lợi ích như nhau. Trước đã nói lý của sự rồi giờ đây nói sự của lý. Kinh Đại Phẩm nói : 'Phật vì những người căn độn nên nói các pháp vốn không tịch, do đó họ sinh ra kiến chấp. Vì người căn lợi nói chư Phật tướng hảo như sen không dính bùn. Ông Tu Bồ Đề là hàng Tiểu Thừa hiểu Không thứ nhất ở Hội Pháp Hoa được thọ ký hiệu Danh Tướng Như Lai; vì Ngài Tu Bồ Đề hiểu không mà còn hiểu bất không. Nếu ngũ trần là không thì đâu có hiệu là Danh Tướng và được Phật thọ ký. Phàm Phật sinh từ tâm nên Pháp Ban Chu từ vô niệm mà đến, cảnh Phật hiện tiền, Hạnh Bất Khinh trong Pháp Hoa do thấy tứ chúng mà khởi tưởng là Phật nên mau thành tựu Pháp thân. Tâm vô niệm là dứt các loạn tưởng, nếu người niệm Phật chỉ khéo tưởng một vị Phật cũng được gọi là vô niệm vì dứt các loạn tưởng. Kinh Văn Thù Bát Nhã nói : 'Như người học bắn, tập lâu thì giỏi, sau đó dù vô tâm tên bắn ra đều trúng mục tiêu. Nếu người tu Nhất Hạnh Tam Muội, tùy theo phương nào Phật ở, nhất tâm hướng về, chuyên xưng danh hiệu, mỗi niệm tương tục, liền ở trong lúc niệm thấy chư Phật trong ba đời. Vì thế, Kinh Phương Đẳng nói : 'Cố gắng niệm Phật, đừng cho thôi dứt, Phật sẽ hiện ra.' Kinh Tọa Thiền Tam Muội nói : 'Bồ tát tọa thiền không niệm tất cả, chỉ niệm một Phật, trước niệm sắc thân vàng ánh, kế niệm Phật thân cao lớn, cho đến các công đức pháp thân đều cũng niệm như vậy'. Nên biết không dùng chẳng niệm làm vô niệm, vì niệm tức là vô niệm. Kinh Lăng Già nói : 'Dùng độc công độc, nay thời dùng niệm để dứt hết các niệm, khi niệm đã thuần thục, không cần toan tính mà vẫn thành tựu, không cần dùng sức. Như kiếm khách, khéo dùng kiếm, quăng cao trên không rồi dùng bao đeo ở sau lưng hứng lấy chính xác không hề sai sót. Đầu bếp thiện nghệ cắt thịt trên thớt có lót vải mỏng, không bao giờ đứt vải, người giỏi múa có thể gót chân trổi thành âm nhạc. Tất cả đều nhờ thuần thục mà nên. Khởi Tín Luận nói : Nên biết rằng tuy có nói mà không có năng nói có thể đặng, tuy niệm cũng không có năng niệm có thể đặng, gọi là tùy thuận chơn như. Nếu lìa được niệm thì gọi là được vào chơn như. Người muốn vào được vị vô niệm chỉ có Phật, vì đây là địa vị cứu kính của Diệu Giác, vì rõ được cái tính của Tâm sơ sanh. Sơ tướng này hiệu là vô niệm., chẳng phải Bồ Tát Thập địa có thể biết được. Hiện tại, mọi người đều ở địa vị thập tín, nếu không y theo Bồ tát Mã Minh từ chỗ năng thuyết mà vào vô thuyết, từ niệm mà vào vô niệm. Như người muốn xây lầu trăm từng mà không xây móng cho chắc, thì việc đổ ngả là việc dĩ nhiên ! Trong Kinh Lăng Nghiêm nói rõ niệm Phật Tam Muội : 'Nếu tâm chúng sanh thường nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền hay tương lai chắc được thấy Phật, cách Phật chẳng xa, không mượn phương tiện mà tự mình được tâm mở tỏ.' Giả sử chúng sanh tâm có niệm thì cách Phật rất xa vì sao kinh nói chẳng xa, vì sao lại nói không cần mượn phương tiện mà tâm được mở tỏ. Cần phải suy nghĩ kỷ đó ! 16. Liễu được cảnh giới của tâm thì vọng tưởng không sanh Hỏi : Không liễu (hiểu rõ) tâm và duyên liền có hai thứ vọng tưởng, nay còn có ông Phật sở (bị) niệm và tâm năng niệm đâu chẳng phải là hai vọng tưởng ư ? Đáp :Kinh Lăng Già nói : 'Liễu tâm và cảnh giới, vọng tưởng liền chẳng sanh.' Tâm chẳng sanh nầy là tâm xa lìa các thứ năng tướng và sở tướng. Nay người niệm Phật niệm ngàn vòng chữ vạn ở ngực Phật, và quán mắt xanh và bạch hào của Phật đều từ trong tự tâm của ta, không có Phật có thể được, duyên đã không có, tâm làm sao có được. Cái năng tướng của niệm và cái sở tướng của Phật vốn tự nó đã xa lìa, thì hai vọng tưởng trụ ở chỗ nào ? Các bậc tiên thánh trao thọ cho nhau vì biết vọng tưởng không có tánh (thực thể). Quán thật tướng Phật, quán thân Phật cũng vậy, gặp cảnh đều chơn, không tâm không Phật, lý Trung đạo bao trùm tất cả, đâu còn có ông Phật sở duyên ư? Như trên mặt có chấm mực, người xem gương ghét chấm mực, cố chùi chấm mực trên gương làm sao chùi được. Chuyện tốt xấu phải quấy ở trong tâm như vết mực soi gương, không liễu tự tâm cứ cố chùi trên gương làm sao chùi được. Phải rửa vết mực trên mặt, thì mặt gương không còn chấm mực. Như vậy hiểu được từ tâm thì muôn cảnh đều chơn. Người không biết chấp đá cho là châu báu, hiểu được tự tâm chúng sanh tức là Phật. Tề Hướng cư sĩ viết thư đến Huệ Khả Thiền sư nói : Bóng là do hình khởi, vang theo tiếng đến, giởn bóng nhọc hình chẳng biết hình là gốc của bóng; to tiếng mà ngăn vang không biết tiếng là nguồn cội của vang. Người bỏ phiền não mà tìm Niết bàn là người lánh hình mà tìm bóng. Người lìa chúng sanh mà cầu quả Phật là người cố im tiếng mà tìm vang. Nên biết rằng mê và ngộ một đường, ngu và trí không khác. Không có danh mà làm ra cho có danh, do cái danh đó mà phải quấy sinh ra. Không có lý mà làm ra lý, do lý ấy mà có tranh luận. Nên biết huyển hóa chẳng phải chơn thì ai phải ai quấy, hư dối không thật thì cái nào có cái nào không. Nên biết được không chỗ được, mất không chỗ mất, ý ấy có đúng không ? Huệ Khả Thiền sư dùng kệ đáp : Nói chơn pháp nầy đúng sự thật, Hợp lý mầu nhiệm có khác chi, Người mê xem Ma ni là ngói gạch, Giác rồi thấy nó chính chân châu, Vô minh trí tuệ đều không khác, Biết rằng muôn pháp thảy đều như, Ông đã phá rồi hai kiến chấp, Viết ra ý chỉ ở thư này, Quán mình và Phật không sai khác, Cần gì tìm kiếm nó làm chi. Hai Thượng sĩ này, y theo Đại sư Đạt Ma đúng pháp mà dụng tâm đều là niệm Pháp thân Phật trung đạo đệ nhất nghĩa, chắc chắn không thể lìa niệm mà có vô niệm, lìa sanh mà có vô sanh, nếu lìa mà biệt lập thì rõ ràng không hiểu phiền não tức Niết Bàn, chúng sanh tức chư Phật. Đâu thể gặp ngói gạch mà coi như chân châu. Nếu lìa một không thể được thì niệm Phật là thật vô niệm, vãng sanh mà thật vô sanh nghĩa ấy rõ ràng. Nếu trời thu trong vắt, mặt nguyệt ra khỏi mây, đâu thể đồng với người ngu cố xem đầu ngón tay mà không nhìn mặt nguyệt.Thật đáng tiếc ! 17. Muốn cầu Phật đạo nên cầu tâm mìmh Hỏi : Kinh Duy Ma nói : 'Chúng sanh muốn cầu Phật đạo nên cầu tự tâm mình'. Vì sao không cầu tự tâm lại đi cầu ông Phật ở ngoài, như thế không phải trái với ý chỉ của kinh sao ? Đáp : Tôi thường bảo : Chẳng phải ngoài tâm có pháp, chẳng phải ngoài pháp có tâm. Thế giới Cực Lạc và Thế Tôn A Di Đà chính tự tâm ông; chẳng lìa tất cả tâm tưởng của chúng sinh, chính là ý chỉ của kinh Duy Ma vậy. Lại Tâm chúng sanh thường ở ba cảnh : 1. Ở cảnh thiện tu niệm Phật Tam Muội là điều chí thiện trong các điều thiện. 2. Ở cảnh bất thiện gọi là ba độc và các điều ác. 3. Ở cảnh vô ký thì tâm chẳng an trụ, không duyên thiện ác. Lý tuy có ba nhưng nói cho thuận lý chỉ ở chỗ chí thiện. Kinh nói : 'Chấp ta là nhơ, không chấp ta là sạch', vì không hiểu thể của Pháp tánh vốn không có xan tham, nếu ngược với Pháp tánh mà không làm việc bố thí, dù có làm việc bố thí đương nhiên chấp trụ ở chỗ thí, không thể bố thí đâu chẳng phải là nhơ sao ? Nếu người có thể hiểu rõ tùy thuận theo pháp tánh, làm việc bố thí mà không có tướng bố thí, khéo thuận ở nơi lý chẳng phải tịnh sao? Bất thiện và vô ký trái với pháp tánh không thể so sánh với việc chí thiện được. Phật bảo Thắng Thiên Vương: 'Các bậc Đại Bồ tát học pháp Bát nhã Ba La Mật, tu thiền Ba La mật, nên quán tâm mình, làm ở cảnh nào? Nếu là cảnh thiện thời khuyên gắng tu tập, thí như hoa sen không chút bụi nhơ, nếu là pháp bất thiện thì không được tạm trụ. Như thế, lý thuận là phải hành thiện tâm, ở với cảnh thiện, rõ ràng niệm Phật là giải thoát ở trong tâm. Nếu không tu theo pháp giải thoát nầy thì gọi là mê, phải trầm luân vô số kiếp. Người ngộ thì chứng đạo dễ như trở bàn tay, phương pháp tập thiền cũng như gương sáng, người thực hành hợp lý sẽ được viên mãn. Vì thế, Như Lai xét các Tam Muội chỉ có niệm Phật Tam Muội là vua trong các pháp Thiền. Ngoài ra thiền có đối đải đều thuộc về phàm phu định. Nhưng Tam Muội Bảo Vương không trụ ở tướng tôn ti, tà chánh, sinh tử Niết bàn, phiền não bồ đề, tịnh loạn, cho đến việc thành chánh giác, độ chúng sanh, tọa đạo tràng đều không chỗ được. Các tướng như thế đều không thể trụ. Trung đạo còn bỏ huống hồ ở hai bên. Kinh Chư Pháp Vô Hành kệ nói : Ví như người, ở trong mộng Được Đạo Phật, độ chúng sanh Đây không Đạo, không chúng sanh Tánh Phật Pháp, cũng như vậy Tọa đạo tràng, không chỗ được Nếu không được, thì không có Minh vô minh, đồng một tướng. Biết như vậy , là Thế Tôn Tánh chúng sanh, là Bồ Đề. Tánh Bồ đề, là chúng sanh. Chúng Bồ Tát, cũng không hai Biết như thế, là Thế Tôn. 18. Dùng ba nghiệp cúng dường là tiêu biểu kính trọng. Hỏi : Quán môn Tam Muội đã nghe được chỗ thâm diệu, còn dùng ba nghệp cúng dường, khi Phật đã viên tịch có nhiều phước bằng lúc Phật còn tại thế không ? Đáp : Cúng dường bể pháp giới là trong muôn hạnh, người tịnh ba nghiệp đều gọi là cúng dường, nếu đứng về sự mà luận phước cũng rất nhiều, huống là dùng lý cúng dường thì phước nhiều vô lượng. Nói về lý, hành giả quán tất cả pháp hoặc thường, hoặc vô thường đều không chỗ được. Đối trước Phật tượng rộng trang nghiêm cúng dường, phước đức cũng đồng như lúc Phật còn tại thế, dùng hoa hương đầy khắp các cõi cúng dường phước nhiều vô lượng. Nên trong hội Pháp Hoa, Đức Dược Vương đốt tay cúng dường, hiến Bảo Tháp của Đức Phật Tịnh Minh, thân vàng tỏa sáng chiếu khắp 10 phương đó chính là Bồ Tát Hỉ Kiến. Người đời nay chỉ suy theo tự tâm là do tập khí xan tham, giải đãi, hoặc ở xa chỗ hoa, cây chẳng kính, trái với các nghi lễ phụng hiến là do lòng ngã mạn sâu dày mà ra. Đức Phật tuy hiện bày tướng diệt nhưng thật chẳng diệt. Như ông Đinh Lan ngày xưa, khi mẹ mất, ông lấy gỗ khắc tượng mẹ, quạt nồng ấp lạnh coi như còn sống, hiện còn ghi trong sử xanh, cho đến bây giờ người đời vẫn còn khen ngợi không dứt. Ngày Đức Như Lai còn tại thế, thân tướng trang nghiêm vi diệu, bất cứ ai khi gặp Ngài đều phát khởi ý đạo. Đức Như Lai ẩn dấu như mặt nguyệt sau lớp mây mờ, người đời không còn thấy chơn dung, chỉ còn kinh điển để lại. Vì vậy, người đối trước hình tượng, phát khởi ý vô thượng chí thành dâng lên một cành hoa cũng là ít người, nhớ Phật vẫn thường trụ trong đời, thường phát khởi tâm thường cúng dường cũng rất khó có. Kinh Niết Bàn nói : 'Cho đến người chí thành dâng cúng Phật một cành hoa, chắc được sanh về Tịnh Độ Bất Động'. Như thế, cúng một nén hương, một cành hoa, một ngọn đèn, một khúc nhạc, cho đến những vật ăn uống, hết lòng dâng cúng chư Phật trong ba đời là diệu nhân sanh về Tịnh độ, là các bậc Thánh nguyên thỉ, đâu được khinh thường việc ấy. Có người cuồng ngu chấp tâm không cho rằng : hiến hoa ở trong tâm, hiến cúng đèn ở trong tâm, đốt hương ở trong tâm, lễ Phật ở trong tâm nào khác các con vượn múa mai gạt người, nói dối có cây me có nhiều trái ở đằng kia để người đi nắng đở khát. Có người còn cho rằng cứ mặc y trong tâm, ăn cơm trong tâm, làm sao no lòng ấm thân, chắc chắn sẽ bị khốn khổ triền miên. Vì vậy, cần phải dùng lục độ muôn hạnh đập tan cái tâm chấp không đó. Lời nói chỉ tâm chấp không nhiều lỗi lầm như thế, không thể không cẩn thận. Du già quán Hạnh chuyên quán cũng thường dùng sự, lấy tướng làm tiêu biểu, không chấp chỉ có tâm, thường dâng hoa hương cúng dường sáu thời không thiếu. 19. Giao báo của sự tin và bỏ của dâng hoa không tướng Hỏi : Hoa là sự, lý ở chỗ nào ? Người tin và không tin bị quả báo thế nào ? Đáp : Hoa là lý. Thuở xưa có vị Vương tử tên là Vô Sở Úy đem một cành hoa sen cúng dường Phật Bảo Tạng. Phật bảo : 'Ông lấy hoa sen ấn vào hư không, nay ta tặng cho ông tên là Hư Không Ấn, tương lai sẽ thành Phật, thế giới tên Hoa, Phật hiệu là Liên Hoa Tôn. Hoa có thể ấn vào hư không thì Hoa chẳng phải là Hoa. Hoa chẳng phải là Hoa nên Hoa là Thế giới, hoa là Phật. Trong kinh Đại Phương Quảng Tổng Trì nói : ' Có vị Tỳ Kheo tên Tịnh Mạng, trụ trong chánh kiến đem cành hoa cúng dường Phật. Tỳ kheo Pháp Hạnh trụ trong tà kiến, đã được tứ thiền, thường cho Bát Nhã Không Tôn là thù thắng, chê Pháp sư Tịnh Mạng đem hoa cúng dường Phật. Chỉ một lời chê ấy, bị quả báo sáu muôn đời không lưỡi. Đến khi thành Phật vẫn còn bị quả báo ở trong cõi đời ngũ trược. Tỳ Kheo Pháp Hạnh kia đâu phải người nào lạ, đó chính là Đức Thích Ca mâu Ni. Phật dạy : Người ít hiểu biết ở trong pháp ta chấp vào hai kiến chấp, trọng lý không, khinh sự thật, khi mạng chung bị đọa vào địa ngục, trải qua trăm nghìn kiếp. Người muốn tu Bát Nhã Ba La Mật được Đại Bồ Đề, cần học Vua Ca Thi Ca, thực hành hạnh Bồ Tát đã bỏ thân yêu quý, bố thí đầu, mắt, tủy, não. Ngài đâu có phải là ngu si không có trí huệ mà muốn tu đầy đủ sáu pháp Ba La Mật vậy. Nếu chấp lý Không cho là phải, các việc khác cho là sai, đó là nghiệp ma. Đâu thể vọng dùng ngoan không cho là chơn không. Quả báo không lưỡi tự mình chuốc lấy. Đức Như Lai tự dẫn cái sai lầm ở tiền kiếp là muốn chúng sanh thấy xe trước ngã, xe sau phải tránh đi. Một cành hoa như thế, tất cả hình tượng, gổ đất, lụa tre các kinh, cạo tóc Tăng Ni, trụ trì Tam Bảo, học Giới Định Huệ, chẳng luận phước điền hay không phước điền, tất cả đều phải kính trọng, đều vào trong bể pháp giới dùng ba nghiệp để cúng dường. Kinh Pháp Hoa có bài kệ : Hoặc người trong tháp miếu, Tượng cốt và tượng vẽ, Dùng hoa hương màn lọng, Kính trọng mà cúng dường, Cho đến một tiếng nhỏ Đều đã thành Phật Đạo. 20. Muôn thiện đồng về đều thành Tam muội Hỏi : Người cúng dường đèn trường minh được sanh về cung trời Nhật Nguyệt, người cúng hoa, hương, màn, lọng cùng đèn không khác, quả thật được phước sanh về cõi trời, vì sao lại nói tất cả đều thành Phật ? Đáp : Đế vương đi tuần đem theo ngàn quan, muôn xe, kẻ hạ người hầu đều mang chữ Ngự và mang Thiên Trượng. Nếu người phạm đến thiên trượng, đều có thể bị giết. Khi xe giá trở về cung, mỗi người về vị trí của mình, nếu xưng chữ Ngự cũng bị hành hình. Các quan và kẻ hầu hạ thì đồng mà mỗi thời gian trách nhiệm và tư cách khác nhau. Hoa lọng hương đèn không theo ý chỉ của Kinh Pháp Hoa thì đó là phước báu ở cung trời. Nay gặp Tam Muội Bảo Vương như người có Thiên Trượng của Vua, dù hiến một hoa đều đã thành Phật Đạo. Đây là duyên khởi từ hạt giống Phật, dĩ nhiên kết quả Phật đều đâu đó rõ ràng, như chim về núi Tu Di đều đồng một sắc, muôn sông chảy về biển cả, không kể chung các tên. Nên Kinh Đại Bảo Tích nói : 'Ngài Văn Thù ở hội Phổ Môn, họp hết Trời rồng, tám bộ, địa ngục, súc sanh, sắc thanh hương v..v.. Tất cả pháp đều thành Tam Muội, cũng như sợi lông chứa bể cả, hột cải chứa hết núi Tu Di. Đâu phải do thần lực của lông và hạt cải mà do tánh lực của chánh nhân. Nên biết, thấy bằng mắt, đi bằng chân, thấy ngay thì đi ngay, thấy vạy thì đi vạy, chỗ sâu cạn của ma và Phật đều căn cứ vào chỗ thấy biết. Một hạnh đã như vậy, muôn hạnh cũng thế. Pháp Hoa Tam Muội tức Niệm Phật Tam Muội, Đức Như Lai gọi là Thắng Định, vì Tam muội Bảo Vương là quang minh tạng, là châu trừ tội, là đèn soi tà kiến, là người dẫn đường cho kẻ mê, là ấn vàng của Vương Tử, là kho báu của người nghèo, là Không Tam Muội, là Thánh Tam Muội, là Đà La Ni, là chân tư duy, là quán tối thắng, là quán pháp Tam Muội tiêu ác nghiệp .... Nên biết giáo, lý, hành, quả và tám muôn bốn ngàn Pháp Ba La Mật, đều là tên khác của Niệm Phật Tam Muội này. Nếu người hiểu được Tam Muội này thì hiến cúng một cành hoa là hiến cúng khắp cõi nước của Ba đời chư Phật. Niệm một vị Phật là thể thông suốt đến Phật ở vị lai, như lấy đại địa làm mục tiêu, đâu có mũi tên nào không trúng. Không được như vậy thì trái với ý chỉ của kinh Tư Ích chê trách sợ không, bỏ không, làm không, lấy không sao ! Phần lưu thông Khách thưa : Bậc lương y đi rồi còn lưu sách quí, nhà buôn đi xa nhưng còn gởi lại vàng ròng, chỗ mầu nhiệm của các bậc Tiên Hiền bất cứ người nào cũng có phần thừa hưởng. Đệ tử dở đạo dốt học, nhưng muốn biết Tam Muội, hy vọng được nghe chỗ cao siêu thật tế. Những áo chỉ đã trình bày qua là bảo ấn của chánh pháp, động và tịch cùng chiếu, lý và sự viên dung, mỗi tâm đều chơn, chạm vật đều tăng trưởng. Một lần xưng Nam Mô, đều thành Phật Đạo, móng tay vừa khảy tốc chứng Bồ Đề, chẳng cần nhọc sức mà đạt ý chỉ Pháp Hoa, mắt lòa bị kim vàng gở sạch, ý nghĩa của 20 chương đệ tử chưa từng được nghe, rất vui mừng thấy chúng sanh nhờ đây mà rửa sạch tội cấu, được dạo chơi trên cõi bữu trang nghiêm, đâu có gì may mắn bằng. Đệ tử nguyện trong đời này, được thọ ký quả vị đề hồ, biết chư Phật trong tương lai là chúng sanh hiện tại. Đệ tử cúi đầu đảnh lễ Tháp Đa Bảo, đối với Tăng Liên Hoa, con cũng khắp quán 10 phương, niệm đủ 3 đời, hồ quỳ chắp tay nói kệ rằng : Một lòng nhớ niệm Phật quá khứ Cùng nhớ Thế Tôn đời vị lai Hiện tại tất cả Điều Ngự Sư Học hết quý Ngài lời thuyết pháp Không có một Phật ở quá khứ Cũng không đời nầy và đời sau Chỉ có Thiền lớn thanh tịnh này Phật không nói chứng hoặc hay nói. Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 3 của NIỆM PHẬT TAM MUỘI BẢO VƯƠNG LUẬN. -------------oooo0O0oooo-------------