AN LẠC TẬP - Bản dịch Việt ngữ số 1 Dịch giả: Thích Hồng Nhơn (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T47 - Kinh số 1958 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển.) An Lạc Tập Nội dung toàn bộ An Lạc Tập gồm có 12 chương đều dẫn kinh luận chứng minh khuyên người khởi lòng tin cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc. Chương Một 1. Nguyên do lập giáo Nói về thời gian và căn cơ thích hợp cho người tu Tịnh Độ. Bất cứ một việc làm gì, nếu hợp với thời cơ thì sẽ dễ dàng, người tu nếu giáo lý phù hợp với thời cơ sẽ dễ tu và dễ ngộ hơn. Trái lại sẽ khó tu và khó ngộ nhập. Nên trong Chánh Pháp Niệm Kinh nói: "Khi hành giả nhất tâm cầu đạo cần phải quán sát thời cơ và phương tiện, nếu không đúng thời và không có phương tiện phù hợp thì mất tất cả lợi ích". Vì sao vậy? Vì lấy cây ướt để mồi lửa, lửa không thể cháy vì không đúng thời. Nếu đập cây khô để tìm nước, không thể có nước được, người không biết dùng đúng thời cơ là người không có trí tuệ. Trong Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh nói: "Phật có lời di chúc: Sau khi ta diệt độ chừng khoảng 500 năm thứ nhất các đệ tử của ta học huệ được kiên cố; khoảng 500 năm thứ hai sau, người học định được kiên cố; khoảng 500 năm thứ ba sau, nghe nhiều, đọc tụng kiên cố; khoảng 500 năm thứ tư, tạo lập tháp tượng, tu phước, sám hối được kiên cố; khoảng 500 năm thứ năm, thế pháp che ngăn, phần nhiều chú trọng đến việc tranh cãi, các việc lành nhỏ được kiên cố. Cũng trong Đại Thập Nguyệt Tạng nói: "Chư Phật ra đời có 4 phương pháp độ chúng sanh: 1- Chính miệng các Ngài nói ra 12 bộ kinh là dùng pháp thí để độ sanh. 2- Chư Phật có vô lượng tướng hảo, ánh sáng, tất cả chúng sanh chỉ cần để tâm quán sát đều được lợi ích, đây là dùng thân nghiệp để độ sanh. 3- Có vô lượng đức dụng, thần thông, đạo lực, các thứ biến hóa, là dùng sức thần thông để độ chúng sanh. 4- Chư Phật Như Lai có vô lượng danh hiệu, hoặc danh hiệu chung, hoặc danh hiệu riêng, có chúng sanh nào trói tâm xưng niệm, đều có thể trừ các chướng và được lợi ích, đều được sanh trước Phật là dùng danh hiệu độ chúng sanh. Tính đến bây giờ, chúng sanh đã cách Phật hơn 2.000 năm, chính là lúc sám hối, tu phước, là lúc cần xưng danh hiệu Phật. Nếu người nào một lòng xưng danh hiệu Phật A Di Đà là có thể trừ được 80 ức kiếp tội trọng sanh tử. Một niệm còn được như thế huống chi hành giả thường niệm, thường sám hối. Như thế, từ ngày Phật thị tịch đến 2 ngàn năm, giai đoạn đầu người tu lấy tu Định tu Huệ làm Chánh học, sau 2 ngàn năm, cách Phật đã xa, nên lấy việc Trì Danh làm Chánh tu, Chánh học. Vì sao? Vì sự thực do chúng sanh cách Phật đã xa, căn cơ và chỗ hiểu đều cạn cợt và ám độn. Vì thế, Bà Vi Đề Hy là một đại sĩ vì thương chúng sanh trong thời mạt pháp ngũ trược, luân hồi nhiều kiếp chịu nhiều thống khổ, nên mượn duyên khổ để mở ra con đường cầu xin, để Phật dủi lòng từ khuyên về Cực Lạc. Nếu muốn ở cõi này đoạn hoặc chứng chơn, tiến lên Phật quả, thật khó bước lên, chỉ có pháp môn Tịnh Độ có thể dùng cách "đạp gai lấy gai mà lể" để thẳng vào. Nếu muốn hiểu rõ, trong kinh nói đến rất nhiều, lời thực chỉ rành, giúp ích tu tập. Nếu muốn dứt vòng sanh tử, lưu chuyển không cùng, cần phải một lòng xưng dương Phật Vô Lượng Thọ. 2. Căn cứ vào các Kinh Đại Thừa về quy tắc nói và nghe Kinh Đại Tập nói: "Đối người thuyết pháp, phải tưởng là y vương, tưởng người cứu khổ. Pháp nói ra phải tưởng là Cam lồ, tưởng là Đề hồ. Người phe pháp tưởng được tăng trưởng thắng giải, tưởng được lành bệnh. Nếu nói và nghe đều có tưởng như thế, người nói và người nghe đều có thể nối thạnh dòng Phật, thường sanh trước mặt Phật. Đại Trí Độ Luận nói: Người nghe phải xem như mình đang khát được uống, một lòng thâm nhập vào nghĩa và lời, nghe pháp tâm mạnh mẻ vui mừng, những người như thế cần vì người đó mà nói pháp. Có 2 hạng người được phước vô lượng vô biên. 1- Người ưa nói pháp. 2- Người ưa nghe pháp. Vì thế A Nan bạch Phật: Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên vì sao được gọi là trí huệ thần thông thứ nhất và đệ tử thù thắng của Phật: Phật bảo A Nan vì 2 người này khi tu nhơn, vì nhơn duyên nói pháp mà đi xa ngàn dặm không nài khó nhọc, vì thế ngày nay có quả báo vô cùng thù thắng. Kinh Vô Lượng Thọ nói: Nếu người không có cội gốc lành, không được nghe kinh này, người thanh tịnh, giữ giới mới được nghe chánh pháp. Người từng thấy Thế Tôn mới có thể tin việc này, phụng sự ức Như Lai, ưa nghe dạy như thế. Vô Lượng Thanh Tịnh Giải Kinh: Người thiện nam kẻ thiện nữ nghe nói pháp môn Tịnh Độ sanh lòng vui mừng, lông trong thân đều dựng đứng, như được nhổ ra, nên biết người đó đời trước đã tu đạo Phật. Nếu có người nào nghe mở pháp môn Tịnh Độ đều không sanh lòng tin thì biết người này mới vừa 3 đường dữ đến, báo nạn chưa hết do đó nên không có lòng tin tưởng. Ta nói người này không thể được giải thoát. Nên Kinh Vô Lượng Thọ nói: người kiêu mạn, che ngăn, giải đải khó tin được pháp này. 3. Căn cứ vào Đại Thừa Kinh Giáo để biết chúng sanh phát tâm lâu mau, cúng dường nhiều ít. Kinh Niết Bàn nói: Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp: Nếu có chúng sanh ở trong Nửa hằng hà sa Phật mà phát tâm Bồ Đề, về sau này ở trong đời ác nghe kinh điển Đại Thừa mà không bài báng. Nếu có chúng sanh nào ở trong Một hằng hà sa Phật phát tâm Bồ Đề, về sau mới có thể ở trong đời ác nghe kinh, mới không khởi lòng bài báng, sanh lòng vui ưa. Nếu có chúng sanh nào ở trong Hai hằng sa Phật phát tâm Bồ Đề, về sau mới ở trong đời ác không chê pháp môn Tịnh Độ này, hiểu rõ tin ưa, thọ trì đọc tụng. Nếu có người ở trong Ba hằng hà sa Phật phát tâm Bồ Đề, sau đó mới ở trong đời ác không chê phương pháp này, biên chép kinh điển, tuy vì người nói chưa hiểu thâm nghĩa. Vì sao thế? Cần phải so lường vì hiển bày ngày hôm nay ở dưới tòa nghe kinh, từng đã phát tâm cúng dường nhiều vị Phật. Lại hiển bày oai lực của kinh Đại Thừa không thể nghĩ bàn. Vì thế trong kinh nói: nếu có chúng sanh nghe kinh điển này trải qua ức trăm ngàn kiếp không bị đọa ác đạo. Vì sao? Chỗ kinh điển ấy lưu bố, nên biết đất ấy là kim cương, các người trong ấy đều cũng là kim cương. Nên biết, nghe kinh sanh lòng tin được lợi ích không thể nghĩ bàn. 4. Luận Tôn chỉ các Tôn chẳng đồng Nếu y cứ vào kinh Niết Bàn lấy Phật tánh làm tôn, y cứ vào kinh Duy Ma lấy bất khả tư nghì giải thoát làm tôn, nghe kinh Bát Nhã lấy không huệ làm tôn, nghe vào Đại Tập Kinh lấy Đà la ni làm tôn, Quán kinh này lấy Quán Phật Tam muội làm tôn, nếu luận về cảnh sở quán là y cứ vào y báo và chánh báo, căn cứ vào các quán đều có giải rõ. Kinh Quán Phật Tam muội nói: Phật bảo phụ vương: Chư Phật ra đời đem lại cho chúng sanh 3 thứ lợi ích. 1- Miệng nói ra 12 bộ kinh là lợi ích về pháp thí có thể trừ vô minh ám chướng cho chúng sanh, mở mắt trí huệ, sanh ở trước Phật, mau được Vô thượng Bồ đề. 2- Chư Phật Như Lai có thân tướng ánh sáng trang nghiêm, vô lượng diệu hảo, nếu có chúng sanh nào xưng niệm, quán sát, hoặc tổng tướng hoặc biệt tướng. Không quên Phật thân hiện tại, quá khứ đều có thể trừ diệt tội tứ trọng và ngũ nghịch của chúng sanh, vĩnh viễn thoát khỏi tam đồ, tùy ý mong muốn thường sanh về Tịnh Độ cho đến thành Phật. 3- Khuyên thực hành niệm Phật tam muội. Đức Phật khuyên phụ vương thực hành niệm Phật Tam muội. Vua Tịnh Phạn bạch Phật: Các phương pháp tu như: Quả Đức Phật Địa, Chơn Như Thật Tướng, Đệ Nhất Nghĩa Không, vì sao không dạy đệ tử thực hành. Phật bảo: Này phụ vương! Quả Đức Phật Địa có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, không phải là cảnh giới thực hành của người phàm, vì thế nên khuyên phụ vương thực hành niệm Phật Tam muội. Phụ vương bạch Phật: Công năng niệm Phật trạng thái nó như thế nào? Phật bảo: Này Phụ vương! Trong rừng y lan chu vi 40 do tuần, khi ngưu đầu chiên đàn chưa xuất hiện, cả vùng ấy hôi hám không có mùi thơm, nếu người ăn nhằm hoa quả của cây y lan thì phát cuồng mà chết. Khi ngưu đầu chiên đàn xuất hiện, mùi hương xông khắp mạnh mẻ có thể cải biến cả rừng y lan này đều có mùi thơm ngào ngạt, mọi người gặp đó đều sanh lòng hi hữu ít có. Phật bảo: Này phụ vương! Tất cả chúng sanh ở trong sanh tử có lòng niệm Phật, lại cũng như thế, chỉ cần nhớ niệm không dừng, chắc được sanh trước Phật. Một khi đã được vãng sanh, liền có thể cải biến tất cả các điều ác thành đại từ bi, như cây chiên đàn kia biến đổi rừng y lan. Rừng y lan thí dụ như trong thân chúng sanh có 3 độc, 3 chướng, vô biên tội trọng. Nói chiên đàn thí dụ như tâm chúng sanh niệm Phật. Nếu chúng sanh niệm Phật không gián đoạn, đạo nghiệp chắc được thành tựu. Có người hỏi: Nếu tính công của tất cả chúng sanh niệm Phật cũng có thể tạm được, vì sao sức của 1 người niệm mà có thể đoạn trừ hết tất cả chướng như chiên đàn có thể cải biến rừng y lan 40 do tuần thơm tho được? Nếu căn cứ vào các kinh điển Đại thừa thì niệm Phật Tam muội công năng không thể nghĩ bàn được. Kinh Hoa Nghiêm nói: Nếu có người dùng gân sư tử làm dây đàn, âm thanh khi khảy lên một tiếng, tất cả các dây đàn thẳng đều bị đứt đoạn, nếu người phát tâm Bồ đề thực hành niệm Phật tam muội, tất cả phiền não, tất cả chướng nạn đều đoạn diệt. Cũng như có người đem sữa của các thứ trâu, dê, lừa, ngựa để vào trong 1 cái bồn, nếu nhỏ 1 giọt sữa sư tử vào các sữa đều bị biến thành nước. Như người phát tâm Bồ đề thực hành niệm Phật tam muội, tất cả ác ma, các chướng vượt qua không có vướng nạn. Như có người cầm thuốc che mình, dạo đi các chỗ, tất cả mọi người đều không thấy, nếu người phát tâm Bồ đề tu niệm Phật Tam muội, tất cả ác thần, tất cả oán tặc không thể thấy người ấy, người ấy tùy ý đi lại đều không bị tai họa, vì sao vậy? Vì niệm Phật tam muội là vua của các tam muội vậy. 5. Lược giải nghĩa Ba Thân và Ba Độ Hỏi: Hiện tại Phật A Di Đà là thân gì và cõi nước Cực Lạc là cõi gì? Đáp: Hiện tại Phật A Di Đà là báo thân Phật, cõi Cực Lạc trân bảo trang nghiêm là báo độ. Tuy vậy, ngày xưa tương truyền đều nói Phật A Di Đà là hóa thân, cõi Cực Lạc cũng là hóa độ. Đây là một điều lầm lớn! Nếu nói cõi uế là chỗ ở của hóa thân và tịnh độ cũng là chỗ ở của hóa thân, như vậy báo thân của Như Lai ở vào cõi nào. Ở đây xin y theo Kinh Đại Thừa Đồng Tánh để phân định rõ báo thân và hóa thân, cõi tịnh và cõi uế rõ ràng. Kinh nói: "Trong cõi Tịnh người thành Phật là Báo thân, cõi uế người thành Phật đều là hóa thân". Lại nói: "Các Đức Như Lai như: A Di Đà Như Lai, Liên Hoa Khai Phu Tinh Vương Như Lai, Long Chư Vương Như Lai, Bửu Đức Như Lai, Các Ngài ở trong cõi thanh tịnh thị hiện đắc đạo, tất cả các vị như thế đều là báo thân Phật. Vì sao các Đức Như Lai gọi là hóa thân? Như hiện tại Như Lai Dũng Bộ, Như Lai Ma Khủng Bố, tất cả các Đức Như Lai này ở trong đời trược hiện tướng thành Phật, sẽ thành Phật hoặc từ cung trời Đâu Xuất giáng trần trụ thời chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp, các hóa sự như thế đều là hóa thân Phật. Còn Pháp thân của Như Lai là không sắc, không hình, không hiện, không trước, không thể thấy, không thể nói năng, không chỗ trụ, không sanh, không diệt gọi là chơn Pháp Thân." Hỏi: Báo thân của Như Lai là thường trụ vì sao trong Kinh Quan Âm Thọ Ký nói: Sau khi Phật A Di Đà nhập Niết Bàn, Bồ Tát Quán Thế Âm được bổ xứ làm Phật kế tiếp? Đáp: Đây là tướng thị hiện hay tiềm ẩn chẳng phải là diệt độ. Kinh Đại Thừa Đồng Tánh nói: "Sau khi Phật A Di Đà nhập Niết bàn lại có những chúng sanh căn lành sâu dày vẫn thấy Phật như cũ." Điều đó chứng minh rằng Phật không mất. Trong luận Bửu Tánh nói: "Báo thân có 5 thứ tướng là thuyết pháp, có thể thấy, các nghiệp chẳng dứt, tiềm ẩn và thị hiện không thật thể". Điều đó có thể chứng minh khi Đại sư Trí Giả hoát nhiên đại ngộ thấy Phật còn đang thuyết pháp ở Linh Thứu Pháp hội vẫn chưa tan. Hỏi: Báo thân và Báo độ của Phật Thích Ca ở phương nào? Đáp: Kinh Niết Bàn nói: "Ở về phương Tây cách 42 hằng hà sa cõi Phật có thế giới tên là Vô Thắng, cõi ấy chỗ trang nghiêm cũng như thế giới Cực Lạc. Ta ở cõi kia xuất hiện nơi đời vì muốn hóa độ chúng sanh, nên phân thân đến cõi Ta Bà này, chẳng phải ta ra khỏi cõi ấy. Tất cả Như Lai lại cũng như vậy." Hỏi: Kinh Cổ Âm nói: "Phật A Di Đà có cha mẹ" điều đó chứng tỏ rằng chẳng phải báo Phật và báo độ? Đáp: Ông chỉ nghe tên mà không tìm ý chỉ của Kinh, đặt ra điều nghi này thật là lầm lẫn, một sợi lông mà chạy xa ngàn dặm! Phật A Di Đà cũng đủ ba thân, xuất hiện ở cõi Cực Lạc là báo thân. Kinh nói có cha mẹ là nói cha mẹ của hóa thân thị hiện trong hóa độ. Cũng như Đức Thích Ca Mâu Ni thành tựu báo thân ở cõi Tịnh Độ Vô Thắng, ứng hiện đến cõi Ta bà này có cha mẹ thành vị Hóa Phật. Đức Phật A Di Đà lại cũng như thế. Như Kinh Cổ Âm Thinh nói: "Lúc bấy giờ Phật A Di Đà cùng chúng Thanh văn ở trong nước hiệu Thanh Thái, chỗ ở của vua Thánh. Thành ấy rộng đến 10 ngàn do tuần. Cha Phật A Di Đà là chuyển luân thánh vương. Vua tên Nguyệt Thượng. Mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan, Ma Vương tên Vô Thắng, con Phật tên Nguyệt Minh, Đề Bà Đạt Đa tên Tịch Ý, đệ tử hầu hạ tên Vô Cấu Xứng." Tất cả điều dẫn ở trên đều là tướng của hóa thân. Nếu là Tịnh độ thì đâu có luân vương và nữ nhơn ở trong ấy. Trong văn nghĩa kinh đã nói rõ ràng, đâu cần phải phân biệt. Chỉ vì ông không khéo hiểu làm cho mê theo danh tự mà sanh chấp đấy thôi. Hỏi: Nếu nói Báo thân có ẩn mất, thôi dứt thì Tịnh Độ cũng có thành hoại, việc ấy thế nào? Đáp: Câu hỏi này cũng đã có nhiều người hỏi, ở đây xin dẫn kinh chứng minh, để từ đó chúng ta hiểu rõ. Như thân Phật thường trụ mà chúng sanh thấy Phật có vào Niết bàn, Tịnh độ cũng vậy, thể không có thành hoại tùy theo chỗ thấy của chúng sanh mà có thành hoại. Hoa Nghiêm Kinh nói: "Như người thấy Đạo Sư , nhiều thứ sắc vô lượng, tùy theo tâm hạnh chúng sanh, thấy cõi Phật cũng vậy". Tịnh Độ Luận nói: "Một chất chẳng thành được, tịnh, uế có khuyết đầy, khác chất không thành được, gốc xấu thì cành tối, không chất chẳng thành được, duyên khởi có muôn hình". Nên biết, nếu căn cứ vào pháp tánh Tịnh Độ thì không luận trong hay đục. Nếu căn cứ vì lòng đại bi hiện ra báo độ và hóa độ, thì có tịnh có uế vậy. Cần nên biết, cõi Phật đối với căn cơ cảm ứng chẳng đồng, có ba thứ sai biệt: 1- Từ chơn còn để lại báo (kết quả) nên gọi là báo độ cũng như ánh sáng mặt nhật chiếu bốn châu thiên hạ. Pháp thân như mặt nhật, báo và hóa như ánh sáng. 2- Từ chỗ không mà bỗng nhiên có thì gọi là hóa. Như Tứ Phần Luật nói: "Như Lai Đỉnh Quang hóa thành Đề Bà và thành Bạt Đề gần nhau qua lại thân thiết, thời gian sau hóa lửa thiêu cháy sạch làm cho các chúng sanh thấy việc vô thường đều sanh lòng nhàm chán, quay về đạo Phật". Trong Kinh nói: "Hoặc hiện kiếp hỏa, trời đất đều tiêu tan, chúng sanh tưởng trời đất hằng còn, thấy điều ấy làm cho biết được lý vô thường. Hoặc vì cứu nghèo đói, lập ra kho vô tận, tùy duyên mở rộng đạo, làm chúng sanh phát khởi tâm Bồ đề." 3- Ẩn cõi Uế hiển bày cõi Tịnh: Như trong kinh Duy Ma, Phật dùng ngón chân bấm xuống đất, ba ngàn cõi nước đều thành Tịnh Độ. Quốc độ của Phật Vô Lượng Thọ ở đây là từ Chơn để lại báo độ. Vì sao được biết? Căn cứ vào Kinh Quán Âm Thọ Ký nói: "Đời vị lai Bồ Tát Quán Âm thành Phật, thế chỗ của Phật A Di Đà". Do đó mà chúng ta biết cõi Cực Lạc là báo độ. 6. Cõi Cực Lạc phàm thánh đồng ở. Nước Phật Vô Lượng Thọ này là báo độ do thành tựu Phật nguyện bao gồm cả bậc thượng và hạ. Bậc hạ những người hạ thiện phàm phu cũng được vãng sanh. Bậc thượng các bậc Địa Thượng Bồ Tát như Thiên Thân, Long Thọ cũng nguyện sanh về. Nếu trong Đại A Di Đà Kinh, Bồ Tát Di Lặc hỏi Phật: "Không biết cõi này có bao nhiêu Bồ Tát bất thối sanh về cõi ấy?" Phật dạy: "Thế giới Ta Bà này có sáu mươi bảy ức Bồ Tát bất thối đều được vãng sanh, nếu muốn nói rộng các phương đều như vậy." Hỏi: Tịnh Độ Phật A Di Đà bao gồm thượng và hạ không biết bậc thượng tu vô tướng mới được sanh, còn phàm phu theo hữu tướng tu thì thế nào? Đáp: Phàm phu trí cạn phần nhiều y theo tướng mà cầu chắc được vãng sanh, tuy vậy vì thiện tướng sức yếu nên chỉ sanh về cõi có tướng. Chỉ thấy báo thân và hóa thân Phật. Cho nên trong Kinh Quán Phật Tam Muội, phẩm Bổn Hạnh Bồ Tát nói: "Văn Thù Sư Lợi bạch với Phật rằng: Con nhớ vô lượng kiếp về thời quá khứ lúc còn là phàm phu, cõi ấy có một Đức Phật tên Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai, khi Phật ấy ra đời như bây giờ không khác, đức Phật kia cũng thân cao một trượng sáu thân màu vàng tía, nói pháp Ba Thừa như đức Thích Ca bây giờ. Lúc ấy, cõi nước kia có một Đại Trưởng giả tên Nhất Thiết Trí. Trưởng giả có một người con tên Giới Hộ. Lúc người con còn ở trong thai mẹ, bà mẹ kính tin Tam bảo, nên dự cho người con thọ Tam qui y. Đứa con sanh ra được 8 tuổi, cha mẹ thỉnh Phật về nhà cúng dường. Đồng tử gặp Phật liền làm lễ, lòng rất cung kính, mắt chẳng tạm rời. Nhờ được gặp Phật nhớ Phật, nên trừ được tội trọng sanh tử trăm vạn ức na do tha kiếp, từ đó về sau thường sanh Tịnh độ, nên được gặp chư Phật trăm ức na do tha hằng hà sa vị. Các Đức Thế Tôn này cũng dùng tướng hảo độ thoát chúng sanh. Khi ấy Đồng tử hết lòng hầu hạ, không có khuyết điểm, lễ bái cúng dường, chấp tay quán Phật, vì sức nhơn duyên này lại được gặp trăm muôn A Tăng Kỳ Phật. Các Đức Phật kia cũng dùng sắc thân tướng hảo hóa độ chúng sanh, từ đó về sau được trăm ngàn ức niệm Phật tam muội, lại được A Tăng Kỳ Đà La Ni. Đã được việc này rồi chư Phật hiện ra trước mặt nói pháp vô tướng, chỉ trong giây lát được Thủ Lăng Nghiêm Tam muội. Lúc ấy, Đồng tử kia chỉ thọ Tam Qui và lễ Phật, quán chắc thân Phật, tâm không mệt mỏi, do nhơn duyên đó, gặp vô số Phật, hà huống hộ niệm, đầy đủ tư duy quán sắc thân Phật. Đồng tử lúc ấy đâu phải người nào lạ, chính là thân tôi đây. Lúc ấy, Đức Thế Tôn khen Văn Thù rằng: Lành thay, lành thay, ông vì lễ Phật mà được gặp vô số Phật, huống chi đời sau các đệ tử ta, siêng năng quán Phật và niệm Phật. Phật bảo A Nan: Ông hãy nhớ lời Văn Thù Sư Lợi, phổ biến trong đại chúng, và chúng sanh đời vị lai, người nào hay lễ Phật, niệm Phật, quán Phật, phải biết người này cùng Văn Thù Sư Lợi công đức không khác. Khi bỏ thân này ở đời khác Văn Thù và các Bồ Tát vì người ấy mà làm Hòa Thượng". Đoạn văn trên chứng minh rằng Tịnh Độ gồm chung cả tướng độ, chắc vãng sanh không còn gì phải nghi. Nếu biết vô tướng ly niệm làm thể mà duyên trong ấy cầu vãng sanh thì phần nhiều được thượng phẩm. Vì thế, Vãng Sanh Luận của ngài Thiên Thân dạy: "Nếu có thể quán 29 thứ trang nghiêm thanh tịnh liền vào nhất cú. Nhất pháp cú gọi là thanh tịnh cú; thanh tịnh cú là pháp thân thanh tịnh vô vi. Vì sao phải nói rõ về từ tướng mà vào? Bồ tát có hai thứ pháp thân. 1- Pháp tánh pháp thân. 2- Phương tiện pháp thân. Do Pháp tánh pháp thân nên sanh phương tiện pháp thân. Do Phương tiện pháp thân nên hiển bày ra Pháp tánh pháp thân. Hai thứ Pháp này tuy nói là khác nhưng không thể phân chia, tuy là một mà không đồng. Cho nên từ tướng tông mà vào, nếu không biết tướng rộng và hẹp thì không thể vào Pháp thân vô vi tự lợi và lợi tha được. Vô vi Pháp thân tức là Pháp tánh thân vậy. Pháp tánh tịch diệt nên Pháp thân không có tướng. Pháp thân không tướng mà có tướng, nên tướng hảo trang nghiêm tức là Pháp thân vậy. Pháp thân vô tri mà có tri nên Nhất Thiết Chủng Trí là trí huệ chơn thật. Tuy nói có chung có riêng đều là thật tướng. Vì biết thật tướng là biết được tướng hư vọng của chúng sanh trong ba cõi. Vì biết chúng sanh trong ba cõi hư vọng là khởi lòng từ bi chơn thật, vì biết lòng từ bi chơn thật là khởi lòng qui y chơn thật". Hôm nay hành giả không hỏi tại gia xuất gia chỉ cần biết sanh và vô sanh không rời hai đế lý phần nhiều được sanh vào thượng phẩm. 7. Tịnh Độ Phật A Di Đà ở trong hay ngoài ba cõi? Hỏi: Cõi An Lạc ở trong ba cõi thuộc về cõi nào? Đáp: Cõi Tịnh Độ thắng diệu, thể nó ra khỏi thế gian. Ba cõi này là nhà tối của hàng sanh tử phàm phu, tuy có khổ vui sai khác, xét chung tất cả đều ở trong vòng hữu lậu, luân chuyển xuống lên không có bờ mé, sanh tử lộn xộn chịu đựng không cùng, bốn thứ điên đảo vây quanh, từ nhơn đến quả, dối trá chứa nhóm thật là đáng chán, nên Tịnh Độ không thuộc ba cõi. Trí Độ Luận nói: "Quả báo ở Tịnh không có tham dục nên không phải Dục giới. Ở dưới đất nên không phải Sắc giới, có hình sắc nên không phải Vô Sắc giới. Tuy nói ở trên đất nhưng cõi ấy thù thắng tuyệt vời". Vãng Sanh Luận nói: "Quán tướng thế giới kia, vượt trội hơn ba cõi, cứu kính như hư không, rộng lớn không có bờ mé. Đại A Di Đà Kinh nói: "Diệu độ rộng lớn vượt hạn lượng, tự nhiên bảy báu hợp lại thành, do bổn nguyện Phật trang nghiêm tốt, cúi xin Thanh Tịnh nhiếp thọ cho, thế giới sáng chói, đẹp đẽ tuyệt, điều hòa an vui, không có bốn mùa, tư lợi lợi tha đều viên mãn, nương về Cực Lạc tối trang nghiêm. Chương Hai Chương này nhằm vào 3 chủ điểm là phát tâm Bồ đề, phá dị kiến, tà chấp và vấn đáp để giải nghi tình. 1. Phát tâm Bồ Đề: Là phát khởi tâm hướng về mục tiêu cao cả nhất, đó là quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, người tu hành có mục tiêu chắc chắn không phí uổng công sức. Công dụng phát khởi tâm Bồ đề trong Đại Kinh nói: "Phàm muốn vãng sanh Tịnh Độ cần phải lấy việc phát khởi tâm Bồ đề làm gốc. Vì sao? Vì Bồ đề là tên của quả vị Phật đạo Vô Thượng, chính là muốn phát khởi tâm làm Phật, tâm này rộng lớn trùm khắp pháp giới, tâm này cứu cánh rộng lớn như hư không, tâm này dài rộng khắp đời vị lai, tâm này thể vốn đầy đủ xa lìa hai chướng. Nếu có thể phát khởi tâm này thì đoạn lìa dòng sanh tử từ vô thỉ, có các công đức hướng về Bồ đề đều có thể tiến đến quả Phật, không thể hư mất, ví như hái hoa ngũ tịnh dù gió cả ngày cũng không héo, ở nguồn nước sông linh thủy dù bị hạn cả đời cũng không khô cạn. Danh thể của Bồ đề gồm có 3 thứ: a- Pháp thân Bồ đề là nói về chơn như thật tướng, đệ nhất nghĩa không, tự tánh thanh tịnh, thể không ô nhiễm, lý ngoài thiên nhơn, không nhờ tu mà thành gọi là Pháp thân, bản thể đạo Phật gọi là Bồ Đề. b- Báo thân Bồ đề là tu đủ muôn hạnh có thể cảm cái quả báo thành Phật, vì quả có ra là để đáp nhơn gọi là báo thân, viên thông vô ngại gọi là Bồ đề. c- Hóa thân Bồ đề là từ báo thân khởi dụng biến hóa để độ hết muôn căn cơ nên gọi là hóa thân, lợi vật viên thông gọi là Bồ đề. Hiển bày chỗ Phát tâm Bồ Đề có khác nhau, vì hành giả tu nhân Bồ Đề phải đủ ba thứ: a- Cốt yếu phải biết rõ cái có và không, từ xưa đến nay tự tánh vốn thanh tịnh. b- Duyên tu vạn hạnh và tám muôn bốn ngàn các môn Ba La Mật. c- Lấy đại từ bi làm gốc thường tiếp dẫn độ người làm hoài bảo. Ba món này có thể tương ưng với đại Bồ đề nên gọi Phát tâm Bồ Đề. Trong Tịnh Độ Luận nói: "Nay nói Phát tâm Bồ Đề là tâm nguyện làm Phật, tâm nguyện làm Phật là tâm độ chúng sanh, tâm độ chúng sanh là nhiếp thủ chúng sanh nào có tâm muốn sanh về cõi Phật." Nay đã nguyện sanh về Tịnh Độ nên trước phải Phát tâm Bồ Đề. Hỏi: Nếu tu đủ muôn hạnh có thể cảm quả Bồ đề được thành Phật, vì sao trong Kinh Chư Pháp Vô Hành nói: "Nếu người cầu Bồ đề tức không có Bồ đề, người ấy xa cách Bồ đề như trời đất."? Đáp: Chánh thể của Bồ đề lý cầu vô tướng, nay đem tướng mà cầu thì không phải là lý thật nên nói xa cách. Nên trong kinh nói: "Bồ đề không thể dùng tâm mà được, không thể dùng thân mà được." Nay nói hành giả tuy biết tu hành qua sự cầu mà hiểu rõ lý thể không cầu nên không phá hoại giả danh, nên tu đủ vạn hạnh có thể cảm ứng được. Đại Trí Độ Luận nói: "Nếu người chấp có Bát Nhã thì bị trói buộc, nếu không chấp có Bát Nhã cũng bị trói buộc. Nếu người thấy Bát Nhã là giải thoát, hoặc không thấy Bát Nhã cũng là giải thoát." Nên Bồ tát Long Thọ nói: "Trong ấy không lìa bốn câu là bị trói buộc, lìa bốn câu thì được giải thoát.". Nay cầu Bồ đề chỉ nên tu như thế thì làm mà không làm, không làm mà làm là không trái với đạo lý nhị đế. Căn cứ vào Vãng Sanh Luận nói: "Phàm muốn phát tâm hợp với Vô thượng Bồ đề có 2 nghĩa: Trước phải lìa ba thứ trái nhau với Bồ đề và phải biết ba thứ thuận với Bồ đề. Vì sao phải xa lìa 3 thứ trái với Bồ đề? Hành giả y theo trí huệ, không cầu vui cho mình, xa lìa tâm tham đắm của tự thân. Hành giả y theo Từ Bi, nhổ tất cả khổ cho chúng sanh, xa lìa những điều làm tâm chúng sanh không an và hành giả y theo phương tiện, tâm thương xót tất cả chúng sanh, xa lìa tâm ưa thích cung kính cúng dường cho tự thân. Đây gọi là 3 thứ trái với Bồ đề tâm. Thế nào là thuận với Bồ đề? Bồ tát xa lìa ba thứ trái với Bồ đề vừa kể trên liền được 3 thứ thuận với Bồ đề. Thế nào là 3 thứ? a- Tâm vô nhiễm thanh tịnh là không tự mình tìm cầu các thứ vui riêng. Bồ đề là chỗ vô nhiễm thanh tịnh, nếu vì tự thân tìm cầu các thứ vui là trái với Bồ đề, cho nên tâm không nhiễm, thanh tịnh là thuận với Bồ đề. b- Tâm an thanh tịnh vì nhổ tất cả khổ chúng sanh, Bồ đề là chỗ thanh tịnh an ổn tất cả chúng sanh. Nếu không có lòng nhổ tất cả chúng sanh lìa khổ sanh tử, là trái với Bồ đề, cho nên nhổ tất cả khổ chúng sanh là thuận với Bồ Đề. c- Tâm vui thanh tịnh là muốn làm cho chúng sanh được Đại Bồ đề, nhiếp thủ chúng sanh sanh về quốc độ Cực Lạc. Bồ đề là chỗ cứu kính thường lạc, nếu không làm cho tất cả chúng sanh được cứu kính thường lạc là trái với Bồ đề. Thường lạc cứu kính này, nương vào chỗ nào mà được, cần y vào Đại Nghĩa môn, Đại Nghĩa môn là nói về quốc độ an lạc kia, nên làm cho một lòng chuyên chú, nguyện sanh về nước kia, làm cho được sớm được Vô thượng Bồ đề. 2. Phá dị kiến tà chấp: Nói đến Đại thừa thường vượt hẳn kiến thức phàm phu Nhị thừa, tuyệt cả đối đãi, vào thẳng lý trung đạo, mỗi câu mỗi lời đều có những thâm ý đặc thù. Vì vậy nên có nhiều người sanh ra tà chấp. Do đó chương này nêu những điểm then chốt dùng kinh chứng minh phá hết tình nghi. Nghi đã tan thì Tin sẽ tự nhiên đến. a.- Phá về sự vọng chấp vô tướng của Đại thừa. Hỏi: Hoặc có người nói Đại thừa vốn vô tướng, đừng niệm kia đây. Nếu nguyện sanh Tịnh Độ chính là thủ tướng, tăng thêm sự ràng buộc hữu lậu thì cầu để làm gì? Đáp: Sự suy lường như thế là sai lầm vì tất cả Chư Phật nói pháp cốt yếu đủ hai thứ duyên. Thứ nhất là y thật lý của Pháp tánh. Thứ hai là thuận theo chơn đế và tục đế. Câu hỏi ở trên theo Đại thừa vô niệm chỉ y vào pháp tánh lại chê vô duyên cầu là không thuận với hai đế lý. Nếu có cái chấp này thì rơi vào cái không đoạn diệt. Cho nên Kinh Vô Thượng Y nói: "Phật bảo A Nan! Tất cả chúng sanh nếu khởi chấp ngã to như núi Tu Di, ta cũng không sợ. Vì sao? Vì người này tuy chưa được thoát ly, nhưng thường không phá hoại lý nhơn quả nên quả báo không mất. Nếu khởi chấp không nhỏ như hạt cải, ta cũng không cho. Vì sao? Vì cái chấp ấy là phá mất nhơn quả, nhiều kiếp bị đọa vào ác đạo, trong đời vị lai chỗ được sanh ra, chắc trái lời dạy của ta." Vì thế, nay khuyên các hành giả, lý tuy vô sanh mà đạo lý Nhị đế cần phải duyên, cần tất cả đều được vãng sanh. Vì thế, Kinh Duy Ma Cật nói: "Tuy quán quốc độ Chư Phật cùng chúng sanh vốn không mà thường tu Tịnh Độ, giáo hóa quần sanh. Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân, đó là hạnh Bồ Tát, tuy hành vô khởi mà khởi nhất thiết thiện hạnh, Bồ tát nầy thực hành đúng những đều chứng chơn thật." Hỏi: Ở thế gian có người thực hành Đại thừa vô tướng, không chấp kia đây toàn không gìn giữ giới tướng, việc ấy thế nào? Đáp: Người chấp như thế bị hại rất lớn. Vì sao? Như Kinh Đại Phương Đẳng nói: "Phật vì Ưu Bà Tắc chế giới. Không được đến nhà quả phụ, nữ nhơn, không được đến nhà bán rượu, nhà nhuộm đồ, nhà ép dầu, nhà thuộc da, các chỗ như thế đều không được qua lại. Đức A Nan bạch Phật. Vì sao chế giới này? Phật bảo: A Nan! Hành giả có 2 hạng người, là người ở ngoài đời và người xuất gia, ta không chế những việc trên riêng cho người ở thế gian. Ta nay chế ra vì tất cả chúng sanh đều là con của ta, Phật là cha mẹ của tất cả chúng sanh, chế những điều ngăn cấm là muốn tất cả sớm ra khỏi thế gian được vào Niết bàn. b- Giải rõ Bồ Tát có ái kiến đại bi: Hỏi: Y theo Đại thừa thánh giáo, Bồ tát đối với các chúng sanh, nếu khởi ái kiến Đại Bi, liền phải xã ly, nay khuyên chúng sanh cùng sanh Tịnh độ. Đâu chẳng phải ái nhiễm thủ tướng làm sao khỏi trầm lụy được? Đáp: Hành pháp của Bồ tát công dụng có hai thứ là chứng Không huệ Bát nhã và đầy đủ lòng đại bi. Thế nào là chứng Không huệ Bát nhã? Vì tu năng lực Không huệ Bát nhã, tuy vào sáu nẽo sanh tử vẫn không bị trần nhiễm làm hệ lụy. Thế nào là đầy đủ lòng đại bi? Bồ tát vì lòng đại bi nhớ thương chúng sanh nên không trụ Niết bàn. Bồ tát tuy ở hai đế lý, thường hay xã có và không một cách mầu nhiệm, đi vào con đường trung đạo của lấy và bỏ, không trái với giáo lý của đạo Phật. Cho nên Kinh Duy Ma nói: "Ví như có người ở chỗ đất trống tạo lập cung điện sẽ tùy theo ý không có trở ngại, nếu cất trên hư không trọn không thể thành tựu. Bồ tát cũng như vậy, vì muốn thành tựu chúng sanh nên nguyện về cõi Phật. Cõi Phật không phải trên hư không. c- Phá ngoài tâm không pháp. Hỏi: Hoặc có người nói Tịnh cảnh sở quán là từ nội tâm, tịnh độ dung thông, tâm tịnh là phải, ngoài tâm không pháp, đâu cầu về Tây phương làm gì? Đáp: Nói về Pháp tánh Tịnh độ, lý lẽ rỗng thông, không có thiên lệch hay hạn cuộc. Đây là trạng thái sanh của vô sanh. Chỉ có bậc thượng sĩ mới có thể vào. Cho nên Kinh Vô Tự Bảo Phiệt nói: "Này thiện nam tử! Lại có một pháp là chỗ giác ngộ của Phật. Có thể nói các pháp không lui không tới, không nhơn không duyên, không sanh không diệt, không nghĩ không chẳng nghĩ, không tăng không giảm. Phật bảo La Hầu La rằng: Ông nay nên phải thọ trì những lời ta vừa nói nghĩa chánh pháp chăng? Lúc ấy ở mười phương có chín ức Bồ Tát liền bạch Phật rằng: Chúng con đều có thể trì pháp môn ấy, sẽ vì chúng sanh lưu thông chẳng dứt. Đức Thế Tôn dạy: Những thiện nam tử này là những người gánh vác đạo Bồ Đề, người ấy liền được vô ngại biện tài, được đến thế giới thanh tịnh của chư Phật. Khi mạng chung liền được thấy Phật A Di Đà và các Thánh chúng ở trước mặt người ấy, được vãng sanh về thế giới Cực Lạc." Nếu những người biết mình bậc trung và hạ chưa có khả năng phá tướng, cần phải y theo nhơn duyên tin Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tuy đến cõi kia ở vào cõi có tướng. Như thế, nếu nhiếp duyên theo gốc là ngoài tâm không có pháp, nếu chia hai đế ý nghĩa rõ ràng, người tu Tịnh Độ không ngại gì tâm này ngoài pháp. Hỏi: Nói sanh của vô sanh chỉ có bậc Thượng sĩ có thể vào, bậc trung hạ không kham nỗi, nếu giáo pháp phán định như vậy thì kinh điển nào nói ra? Đáp: Y theo luận Trí Độ nói: "Hàng Bồ tát mới phát ý, căn cơ và sự hiểu biết rất mềm yếu, tuy nói phát tâm, phần nhiều nguyện sanh về Tịnh Độ." Ý ở đây giải rõ như đứa trẻ sơ sanh nếu không gần cha mẹ nuôi dưỡng chắc bị nạn rơi hầm, lọt giếng, chết cháy, rắn cắn, hoặc thiếu sửa mà chết, cần phải nhờ cha mẹ nuôi dưỡng mới có thể khôn lớn, mới có thể thừa kế nghiệp nhà. Bồ tát cũng vậy, nếu phát Bồ đề tâm rồi, phần nhiều nguyện sanh về Tịnh Độ, gần gũi chư Phật, tăng trưởng pháp thân mới có thể tiếp nối gia nghiệp của Bồ tát. Các Bồ tát trong 10 phương vì muốn đem lợi ích cho chúng sanh nên phần nhiều nguyện sanh về Cực Lạc. Trong Luận cũng nói: "Ví như chim non, lông cánh chưa đủ, không thể bay xa, trước phải nương rừng chuyền cây, lông cánh đã đủ, sức khỏe đã dồi dào, mới có thể bỏ rừng bay dạo trong không." Bồ tát mới phát ý cũng thế, trước phải nương theo nguyện lực cầu sanh trước Phật, Pháp thân đã to lớn, tùy theo chỗ cảm của chúng sanh mà đem cho nhiều lợi ích. A Nan bạch Phật rằng: Vô tướng Ba La Mật này nói ở chỗ nào? Phật bảo: Pháp môn này nói trong thời gian nói A Tỳ Bạt Trí. Vì sao? Vì lúc ấy có một vị Bồ tát mới phát ý nghe Pháp Vô tướng Ba La Mật này, sáu căn liền thanh tịnh, phiền não đều tan mất." Vì vậy người đã đến cõi Tịnh độ Cực lạc rồi, tất cả mọi việc đều xong hết, lần tiến đến Phật quả, đâu cần tranh biện lý cạn sâu làm gì! d- Phá ý niệm nguyện sanh uế độ, không nguyện sanh tịnh độ. Hỏi: Có người nói nguyện sanh về cõi uế giáo hóa chúng sanh, không nguyện vãng sanh tịnh độ, việc ấy như thế nào xin vui lòng giải thích? Đáp: Các người này chấp như những người trước. Vì sao? Vì nếu thân mình ở vào vị bất thối rồi, dù dạy những chúng sanh tạp ác, dù ở chỗ uế nhiễm cũng không nhiễm, gặp ác không thay đỗi, như con vịt vào nước, nước không thể làm ướt được. Những người như thế có thể ở cõi uế để cứu khổ chúng sanh. Nếu là hạng phàm phu, chỉ e tự mình đi còn chưa vững, gặp khổ thì thay đổi, muốn cứu người khác nhưng không biết bơi, nhảy xuống ướt người thì cả hai đều bị chết chìm, như bắt con gà bỏ vào nước làm sao khỏi ướt. Cho nên trong Luận Trí Độ có nói: "Nếu kẻ phàm phu vừa mới phát tâm liền nguyện ở cõi uế cứu tế chúng sanh, Phật không cho, vì sao vậy? Trong Thích Luận Bồ Tát Long Thọ nói: "Ví như tảng băng to 40 dặm, như có một người dùng một bó củi đốt, lúc ấy giống như có ít hơi ấm, nếu trải qua một đêm đến sáng dù có nhiều bó củi cũng biến thành băng." Phàm phu phát tâm cứu khổ cũng như bó củi đốt trên tảng băng to kia không khác gì. Vì phàm phu ở cảnh giới tham sân, nghịch thuận rất nhiều, tự mình khởi phiền não rồi tự đọa vào ác đạo. e- Phá nếu sanh tịnh độ phần nhiều tham vui. Hỏi: Có người cho rằng ở cõi Cực lạc chỉ có điều vui, nếu ưa chấp vui, thì trở ngại việc tu, đâu cần nguyện vãng sanh làm gì? Đáp: Đã nói Tịnh độ không có các uế, nếu nói chấp vui là tham ái phiền não làm sao gọi là Tịnh. Cho nên Đại Kinh nói: "Người trời ở cõi kia, tới lui, qua lại, không có lưu luyến tình cảm." Trong 48 đại nguyện cũng nói: "Nhơn thiên trong mười phương đã đến nước tôi, nếu còn khởi tưởng niệm tham kể thân mạng, thì tôi không ở ngôi chánh giác." Trong Đại Kinh cũng nói: "Nhơn thiên cõi nước kia không có thích mến." Như vậy, người ở cõi Cực lạc đâu có lý gì lại chấp vui. Điều đó hoàn toàn không có. f- Phá tư tưởng cho cầu sanh Tịnh độ là Tiểu thừa: Hỏi: Có người cho rằng cầu sanh Tịnh độ là tiểu thừa có đúng không? Đáp: Hoàn toàn sai lầm, vì trong giáo pháp Tiểu thừa, không nói và không tin sanh về Tịnh độ. g- Giải rõ sanh về Đâu Suất, khuyên sanh Tịnh Độ: Hỏi: Có người cho rằng nên sanh về Đâu Suất, không nguyện sanh về Tây Phương việc ấy thế nào? Đáp: Đâu Suất nội viện của Đức Di Lặc cũng gọi là Tịnh Độ so với Cực lạc Tịnh độ có đôi chút tương tợ nhưng căn cứ vào thể thì khác nhau rất xa: - Đức Thế Tôn Di Lặc vì Thiên chúng chuyển Pháp Luân Bất Thối, người nghe pháp sanh lòng tin là được lợi ích lớn, gọi là tin đồng hưởng vui, nhưng số người không tin cũng nhiều. Lại nữa, tuy sanh về Đâu Suất Tịnh độ nhưng vị là lui sụt, cho nên Kinh nói: "Ba cõi không yên cũng như nhà lửa." - Vãng sanh Đâu Suất thọ mạng được bốn ngàn năm, sau khi mạng chung không khỏi đọa lạc. - Trên cõi trời Đâu Suất tuy có nước chim cây rừng hòa âm thanh nhã, chỉ làm cho chư thiên sanh vui, thuận theo ngũ dục, không hợp thánh đạo. Nếu so sánh với cõi Tịnh độ Phật A Di Đà, một khi được sanh về, liền được vị không lui sụt và không cùng với người lui sụt ở chung. Quả vị cõi Cực Lạc là vô lậu ra khỏi ba cõi, không trở lại luân hồi. Luận về thọ mạng người cõi Cực lạc sống lâu bằng Phật, không thể tính đếm. Ở cõi kia cũng có nước, chim, cây, rừng đều có thể thuyết pháp làm người nghe liễu ngộ chứng vị vô sanh. - Căn cứ vào Đại Kinh chỉ dùng một thứ âm nhạc để so sánh. Kinh khen ngợi âm nhạc cõi Cực Lạc như thế này: "Nếu đem so sánh âm nhạc đế vương ở đời với âm nhạc cõi trời lục dục, thì âm nhạc cõi trời lục dục hay hơn ức vạn bội, nếu đem âm nhạc cõi trời lục dục so với âm nhạc của bảo thọ ở cõi Cực Lạc phát ra so với âm nhạc cõi trời lục dục thì hay hơn ức vạn bội. Lại có pháp âm kỷ nhạc mầu nhiệm thanh nhã vượt tất cả âm nhạc ở mười phương, nên phải chí thành huân tập." h- So sánh nguyện sanh các Tịnh độ và cực lạc Tịnh Độ: Hỏi: Có người cho rằng nguyện sanh 10 Phương Tịnh Độ hơn nguyẹn sanh về Tây Phương nghĩa ấy thế nào? Đáp: Nghĩa ấy không đúng. Có 3 ý để giải thích. - Cõi Phật 10 phương đều là Tịnh độ, nhưng cảnh rộng thì tâm tối, phân vân trước nhiều đường tẻ, cảnh hẹp thì ý chuyên. Nên Kinh nói: "Phổ Quảng Bồ Tát bạch Phật Thế Tôn: Cõi Phật 10 phương đều nghiêm tịnh, vì sao trong các Kinh riêng khen ngợi cõi Cực lạc của Phật A Di Đà, khuyên bảo vãng sanh? Phật bảo Phổ Quảng Bồ Tát: Tất cả chúng sanh trược loạn thì nhiều, chánh niệm thì ít, muốn làm cho chúng sanh chuyên chí một chỗ, nên khen ngợi cõi Cực Lạc kia là chỗ đặc biệt khác lạ, nếu người nào theo ý nguyện vãng sanh mà tu hành đều có kết quả. - Tịnh độ trong 10 phương đều là Tịnh độ, nhưng chỗ cạn chỗ sâu khó hiểu. Cõi Tịnh độ Phật A Di Đà là cõi Tịnh độ do Đại nguyện hóa độ mới thành lập. Vì sao được biết? Y theo kinh Hoa Nghiêm nói: "Một kiếp ở thế giới Ta Bà bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc. Một kiếp ở thế giới Cực lạc bằng một ngày một đêm ở Ca Sa Tràng thế giới. Lại nữa, Đức Phật A Di Đà mới thành đạo đến nay hơn mười kiếp." Vì cõi Tịnh độ Cực Lạc mới trang nghiêm, tổng hợp những cái hay của các Tịnh độ khác nên chư Phật mới đặc biệt khuyên chúng sanh nguyện sanh về. Tịnh độ các phương đều không bằng cõi Cực Lạc, nên người có lòng tin đều nguyện vãng sanh về Cực Lạc. - Cõi Phật A Di Đà là cõi Tịnh độ mới trang nghiêm, còn cõi Ta Bà là cõi uế cuối cùng. Vì sao biết được? Trong Chánh Pháp Niệm Kinh nói: "Từ đây về phía đông bắc có một thế giới gọi là Tư Ha đất ruộng chỉ toàn cát trắng, một năm chỉ có 3 lần mưa, mỗi lần mưa thấm ướt chừng 45 tấc. Cõi ấy chúng sanh chỉ ăn trái cây, lấy vỏ cây làm áo, cầu sống không được, cầu chết không xong. Lại có thế giới, có các loài hổ lang, cầm thú cho đến rắn rết đều có thể bay đi, gặp người là ăn thịt, không phân biệt thiện ác." Hai cõi này gọi là nơi ban đầu của cõi uế. Nhưng Ta Bà là y báo hiền thánh đồng ơ, điều đó cho thấy là uế độ thời cuối cùng. Cõi uế cuối cùng tiếp với cõi Tịnh mới trang nghiêm, hai cõi ấy liền nhau nên vãng sanh rất dễ. Vì sao không mau nguyện vãng sanh. i- Khoa giản biệt thời ý. Trong Quán Kinh Phật dạy: "Người sanh hạ phẩm, hiện tạo tội nặng, khi mạng lâm chung, gặp thiện tri thức, mười niệm thành tựu, liền được vãng sanh". Y theo Nhiếp Đại Thừa Luận cho rằng: "Lời ấy là biệt thời ý." Các nhà bình luận cho rằng: "Lâm chung 10 niệm chỉ là gieo nhơn vãng sanh, chưa được sanh liền. Vì sao? Vì trong Luận nói: "Như người dùng một đồng tiền muốn mua một vật có giá trị ngàn vàng, chẳng phải một ngày mà có được ngàn vàng. Nên biết mười niệm thành tựu vãng sanh chỉ được gieo nhơn, chưa được sanh liền, nên gọi là biệt thời ý. Cách giải đó chưa đúng. Vì sao? Phàm Bồ tát làm luận giải nghĩa kinh đều muốn giữ đúng ý Phật, khế hợp lòng Phật, nên có luận răn trái với kinh thật vô lý. Nay giải về biệt thời ý là nói Phật thuyết pháp thông thường đều nói rõ trước nhơn sau quả, lý ấy rõ ràng, nay trong Quán Kinh này nói một đời tạo tội, khi lâm chung, mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, không luận quá khứ có nhơn hay không nhơn. Họ đâu biết rằng: Đức Thế Tôn tiếp dẫn những người hiện đang tạo ác, làm cho người sắp lâm chung bỏ ác về lành, nhờ niệm Phật mà được vãng sanh, đây là ẩn dấu nhơn đời trước. Đây là Đức Thế Tôn muốn ẩn cái trước, hiển bày cái sau, dấu nhơn nói quả gọi là phát biệt thời ý. Vì sao được biết vì dạy người mười niệm thành tựu đều có cái nhơn quá khứ, như Kinh Niết Bàn nói: "Nếu người trong quá khứ đã từng cúng dường nửa hằng hà sa chư Phật và đã từng phát tâm Bồ đề, nên ở trong đời dữ nghe nói kinh giáo Đại thừa, chỉ không chê bai, chưa làm công đức nào khác. Nếu người cúng dường một hằng hà sa chư Phật và đã từng phát tâm Bồ đề, sau này nghe kinh giáo Đại thừa, chẳng phải không chê mà còn sanh lòng ưa thích". Qua kinh trên đủ nghiệm thấy rằng người niệm mười niệm mà thành tựu đều có cái nhơn quá khứ không sai. Nếu người ấy không có gieo nhơn quá khứ thì thiện tri thức còn khó gặp, hà huống gì mười niệm có thể thành tựu. Trong luận nói: "Dùng một đồng vàng để mua vật có giá trị ngàn vàng, chẳng phải một ngày mà có được." Nếu y vào ý Phật, muốn làm cho chúng sanh chứa nhiều nhơn lành, cần phải nương theo niệm Phật vãng sanh. Nếu theo luận chủ nói về nhơn quá khứ, lý cũng không sai, nếu hiểu nghĩa này thì trên thuận ý Phật, dưới hợp ý luận. Do đó Kinh và Luận giúp nhau, làm con đường vãng sanh thông suốt đâu có gì đáng nghi. k- Giải bỏ các nghi. Hỏi: Tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay tạo đủ các nghiệp hữu lậu hệ thuộc ba cõi, vì sao không đoạn nghiệp hệ ba cõi, chỉ thời gian ngắn, niệm Phật A Di Đà liền được vãng sanh ra khỏi ba cõi, như vậy hệ nghiệp ba cõi phải làm sao thoát? Đáp: Để giải thích rõ câu này chúng ta cần phải dùng đem pháp để phá và mượn thí dụ để hiển bày. - Đem Pháp để phá: Chư Phật Như Lai có trí không thể nghĩ bàn, trí lớn Đại thừa, trí vô đẳng luân tối thượng thắng. Vì trí lực không thể nghĩ bàn nên có thể lấy ít làm nhiều, lấy nhiều làm ít, lấy xa làm gần, lấy gần làm xa, lấy nhẹ làm nặng, lấy nặng làm nhẹ. Có những trí như thế vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, sau đây xin mượn một số thí dụ để chứng minh: - Ví như có 100 người lực lưỡng cùng đốn củi thời gian cả trăm năm, củi chứa cao ngàn gộp, chỉ cần châm một mồi lửa đốt trong vài ngày là cháy sạch, đâu có thể nói đống củi chứa trăm năm mà vài ngày không thể cháy hết sao? - Như có người lái thuyền, trên thuyền có chở đồ nhờ có buồm căng, nước thuận nên một ngày vượt xa ngàn dặm. Đâu có thể nói anh chàng lái thuyền không thể đi ngàn dặm trong một ngày ư! - Như có một người nghèo lượm được một vật của nhà vua, rồi đem vật ấy dâng cho vua, vua mừng được lại, trọng thưởng nhiều việc, chỉ trong khoảng khắc giàu có danh vọng, đâu có thể nói người học trò 10 năm đèn sách, chịu khổ còn không được danh vọng như thế, vội cho rằng việc giàu sang danh vọng không thể có và không bao giờ được vua ban ư! - Có người đàn ông sức yếu, tự mình không thể leo lên lưng con lừa, nếu đi theo vị chuyển luân vương, bay trên hư không tự tại. Đâu có thể nói người sức yếu theo năng lực của chuyển luân mà không thể bay lên hư không ư! - Có mười sợi dây thừng trói trăm người lại, trăm người này cố sức vẫy vùng đều vô ích. Có một cậu trẻ chỉ cầm kiếm chặt một nhát mười sợi dây bị đứt rời. Đâu có thể nói một đứa trẻ không có năng lực cắt đứt 10 sợi dây để cứu trăm người được ư! Tất cả muôn pháp đều có tự lực tha lực, tự nhiếp tha nhiếp, ngàn mở muôn đóng, vô lượng vô biên. Ông đâu có thể dùng cái biết có trở ngại mà nghi các pháp vô ngại kia. Lại nữa, trong năm thứ không thể nghĩ bàn, Phật pháp là cái không thể nghĩ bàn cao nhất, ông coi hệ nghiệp ba cõi là nặng, nghi việc ít thời gian niệm Phật là nhẹ, không được vãng sanh về cõi Cực lạc, vào chánh định tụ là điều hoàn toàn không đúng. Hỏi: Kinh Đại Thừa nói: "Nghiệp đạo như cái cân, chỗ nào nặng thì kéo về đó trước, vì sao chúng sanh từ trước đến nay hoặc trăm năm, hoặc mười năm cho đến chừng một ngày, không có việc ác nào mà không tạo. Vì sao nói khi lâm chung gặp thiện tri thức chỉ cần 10 niệm tương tục liền được vãng sanh, như vậy thì chỗ nào nặng thì kéo về đó trước làm sao tin được? Đáp: Ông nói một đời tạo ác nghiệp là nặng và người hạ phẩm hạ sanh tạo thiện trong mười niệm là nhẹ. Ở đây tôi dùng ý nghĩa để giải thích chỗ nặng nhẹ. Thật ra chỗ nặng nhẹ đều căn cứ ở tâm ở duyên hoặc ở quyết định mà không phải thời gian dài ngắn nhiều ít. Vì sao gọi căn cứ ở tâm? Những người tạo tội kia chính họ đã y chỉ nội tâm hư vọng điên đảo mà sanh còn mười niệm này là y theo thiện tri thức, dùng phương tiện an ủi để nghe được Phát khởi thật tướng mà sanh, một thật một hư làm sao so sánh với nhau được. Vì sao? Ví như nhà tối ngàn năm, ánh sáng nếu chiếu đến liền sáng tỏ, đâu có thể nói bóng tối đã ngự trị đây ngàn năm mà không tan đi. Cho nên trong Kinh Di Nhật Ma Ni Bảo nói: "Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp! Chúng sanh tuy chìm đắm cả ngàn ức kiếp ở trong ái dục bị tội nghiệp che đầy, nếu nghe được Kinh Phật, một khi đã niệm thiện, tội liền tiêu hết." Vì thế, nên biết nặng nhẹ căn cứ vào tâm. Vì sao gọi căn cứ vào duyên? Người kia khi tạo tội tự y chỉ vào vọng tưởng, y theo phiền não quả báo của chúng sanh mà sanh ra. Nay dùng 10 niệm này là y chỉ nơi vô thượng tín tâm, y theo danh hiệu công đức vô lượng thanh tịnh của Như Lai A Di Đà mà sanh ra. Ví như có người bị tên độc trúng xuyên gần thấu xương, nếu nghe tiếng trống thuốc diệt trừ độc, thì tên tự nhổ ra và độc tiêu trừ. Đâu có thể nói, vì tên độc kia cắm sâu và thuốc nhiều chất độc, nghe tiếng trống trừ độc mà tên không nhổ ra, độc không tiêu trừ. Nên gọi căn cứ vào duyên. Vì sao gọi căn cứ vào quyết định? Người kia khi tạo tội là tự y chỉ tâm hữu lậu và tâm gián đoạn mà sanh. Người niệm 10 niệm này là y chỉ nơi tâm vô lậu và tâm không gián đoạn mà phát khởi, đó là sự quyết định rõ ràng. Trong Trí Độ Luận nói: "Tất cả chúng sanh trong lúc sắp lâm chung, đau nhức như gió đao đến lóc thịt, cái khổ của chết đến bức bách, lòng rất lo sợ, nên khi gặp thiện tri thức, tâm phát khởi tin tưởng mạnh mẽ, mỗi tâm tiếp nối mười niệm, tức là tăng thượng thiện căn liền được vãng sanh." Như có người bị vây khổn, phải đối địch phá vòng vây, đem hết sức bình sanh một mình một đao liều chết công phá liền được thoát vòng, người dùng mười niệm tăng thượng căn lành lại cũng như vậy. Cũng thế, nếu người khi lâm chung sanh một niệm tà kiến làm ác tâm tăng thượng, liền bị nghiệp phước ở tam giới vào thẳng ác đạo. Hỏi: Đã nói cái thiện thập niệm lúc lâm chung làm nghiêng lệch ác nghiệp một đời được sanh về Tịnh độ, chưa biết mười niệm là bao nhiêu thời gian? Đáp: Như Kinh nói: "Một trăm sanh diệt làm một sát na, sáu mươi sát na dùng làm một niệm." Đây là y Kinh luận để giải niệm. Hiện nay giải về niệm không chấp vào thời gian lâu mau. Chỉ nhớ niệm Phật A Di Đà hoặc tổng tướng hoặc biệt tướng, tùy theo chỗ duyên quán thẳng mười niệm không có tưởng niệm gián tạp khác gọi là mười niệm. Để dễ hiểu ta lấy câu niệm Hồng danh làm chuẩn, hành giả niệm Nam Mô A Di Đà Phật một hơi thở bất kể nhiều câu hay ít câu, cứ hết một hơi làm một niệm. Nói mười niệm tương tục là chỉ đánh số thực ra chỉ nhớ niệm không lo nghĩ, không duyên theo việc gì khác, làm cho nghiệp đạo thành tựu là đủ, cũng không cần ghi cho đủ số làm gì? Nếu người niệm đã lâu thì không cần ký số cũng được, nếu người mới làm ghi số cũng tốt vì y theo lời dạy của Phật. Hỏi: Người muốn thực hành niệm Phật tam muội, không biết tướng tạng tĩnh niệm như thế nào? Đáp: Như có người đang đi trên khoảng đất trống, chợt gặp một bọn oan gia theo đuổi, rút gươm lấy kiếm chạy đến định giết. Người này hốt hoảng chạy nhanh, thấy phía trước có một con sông lớn, tuy chưa đến bờ sông mà người ấy luôn luôn nghĩ ta phải làm sao qua sông, nếu để y phục lội qua, y phục sẽ nổi lên làm có người thấy, nếu cỗi y phục lội qua sẽ bị nguy hiểm vì gai đâm, cá cắn rất nguy hiểm. Lúc ấy, người bị rượt đuổi chỉ có nhất tâm tìm phương tiện để qua sông, không có tâm tưởng nào khác. Hành giả cũng thế, khi niệm Phật A Di Đà cũng như người kia chỉ có nhất niệm qua sông, mỗi niệm kế tiếp không có tưởng niệm hổn tạp nào xen vào. Lúc ấy hoặc niệm pháp thân Phật, hoặc niệm thần lực Phật, hoặc niệm trí huệ Phật, hoặc niệm tướng hảo Phật, hoặc niệm bổn nguyện Phật, hoặc niệm danh hiệu Phật, chỉ cần chuyên chú tương tục chẳng dứt, chắc sanh ở trước Phật. Nay xin khuyên các vị mới học, chưa có thể phá tướng, chỉ nên y theo tướng chuyên chú đều được vãng sanh chẳng còn gì để nghi. Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Chúng sanh trong 10 phương, hết lòng tin ưa, muốn sanh về nước tôi, cho đến 10 niệm, nếu không được sanh thì tôi không ở ngôi Chánh Giác." Ngày nay có người ở đời nghe lời dạy này, suốt đời toàn không niệm Phật, nghĩ rằng sắp đến lâm chung mới tu hành niệm Phật việc ấy như thế nào? Đáp: Việc ấy không đúng, Vì sao? Kinh dạy: "Mười niệm liên tục giống như không khó. Như hàng phàm phu tâm như ngựa hoang, thức như vượn chuyền, rong rủi sáu trần, chưa bao giờ dừng nghỉ. Vì vậy, mọi người phải nên phát lòng tin, tự mình khắc niệm, làm cho có thói quen thành tánh, thiện tâm kiên cố. Phật bảo: Này Đại Vương! Người chứa nghiệp lành, khi chết không có niệm ác, như cây trốc gốc, ngã theo phía đã nghiêng." Nếu khi sắp chết, gió đao đã đến, trăm khổ trói mình, nếu những tập khí trước không ở trong lòng thì làm sao có thể niệm cho được, vì thế lúc lâm chung cần có 5, 3 đồng chi dự bị hộ niệm, đến lúc mạng chung, nói lời pháp ngữ, xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện sanh về thế giới Cực lạc, mỗi tiếng tiếp nối liền thành mười niệm. Ví như lấy ấn bằng sáp ấn vào bùn, ấn hoại thì văn thành, mạng này khi đã dứt liền sanh về cõi nước An lạc, một khi đã vào chánh định tụ, lại còn lo gì nữa. Mọi người đã biết rõ việc lợi lớn như thế làm sao không dự bị niệm cho thuần thục, đợi đến lâm chung làm sao có đủ 10 niệm. Hỏi: Trong Kinh Luận Đại Thừa thường nói, tất cả chúng sanh cứu kính là vô sanh, cũng như hư không, vì sao các Bồ Tát như Long Thọ, Thế Thân đều nguyện vãng sanh? Đáp: Nói chúng sanh cứu kính vô sanh như hư không có 2 nghĩa a- Hàng phàm phu chấp thật chúng sanh, thật sanh tử, nếu y cứ vào Bồ Tát vãng sanh cứu kính như hư không, như sừng thỏ. b- Đây nói sanh là do nhân duyên sanh, mà nhân duyên sanh chỉ là tên giả, tên giả nói là sanh chính là vô sanh không trái với lý đạo, chẳng phải như phàm phu nói có thật chúng sanh, thật sanh tử. Hỏi: Sanh là cội gốc của khổ lụy, nếu biết được lỗi lầm ấy bỏ sanh để cầu vô sanh mới mong có ngày giải thoát. Nay khuyên sanh về Tịnh độ là bỏ sanh để cầu sanh thì biết bao giờ cho hết? Đáp: Ông thật không biết rằng cõi Tịnh độ kia là do bổn nguyện thanh tịnh của Như Lai A Di Đà tuy sanh mà vô sanh, không phải như chúng sanh trong ba cõi do ái nhiễm, hư vọng, chấp trước mà sanh. Vì sao? Vì pháp tánh thanh tịnh cứu kính vô sanh mà nói sanh là sanh theo tình chấp rồi. Hỏi: Như trên đã nói sanh về Tịnh độ là sanh mà vô sanh là chỉ cho người bậc thượng, còn người bậc hạ nương theo 10 niệm vãng sanh đâu không chấp cho là thật sanh. Nếu nói thật sanh là bị rơi vào 2 chỗ nghi. a- E không được sanh. b- Cái tướng thiện này không thể làm nhơn của vô sanh. Không biết việc ấy thế nào? Đáp: Giải thích câu hỏi này có 3 cách: a- Ví như hạt châu Ma Ni trong lóng sạch đặt ở nước dơ, nhờ oai lực của châu làm cho nước đục thành trong. Chúng sanh tuy có vô lượng tội dơ sanh tử, nếu được nghe danh hiệu bảo châu thanh tịnh rốt ráo vô sanh của Như Lai A Di Đà, bỏ vào tâm trược, trong mỗi niệm, tội diệt tâm tịnh, liền được vãng sanh. b- Như châu Ma Ni trong sạch đem vải đen đỏ gói lại, nhúng vào trong nước, nước liền có màu vàng hoặc đen, tuỳ theo vải gói. Cõi Phật thanh tịnh kia có danh hiệu vô thượng bảo châu là Như Lai A Di Đà, dùng vô lượng công đức trang nghiêm vãi bao bọc đặt vào chỗ vãng sanh, trong tâm thủy thì đâu không thể chuyển trí sanh thành trí vô sanh sao? c- Cũng như trên băng nhóm lửa đốt, lửa nhiều thì băng tan, băng tan thì lửa tắt. Người hạ phẩm vãng sanh kia, tuy không biết pháp tánh vô sanh, chỉ dùng năng lực xưng danh hiệu Phật, tác ý vãng sanh, nguyện sanh cõi kia, đã đến cõi vô sanh rồi, thì cái lửa chấp còn sanh kia tự nhiên bị diệt. Hỏi: Y theo thân mà nói vãng sanh? Đáp: Ở trong thân giả danh làm người tu các pháp môn, niệm trước và niệm sau tạo nhơn thành người có thân giả danh ở uế độ không nói chắc là một, không nói chắc là khác, tâm trước tâm sau, đều cũng như vậy. Vì sao? Nếu quyết định một thì không nhơn quả, nếu quyết định khác thì không có tánh liên tục. Vì nghĩa nó như thế nên ngang dọc tuy khác, trước sau đồng một hạnh vậy. Hỏi: Nếu người xưng niệm Phật danh hiệu có thể trừ các chướng nếu như vậy thì như người dùng ngón tay chỉ mặt nguyệt, thì ngón tay ấy có thể phá được đêm tối sao? Đáp: Các pháp đều có sự sai khác không thể cho là một thứ. Vì sao? Có cái tên tức là pháp (như ấn vua) có cái tên khác với pháp. Vì sao nói tên là pháp? Như danh hiệu Chư Phật Bồ Tát, tiếng đọc câu chú, những câu chữ trong kinh điển. Như người đọc thần chú, như người bị chó cắn, người trì, miệng niệm chú, tay cầm xương cọp quơ ngang vết thương liền hết, khi không có mang xương cọp theo, lấy tay sờ vào, miệng nói cọp đến bịnh cũng lành, có người bị đau chân chuyển gân, người trì chú lấy móng hoặc thước gỗ chạm vào bệnh liền lành, hoặc không có móng hoặc cây, lấy tay sờ vào miệng nói cây móng, bệnh cũng lành. Người bệnh qua lời nói đến tên, mà tự thân có công hiệu. Như người học gồng chỉ cần niệm chú là dao chém không đứt. Vì sao vậy? Vì tên được nói ra là Pháp. Vì sao có tên khác với Pháp? Như người lấy ngón tay chỉ mặt trăng, hai tên khác nhau và không có hiệu lực gì? Hỏi: Người niệm Phật thì trừ được vô minh và được vãng sanh, vì sao có người niệm Phật mà vô minh vẫn tồn tại, không đạt sở nguyện là ý làm sao? Đáp: Do hành giả không đúng như thật tu hành nên không thể tương ứng. Vì sao? Nói không biết Như Lại là thật tướng thân hay phàm thân nên có 3 điều không tương ưng. a- Lòng tin không chắc, lúc mất lúc còn. b- Lòng tin không nhất, làm việc gì không quyết định. c- Lòng tin không liên tục để cho các niệm khác xen vào. Niệm Phật cần phải thu nhiếp thân tâm. Mỗi niệm được liên tục, không có niệm khác là tâm được nhất, tâm đã nhất thì lòng tin sâu chắc. Đủ ba thứ tâm này nếu không được vãng sanh thật không có lý đó. Chương Ba Chương này nhăm giải quyết những chủ đề sau đây. 1- Nói rõ con đường khó làm và dễ làm. 2- Nói về thời kiếp có lớn nhỏ chẳng đồng. 3- Nói về từ vô thỉ chúng sanh tạo nghiệp khổ thọ luân hồi. 4- Dẫn lời Phật dạy khuyên tin cầu vãng sanh. 1. Nói rõ con đường khó làm và dễ làm. Tất cả chúng sanh đang ở trong nhà lửa, tưởng tới thật rất lo sợ. Vì thế, bậc Đại Thánh dùng 3 xe để quyến dụ ra khỏi nhà lửa. Xe dê và xe nai chở người ít, tạm gọi là chưa đạt đến kết quả cứu kính, Phật quở là tà chấp, làm chướng ngại cầu quả vô thượng Bồ Đề, dù muốn hướng về vẫn còn cách xa. Nếu chỉ thẳng xe trâu trắng chỉ sợ hiện ở địa vị lui sụt, đường đến còn xa, tự đức của mình chưa vững khó có thể thẳng tiến. Vì thế, Bồ Tát Long Thọ nói: "Bồ Tát muốn cầu vị không lui sụt có hai con đường là đường dễ đi và đường khó đi. Thế nào là con đường khó đi? Con đường khó đi là hành giả ở trong đời dữ năm trược, lúc không có Phật muốn cầu vị chẳng lui sụt thật khó. Cái khó này có rất nhiều, lược thuật năm điều cốt yếu: a- Ngoại đạo đầy dẫy làm loạn Pháp tu của Bồ Tát. b- Hàng Thanh văn chuyên tự lợi làm chướng ngại lòng đại từ bi. c- Người ác ngang nhiên phá hoại đức tốt của người khác. d- Những hàng trời, người làm điên đảo thiện quả, phá phạm hạnh người. e- Chỉ có tự sức mình, không có tha lực giúp. Các việc như thế, chạm mặt có liền, ví như người đi trên bộ, mỗi bước đi nặng nhọc gian nan nên nói con đường khó đi. Thế nào là con đường dễ đi? Người tin lời Phật dạy, nguyện vãng sanh về cõi Cực lạc, phát khởi lòng tin, làm các công đức, tu các hành nghiệp, nhờ năng lực đại nguyện của Phật, liền được vãng sanh. Nhờ vào năng lực Phật trụ trì, liền vào Đại thừa chánh định tu, đó là vị không lui sụt. Như người đi đường thủy, trên thuyền yên vui mau đến, nên gọi là đường dễ đi. Hỏi: Quả Bồ Đề là một, nhơn tu cũng không hai, vì sao người tu nhơn này hướng về Phật quả lại gọi là khó làm, còn người vãng sanh tịnh độ gọi là điều dễ làm? Đáp: Các Kinh Đại Thừa đều có phân định rõ ràng. Tất cả phương pháp thực hành đều có tự lực và tha lực hoặc tự nhiếp, tha nhiếp. Vì sao gọi là tự lực? Ví như có người sợ sinh tử, phát tâm xuất gia, phát khởi được thần thông, dạo chơi khắp bốn châu thiên hạ gọi là tự lực. Vì sao gọi là tha lực? Ví như có người yếu đuối, sức trói gà không chặt, nếu theo vị chuyển luân thánh vương, liền được bay lên hư không dạo chơi bốn châu thiên hạ, đều nhờ uy lực của Chuyển Luân Thánh Vương, gọi là tha lực. Chúng sanh cũng vậy, trong lúc khởi tâm, lập hạnh, nguyện sanh tịnh độ, đây gọi là tự lực. Khi người ấy sắp lâm chung Phật A Di Đà phóng quang tay cầm đài vàng tiếp dẫn người ấy liền được vãng sanh gọi là tha lực. Nên Kinh Đại A Di Đà nói: "Hàng nhơn thiên ở mười phương, muốn sanh về nước tôi, niệm danh hiệu tôi nhẫn đến 10 niệm mà tôi không tiếp dẫn người ấy về cõi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh Giác." Như thế, người được vãng sanh kể trên đều nhờ vào đại nguyện lực của Như Lai A Di Đà làm tăng thượng duyên nên được vãng sanh. Hành giả tu Tịnh độ có tự lực chuyên niệm, lại có tha lực giúp đở. Nếu ỷ mình có đôi tay cứng, tự lội qua sông không cầu thuyền bè thì dễ dàng bị ở trong nhà lửa. 2. Nói rõ thời kiếp có lớn nhỏ chẳng đồng. Nói về thời kiếp thì tùy theo nghiệp lực của chúng sanh mà có lớn nhỏ. Như một kiếp người so với con thiêu thân thì bằng ba vạn sáu ngàn kiếp. Trong Trí Độ luận nói: Kiếp có 3 thứ là tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp. Một kiếp ở Trường Thọ thiên rất lâu có thể đem thí dụ như sau: như có một cái thành 40 dậm vuông chứa đầy hột cải, cứ 3 năm (tính theo năm cõi Ta Bà) thì bỏ ra một hột cải đến khi thành không còn hột cải nào thì gọi 1 Tiểu kiếp. Có thành vuông 80 dậm chứa đầy hột cải, cứ 3 năm lấy một hột bỏ ra, đến khi thành không còn hạt cải nào thì gọi là Trung kiếp. Có thành 120 dậm vuông chứa đầy hạt cải, cứ 3 năm bỏ ra một hạt, khi hết không còn hạt nào trong thành thì gọi là Đại Kiếp. Như có một khối đá vuông tám mươi dặm, có một vị Trường Thọ Thiên dùng thiên y nhẹ chừng ba thù, cứ 3 năm phất qua khối đá một lần đến khi khối đá mòn hết gọi là Trung kiếp. Khối đá nhỏ 40 dặm và lớn 120 dặm thiên y cũng phất như trùng kiếp ở trên. Vì vậy, thời kiếp không thể nào thuật hết. 3. Nói về từ vô thỉ chúng sanh tạo nghiệp khổ thọ luân hồi. Trong Trí Độ luận nói: "Người đời từ vô thỉ kiếp đến nay luân hồi vô cùng, thọ thân vô số, ngay ở trong kiếp người hoặc ở gia đình họ Vương chết sanh vào nhà họ Trương, nhà họ Trương chết sanh vào nhà họ Lý, cứ như thế xoay quanh khắp cõi Diêm phù, hoặc sanh khác nhà hoặc sanh cùng nhà, hoặc ở Nam Diêm Phù Đề chết sanh về Tây Câu Da Ni, ba châu kia cũng lần lượt sanh đến sanh đi vô cùng. Rồi cõi người sanh về cõi trời Tứ Thiên Vương cũng như vậy. Hoặc Tứ thiên Vương thiên chết sanh về Đao Lợi thiên. Đao Lợi thiên chết sanh về các Tứ thiên Vương khác. Sắc giới có 18 lớp cõi trời, vô sắc giới có 4 lớp cõi trời, cứ ở đây chết sanh ở kia, tất cả lần lượt như vậy cả, có khi sắc giới chết sanh về A Tỳ địa ngục. A Tỳ địa ngục chết sanh về các địa ngục nhẹ hơn, hoặc địa ngục chết sanh lên ngạ quỷ, ngạ quỷ chết sanh làm súc sanh, trong súc sanh chết sanh lên trời người. Cứ như thế mà luân chuyển trong sáu nẽo chịu khổ, vui, quả báo vô cùng. Thai sanh đã vậy, loài noãn, thấp, hóa sanh kia cũng vậy." Kinh Chánh Pháp Niệm nói: "Bồ Tát hóa sanh dạy các Thiên chúng rằng: “Con người trải qua mấy ngàn kiếp, Mê vui buông lung chẳng tu đạo, Không biết phước xưa nay đã hết, Rơi vào ba đường chịu khổ đau." Kinh Niết Bàn cũng nói: "Thân do khổ chứa nhóm, tất cả đều không sạch, chứa nhóm đầy u thối, thật chẳng nghĩa lý chi, cho đến cả thân trời, đều cũng như thế cả. Vì vậy, muốn thoát khỏi thân ô trọc cần phải tu hạnh chẳng buông lung. Vì sao? Vì buông lung là gốc của các thứ ác, không buông lung là nguồn cội của việc lành, như làm tan bóng tối, ánh sáng mặt trời mặt trăng là sáng hơn hết; pháp chẳng buông lung là cao nhất của các pháp lành. Cũng như núi Tu Di là cao nhất hơn các núi khác, pháp chẳng buông lung lại cũng như thế, ở trong các pháp lành là cao nhất, vì sao? Vì các ác pháp do phóng dật mà sanh, tất cả pháp lành đều do không buông lung mà sanh ra. Hỏi: Nói từ vô thỉ kiếp đến nay, sáu nẻo luân hồi không có ngăn mé, không biết trong một kiếp phải thọ bao nhiêu thân? Đáp: Kinh Niết Bàn nói: "Lấy cỏ cây trong Tam thiên Đại Thiên thế giới, trồng cho lên cao rồi đếm từng cây đó là con số nhận thân từ cha mẹ của một kiếp, còn không đủ". Có thể nói trẻ con, uống sửa mẹ nhiều hơn uống bốn bể gọi là một kiếp. Trong một kiếp thân cốt như núi Tỳ Phú La. Như thế, từ lâu xa đến nay chịu sanh tử làm thân phàm phu không thể kể xiết, thật đáng thương thay! Hỏi: Từ khoáng đại kiếp thọ thân vô số, có kinh văn nào để chứng minh? Đáp: Đều do kinh văn của Phật dạy. Kinh Pháp Hoa nói: Ở trong Đại Kiếp rất lâu xa thuở quá khứ không thể nói hết, có một Đức Phật ra đời hiệu là Như Lai Đại Thông Trí Thắng, có 16 vị vương tử, đều lên pháp tòa giáo hóa chúng sanh. Mỗi vị vương tử đều giáo hóa được sáu trăm muôn ức Na do tha hằng hà sa chúng sanh. Đức Phật ấy diệt độ đến nay rất lâu xa không thể dùng số đếm mà biết được. Như có người lấy Đại địa trong tam thiên Đại thiên thế giới mài hết làm mực, rồi người này trải qua một ngàn quốc độ lấy mực chấm một chấm to như chừng hạt bụi, cứ như thế lần lượt chấm hết mực trái đất tam thiên đó. Người này trải qua các quốc độ hoặc có điểm vi trần hoặc không điểm chỗ hết sạch địa chủng làm mực vi trần đó, tính một vi trần là một kiếp thì Đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng diệt độ đến nay còn hơn số mực vi trần đó. Tất cả chúng sanh thời nay đều là những người từng thọ giáo pháp của 16 vị vương tử kia. Cho nên kinh nói: Vì nhân duyên đó mà nói ra thời Pháp Hoa Niết Bàn. Trong 16 vị vương tử giáo hóa khắp 10 phương, vị thứ 16 là Đức Thích Ca Mâu Ni ngày nay, còn chúng sanh được 16 vị giáo hóa chính là chúng sanh đang nghe pháp ngày nay. Hỏi: Trên nói chúng sanh lưu chuyển nhiều kiếp mà ở trong ba cõi nhỏ hẹp làm sao chứa được nhiều thân? Đáp: Tuy nói lưu chuyển, nhưng ở trong ba đường dữ thọ thân rất nhiều như kinh nói: "Ở trong hư không lượng chứa từng ô vuông từ đất đến trời sắc cứu kính, ở trong khoảng ấy đối với chúng sanh tức có nhiều tam thiên đại thiên thế giới của thân trời người. Nên biết thân ác đạo nhiều. Vì sao? Vì ác pháp dễ khởi, lòng lành khó sanh. Thời nay chỉ thấy chúng sanh hiện tại nếu được giàu có chỉ chạy theo việc buông lung phá giới, chư thiên thì phần nhiều chạy theo những thú vui ngũ dục. Nên trong kinh nói: "Tất cả chúng sanh thường lưu chuyển, thường lấy ba đường dữ làm nhà, cõi trời, người tạm đến rồi đi, nên chỉ gọi là khách. Trong luận Đại Trang nghiêm, khuyên tất cả chúng sanh thường tu họ niệm hiện tiền có bài kệ: Tuổi trẻ không bệnh hoạn Giải đãi không tinh tấn, Tham tạo các nghiệp vụ, Chẳng tu Thí, Giới, Thiền. Đến khi thần chết đến, Hối hận vội tu Thiện, Người trí nên quán sát Dứt trừ tưởng ngũ dục. Tinh cần gắng tu tâm, Rốt cuộc khỏi hối hận, Tâm ý đã chuyên chú, Không có niệm lầm lẫn. Người trí cần dụng tâm, Lâm chung ý chẳng mất, Không tập lòng chánh niệm Lâm chung chắc tán loạn. Tâm nếu bị tán loạn, Như dùng roi luyện ngựa, Khi chúng chạy lung tung, Làm sao đi cho được." Hỏi: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, từ kiếp lâu xa đến nay lẽ ra đã gặp Phật rất nhiều, nguyên do gì đến nay vẫn bị luân hồi sanh tử, không ra khỏi nhà lửa? Đáp: Y cứ vào Đại Thừa Thánh giáo có hai pháp thù thắng để ra khỏi nhà lửa đó là tu theo Thánh Đạo và tu theo vãng sanh Tịnh độ. Người tu Thánh đạo thời nay khó chứng, vì chúng ta cách Phật đã xa, mà Thánh lý thì tinh vi khó thể hội nhập, nên trong kinh Đại Tập Nguyệt Tạng, Phật nói: "Trong thời mạt pháp, ức ức chúng sanh khởi hạnh tu Thánh đạo, chưa có một người được Đạo." Thời nay đúng là thời mạt, năm trược hoành hành chỉ có pháp môn tịnh độ là có thể thành công, vì thế, Đại kinh nói: "Nếu có chúng sanh dù một đời tạo ác, đến lúc lâm chung, mười niệm liên tục, xưng danh tự tôi, nếu không được sanh về nước tôi, thì tôi không ở ngôi Chánh Giác". Tất cả chúng sanh phần nhiều không biết tự lượng sức mình, y cứ theo kinh điển đại thừa nói chơn như thật tướng, đệ nhất nghĩa không, chưa từng để ý. Nếu luận tiểu thừa người tu theo tứ quả đoạn trừ kiến hoặc, tư hoặc, không luận kẻ đạo người tục mấy ai đã được dự phần. Dù được quả báo người trời đều nhờ ngũ giới, thập thiện chiêu cảm, người giữ được còn rất ít. Nếu nói về khởi ác tạo tội thì khác nào đốt củi khô mà thêm gió lớn. Chính vì thế, Chư Phật vì lòng Đại Bi, khuyên tu Tịnh độ, dù có một đời tạo ác, chỉ cần dốc ý chuyên tinh, thường hay niệm Phật, tất cả các chướng đều tiêu diệt, chắc được vãng sanh. Vì sao không suy nghĩ kỹ tìm cách thoát thân. 4. Dẫn kinh Phật khuyên tin cầu sanh Tịnh Độ. Kinh Quán Phật Tam Muội nói: "Lúc bấy giờ trong hội có Bồ Tát Tài Thủ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! con nhớ thuở quá khứ vô lượng kiếp về trước có đức Phật xuất thế cũng gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Phật kia sau khi diệt độ có một vương tử tên là Kim Tràng kiêu mạn tà kiến, không tin chánh pháp. Có vị tri thức là Tỳ Kheo Định Tự Tại bảo vương tử rằng: Trong đời có tượng Phật rất xinh đẹp dễ mến, Ngài có thể vào tháp quán hình tượng Phật. Lúc ấy vị vương tử kia nghe theo lời thiện hữu vào tháp quán Phật, thấy Phật tướng tốt bèn thưa với Tỳ Kheo rằng: Tượng Phật đoan nghiêm như thế huống là thân thật. Tỳ kheo bảo: Nay Ngài thấy Phật tượng không thể lễ bái, nên xưng Nam Mô Phật, rồi trở về cung hệ niệm, nhớ tượng trong tháp, vương tử về làm theo, giữa đêm hôm ấy thấy Phật tượng, trong lòng rất vui mừng, xa lìa tà kiến, quy y Tam Bảo. Khi mạng chung, nhờ nhân duyên vào tháp xưng tán công đức Phật, liền được gặp 9 trăm ức na do tha Phật. Đối với chư Phật thường siêng năng tinh tấn, thường được sức Niệm Phật Tam Muội, nên chư Phật hiện tiền đều thọ ký cho. Từ đó đến nay trải qua trăm muôn A Tăng kỳ kiếp không bị đọa vào đường dữ, cho đến ngày nay được Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Vị vương tử thuở ấy không ai xa la, chính là tôi ngày hôm nay. Lúc bấy giờ trong hội có chư Đại Bồ Tát ở mười phương, số nhiều vô lượng, đều nói rõ bổn duyên của mình, đều y theo Niệm Phật mà được Niệm Phật Tam Muội. Phật bảo: Này A Nan! Quán Phật Tam Muội này là thuốc chửa lành bệnh cho tất cả chúng sanh phạm tội, là giáp hộ giới cho người bị phá giới, là Đạo sư dẫn đường cho người lạc đường, là cặp mắt sáng cho người mù, là trí huệ cho kẻ ngu si, là đèn sáng cho đêm tối, là tướng dũng mãnh trừ giặc phiền não, là chỗ dạo chơi của chư Phật Thế Tôn, là chỗ sanh ra Đại Định Thủ Lăng Nghiêm và các Đại Tam Muội. Phật lại bảo này A Nan! Ông phải khéo giữ gìn, đừng cho quên mất. Chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều nói niệm Phật Tam Muội như thế. Ta cùng mười phương chư Phật và nghìn Phật ở tiền kiếp, lúc mới phát tâm đều nhờ năng lực Niệm Phật Tam Muội này mà được Nhất Thiết Chủng Trí. Trong kinh Mục Liên sở vấn, Phật bảo Mục Liên: "Như muốn dòng sông chảy về bể, có cây, cỏ nổi trên mặt, trước chẳng ngó sau, sau chẳng ngó trước, đều về bể cả. Những người thế gian cũng vậy, tuy có người giàu sang, kẻ bần cùng, tất cả không ai khỏi sanh, già, bệnh, chết. Chỉ vì họ không tin kinh Phật, đời sau làm người, không chỗ y cứ, không được sanh vào quốc độ chư Phật. Nên ta nói vô lượng cõi Phật dễ đến, dễ làm, mà người không chịu tu hành vãng sanh, lại phụng thờ 95 thứ tà đạo, Ta nói người ấy là người không mắt, gọi là người không tai, kinh dạy rõ ràng, vì sao không bỏ cái khó, làm theo cái dễ." 2 Chương Bốn Chương này nhằm trình bày cho thấy các Đại Đức kiệt xuất ở bên giáo tông đều quy hướng Tịnh độ, Đồng thời giới thiệu đa số các kinh điển Đại thừa đều lấy Niệm Phật Tam Muội làm cốt yếu và cho thấy Niệm Phật có nhiều lợi ích. 1. Các Đại Đức ở giáo tông đều qui hướng Tịnh Độ: Bản hoài của Đức Phật là muốn độ khắp tất cả chúng sanh, vì thế ngoài giáo môn chuyên tự lực đoạn hoặc chứng chơn ra, Ngài còn nói pháp môn tự lực cọng tha lực, chỉ nương vào Nguyện lực mà thoát luân hồi. Vì thế, các Tổ sư các tông, sau khi kế nghiệp tư thừa, lại hoằng dương Tịnh Độ, như Tổ Mã Minh, Long Thọ là tổ Thiền Tông mà cùng nguyện vãng sanh, khuyên người tu Tịnh độ, Tổ Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, chứng tam muội Pháp Hoa mà hằng tu Diệu Quán. Tổ Thiên Thân, tổ Duy Thức Tông mà làm kệ phát nguyện vãng sanh, y kinh Vô Lượng Thọ khuyên người vãng sanh Cực Lạc. Riêng bên Giáo tông có sáu Pháp sư được coi là nanh vuốt của giáo tông gồm có Đại Thừa Pháp sư thông suốt ba tạng kinh điển là Pháp Sư Lưu Chi; một vị Pháp sư đạo cao đức trọng, dứt hẳn lợi danh là Pháp Sư Huệ Lũng; một Đại Đức giảng kinh xuất chúng, mỗi lần giảng kinh cảm thánh chúng đến nghe là Pháp Sư Đạo Tràng; một Đại Đức hòa quang cùng khắp, hai nước mến mộ là Pháp Sư Đàm Loan; một Đại Đức thiền quán cao tột là Thiền Sư Đại Hải; một đại giới luật tinh nghiêm cả nước đều ca ngợi, triều đình cảm phục, đó là Luật sư Thông Tuệ. Sáu vị Đại Đức này đều là những tấm gương thần bao trùm Nhị đế, là giềng mối của chánh pháp đương thời, chí khí và hạnh nguyện tuyệt luân xưa nay ít thấy, các Ngài quảng bá đại thừa nhưng luôn luôn quy hương Lạc Bang, xem Tịnh Độ là yếu môn vô thượng. Hỏi: Chư Đại Đức xem Tịnh Độ là yếu môn vô thượng, không biết Chư Đại Đức khi lâm chung đều có linh nghiệm chăng? Đáp: Có linh nghiệm đầy đủ không sai. Như Pháp Sư Đàm Loan hằng ngày thường tu Tịnh Độ. Có một ngày nọ có một học giả thế tục đến hỏi Pháp sư rằng: "Cõi Phật trong 10 phương đều là Tịnh Độ, Pháp sư cần gì chuyên chú hướng Tây, đâu chẳng phải khởi ra thiên kiến? Pháp sư đáp: Tôi là phàm phu, trí huệ cạn cợt, chưa vào vị thập địa, niệm lực cần phải huân tập, giống như lấy cỏ dẫn trâu, thường phải buộc tâm vào một chỗ, đâu được buông thỏng không có chỗ về. Pháp sư giải quyết tất cả vấn nạn, đến gặp Pháp sư người chưa sanh chánh tín làm cho sanh tin chắc, đã có lòng tin khuyên hồi hướng về Cực Lạc. Khi Pháp sư sắp lâm chung, cả chùa kẻ đạo người tục đều thấy tràng phang, hoa trời đầy chùa, mùi hương lạ và âm nhạc tiếp rước về Tây Phương. Các Đại Đức kể trên khi mạng chung đều có thụy ứng vãng sanh có chép đủ trong Thánh Hiền Lục. 2. Các Kinh lấy niệm Phật Tam Muội làm Tông. Kinh Hoa Thủ Phật bảo Bồ Tát Kiên Ý rằng: "Tam Muội có hai thứ là Nhất Tướng Tam Muội và Chúng Tướng Tam Muội. Thế nào là Nhất Tướng Tam Muội? Có một Bồ Tát ở thế giới kia, có đức Phật hiện tại thuyết pháp, Bồ tát ấy giữ lấy tướng hảo của Phật tưởng như ở trước mắt, hoặc lúc đức Phật ngồi ở đạo tràng, hoặc lúc đức Phật chuyển luân, đại chúng vi nhiễu. Giữ tướng như thế, thu nhiếp các căn, tâm không chạy loạn, chuyên niệm một vị Phật, không bỏ nhân duyên đó. Các Bồ tát ở trong tướng Như Lai và tướng thế giới hiểu rõ vô tướng, thường quán như thế, thực hành như thế, không rời duyên này, lúc ấy tượng Phật liền hiện ra trước mắt mà vì đó nói pháp. Bồ tát lúc bấy giờ sanh ra lòng cung kỉnh rất sâu xa, nghe nhận pháp này hoặc sâu hoặc cạn lần thêm tôn trọng. Bồ tát ở trong Tam muội này, nghe nói các pháp đều có thể tướng hoại, nghe rồi gìn giữ, từ tam muội dậy, có thể vì bốn chúng diễn nói pháp này. Phật bảo: Này Kiên Ý! Đó gọi là Bồ tát vào Nhất Tướng Tam Muội. Kinh Văn Thù Bát Nhã nói về Nhất Hạnh Tam Muội: "Lúc bấy giờ Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn vì sao gọi là Nhất hạnh Tam muội? Phật dạy: Người tu Nhất hạnh Tam muội, hoặc thiện nam tử, thiện nữ nhơn nên ở chỗ yên tĩnh vắng vẻ, bỏ các ý tán loạn, tùy theo hướng chỗ ở của Phật, ngồi ngay hướng về, không giữ tướng mạo, buộc tâm vào một vị Phật, chuyên xưng danh hiệu, niệm không thôi dứt, chính trong niệm này có thể thấy chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì sao? Vì niệm đức Phật này công đức vô lượng vô biên cùng với công đức vô lượng Chư Phật không hai không khác. Đây gọi là Bồ Tát Nhất Hạnh Tam Muội. Kinh Niết Bàn Đức Phật dạy: "Nếu người chí tâm tu niệm Phật Tam Muội thì Chư Phật trong 10 phương thường thấy người ấy, như ở trước mặt, vì thế, Phật bảo: Này Bồ Tát Ca Diếp! Nếu có thiện nam tử và thiện nữ nhơn thường hay một lòng chuyên nhớ Phật, người ấy hoặc ở núi rừng hoặc ở tụ lạc, hoặc ngày hoặc đêm, hoặc ngồi hoặc nằm, chư Phật Thế Tôn thường thấy người ấy như ở trước mắt, thường cùng người này ở chung và thọ thí. Quán Kinh dạy: "Người tu muôn hạnh hồi hướng đều được vãng sanh, vì môn niệm Phật là đường cốt yếu. Vì sao? xét về thánh giáo thì hành giả có hai thứ lợi ích trước và sau. Nếu muốn phát sanh việc thiện mà khởi hạnh thì bao gồm các độ, nếu muốn diệt ác tiêu tai chướng, thời trị hết các họa hại, nên phần sau của Quán Kinh nói: "Chúng sanh niệm Phật, chư Phật nhiếp thủ chẳng bỏ, khi dương số đã hết, liền được vãng sanh, gọi là thứ lợi ích trước tiên. Nói được lợi ích sau cùng là y cứ trong Kinh Quán Âm Thọ Ký nói: "Phật A Di Đà trụ thế rất lâu hằng tỉ kiếp, tuy có diệt độ, nhưng sau khi Niết bàn, có hai đại Bồ tát Quan Âm và Thế Chí trụ trì cõi An Lạc, tiếp dẫn chúng sanh 10 phương. Đức Phật A Di Đà tuy đã diệt độ cũng đồng như thời gian trụ thế! Nên tất cả chúng sanh cõi kia đều có thể thấy Phật. Vì vậy, người nào một lòng chuyên niệm Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về thế giới Cực Lạc, thì người ấy thường thấy Phật A Di Đà hiện tại chẳng diệt độ. Đây là sự lợi ích về sau. Người tu các hạnh khác hồi hướng đều có thể được vãng sanh và đức Thế Tôn diệt độ vẫn còn thấy mặt đó là những đặc điểm lợi ích to lớn, dám khuyên mọi người suy nghĩ kỹ!" Kinh Bát Nhã nói: "Lúc ấy có Bồ Tát Bạt Đà Hòa đang ở quốc độ mình, nghe nói Phật A Di Đà, thường nhớ niệm, do sự nhớ niệm đó mà thấy được Phật A Di Đà. Khi đã thấy Phật rồi, Bồ Tát liền thưa với Phật A Di Đà rằng: Xin Đức Thế Tôn chỉ cho con nên tu theo pháp nào để được sanh về nước kia? Lúc ấy, đức Phật A Di Đà dạy: Này Bồ Tát! Nếu muốn sanh về nước ta, thường xưng niệm danh hiệu của ta, liên tục không dứt, liền được sanh về quốc độ của ta, hoặc thường niệm 32 tướng thân Phật được đầy đủ, ánh sáng rực rỡ, đoan chánh không thể so sánh cũng được vãng sanh. Luận Đại Trí Độ nói: "Có ba lý do giải thích vì sao hành giả phải niệm Phật. a- Phật là đấng Pháp vương Vô thượng, Bồ Tát là Pháp thần (tôi), chỗ đáng tôn kính chỉ có Phật Thế Tôn nên phải thường niệm Phật. b- Có các Bồ Tát tự nghĩ: Ta từ khoáng kiếp đến nay được nhờ đức Thế Tôn nuôi lớn Pháp thân, Trí thân, Đại Từ Bi thân. Tất cả thiền định, trí huệ, vô lượng hạnh nguyện nhờ Phật mà được thành tựu. Vì để báo đáp ân sâu, nên thường nguyện gần Phật, cũng như đại thần nhờ ân sủng của vua nên thường niệm đến người chủ. c- Có các Bồ tát thường nghĩ rằng: Ta trong thời tu nhơn, gặp ác tri thức, bài báng Bát Nhã đọa vào đường dữ, trải qua vô lượng kiếp, tuy tu nhiều hạnh vẫn chưa ra khỏi, Nhờ Phật chỉ dạy dẹp hết các chướng, mới được giải thoát, có lợi ích như thế nên nguyện không rời Phật, luôn luôn niệm Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Thà ở trong vô lượng kiếp chịu khổ, cũng không dám rời khỏi Như Lai, không thấy được năng lực tự tại. Niệm Phật tam Muội chắc được thấy Phật, sau khi mạng chung sanh về trước Phật. Dám khuyên những người sắp lâm chung cần nên niệm Phật, cần chỉ vào tượng Phật bảo phải chí thành cung kính nguyện sanh. Lại có đoạn nói: Thiện Tài đồng tử cầu Thiện Tri Thức, đến chỗ Tỳ kheo Đức Vân bạch rằng: Bạch Đại sư làm sao tu Đạo Bồ Tát để viên mãn Hạnh Phổ Hiền. Lúc ấy Tỳ kheo Đức Vân dạy: "Ta ở trong bể Trí Huệ của Đức Thế Tôn chỉ thực hành và biết có một pháp gọi là Niệm Phật Tam Muội. Vì sao? Vì ở trong Tam Muội này có thể thấy được tất cả Chư Phật và các quyến thuộc trang nghiêm Tịnh Độ, có thể làm cho chúng sanh xa lìa điên đảo. Niệm Phật Tam Muội có công năng trong cảnh giới vi tế, thấy tất cả cảnh giới tự tại của Chư Phật, được nhiều kiếp không điên đảo. Niệm Phật Tam Muội có thể khởi tưởng tất cả các cõi Phật, không bị hoại diệt, được khắp thấy chư Phật, được ba đời không điên đảo. Khi ấy Tỳ kheo Đức Vân thưa với Thiện Tài rằng: Phật Pháp sâu như biển, rộng rãi không bờ mé, chỗ tôi được biết chỉ có niệm Phật Tam Muội này, ngoài ra các cảnh giới vi diệu khác, rất nhiều tôi chưa được biết." Kinh Hải Long Vương nói: "Lúc ấy Hải Long Vương bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Đệ tử cầu sanh về Tịnh độ của Phật A Di Đà phải tu hạnh gì để được sanh về cõi ấy? Phật bảo: "Này Long Vương! Nếu muốn sanh về nước kia phải thực hành 8 pháp. Thế nào là 8 pháp: a- Thường niệm Chư Phật. b- Cúng dường Như Lai. c- Khen ngợi Thế Tôn. d- Tạo hình tượng Phật, tu các công đức. e- Hồi nguyện vãng sanh. f- Tâm không khiếp nhược. g- Một lòng tinh tấn. h- Cầu Chánh Huệ của Phật. Phật bảo: Này Long Vương! Tất cả chúng sanh có đủ 8 pháp này, thường không rời Phật. Hỏi: Người không đủ 8 pháp được sanh trước Phật chẳng ly Phật chăng? Đáp: Được sanh không nghi. Vì sao được biết? Chư Kinh Phật Thuyết Bảo Vân nói: "Đức Phật nói rõ mười hạnh được sanh Tịnh độ, người thực hành đầy đủ thường không rời Phật. Lúc ấy có Bồ Tát Trừ Cái Chướng bạch Phật rằng: Nếu có người không thực hành đủ 10 pháp có được sanh chăng? Phật đáp: Được sanh. Chỉ cần trong 10 hạnh làm một hạnh được đầy đủ không thiếu sót, thì 9 hạnh kia đều gọi thanh tịnh, đừng có khởi lòng nghi." Lại trong Kinh Đại Thọ, Khẩn Na La Vương nói: "Bồ Tát thực hành bốn pháp, thường được chẳng rời Phật. Vì sao gọi là 4 Pháp? a- Tự tu pháp lành và khuyên chúng sanh đều hết lòng nguyện vãng sanh để thấy Như Lai. b- Tự khuyên mình và khuyên người ưa nghe chánh pháp. c- Tự khuyên mình và khuyên người phát tâm Bồ đề. d- Chuyên chí thực hành niệm Phật tam muội. Thực hành 4 pháp này, tất cả các chỗ thường ở trước Phật, không rời chư Phật. Kinh nói: "Bồ Tát hành pháp có ba mươi hai món tùy thân. Bố thí là món đại phú, nhẫn nhục là món đoan chánh, trì giới là món thánh thân, ngũ nghịch bất hiếu là món núi đao, cây kiếm, vạc than, phát Bồ Đề tâm là món thành Phật, thường niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ là món thấy Phật." Lược cử sáu món tùy thân các món khác không thuật hết, Kinh đã nói rõ ràng, hành giả nguyện sanh, vì sao lại không thường niệm Phật! Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: "Niệm tướng hảo Phật và đức hạnh Phật có thể làm cho các căn chẳng loạn động, lòng không mê hoặc, cùng với pháp hợp, được nghe là được trí huệ như bể cả, người trí ở trong tam muội này, nhiếp tâm chuyên niệm có thể thấy được ngàn ức các đức Như Lai, cũng gặp được vô lượng hằng hà sa chư Phật. 3- Giải đáp để hiển bày lợi ích tam muội. Hỏi: Người thường tu niệm Phật tam muội thì không nên tu các tam muội khác có phải như thế không? Đáp: Nói là thường niệm chớ không phải nói không nên tu các tam muội khác, mà chỉ nói thực hành Niệm Phật tam muội nhiều hơn mà thôi, nên nói là thường niệm. Không phải nói hoàn toàn không nên thực hành các tam muội khác. Hỏi: Nếu khuyên thường tu niệm Phật tam muội, như vậy đối với tam muội khác có thể cao thấp khác nhau, xin cho biết rõ? Đáp: Niệm Phật tam muội, tướng thù thắng không thể nghĩ bàn. Vì sao biết được? Trong kinh điển Đại Thừa nói: "Tất cả tam muội đều gọi là tam muội, nhưng với Niệm Phật tam muội có chỗ khác nhau. Vì có Tam muội chỉ có công năng trừ tham mà không thể trừ sân si, hoặc có Tam muội có thể chỉ trừ sân mà không trừ si tham, hoặc có Tam muội chỉ có thể trừ si mà không thể trừ tham sân, hoặc có Tam muội chỉ có thể trừ hiện tại chướng mà không thể trừ tất cả các chướng thời quá khứ và vị lai. Nếu người thường tu Niệm Phật Tam muội tất cả các chướng hiện tại, quá khứ vị lai đều trừ sạch. Hỏi: Niệm Phật tam muội có thể trừ chướng, được phước, không biết có thể làm lợi ích hành giả như diên niên lợi ích thọ được chăng? Đáp: Chắc được. Vì sao biết được? Vì trong kinh Như Duy Vô Tam Muội nói: "Có hai anh em, người anh thì tin nhân quả tu hành, người em thì lòng không tin, nhưng có tài coi tướng số, khi anh ta nhìn mặt trong gương thấy tướng chết đã hiện, chỉ trong thời gian không qua khỏi bảy ngày. Lúc ấy may gặp một người trí bảo đến hỏi Phật. Phật đáp dương số đã tận bảy ngày sau ông sẽ chết. Nếu có thể một lòng niệm Phật giữ giới, có thể tăng thọ thoát khỏi mạng chết sớm. Người ấy nghe rồi y lời hệ niệm niệm Phật. Đến ngày thứ sáu có 2 con quỷ đến định dẫn đi, nhưng tiếng niệm Phật làm cản đường chúng, chúng trở về thưa với Diêm Vương, Diêm Vương đem bùa ra, trong bùa đã ghi chú, người này do trì giới niệm Phật được công đức sống lâu, sau khi mất sanh về cung trời Diệm Thiên thứ Ba. Kinh Thí Dụ nói: "Có một trưởng giả, không tin tội phước, lúc 50 tuổi, một đêm nằm mộng thấy có một con quỷ cầm tử phù đến muốn bắt đi, và hẹn 10 ngày sau đến bắt. Ông trưởng giả rất lo sợ đến nhờ thầy xem tướng giải mộng. Thầy tướng số cho biết đó là triệu chứng sát quỷ đến muốn làm hại, không gần 10 ngày sau, dương số ông đã tận. Ông trưởng giả rất lo sợ đến gặp Phật, Phật bảo: Nếu ông muốn hiện trạng ấy không còn, sống lâu thêm tuổi, từ đây về sau ông phải niệm Phật trì giới cúng dường Tam Bảo, có thể thoát khỏi ngày chết này. Ông trưởng giả y theo lời Phật dạy, chuyên tâm tin hướng niệm Phật. Sát quỷ đúng 10 ngày sau đến cửa, nghe tiếng niệm Phật và cách tu công đức của ông, nên bỏ đi không thể làm hại. Ông Trưởng giả nhờ công đức tu tập niệm Phật ấy mà sống lâu đến trăm tuổi, sau khi chết được vãng sanh về cõi trời. Hỏi: Niệm Phật tam muội có thể đối trị các chướng, có thể thay đổi thế báo, còn đối với Xuất thế gian Vô thượng Bồ Đề thế nào? Đáp: Chắc chắn được kết quả. Vì sao? Như Kinh Hoa Nghiêm phẩm Thập Địa nói: "Ban đầu từ Sơ địa cho đến Thập địa, trong mỗi địa đều có nói pháp gia hạnh vào địa. Khi địa đã mãn, công đức lợi ích vẫn không dừng lại. Các Bồ tát này tuy tu các hạnh đều không lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng, dùng đồ nhạc thắng diệu cúng dường Tam Bảo." Qua đoạn văn này cho biết các Bồ tát ở địa thượng thường học niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng mới có thể thành tựu hạnh nguyện vô thượng, đầy đủ bể công đức. Huống chi các hàng Nhị thừa, phàm phu cầu sanh Tịnh độ mà không chịu học niệm Phật." Vì sao? vì Niệm Phật tam muội này có đủ tất cả các pháp như Tứ Nhiếp, Lục Độ, hạnh chung, hạnh riêng. Hỏi: Bồ tát từ Sơ địa đến Thập địa cùng Phật đồng chứng lý chơn như gọi là sanh vào nhà Phật, tự mình hiện làm Phật, hóa độ chúng sanh, vì sao lại phải học niệm Phật tam muội nguyện thấy Phật? Đáp: Luận về chơn như rất rộng lớn vô biên, đồng như hư không, lượng nó khó biết hết, ví như một ngôi nhà tối rộng lớn, nếu đốt một hoặc hai ngọn đèn, ánh sáng của nó tuy đến khắp nhưng chỉ sáng lờ mờ, dù đốt nhiều đèn cũng chỉ nói sáng lớn chứ đâu có thể so sánh với mặt nhật. Trí tuệ Bồ tát chứng được, tuy mỗi địa đều khá hơn chỉ có chừng mực, đâu có thể so sánh trí sáng của Phật như mặt nhật kia. Chương Năm Chương này nhằm giải quyết ba tiểu điểm 1. Phân định việc tu chậm mau, 2. So sánh thiền và quán khuyên làm, 3. So sánh lậu và vô lậu và dẫn thánh giáo chứng minh. 1. Phân định việc tu đạo chậm mau. Tất cả chúng sanh ai cũng chán khổ, tìm vui, sợ trói, cầu mở, nên ai cũng muốn mau chứng vô thượng Bồ Đề. Vì vậy, hành giả trước phải phát khởi tâm Bồ Đề, tâm này khó biết, khó khởi vì là quả cao cùng tột, dù có phát khởi được tâm này, y theo kinh phải tu mười thứ hạnh là tin, tấn, niệm, giới, định, huệ, xã, hộ Pháp, phát nguyện, hồi hướng rồi lần lên tiến đến quả vị Bồ Đề. Vì vậy, thân người thực hành phải tiếp nối chẳng dứt, trải qua một muôn kiếp mới chứng được vị chẳng thối. Ngày nay, kẻ phàm phu lòng tin và tâm tưởng nhẹ như sợi lông, cũng gọi là giả danh, cũng gọi là nhóm định, cũng gọi là ngoại phàm phu chưa ra khỏi nhà lửa. Vì sao? Căn cứ theo Bồ Tát Anh Lạc Kinh nói đủ hạnh vị của người tu từ Sơ Tín đến Đẳng Giác, Diệu Giác phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp nên gọi là con đường khó làm. Lại nữa chỉ lấy trong một kiếp thọ thân mạng sống chết còn không thể đếm hết, huống là trong một muôn kiếp luống chịu khổ đau. Nếu người có thể tin theo kinh Phật, nguyện sanh Tịnh độ, tùy theo tuổi thọ có dài ngắn, chỉ một đời liền được đến kết quả, ở vị Bất Thối. So với người tu Thánh đạo phải tu một muôn kiếp bằng nhau. Vì sao các người con Phật không suy nghĩ kỹ, không chịu bỏ khó tìm dễ. Trong Câu Xá Luận cũng nói về hạnh dễ làm và khó làm như sau: "Phương cách khó làm là phải tu hành trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp, trong mỗi kiếp đều có đủ tư lương Phước Trí, Lục Độ Ba La Mật. Tất cả các hạnh, mỗi mỗi hạnh nghiệp đều có trăm ngàn việc khó làm mới hoàn thành được một vị, nên gọi là cách khó làm. Nếu người nào riêng có phương tiện có thể giải thoát gọi là cách dễ làm." Pháp môn Tịnh độ khuyên người cầu sanh về Cực Lạc, tất cả hành nghiệp đều hồi hướng về cõi kia. Chỉ cần một lòng chuyên chú, thọ mạng đã dứt liền được vãng sanh về nước kia, được cứu kính thanh tịnh, đâu có thể nói đây không phải là pháp dễ làm ư! Hỏi: Đã nói nguyện vãng sanh Tịnh Độ, thọ mạng vừa dứt liền được vãng sanh, điều ấy có kinh giáo nào làm bằng chứng? Đáp: Xin dẫn 7 thứ Kinh Luận để xác minh điều đó. Kinh Đại A Di Đà Phật dạy: "Này A Nan! Nếu có chúng sanh muốn được hiện đời thấy được Phật Vô Lượng Thọ, nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, tu hành các công đức, nguyện sinh về nước kia, liền được vãng sanh. Có bài tụng rằng: “Nếu nghe đức hiệu A Di Đà Hoan hỉ tán ngưỡng lòng nương về Cho đến một niệm được lợi lớn Là vì có được châu công đức. Dù đầy đại thiên lửa cháy lớn Cũng phải đi đến nghe Phật danh Nghe A Di Đà chẳng lui sụt Cho nên một lòng chí thành lễ". Quán Kinh dạy: "Trong chín phẩm, phẩm nào hành giả lâm chung chánh niệm, liền được vãng sanh." Luận Khởi Tín nói: "Dạy các chúng sanh khuyên quán chơn như thật tướng bình đẳng, cũng có Bồ Tát mới phát tâm, trong lòng mềm yếu, tự nói mình không thể thường gặp chư Phật trực tiếp cúng dường, trong lòng muốn lui sụt. Nên biết, đức Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp hộ lòng tin, dạy phải chuyên lòng niệm Phật, nhờ nhơn duyên đó, theo nguyện vãng sanh, vì thường gặp Phật, nên xa lìa đường ác." Kinh Cổ Âm Đà La Ni nói: "Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ Kheo rằng: Ta sẽ vì các ông mà diễn nói thế giới An Lạc ở phương Tây, hiện nay có Phật hiệu A Di Đà, nếu Tứ chúng có thể thọ trì danh hiệu Phật kia, giữ chắc trong lòng, nhớ tưởng không quên, trong 10 ngày 10 đêm trừ bỏ tán loạn, siêng năng tu tập niệm Phật tam muội. Nếu có thể làm cho mỗi niệm tiếp nối không dứt, trong 10 ngày chắc được thấy đức Phật A Di Đà liền được vãng sanh." Kinh Pháp Cổ nói: "Nếu người khi lâm chung, không thể niệm Phật, chỉ biết hướng kia có Phật ý muốn vãng sanh, cũng được vãng sanh.” Kinh Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sanh nói: "Nếu có người đã lâm chung, hoặc chết đọa vào địa ngục. Quyến thuộc trong gia đình vì người mất mà niệm Phật, hoặc chuyển tụng cầu phước, người mất có thể ra khỏi địa ngục vãng sanh Tịnh độ. Huống chi người ấy hiện tại tự có thể tu niệm làm sao không được vãng sanh. Kinh Đại Pháp Cổ nói: "Nếu thiện nam tử và thiện nữ nhơn nào thường hay buộc ý xưng niệm danh hiệu Chư Phật, thì mười phương chư Phật và tất cả Hiền Thánh thường thấy người này như luôn hiện trước mặt, nên biết người này tùy theo ý nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ trong 10 phương." Kinh Đại Bi nói: "Vì sao gọi là đại bi? Nếu người chuyên niệm danh hiệu Phật không gián đoạn, người ấy mạng chung chắc sanh về cõi An Lạc. Nếu có thể lần lượt khuyên người cùng nhau niệm Phật, người ấy được gọi là người đại bi." Kinh Niết Bàn nói: “Phật bảo này Đại Vương! Giả sử nhà vua cứ mỗi nửa tháng, mở tất cả kho lớn đem bố thí cho tất cả chúng sanh, chỗ được công đức đó không bằng có người xưng danh hiệu Phật một lời, công đức người này hơn người kia không thể so lường." Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: "Này A Nan! Có người cúng dường y phục, ngọa cụ, y dược cho chúng sanh khắp cõi Diêm Phù Đề này, công đức người ấy có nhiều chăng? A Nan thưa: Bạch Thế Tôn rất nhiều không thể kể xiết. Phật bảo: Này A Nan! Nếu có chúng sanh tâm lành tiếp nối xưng danh hiệu Phật nhỏ bằng hạt sửa, công đức người ấy hơn kẻ bố thí kia không thể so lường." Kinh Đại Phẩm nói: "Nếu người tâm tán loạn niệm Phật cũng được dứt khổ, phước đức không thể kể hết. Nếu người dâng hoa cúng Phật niệm Phật, cũng dứt hết khổ, phước đức không thể kể hết. Nên biết niệm Phật lợi ích rất lớn, không thể nghĩ bàn." 2. So sánh Thiền quán khuyên nguyện vãng sanh. Cõi này là cảnh uế ác loạn tưởng nên tu thiền quán khó được, dù có tu được cũng chỉ có định về sự, vui nhiều thêm nhiễm. Nếu có thể dẹp được hoặc nghiệp thì quả báo được sanh về các cõi trời, tuổi thọ hết rồi phần nhiều lui sụt. Nên Trí Độ Luận nói: "Thiền đa văn trì giới, chưa được pháp vô lậu, tuy có được công đức, việc này chưa tin được, nếu muốn hướng Tây tu tập, cảnh tu sáng sạch, quán định dễ thành, trừ tội nhiều kiếp, chỗ định mau tới, rốt ráo thanh lương, như kinh đã nói." Hỏi: Nếu Tây Phương cảnh giới thù thắng, có thể cảm được việc tu thiền, cõi này cảnh giới kém, không nên tu thiền định phải không? Đáp: Nếu luận về cái nhơn tu định thì gồm cả cõi này và cõi kia. Nhưng cõi kia mọi người đều ở vị chẳng lui sụt và có sức Phật gia trì cho nên gọi là cảnh thù thắng. Còn cõi này có thể tu định, chỉ có sự cố gắng tu tập của chính mình, không nhờ ai giúp đở, khi nghiệp duyên đã tận, khó khỏi bị thối lui. Cần phải cẩn thận. 3. So sánh lậu và vô lậu. Căn cứ vào 2 cảnh tịnh và uế để xét xem cảnh nào lậu và cảnh nào vô lậu. Cảnh giới cõi này chỉ có 3 đường gò nổng, núi khe, cát đất, gai gốc, nước lụt, hạn hán, gió cuốn, nước trôi, lôi điện nổ vang, cọp sói độc thú, giặc dữ, con ngỗ nghịch, hoang loạn phá tán, ba tai bại hoại. Nếu nói về chánh báo của cảnh này là ba độc, tám điên đảo. Lo buồn, hờn giận, nhiều bệnh, vắn số, đói khát, nóng nhiệt, thường bị quỷ ma theo đuổi làm hại, rất nhiều việc ô uế xấu xa, nên gọi là lậu, thật rất nhàm chán. Người vãng sanh về Cực Lạc được gọi là cảnh giới thù thắng. Đại Kinh nói: "Nhơn thiên trong mười phương được vãng sanh về cõi kia đều được lợi ích. Vì sao? Vì được sanh về nước kia, khi đi có sen vàng đở gót, ngồi có bảo tọa dựa thân, ra ngoài có Đế Thích dẫn đường, đi vào có Phạm Vương nối gót, tất cả thánh chúng cùng ta làm bạn, Phật A Di Đà là bổn sư, dưới cây trong rừng tới lui tùy thích, ao bát công đức mặc tình tắm gội, thân màu vàng ròng, sống lâu bằng Phật, học thời các môn tiến tới, dừng thời hai đế dung thông, mười phương qua lại dùng đại thần thông, ngồi yên tạm thời vào 3 môn giải thoát, dạo chơi trên đường Bát Chánh, chỗ đến là Đại Niết Bàn. Tất cả chúng sanh đã đến cõi kia đều có đủ lợi ích. Vì sao không quyết mau đến cõi kia? 4. Dẫn Kinh giáo. Kinh Quán Phật Tam Muội nói: "Lúc ấy, có chư Phật mười phương mỗi vị kiết già yên ngồi trên đài hoa hiện trên hư không. Như Lai Thiện Đức thưa Đại Chúng rằng, tất cả nên biết, ta nhớ vô lượng đời quá khứ, có đức Phật tên Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai, Đức Như Lai kia ra đời nói pháp Tam Thừa cũng như ngày nay. Sau khi Đức Phật kia diệt độ, có một Tỳ kheo thâu 9 đệ tử, đến lễ bái Phật tháp. Lễ đến một tượng Phật thấy tướng hảo quang minh có thể quán. Quán rồi kỉnh lễ, mắt thấy rõ chắc, mỗi người nói một bài kệ để tán thán. Các vị này lần lượt mạng chung, khi mạng chung rồi sanh ra trước Phật từ đấy về sau hằng được gặp Phật vô lượng, ở chỗ chư Phật, rộng tu phạm hạnh, được Niệm Phật Tam Muội. Được Tam muội rồi chư Phật hiện tiền cùng thọ ký cho, ở khắp mười phương, tùy ý thành Phật. Phương Đông có Phật Thiện Đức chính là thân ta, còn chín phương khác vốn xưa là đệ tử của ta. Các Đức Thế Tôn ở mười phương do lễ tháp dùng kệ khen ngợi mà được thành Phật. Trong lúc ấy, mười đức Như Lai ở mười phương, phóng ánh sáng lớn, hiển thị sắc thân bạch hào tướng quan, mỗi vị đều đến ngồi bên Phật Thích Ca, bảo với A Nan rằng: "Ông nên biết Đức Thích Ca Văn Phật, đã nhiều đời tinh tấn, trăm ngàn kiếp khổ hạnh cầu Trí Huệ Phật mới được báo thân tốt đẹp này. Nay ta vì ông mà nói, ông đem lời này nói lại cho Tứ chúng đệ tử của Phật thời vị lai, giảng nói về quán tướng hảo Phật và niệm Phật tam muội. Sau khi nói lời ấy rồi, thập phương Phật đến vấn an Phật Thích Ca Văn rồi trở về nước mình." Chương Sáu Chương này nhằm khai triển 2 chủ điểm là so sánh Tịnh Độ ở mười phương và luận về sự trụ và diệt của các kinh. 1. So sánh tịnh độ ở 10 phương. Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh nói: "Cõi nước Chư Phật trong 10 phương đều rất nghiêm tịnh, tùy theo bản nguyện đều được vãng sanh, tuy vậy tất cả tịnh độ đều không bằng quốc độ Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ ở Phương Tây, vì Đức Phật A Di Đà cùng Quan Âm và Đại Thế Chí, khi mới phát tâm, từ cõi này mà đến cõi kia, vì thế các Ngài có đại duyên với chúng sanh cõi này. Vì thế, Đức Thích Ca Mâu Ni mỗi chỗ, mỗi thời đều khen ngợi chỉ về. Kinh Đại A Di Đà nói: "Bồ tát Pháp Tạng trong lúc tu nhơn ở trước Phật Thế Tự Tại Vương, phát lời hoằng nguyện độ chúng sanh, xây dựng Tịnh độ, nhiếp thủ chúng sanh. Đức Phật Thế Tự Tại Vương vì Bồ tát hiện 210 ức cõi Tịnh độ, tất cả người trời thiện ác, quốc độ thô, tịnh đều hiện ra hết. Lúc ấy, Bồ tát Phát Tạng nguyện xây dựng cõi Cực lạc ở Tây phương tiếp dẫn chúng sanh và nay đã thành Phật ở đó. Trong Quán Kinh: "Phu Nhơn Vi Đề Hy xin vãng sanh về Tịnh độ. Trong Quang đài của Đức Thế Tôn hiện tất cả Tịnh độ trong 10 phương. Phu nhơn Vi Đề Hy bạch Phật: Tuy các cõi này đều thanh tịnh và có ánh sáng, con nay muốn sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà." Qua những dẫn trên cho biết trong các cõi Tịnh độ, thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà là thù thắng hơn cả. Hỏi: Vì sao người niệm Phật phải mặt hướng về Tây trong khi tọa thiền, lễ niệm, hoặc quán tưởng? Đáp: Cõi Diêm Phù Đề thường nói: "Mặt nhật mọc gọi là sống, mặt trời lặn gọi là chết". Trong sanh tử thì giai đoạn tử là giai đoạn lo sợ và đau khổ nhất, cho nên Bồ tát Pháp Tạng nguyện thành Phật tại hướng Tây, vì lòng thương to lớn muốn tiếp dẫn chúng sanh. Khi ngồi quán, lễ niệm, mặt hướng về Tây là Phật A Di Đà nguyện tiếp dẫn không thôi nghỉ, hằng đưa tay tiếp dẫn chúng sanh về như mẹ đưa tay dắt con về quê, theo lễ nghi con phải hướng về mẹ. Nếu là bậc Thánh thì phương hướng không trở ngại, còn phàm phu thì thân tâm cùng hướng, nếu thân hướng phương khác, tâm muốn về Tây việc vãng sanh rất khó. Nên Luận Trí Độ nói: "Có một thầy Tỳ kheo lúc sinh tiền, tụng kinh A Di Đà và niệm Bát Nhã Ba La Mật, khi sắp lâm chung bảo đệ tử rằng: "Phật A Di Đà và Thánh Chúng hiện ra trước mặt ta, nói rồi chấp tay niệm Phật, chốc lát bỏ báo thân. Các đệ tử y pháp trà tỳ, khi lửa đã tắt, tất cả toàn thân cháy hết, chỉ còn lưỡi và cuốn lưỡi nguyên vẹn và tươi như lúc sống. Toàn thể đệ tử xây tháp cúng dường." Bồ Tát Long Thọ trong Thích Luận nói: "Tụng Kinh A Di Đà nên lâm chung Phật rước, niệm Bát Nhã Ba La Mật nên lưỡi vẫn còn tươi". Qua đoạn văn trên chứng minh, nên biết tất cả hành nghiệp, chỉ hết lòng hồi hướng thì không có hạnh nào là chẳng được vãng sanh." 2. Sự trụ và diệt của các kinh. Kinh từ kim khẩu Phật Thích Ca Mâu Ni nói ra được chia làm 3 thời kỳ, năm trăm năm đầu từ khi Đức Phật thành Đạo gọi là thời kỳ Chánh Pháp, một ngàn năm kế tiếp theo đó gọi là thời Tượng Pháp, một muôn năm sau đó gọi là thời Mạt Pháp, sau thời kỳ đó các kinh lần bị diệt, Đức Như Lai thương xót chúng sanh bị thống khổ, đặc biệt lưu lại Đại Kinh này còn trụ ở đời 100 năm. Qua chứng minh trên cho biết cõi Tịnh độ kia tuy là hoàn toàn thanh tịnh nhưng thể chung cho các bậc thượng, hạ, người biết tướng là không tướng sanh về phẩm thượng, phàm phu ở nhà lửa một lòng niệm Phật vẫn được vãng sanh vào phẩm hạ. Chương Bảy Chương này giải quyết vấn đề triền phược, giải thoát và dụng công tu có nặng nhẹ. 1. Vấn đề triền phược giải thoát. Nếu người giữ tịnh tướng của Tây phương thì mau giải thoát, thuần nhận các điều vui, trí nhãn sáng tỏ, trái lại, người giữ uế tướng chỉ có vọng tưởng mê mờ, tai ách trói buộc thêm nhiều lo sợ. Hỏi: Y theo kinh Đại Thừa đều nói vô tướng là đường cốt yếu cho việc xa lìa, chấp tướng trói buộc không khỏi lụy theo tình trần nay khuyên chúng sanh bỏ uế ưa tịnh là nghĩa thế nào? Đáp: Nghĩa ấy chẳng định. Vì sao? Vì tướng có 2 thứ: a- Đối với tướng dục cảnh của ngũ trần, mê vọng ái nhiễm, theo cảnh chấp trước, các tướng ấy gọi là tướng trói buộc. b- Ưa thích công đức Phật, nguyện sanh về tịnh độ, tuy nói là tướng nhưng là tướng giải thoát. Vì sao biết được? Trong kinh Thập Địa nói: "Hàng Bồ tát Sơ địa, tự mình riêng quán hai đế, chăm lòng tác ý, trước y tướng mà cầu, rốt cuộc tướng trở thành vô tướng, vì lần lần tăng tâm thể Đại Bồ Đề. Đến mãn Thất địa, chung tâm và tướng tâm mới dứt, vào thẳng Bát địa không còn cầu ở tướng nữa, mới gọi là công dụng. Vì thế, Thất địa về trước ác tham chướng, dùng tướng thiện tham để trị, từ Bát địa sắp lên thiện tham là chướng thì không còn tham gì để trị." Đó là Bậc Thánh huống là người cầu sanh Tịnh Độ là ngoại phàm, chỗ tạo ra căn lành đều từ yêu thích công đức Phật mà sanh đâu gọi là triền phược. Kinh Niết Bàn nói: "Tất cả chúng sanh có hai thứ ái là thiện ái và bất thiện ái. Cầu thiện ái pháp là việc cầu của các vị Bồ tát, cầu bất thiện ái chỉ có hàng phàm phu ngu dốt cầu đó." Trong Tịnh Độ Luận nói: "Quán quốc độ Phật là vị thanh tịnh, nhiếp thọ chúng sanh là vị đại thừa, phát khởi hạnh nguyện vãng sanh là vị cõi Phật. Các vị Phật đạo có vô lượng như thế nên tuy chấp tướng không phải là sự trói buộc. Cõi Tịnh độ kia chỗ nói tướng chính là tướng vô lậu, là tướng của thật tướng vậy. 2. Dụng công tu có nặng nhẹ. Nếu muốn phát tâm vãng sanh về Tây Phương, phải dùng thời giờ để lễ, quán, niệm, tùy theo cuộc sống có ngắn dài khi mạng chung thì ánh sáng, đài hoa đến nghinh tiếp về đến cõi kia, chứng vị Bất thối, nên Đại Kinh nói: "Nhơn thiên trong 10 phương sanh về nước tôi, nếu không rốt ráo được thành Phật, còn bị thối chuyển thì tôi không ở ngôi chánh giác." Ở cõi này hành giả phải dùng nhiều thì giờ tu đủ các hạnh của Bồ tát như thí, giới, nhẩn, tấn, định, huệ chưa mãn một muôn kiếp, thường không thoát khỏi nhà lửa, thường bị điên đảo mê lầm sa đọa, nên gọi dụng công rất nhiều mà được quả báo rất ít. Đại kinh cũng nói: "Sanh về nước ta là vượt ra khỏi năm ác thú cõi Ta bà.” Nay đem so sánh với cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà thì cõi Ta Bà năm đường đều gọi là ác thú. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thuần tạo nghiệp ác, bị quả báo ác nên gọi là ác thú. Nhơn, thiên cõi Ta bà hướng về tạp nghiệp cũng gọi là ác thú. Nếu y theo cõi này tu, trước đoạn trừ kiến hoặc, lìa được nhơn tam đồ, diệt được quả tam đồ. Kế đó đoạn tư hoặc, lìa cái nhơn trời người, dứt được quả của trời người, cứ như thế mà lần lượt đoạn trừ không thể gọi đục ngang ra, như con mọt muốn ra khỏi cây phải đục lần lượt từ dưới lên chót mới ra khỏi. Nếu được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà thì năm đường đồng thời thoát khỏi nên gọi là đục ngang, như con mọt đục ngang ra khỏi vỏ tre là thoát. Người tu theo Thánh Đạo phải trải qua 52 vị, như con mọt phải đục 52 mắt tre mới ra ngoài, nên thời gian rất dài, gọi là 3 A Tăng Kỳ Kiếp. Nếu người tác ý hồi nguyện Tây Phương, nếu dài lắm trọn một đời, ngắn lắm chỉ cần 10 niệm liền được vãng sanh đến cõi kia rồi liền vào chánh định tụ, ở vị bất thối chuyển, so với người tu Thánh đạo công bằng một muôn kiếp. So sánh như thế để chúng ta thấy con đường tu nào chậm, mau, khó, dễ thật rõ ràng. Chương Tám Chương này nhằm giải quyết ba chủ đề chính là căn cứ vào các kinh, khuyên bỏ đây ưa kia, năng lực độ khắp của Phật A Di Đà và giải thích ý vãng sanh. 1. Căn cứ vào các kinh khuyên bỏ đây ưa kia. Tất cả kinh điển Đại thừa đều khuyên bỏ đây ưa kia, đặc biệt nhất ở núi Kỳ Xà Quật, Phật vì phu nhân Vi Đề Hy mà nói Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, khuyên các hàng thượng thiện đến kẻ nghịch ác đều nguyện vãng sanh về Cực lạc. Bỏ cõi uế Ta Bà sanh về cõi Tịnh Độ. Kế đó, Phật nói Quán Vô Lượng Thọ Kinh và A Di Đà Kinh cũng đều khuyên bỏ cõi này sanh về cõi kia. Ở Hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Đại Bồ Tát phát 10 Đại nguyện, khuyên hải chúng Hoa Tạng vãng sanh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí trình phương pháp niệm Phật viên thông, khuyên mọi người cầu vãng sanh. Đồng thời có các kinh như Kinh Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sanh, Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng giác, Kinh Thập Vãng Sanh. Riêng các luận thì khuyên bỏ đây về kia rất nhiều như luận Thập Trụ Tỳ Bà Sa, Luận Đại Thừa Khởi tín, Luận Vãng Sanh rất nhiều không thể kể xiết. Như thế, ý hướng bỏ cõi uế Ta Bà, cầu sanh về cõi tịnh Tây Phương là xu hướng lớn của kinh Luận Đại Thừa. 2. Năng lực độ khắp của Phật A Di Đà. Các đức Như Lai đều có đầy đủ năng lực và diệu dụng độ sanh, nhưng tùy theo bản nguyện mà các Ngài có khi phát huy hoặc không phát huy năng lực độ sanh. Như ngày xưa trong Tỳ Xá Ly Quốc, nhân dân gặp năm thứ ác bịnh, đến cầu xin Phật ra tay cứu độ. Lúc ấy Đức Thích Ca Mâu Ni khởi vô lượng bi mẫn bảo các người bệnh rằng: "Ở Tây phương có Phật A Di Đà, Bồ Tát Quan Âm, Bồ Tát Thế Chí là bậc đại y vương. Vì vậy, các ông phải một lòng chấp tay cầu thấy Phật A Di Đà sẽ được cứu độ.” Lúc bấy giờ, Phật A Di Đà phóng ánh sáng lớn, Bồ tát Quan Âm và Thế Chí đồng đến. Nói đại thần chú, tất cả bệnh khổ đều tiêu trừ. Thần lực các đức Như Lai đều bằng nhau không hơn kém, đức Thích Ca muốn hạ bớt khả năng của mình để hiển bày khả năng của Phật A Di Đà. Vì muốn cho tất cả mọi người đều cùng hướng về. Nên Pháp sư Đàm Loan có làm bài kệ khen tán: Chúng Bồ tát Thanh văn cõi An lạc Người trời trí huệ đều đổng triệt Thân tướng trang nghiêm đẹp lạ thường Thuận theo chúng sanh mà lập tên Dung nhan đoan chánh không thể sanh Thân tướng vi diệu khác trời người Thân chất hư vô không cực thể Nên con quy mạng về đảnh lễ. Hỏi: Người nguyện sanh về Tịnh độ không biết có dụng ý gì? Đáp: Chỉ muốn mau thành Phật đạo, công hạnh tự lợi lợi tha viên mãn, nhiếp thọ chánh pháp, khế hợp tánh bất nhị, chứng được Phật tánh, thấu rõ thật tướng, quán sát tự tâm bao gồm Tam đế, Kim Cang vô ngại, chứng Đại Niết Bàn. Dùng lòng Đại bi trở lại biển sanh tử độ thoát vô lượng chúng sanh không có hạn lượng. Hỏi: Nguyện sanh Tịnh độ là muốn cứu độ chúng sanh, chỉ nên ở cõi này cứu khổ, vì sao nguyện sanh tịnh độ giống như bỏ chúng sanh ưa vui tịnh độ? Đáp: Nghĩa ấy không đúng. Như Luận Trí Độ nói: "Như có 2 người con đều thấy cha mẹ rớt ở nguồn sâu, một người chạy thẳng đến dùng hết năng lực để cứu lên, vì không đủ sức nên tất cả đều chết chìm. Một người con khác chạy tìm một chiếc thuyền, chèo đến vớt lên, tất cả đều được khỏi nạn." Bồ tát cũng thế, khi chưa phát tâm, vẫn bị lưu chuyển trong sanh tử như chúng sanh không khác. Nhưng khi phát tâm Bồ đề rồi, trước nguyện vãng sanh Tịnh độ, chèo thuyền Đại bi, có vô ngại biện tài, vào bể sanh tử, cứu vớt chúng sanh. Trong Luận Đại Trí Độ cùng nói: "Bồ tát sanh Tịnh độ đủ đại thần thông, biện tài vô ngại. Khi giáo hóa chúng sanh, còn không đủ khả năng làm họ tăng thiện diệt ác, tăng đạo tấn vị đúng với ý của Bồ tát, huống chi ở cõi uế nầy cứu tế chúng sanh sẽ không có lợi ích mong muốn. Giống như bắt gà bỏ vào nước đâu khỏi không bị ướt." Đại Kinh có bài tán rằng: Các vị Bồ tát cõi An Lạc Tự do tuyên thuyết toàn trí huệ Nghe rồi vạn vật quên ngã sở Sạch tợ hoa sen chẳng nhiễm trần Qua lại tới lui vận thuyền từ Đem nhiều lợi ích thoát biển khổ. Các Ngài chứng không dứt 2 tưởng Đem đuốc trí huệ chiếu đêm dài, Ba minh, sáu thông đều đã đủ Bồ tát vạn hạnh quán tâm nhãn Công Đức như thế thật vô biên Cho nên con nay nguyền được về. Chương Chín Chương này nhằm giải quyết hai chủ điểm là khổ và lạc tương đối; tuổi thọ dài ngắn. 1. Khổ và lạc đối nhau. Xét về khổ và vui. Chúng ta thấy người ở cõi Ta Bà tuy có quả báo khổ và vui, nhưng thường khổ rất nhiều mà vui rất ít. Nặng như bị đọa vào ba đường, chịu đốt, chịu đau. Nhẹ như người trời thì đao binh, tật bệnh liên tục trói thân, vô số kiếp trước sau không bao giờ dứt. Dù có người ở cõi trời, việc vui qua nhanh như điện chớp như bóng bọt. vừa khởi liền diệt, nên gọi cõi Ta Bà này chỉ có khổ. Còn cõi Tịnh lạc của Phật A Di Đà, nước cây chim rừng thường diễn pháp âm, diễn bày ý đạo, đầy đủ rõ ràng, có thể làm hành giả ngộ nhập vào tri kiến Phật. Trong Tịnh độ luận nói: "Người trời 10 phương sanh về nước kia, vị ngang với Tịnh Tâm Bồ Tát không khác. Bồ tát Tịnh Tâm chính là Bồ Tát Địa Thượng, vị đồng Đẳng giác, được nhẫn Tịnh diệt, vị bất thối chuyển. Trong 48 nguyện ở Đại Kinh nói: "Người sanh về nước tôi có năm điều đại lợi ích: 1- Nếu có nhơn thiên trong 10 phương sanh về nước tôi không được thân sắc vàng ròng thì tôi không ở ngôi chánh giác. 2- Nếu có nhơn thiên trong 10 phương sanh về nước tôi, mà hình sắc thân thể không đồng thì không ở ngôi chánh giác. 3- Nhơn thiên10 phương sanh về nước tôi, không được túc mệnh thông, nhẫn đến không biết được mọi việc trong trăm ngàn ức Na do tha kiếp thời tôi không ở ngôi chánh giác. 4- Nhơn thiên 10 phương sanh về nước tôi, không được thiên nhỉ thông, cho đến không nghe chư Phật thuyết pháp trăm nghìn ức na do tha nói và thông thạo lời đầy đủ thời tôi không ở ngôi chánh giác. 5- Nhơn thiên trong 10 phương sanh về nước tôi, không được tha tâm thông, cho đến không biết được tâm niệm chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha các cõi nước chư Phật thời tôi không ở ngôi chánh giác. Sự đại an lạc lợi ích cõi Cực lạc không thể nói hết, người sanh về cõi ấy, được lợi ích không thể nghĩ bàn. Nên nói cõi Cực lạc chỉ có vui, có thiện, không khổ, không ác. 2. Tuổi thọ hai cõi có dài ngắn. Luận về tuổi thọ ngắn dài. Cõi này thọ mạng dài lắm là một trăm năm. Thời gian trăm năm này phần nhiều chết non, ít người sống thọ, có người chưa được 50, có kẻ còn là đồng tử cũng bị mất mạng, chưa kể có kẻ chết ra khỏi bào thai. Vì sao vậy? Vì chúng sanh lúc tạo nhơn nhiều cách, nên thọ quả báo cũng nhiều cách, không đồng đều. Kinh Niết Bàn dạy: "Khi tạo nghiệp đen tối, quả báo cũng đen tối, khi tạo nghiệp trắng trong, quả báo cũng trắng trong. Tất cả quả báo đều do tạo nghiệp tịnh hay uế." Kinh Tịnh Độ Bồ Tát nói: "Người sống trăm tuổi, đêm đen đã chiếm 50 năm. Lúc nhỏ 15 năm chưa biết thiện ác, tuổi từ 80 trở về sau, cuộc sống hư liệt, toàn chịu cái khổ già chết. Trừ các việc kể trên, đời sống con người thực sự có 15 năm. Trong 15 năm đó, nếu hàng vua chúa quan quyền thì bức bách mọi mặt không có ngày yên. Nếu là quân nhân thì bị đánh giặc xa, giữ ngoài biên ải, có người bị giam ở lao ngục. Nếu người ở nhà bình thường thì việc tốt xấu trói buộc, thường không được vừa ý. Như thế, suy nghĩ kỹ ra, một kiếp có bao nhiêu thời gian yên ổn, có thể tu thiện nghiệp được. Thật đáng buồn thay!". Kinh trên cũng nói: Con người sống trong thế gian, mỗi ngày đêm có 8 ức, bốn ngàn muôn niệm. Một niệm khởi ác là nhận một thân ác, 10 niệm ác có 10 niệm thân ác sanh ra, trăm niệm ác có trăm thân ác sanh ra. Một đời một chúng sanh niệm một trăm năm ác, ác sẽ đầy khắp các quốc độ ở mười phương thọ ác thân. Ác pháp đã vậy, thiện pháp cũng như thế. Một niệm khởi thiện là thọ thân thiện, một trăm niệm thiện thọ 100 thiện thân. Nếu 1 đời làm thiện, cũng được thiện thân đồng ba ngàn quốc độ. Nếu được năm năm hoặc mười năm niệm Phật A Di Đà, hoặc đến nhiều năm, sau đó sanh về nước Cực lạc liền được Tịnh độ pháp thân, nhiều hằng hà sa không thể nghĩ bàn. Trước đã nói quốc độ cõi uế, mạng căn ngắn ngủi báo thân chẳng dài lâu. Nếu người sanh về cõi Cực Lạc Phật A Di Đà thọ mạng lâu xa không thể nghĩ bàn, trải qua trăm ngàn kiếp đồng tuổi thọ với Phật A Di Đà. Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Phật bảo này Xá Lợi Phất! Đức Phật kia vì sao gọi là A Di Đà? Này Xá Lợi Phất! Mười phương trời người vãng sanh về nước kia sống lâu ức trăm ngàn kiếp đồng tuổi với Phật Vô Lượng Thọ nên gọi là A Di Đà. Vì vạy, các ông nên thấy lợi ích lớn như thế, mau nguyện vãng sanh." Kinh Thiện Vương Hoàng đế nói: "Có người học đạo muốn vãng sanh về quốc độ Phật A Di Đà, nhớ niệm một ngày đêm hoặc hai ngày đêm, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy ngày đêm, khi mạng chung có 8 vị Bồ tát đến tiếp dẫn người ấy về cõi Tây Phương của Phật A Di Đà." Có bài tụng rằng Có một chúng sanh về An Lạc Có đủ cả Ba mươi hai tướng Trí huệ đầy đủ vào Diệu pháp Diễn bày chánh pháp không chướng ngại Tùy căn lợi độn nhẫn thành tựu Ba nhẫn cho đến bất khả thuyết Túc mạng, ngũ thông thường tự tại Tiến đến thành Phật khỏi nẽo ác. Những người ở cõi trược ác kia Về đây thị hiện Đại Mâu Ni Sanh cõi An lạc lợi ích lớn Vì vạy một lòng nguyện vãng sanh. Chương Mười Chương này chỉ bày cách hồi hướng. Pháp môn Tịnh độ mười phương chư Phật đều khen ngợi và khuyên chúng sanh nên nguyện vãng sanh về. Chư Bồ tát trong 10 phương đều nguyện vãng sanh. Người trời muốn lợi ích lớn đều cầu sanh về. Nên Đại kinh có bài tụng: Thần lực A Di Đà vô cực Chư Phật mười phương đều khen ngợi Chư Phật hằng sa ở phương Đông Vô số Bồ Tát đều nguyện đến! Đồng để cúng dường nước An Lạc Bồ tát, Thinh văn cùng Đại Chúng. Nghe nhận kinh pháp lời dạy bảo Chín phương các nơi đều hồi hướng. Hồi hướng có nghĩa từ đây hướng đến kia như người tu tịnh nghiệp ở Ta Bà một lòng vãng sanh gọi là hồi đây hướng kia. Người tu Tịnh độ làm các công đức, hoặc tu tịnh nghiệp chánh nhơn hoặc tu tán thiện, nếu có lòng hồi hướng đều được vãng sanh. Vì thế, chúng ta thấy có người trọn đời tụng kinh Kim Cang không có niệm Phật, nhưng khi lâm chung được Phật đến rước là do sự hồi hướng này. Bởi vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mọi người đều có tâm nguyện thành Phật, nhưng chỗ tu hành nếu căn cứ vào thánh giáo, nếu chưa đủ một muôn kiếp, tức qua một A Tăng Kỳ kiếp là chưa ra khỏi nhà lửa, thoát hẳn luân hồi. Đức Thế Tôn vì thương xót hàng chúng sanh đang trầm luân, chịu vô cùng khổ sở, nên chỉ bày pháp môn Tịnh độ, khuyên hồi hướng Tây Phương sẽ được lợi ích. Công năng hồi hướng gồm có 6 thứ: a. Đem các nghiệp thiện tu tập hồi hướng vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. Đã đến nước kia liền được 6 thần thông trên thành Phật đạo dưới cứu độ chúng sanh. b. Hồi nhơn hướng quả là từ lúc gây nhơn đều hướng về một kết quả, như người gây nhơn tịnh nghiệp cõi Ta bà hướng về quả vô thượng vãng sanh Cực lạc. c. Hồi hạ hướng thượng: Từ địa vị phàm phu nguyện sanh Tịnh độ để viên mãn Phật quả. d. Hồi trì hướng tốc. Không theo các pháp tu chậm mà thẳng hướng về cách tu mau, như con mọt muốn vượt ra khỏi thân tre, không phải chậm chạp đục thủng 52 mắt tre mới ra ngoài, chỉ cần dùng phương tiện đục ngang thân tre là ra ngoài rất nhanh. Năm mươi ba mắt tre chỉ cho cách tu thông thường phải qua 3 A tăng kỳ kiếp mới thoát khỏi tam giới, người Niệm Phật chỉ cần một đời được vãng sanh là nhất sanh bổ xứ cho đến thành Phật. e. Hồi thí chúng sanh lòng từ hướng thiện. Người tu niệm Phật vãng sanh Tịnh độ không phải ham vui mà muốn thành Phật trở lại độ sanh. g. Trở lại độ sanh: Hành giả về Cực lạc rồi trở lại Ta Bà phân thân độ tất cả chúng sanh. Đại Kinh nói: “Có chúng sanh nào được sanh về nước ta, tự nhiên thắng tấn vượt qua các địa cho đến thành Phật.” Đại Kinh có bài tụng: Thanh văn Bồ tát cõi an lạc, Ở trong cõi này không so sánh, Thế Tôn vô ngại đại biện tài, Lập nhiều phương tiện để độ sanh. Chỉ về cõi kia được an ổn, Bao nhiêu cảnh giới khó sánh bằng, Đều do nguyện lực Pháp Tạng thành, Hết lòng đảnh lễ Đại Từ Tôn. Chương Mười Một Nhằm giải thích về thiện tri thức và luận khi lâm chung tốt xấu. 1- Khuyên nương nhờ thiện tri thức. Kinh Pháp Cú nói: "Bửu Minh Bồ Tát bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là Thiện Tri Thức. Phật dạy: "Thiện Tri Thức là những người có thể giảng dạy pháp mầu nhiệm. Nói pháp không, vô tướng, vô nguyện, các pháp bình đẳng, không nghiệp, không báo, không nhơn, không quả, cứu kính như như, trụ nơi thật tế. Tuy vậy ở chỗ cứu kính không đó, bỗng nhiên kiến lập tất cả các pháp, đó là thiện tri thức. Thiện tri thức này là cha mẹ nuôi dưõng thân Bồ đề của các ông. Thiện tri thức là con mắt huệ, có thể thấy tất cả thiện ác. Thiện tri thức là thuyền từ lớn chở các ông qua khỏi biển sanh tử. Thiện tri thức là sợi dây kéo các ông ra khỏi sanh tử. Đặc biệt Thiện tri thức chơn chánh cần khuyên chúng sanh cầu sanh Tịnh Độ. Vì sao? Vì ở trong nhà lửa này, vì gặp toàn nghịch cảnh nên phần nhiều bị lui sụt không thể thoát ly. Cho nên, ông Xá Lợi Phất ở cõi này phát tâm tu Bồ Tát hạnh trải quá 60 kiếp, nhưng gặp ác tri thức xin cặp mắt để hủy hoại chơi, liền bị thối chuyển. Nên biết ở nhà lửa tu Bồ tát đạo vô cùng khó khăn. Nên đa số thiện tri thức đều khuyên phát nguyện vãng sanh Tây phương. Một khi được vãng sanh thì 3 học tự nhiên thắng tấn, muôn hạnh đều đầy đủ. Nên Đại kinh nói: "Tịnh độ Phật A Di Đà không tạo ác dù nhỏ bằng sợi tơ." 2- Người sau khi chết. - Cõi này chúng sanh dương số tận đều phải theo hai nghiệp thiện ác dẫn đi thọ sanh, tiếp nối như vậy từ vô số kiếp đến nay chưa hề thoát khỏi. - Nếu người sanh lòng tin quy hướng về Tịnh độ, dốc lòng niệm Phật, khi mạng chung Phật A Di Đà cùng Bồ Tát Quan Âm và Thánh Chúng, phóng quang nghênh tiếp, hành giả hoan hỉ chấp tay theo Phật, ngồi trên đài sen, giây lát đến cõi Cực lạc, hưởng vô lượng sự vui, cho đến thành Phật. - Tất cả chúng sanh cõi này tạo nghiệp không đồng, có ba thứ thượng trung hạ nên phải đến Diêm Vương phán định. - Nếu người có duyên tin Phật nguyện sanh tịnh độ, chỉ tu các công đức, hành nghiệp đều hồi hướng nguyện vãng sanh. Khi mạng sắp lâm chung Phật tự đến đón về lại cố hương. Người sợ sanh tử nên suy gẫm lời khuyên này. Chương Mười Hai Chương này nhằm khuyên vãng sanh. Kinh Thập Vãng Sanh nói: "A Nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn tất cả chúng sanh phương pháp quán thân việc ấy thế nào? Xin Đức Thế Tôn vì con giảng nói. Phật bảo: Này A Nan! Nói về pháp quán thân là không quán Đông Tây Nam Bắc, không quán tứ vị thượng hạ, không quán hư không, không quán ngoại duyên, không quán nội duyên, không quán thân sắc, không quán sắc thinh, không quán sắc tượng, chỉ quán vô duyên (thật tướng) đó là pháp chánh quán chơn thân, trừ pháp quán thân này không có pháp nào khác mà được giải thoát. Phật lại bảo: A Nan! Người quán được thân (thật tướng) năng lực thiện tự nhiên khai phát chánh niệm tự nhiên giải thoát. Vì sao? Thí như có người tinh tấn trực tâm được giải thoát, những người như thế không cầu giải thoát mà giải thoát tự đến. A Nan lại bạch Phật, bạch Thế Tôn, chúng sanh ở thế gian nếu có chánh niệm giải thoát, thì lẽ ra không đọa tam ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh phải không? Phật bảo: Này A Nan! Sở dĩ chúng sanh trong thế gian không được giải thoát là vì tất cả thực hiện của họ phần nhiều dối trá, không có chơn thật, không có chánh niệm, vì nhơn duyên đó mà phần nhiều vào địa ngục, số giải thoát rất ít. Như có người đối với cha mẹ, sư trưởng bên ngoài hiện vẽ hiếu thuận, trong lòng ôm những điều bất hiếu, ngoài hiện tinh tấn, trong ôm ấp điều dối trá chẳng thật, những người ác như thế, quả báo tuy chưa đến mà cách ba đường ác chẳng xa, không có chánh niệm, không thể giải thoát. Này A Nan! ông nay lắng nghe, ta vì ông mà nói mười pháp vãng sanh, có thể giải thoát. Thế nào là 10 pháp? 1. Quán thân chánh niệm, lòng thường hoan hỉ đem các đồ ăn uống, y phục cúng dường Phật và Tăng, được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. 2. Dùng tâm chánh niệm đem các thứ lương dược cúng dường bệnh Tỳ Kheo tăng và tất cả chúng sanh, được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. 3. Dùng tâm chánh niệm không hại một sanh mạng, lòng từ bi đối với tất cả, được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. 4. Dùng tâm chánh niệm, theo giới sư thọ giới, tịnh tu phạm hạnh, tâm thường hoan hỷ. Được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. 5. Dùng tâm chánh niệm, hiếu thuận cha mẹ tôn thờ sư trưởng, không khởi lòng kiêu mạn, được sanh về cõi Phật A Di Đà. 6. Dùng tâm chánh niệm, cung kỉnh khi đến Tăng phòng, cung kỉnh khi vào tháp, chùa, lúc nghe pháp, hiểu đệ nhất nghĩa đế, được sanh về cõi Phật A Di Đà. 7. Dùng tâm chánh niệm, trong một ngày một đêm thọ trì bát quan trai giới, không phạm giới nào, được sanh về cõi Phật A Di Đà. 8. Dùng tâm chánh niệm, trong 1 tháng trai, ngày trai, xa lìa ngũ dục ân ái, thường đến học hỏi ở bậc thiện tri thức đạo xuất thế, được sanh về cõi Phật A Di Đà. 9. Dùng tâm chánh niệm, thường trì tịnh giới, siêng tu các pháp thiền định, tịnh ba nghiệp, được định không khoe khoang, nếu người tu hành như thế, được sanh về cõi Phật A Di Đà. 10. Dùng tâm chánh niệm, ở đạo Vô thượng không có lòng chê bai, tinh tấn trì tịnh giới, lại dạy cho người khác, cùng nhau lưu bố kinh điển này, dạy bảo vô lượng chúng sanh. Tất cả những người như thế được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. Lúc bấy giờ trong hội có Bồ Tát Sơn Hải Huệ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Cõi nước của Phật A Di Đà kia có những việc thù thắng diệu lạc gì mà tất cả chúng sanh đều nguyện vãng sanh về cõi kia? Phật bảo: Này Sơn Hải Huệ! Ông nên đứng dậy chấp tay, chánh thân hướng về Tây Phương, chánh niệm quán cõi nước và Phật A Di Đà, nguyện được thấy Phật A Di Đà. Lúc ấy tất cả Đại chúng cũng đều đứng dậy chấp tay, cùng quán Phật A Di Đà. Lúc ấy Phật A Di Đà hiện đại thần thông, phóng ánh sáng lớn, chiếu vào thân Bồ Tát Sơn Hải Huệ. Lúc ấy Bồ tát Sơn Hải Huệ cùng đại chúng liền thấy cõi nước của Phật A Di Đà, thấy rõ các việc hiện hảo trang nghiêm. Tất cả đều bằng 7 báu: núi bảy báu, quốc độ bảy báu, nước, chim, cây, rừng, thường nói pháp âm, cõi kia hằng ngày thường chuyển pháp luân. Cõi kia nhân dân không tập ngoại sự, chánh tập nội sự, miệng nói lời Phương Đẳng, tai nghe tiếng Phương đẳng, tâm hiểu nghĩa phương đăng. Lúc ấy, Bồ Tát Sơn Hải Huệ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con đã thấy cõi Cực lạc có nhiều thắng diệu và lợi ích không thể nghĩ bàn. Con nay nguyện tất cả chúng sanh đều nên phát nguyện vãng sanh và chúng con cũng nguyện vãng sanh về cõi ấy. Phật thọ ký cho và nói: Chánh quán, chánh niệm, được chánh giải thoát, tất cả đều được sanh về cõi kia. Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào có lòng tin chắc kinh này, ưa thích kinh này, dạy bảo chúng sanh cùng nói, cùng nghe đều được vãng sanh về cõi Phật A Di Đà. Nếu có những người như thế, từ ngày nay ta thường khiến 25 vị Đại Bồ tát hộ trì những người này, thường làm cho người này không có bệnh, không ưu não, nếu nhơn và phi nhơn không được tiện lợi đi đứng ngồi nằm, bất luận ngày đêm đều được an ổn. Bồ tát Sơn Hải Huệ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Con nay lãnh thọ lời dạy không dám có chút nghi. Nhưng ở đời có nhiều chúng sanh bài báng kinh này, không tin kinh này như thế người ấy bị quả báo về sau thế nào? Phật dạy: Này Sơn Hải Huệ! Đời sau trong cõi Diêm Phù Đề nếu có hàng Tỳ kheo, Tỳ Kheo ni, hoặc xem, hoặc đọc tụng kinh này sanh lòng sân hận, ôm lòng chê bai. Do sự chê bai chánh pháp này, người ấy hiện thân bị các thứ bệnh nặng, các căn không đủ, đui điếc câm ngọng, ma quỷ dựa nhập, ngồi đứng không yên, cầu sống không được, cầu chết không được. Hoặc khi chết đọa vào địa ngục tám muôn kiếp chịu khổ não lớn. Trăm ngàn muôn kiếp chưa từng nghe được tên ăn uống, nhiều kiếp sau này sanh vào súc sanh làm thân trâu ngựa heo dê để người giết ăn thịt, chịu nhiều điều cực khổ. Dù được làm người, thường sanh vào chỗ hạ tiện, trăm ngàn muôn kiếp không được tự tại. Vĩnh viễn không được nghe danh tự Tam Bảo. Vì thế, người không trí và người không tin đừng nói kinh này!" Kệ hồi hướng Đức lưu thông tuyển tập. Khắp thí cho tất cả, Trước phát tâm Bồ đề, Đồng hướng về Tịnh độ, Đều cùng thành Phật Đạo. Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 1 của AN LẠC TẬP. -------------oooo0O0oooo------------- AN LẠC TẬP - Bản dịch Việt ngữ số 2 Dịch giả: Như Hòa (Được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập T47 - Kinh số 1958 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển.) Một bộ An Lạc Tập này nói chung gồm mười hai đề mục lớn; [trong mỗi đề mục] đều dẫn kinh, luận chứng minh nhằm khuyên [hành nhân] tin tưởng mà cầu vãng sanh. A. Nay trước hết trong đề mục lớn thứ nhất, văn nghĩa tuy nhiều nhưng tạm chia thành chín loại để bàn định; sau đấy mới viết lời luận. 1. Thứ nhất là chỉ rõ nguyên nhân phát khởi giáo pháp, ước thời, xét căn cơ để khuyên quy hướng Tịnh Ðộ. 2. Thứ hai là căn cứ vào các bộ kinh Ðại Thừa để luận rõ quy tắc nói pháp và nghe pháp. 3. Thứ ba là căn cứ vào Ðại Thừa thánh giáo để bàn về việc chúng sanh phát tâm lâu mau, cúng Phật nhiều hay ít để khiến cho thính chúng trong hội nức lòng phát tâm. 4. Thứ tư là biện định tông chỉ của các kinh sai khác. 5. Thứ năm, giảng rõ: Tên các kinh được đặt cũng sai khác, chẳng hạn như Niết Bàn, Bát Nhã v.v... là dùng pháp đặt tên. Có kinh thì dùng thí dụ, có kinh thì dùng sự vật [để đặt tên], cũng có lúc đặt tên kinh theo thời, theo chốn; chứ chẳng phải chỉ có một cách đặt tên duy nhất. Nay Quán kinh đây dùng nhân và pháp để đặt tên: Phật là tên người; nói đến Quán Vô Lượng Thọ chính là tên của pháp vậy. 6. Thứ sáu là bàn định về người nói [pháp] sai biệt. Ðối với các kinh đã được nói thì chẳng ngoài năm loại: một là Phật tự nói, hai là thánh đệ tử nói, ba là chư thiên nói, bốn là thần tiên nói, năm là [những hạng] biến hóa nói. Trong năm loại trên thì Quán kinh do chính đức Thế Tôn tự nói. 7. Thứ sáu là lược giảng về hai thân chơn và ứng, bàn định về hai cõi chơn và ứng. 8. Thứ tám là chỉ rõ những địa vị trong cõi tịnh của Phật Di Ðà bao trùm các căn cơ thượng, hạ; phàm thánh đều cùng vãng sanh. 9. Thứ chín là bàn rõ cõi tịnh của Phật Di Ðà là thuộc vào hay chẳng thuộc vào tam giới. A1. Nguyên nhân phát khởi giáo pháp, ước thời, xét định căn cơ để khuyên quy hướng Tịnh Ðộ: Nếu giáo pháp tương xứng với thời và căn cơ thì dễ tu, dễ ngộ. Nếu căn cơ, giáo pháp lẫn thời điểm không tương hợp thì khó tu, khó nhập. Thế nên, kinh Chánh Pháp Niệm dạy: “Lúc hành giả nhất tâm cầu đạo thường phải nên quán sát thời và phương tiện. Nếu chẳng được thời và không phương tiện thì gọi là thất, chẳng gọi là lợi. Vì sao? Như dùi cây ướt để có lửa thì chẳng được lửa vì chẳng đúng thời vậy. Nếu chặt củi khô để kiếm nước thì chẳng kiếm được nước vì vô trí vậy”. Bởi thế, kinh Ðại Tập Nguyệt Tạng chép: “Năm trăm năm sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của ta học Huệ được kiên cố. Một ngàn năm sau, học Ðịnh được kiên cố. Một ngàn năm trăm năm sau, học Ða Văn đọc tụng được kiên cố. Hai ngàn năm trăm sau, tạo lập chùa tháp, tu phước sám hối được kiên cố. Hai ngàn năm trăm năm sau, bạch pháp ẩn trệ, lắm điều tranh cãi, chỉ có chút ít pháp lành được kiên cố”. Kinh ấy cũng lại dạy: “Chư Phật xuất thế có bốn pháp để độ chúng sanh. Những gì là bốn? Một là miệng nói ra mười hai bộ kinh, [đấy] chính là pháp thí độ chúng sanh. Hai là chư Phật Như Lai có vô lượng quang minh, tướng hảo, hết thảy chúng sanh chỉ cần chuyên tâm quán sát thì không ai chẳng được lợi ích; đấy chính là thân nghiệp độ chúng sanh. Ba là có vô lượng đức dụng, thần thông, đạo lực, các thứ biến hóa; đấy chính là thần thông lực độ chúng sanh. Bốn là chư Phật Như Lai có vô lượng danh hiệu hoặc là [danh hiệu] chung hoặc là [danh hiệu] riêng. Nếu có chúng sanh nào chuyên tâm xưng niệm thì không ai là chẳng trừ được chướng, được lợi lạc và được sanh ở trước đức Phật. Ðó chính là danh hiệu độ chúng sanh” Xét về chúng sanh hiện thời thì Phật diệt độ đã hai ngàn năm, chính là lúc [phải nên] sám hối, tu phước, xưng danh hiệu Phật vậy. Nếu xưng niệm A Di Ðà Phật trong một niệm thì sẽ trừ được tội trong cả tám mươi ức kiếp sanh tử. Một niệm đã như vậy, huống hồ là thường tu niệm! Ðấy chính là người thường luôn sám hối vậy. Lại nữa, nếu như khi Phật diệt độ chưa lâu thì những việc trước như tu Ðịnh, tu Huệ là chánh học, còn những việc sau (sám hối, tu phước) chỉ là kiêm hạnh. Nếu như Phật diệt độ đã lâu thì Xưng Danh là chánh học, còn những việc trước chỉ là kiêm hạnh. Tại sao vậy? Ðấy thật sự là vì chúng sanh xa cách Phật đã lâu, căn cơ, kiến giải hời hợt, cạn cợt, ám độn. Bởi thế, đại sĩ Vy Ðề Hy tự vì mình và cũng vì xót thương chúng sanh trong đời ngũ trược mai sau luân hồi nhiều kiếp, chịu đựng nỗi đớn đau, thiêu đốt; nhân gặp duyên khổ, ngài bèn thỉnh cầu đức Phật mở ra con đường xuất thế thênh thang. Ðức Ðại Thánh rủ lòng từ, khuyên quy Cực Lạc. Nếu muốn trong cõi này tấn tu để đạt được quả thù thắng khó đạt thì chỉ có mỗi một môn Tịnh Ðộ là có thể [giúp hành nhân] thỏa lòng mong mỏi. Nếu như tìm xem trong các kinh thì những đoạn khuyên tu Tịnh Ðộ rất nhiều, [nên tôi] bèn sưu tập những lời chơn thật ấy để giúp cho người tu được lợi ích. Lợi ích gì? Muốn do người vãng sanh trước dẫn dắt người hậu học, người được vãng sanh sau lại noi gương người trước, liên tục vô cùng, nguyện chẳng ngưng nghỉ để cạn sạch biển sanh tử vô biên vậy. A2. Căn cứ vào các bộ kinh Ðại Thừa để luận về phương thức giảng và nghe pháp. Phần này gồm có sáu ý: 1. Kinh Ðại Tập dạy: “Ðối với người thuyết pháp, tưởng là y vương, tưởng là dẹp khổ. Ðối với pháp được nói, tưởng là Cam Lộ, tưởng là Ðề Hồ. Người nghe pháp tưởng là được tăng trưởng kiến giải thù thắng, tưởng là lành bịnh. Nếu tưởng được như thế thì người nói lẫn kẻ nghe đều kham nổi việc thiệu long Phật pháp, thường sanh ở trước đức Phật”. 2. Luận Ðại Trí Ðộ chép: “Người nghe nhìn chăm chú như người khát mong được uống, nhất tâm lãnh hội ngữ nghĩa. Nghe pháp tâm hớn hở, buồn, vui. Ðối với người như thế thì mới nên nói”. 3. Trong bộ luận trên cũng viết: “Có hai hạng người được phước vô lượng vô biên. Những gì là hai? Một là người thích thuyết pháp, hai là người thích nghe pháp. Thế nên ngài A Nan bạch đức Phật rằng: ‘Vì sao Xá Lợi Phất, Mục Liên đắc trí huệ, thần thông thật là thù thắng nhất trong các vị thánh đệ tử?’ Phật bảo A Nan: ‘Hai người ấy trong lúc tu nhân vì nhân duyên [nghe] pháp dẫu cách xa cả ngàn dặm cũng chẳng ngăn trở được họ [đến nghe]. Vì thế ngày nay họ thật là thù thắng”. 4. Trong Vô Lượng Thọ Ðại kinh có nói: “Nếu người không có căn lành thì chẳng được nghe kinh này. Kẻ thanh tịnh trì giới mới được nghe chánh pháp”. 5. (*) Ðã từng gặp Thế Tôn, Mới tin nổi việc này Phụng sự ức Như Lai Ưa nghe pháp như vậy 6. Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Giác dạy: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe nói pháp môn Tịnh Ðộ tâm sanh bi, hỉ, lông trên thân dựng đứng cả lên thì nên biết là kẻ ấy đời trước đã từng tu Phật đạo. Nếu lại có kẻ nghe nói pháp môn Tịnh Ðộ mà trọn chẳng sanh lòng tin thì nên biết là kẻ ấy mới vừa từ trong ba đường ác thoát ra, tội lỗi chưa hết nên chẳng tin tưởng nổi pháp môn này vậy. Ta nói kẻ ấy chưa giải thoát được”. Thế nên, Vô Lượng Thọ Ðại kinh dạy: “Do kiêu mạn và lười biếng che lấp nên khó tin được pháp này”. A3 Căn cứ vào Ðại Thừa thánh giáo, bàn về chúng sanh phát tâm lâu mau, cúng Phật nhiều, ít: Như kinh Niết Bàn chép: “Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: ‘Nếu có chúng sanh phát tâm Bồ Ðề nơi các đức Phật nhiều như nửa số cát của sông Hằng, sông Hy Liên v.v… thì sau mới có thể ở trong đời ác nghe kinh điển Ðại Thừa này mà chẳng sanh phỉ báng. Nếu phát tâm Bồ Ðề nơi một hằng hà sa đức Phật thì sau mới có thể ở trong đời ác nghe kinh này mà chẳng khởi phỉ báng, tin sâu, yêu thích. Nếu có người phát tâm Bồ Ðề nơi hai hằng hà sa đức Phật thì sau mới có thể ở trong đời ác chẳng báng pháp này, hiểu đúng đắn, tin ưa, thọ trì, đọc tụng. Nếu có người phát tâm Bồ Ðề nơi ba hằng hà sa đức Phật thì sau mới có thể ở trong đời ác chẳng báng pháp này, biên chép kinh quyển, tuy giảng cho người khác nhưng chẳng hiểu được nghĩa sâu”. Vì sao thế? Cứ theo như lời dạy trên mà lượng định thì rõ ràng là người ngày nay được ở dưới tòa nghe kinh là kẻ đã từng phát tâm cúng dường nhiều đức Phật. Lại để hiển thị oai lực chẳng thể nghĩ bàn của kinh Ðại Thừa nên kinh trên lại dạy: “Nếu có chúng sanh nghe kinh điển này thì trong cả ức trăm ngàn kiếp sẽ chẳng đọa ác đạo. Vì cớ sao? Kinh điển mầu nhiệm này truyền đến đâu thì phải biết đất chỗ ấy chính là kim cang. Những người ở nơi ấy cũng như kim cang”. Vì thế, ta biết được rằng: nghe kinh sanh lòng tin sẽ được lợi ích chẳng thể nghĩ bàn vậy. A4. Bàn định về tông chỉ các kinh chẳng đồng: Nếu xét theo kinh Niết Bàn thì Phật Tánh là tông. Nếu xét kinh Duy Ma, bất khả tư nghị giải thoát là tông. Nếu xét theo kinh Bát Nhã thì Không Huệ là tông. Nếu xét theo kinh Ðại Tập thì đà-ra-ni là tông. Nay Quán kinh đây lấy Quán Phật Tam Muội làm tông. Nếu bàn về những sự được quán thì chẳng ngoài hai thứ là chánh báo và y báo, ở phần dưới sẽ căn cứ vào các phép quán để bàn định. Nếu chiếu theo kinh Quán Phật Tam Muội thì: “Phật bảo phụ vương: -Chư Phật xuất thế có ba điều lợi ích: a. Một là miệng nói mười hai bộ kinh là pháp thí lợi ích, trừ được vô minh ám chướng của chúng sanh, [khiến họ] mở sáng con mắt trí huệ, được sanh nơi chư Phật, sớm đắc Vô Thượng Bồ Ðề. b. Hai là chư Phật Như Lai có thân tướng quang minh, vô lượng diệu hảo. Nếu có chúng sanh xưng niệm, quán sát dù là tổng tướng hay biệt tướng, chẳng luận là thân Phật hiện tại hay quá khứ thì đều sẽ khiến cho chúng sanh trừ diệt được tứ trọng, ngũ nghịch, mãi mãi thoát khỏi tam đồ, tùy lòng ưa muốn thường được sanh về Tịnh Ðộ cho đến khi thành Phật. c. Ba là khuyên phụ vương thực hành Niệm Phật tam muội. Phụ vương bạch Phật: -Vì nguyên nhân nào mà Phật chẳng dạy đệ tử thực hành Chơn Như Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không của quả đức Phật địa? Phật bảo phụ vương: -Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới, thần thông giải thoát thâm diệu, chẳng phải là cảnh giới để phàm phu tu hành được nổi! Vì thế, Phật khuyên phụ vương tu hành Niệm Phật tam muội. Phụ vương bạch Phật: -Công năng niệm Phật có hình trạng như thế nào? Phật bảo phụ vương: -Như trong rừng Y Lan rộng đến bốn mươi do tuần có một hột Ngưu Ðầu Chiên Ðàn, tuy có mầm mộng nhưng chưa mọc lên thì rừng Y Lan ấy chỉ hôi thối chẳng thơm. Nếu có ai ăn phải hoa, trái [của cây Y Lan] thì phát cuồng mà chết. Lúc sau, rễ mầm của cây Chiên Ðàn dần dần tăng trưởng, khi nó vừa sắp trở thành cây to thì mùi thơm đã nồng sực, có thể biến đổi cả khu rừng ấy trở thành thơm tho. Chúng sanh trông thấy đều sanh tâm hy hữu. Phật bảo phụ vương: -Tâm niệm Phật của hết thảy chúng sanh trong sanh tử cũng giống như vậy: chỉ cốt có thể hệ niệm chẳng ngơi thì quyết định được sanh ở trước đức Phật; một phen được vãng sanh sẽ có thể biến đổi hết thảy điều ác thành ra đại từ bi giống như loại cây thơm tho kia biến đổi cả rừng Y Lan”. Rừng Y Lan vừa nói đó ví cho ba độc, ba chướng, vô biên trọng tội trong thân chúng sanh. Nói Chiên Ðàn là ví cho tâm niệm Phật của chúng sanh. “Lúc vừa mới thành cây” là nói hết thảy chúng sanh chỉ cần xưng niệm chẳng ngớt thì nghiệp đạo được hoàn thành vậy. Hỏi: Vì sao sức của một niệm lại có thể đoạn được hết thảy các chướng giống như một cây có mùi thơm lại biến đổi được cả khu rừng Y Lan rộng đến bốn mươi do tuần trở thành thơm tho? Ðáp: Căn cứ theo các bộ kinh Ðại Thừa thì rõ ràng là Niệm Phật có công năng chẳng thể nghĩ lường. Vì sao? Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như có người dùng gân sư tử làm dây đàn, tiếng đàn vừa tấu lên một lượt thì hết thảy các loại dây đàn khác đều bị đứt tan. Nếu ai dùng tâm Bồ Ðề hành Niệm Phật tam muội thì hết thảy phiền não, hết thảy các chướng đều bị đoạn diệt. Cũng như có người đem đổ lẫn hết thảy các loại sữa: bò, dê, lừa, ngựa trong một đồ đựng; nếu đem một giọt sữa sư tử nhỏ vào thì sữa sư tử sẽ xuyên suốt qua không bị ngăn trở, hết thảy các thứ sữa khác thảy đều bị hư nát, biến thành nước lã. Nếu ai có thể dùng tâm Bồ Ðề hành Niệm Phật tam muội thì sẽ vượt qua hết thảy các ác ma, các chướng không bị trở ngại”. Kinh ấy lại còn dạy: “Ví như có kẻ dùng thuốc ẩn thân du hành khắp nơi, hết thảy kẻ khác chẳng thấy được kẻ ấy. Nếu ai có thể dùng tâm Bồ Ðề hành Niệm Phật tam muội thì hết thảy ác thần, hết thảy các chướng chẳng thấy được người ấy. Người ấy muốn đến đâu cũng không ai ngăn cản được, huống hồ là có thể gây chướng! Vì sao như vậy? Niệm Phật tam muội đây chính là vua của hết thảy các tam muội vậy”. A5. Lược giảng về ý nghĩa ba thân, ba cõi Hỏi: Thân đang hiện hữucủa đức Phật A Di Ðà là thân gì? Cõi Cực Lạc là cõi gì? Ðáp: Thân hiện hữu của đức Phật A Di Ðà là báo Phật (Báo Thân Phật), cõi báu trang nghiêm Cực Lạc là báo độ.Từ xưa các sư đều truyền rằng A di Ðà Phật là Hóa Thân, cõi Cực Lạc cũng là hóa độ; đấy là một sai lầm lớn. Nếu đúng là như vậy thì uế độ cũng là chỗ ở của Hóa Thân, Tịnh Ðộ cũng là chỗ Hóa Thân ở, chẳng biết Báo Thân của đức Như Lai sẽ ở chỗ nào? Nay căn cứ vào kinh Ðại Thừa Ðồng Tánh để biện luận về tịnh, uế, báo, hóa thì như kinh dạy: “Thành Phật trong cõi tịnh phải là Báo Thân. Thành Phật trong cõi uế phải là Hóa Thân”. Kinh ấy lại dạy: “Các đức Như Lai: A Di Đà Như Lai, Liên Hoa Khai Phu Tinh Vương Như Lai, Long Chủ Vương Như Lai, Bảo Ðức Như Lai... hiện tại đắc đạo hoặc sẽ đắc đạo trong các cõi Phật thanh tịnh. Các vị như vậy đều là Báo Thân Phật. Những vị nào là Như Lai Hóa Thân? Như hiện tại Dũng Bộ Kiện Như Lai, Ma Khủng Bố Như Lai… hết thảy các đức Như Lai như vậy hoặc là hiện tại thành Phật, hoặc sẽ thành Phật trong đời uế trược: từ trời Ðâu Suất giáng hạ cho đến trụ trì hết thảy Chánh Pháp, hết thảy Tượng Pháp, hết thảy Mạt Pháp… có các sự hóa hiện như thế đều là hóa Phật cả. Những gì là Như Lai Pháp Thân? Chơn Pháp Thân của Như Lai vô sắc, vô hình, vô hiện, vô trước, chẳng thấy được, chẳng nói được, không có trụ xứ, vô sanh, vô diệt. Ðó là ý nghĩa thật sự của Pháp Thân”. Hỏi: Báo thân của Như Lai là thường trụ, thế sao kinh Quán Âm Bồ Tát Thọ Ký chép: “Sau khi Phật A di Ðà nhập Niết Bàn, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ nối ngôi thành Phật?” Ðáp: Ấy là Báo Thân thị hiện tướng ẩn mất chứ chẳng phải là diệt độ. Kinh ấy chép: “Sau khi Phật A Di Ðà nhập Niết Bàn, lại có chúng sanh căn lành sâu dày thì lại được thấy như cũ”, [đoạn kinh này] có thể dùng để làm chứng vậy. Luận Bảo Tánh cũng chép: “Báo thân có năm thứ tướng: thuyết pháp và có thể thấy được, các nghiệp chẳng ngơi nghỉ và ngơi nghỉ ẩn mất (tức là thị hiện nhập diệt), thị hiện thân chẳng thật”, ta có thể lấy câu này làm bằng chứng vậy. Hỏi: Báo thân cùng báo độ của Thích Ca Như Lai ở tại phương nào? Ðáp: Kinh Niết Bàn chép: “Từ đây đi qua phương Tây khỏi bốn mươi hai hằng sa cõi Phật có thế giới tên là Vô Thắng, tất cả sự trang nghiêm trong cõi ấy cũng giống hệt như trong thế giới Tây phương Cực Lạc chẳng khác. Ta xuất hiện nơi đời trong cõi ấy. Vì hóa độ chúng sanh nên hiện thân trong cõi Sa Bà này. Chẳng phải chỉ mình ta xuất hiện trong cõi này mà hết thảy Như Lai cũng đều giống như thế’, ta có thể lấy đoạn kinh này làm chứng cớ vậy. Hỏi: Như kinh Cổ Âm Vương nói A Di Ðà Phật có cha mẹ thì biết rõ [thân Phật ấy, cõi nước ấy] chẳng phải là báo Phật, báo độ hay sao? Ðáp: Ông chỉ nghe danh tự mà chẳng chịu suy xét thấu đáo ý chỉ của kinh đến nỗi đối với mối nghi ngờ có thể nói là chỉ sai sót tựa như mảy lông ấy mà lầm lạc đến cả ngàn dặm. Dĩ nhiên, A Di Ðà Phật cũng có đủ ba thân, thân xuất hiện trong cõi Cực Lạc là Báo Thân. Nay nói ngài có cha mẹ thì đó chính là cha mẹ của Hóa Thân thị hiện trong uế độ vậy; cũng như Thích Ca Như Lai ở trong tịnh độ thành tựu Báo Thân, khi ngài ứng hiện trong cõi này cũng thị hiện có cha mẹ, trở thành hóa Phật. Ðức A Di Ðà Phật cũng giống như thế. Lại như kinh Cổ Âm Thanh Vương có chép: “Lúc bấy giờ, A Di Ðà Phật cùng ở chung với chúng Thanh Văn. Cõi nước tên là Thanh Thái, là chỗ ở của thánh vương. Thành ấy rộng rãi mười ngàn do tuần. Cha của Phật A Di Ðà là Chuyển Luân Thánh Vương; vua tên Nguyệt Thượng. Mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan. Ma Vương tên Vô Thắng. Con Phật tên Nguyệt Minh. Ðề Bà Ðạt Ða tên Tịch Ý. Ðệ tử hầu hạ tên Vô Cấu Xưng”. Những câu vừa dẫn ra trên đây đều là tướng trạng của Hóa Thân. Nếu là Tịnh Ðộ, lẽ nào lại có Luân Vương và thành quách, nữ nhân v.v... hay sao? Ðấy chính là đối với những nghĩa lý tiềm ẩn trong kinh văn đều chẳng khéo phân biệt, suy xét đến cùng tột nên đến nỗi mê lầm nơi danh tự, sanh ra chấp trước vậy. Hỏi: Nếu Báo Thân có tướng ẩn mất, ngưng nghỉ thì Tịnh Ðộ cũng có thành, hoại hay sao? Ðáp: Ðối với lời cật vấn như vậy, tự xưa đến nay nghĩa lý cũng khó thông. Tuy nhiên, tôi nay dám xin dẫn kinh để làm chứng hòng thấu hiểu được nghĩa lý ấy. Ví như thân Phật là thường trụ mà chúng sanh thấy có nhập Niết Bàn; tịnh độ cũng thế: thể tánh của nó chẳng có thành lẫn hoại nhưng tùy theo cái thấy của chúng sanh mà có thành, có hoại. Như kinh Hoa Nghiêm đã dạy: “Ví như thấy đạo sư có vô lượng các thứ hình sắc tùy theo tâm hạnh; chúng sanh thấy cõi Phật cũng như vậy’. Vì thế,Tịnh Ðộ luận viết: “Do một chất chẳng thành nên tịnh, uế có vơi, đầy. Do dị chất chẳng thành nên truy xét đến căn nguyên liền mờ mịt. Do không chất chi chẳng thành nên duyên khởi thành vạn tượng ”. Do đó, ta biết rằng: nếu xét trên phương diện pháp tánh Tịnh Ðộ thì chẳng luận định là thanh hay trược; còn nếu xét về mặt báo, hóa đại bi thì không có chi là chẳng thuộc về tịnh hay uế cả! Nếu lại bàn chung về các cõi Phật thì do căn cơ cảm ứng chẳng đồng nên có ba thứ sai biệt: a. Một là từ nơi Chơn hiện ra Báo, nên gọi là Báo Ðộ, giống như ánh sáng mặt trời chiếu xuống tứ thiên hạ: Pháp Thân như mặt trời; Báo Thân và Hóa Thân như ánh nắng. b. Hai là không mà chợt có nên gọi là “hóa” như Tứ Phần Luật chép: “Ðịnh Quang Như Lai hóa ra thành Ðề Bà và thành Bạt Ðề ở gần nhau, [người trong thành] thân cận, kết hôn, qua lại với nhau. Lúc sau ngài chợt hóa ra lửa thiêu trụi hết cả khiến cho các chúng sanh thấy sự vô thường ấy rồi không ai là chẳng sanh lòng chán chường, quy hướng Phật đạo”. Vì thế kinh dạy: “Hoặc hiện kiếp hỏa thiêu đốt trời đất đều rỗng toang cả [khiến cho] chúng sanh có quan niệm hữu thường bèn thấu hiểu vô thường. Hoặc để cứu giúp kẻ nghèo bèn hiện lập kho báu vô tận, tùy duyên chỉ bảo đủ cách, hóa độ họ phát tâm Bồ Ðề”. c. Ba là ẩn uế hiện tịnh như trong kinh Duy Ma, Phật dùng ngón chân bấm xuống đất khiến cả cõi Tam Thiên không có chỗ nào là chẳng nghiêm tịnh cả. Nay cõi Phật Vô Lượng Thọ là từ chơn hiện ra báo vậy, vì sao biết được như vậy? Cứ theo như kinh Quán Âm Thọ Ký dạy: “Trong vị lai, khi Quán Âm thành Phật sẽ thay thế chỗ Phật A Di Ðà” cho nên biết là báo độ vậy. A6. Cõi tịnh của Phật A Di Ðà thâu tóm thượng căn, hạ căn, thánh phàm đều cùng vãng sanh Nay cõi tịnh của Phật Vô Lượng Thọ chính là Báo Tịnh Ðộ. Do nguyện lực của Phật nên cõi ấy nhiếp thủ trọn vẹn thượng căn lẫn hạ căn; thậm chí phàm phu làm lành cũng được vãng sanh [cõi ấy]. Vì cõi ấy nhiếp thủ thượng căn nên Thiên Thân, Long Thọ và các vị Ðịa Thượng Bồ Tát (Bồ Tát đã chứng các địa vị trong Thập Ðịa) cũng đều vãng sanh. Do đó, Ðại kinh chép: “Di Lặc Bồ Tát hỏi Phật: “Chẳng hay trong cõi này có bao nhiêu vị bất thối Bồ Tát được sanh về cõi kia?’ Phật dạy: ‘Thế giới Sa Bà này có sáu mươi bảy ức bất thối Bồ Tát đều sẽ vãng sanh”. Nếu muốn dẫn chứng chi tiết thì [có thể nói đại lược là] trong các phương khác, [số lượng các Bồ Tát được vãng sanh] cũng giống như vậy. Hỏi: Ðã bảo là xét về mặt địa vị [tu chứng] thì cõi tịnh của Phật Di Ðà gồm trọn cả thượng căn lẫn hạ căn, chẳng luận là phàm hay thánh cùng đều được vãng sanh, nhưng chưa rõ là chỉ có người tu Vô Tướng mới được vãng sanh, chứ còn kẻ phàm phu hữu tướng thì cũng có được vãng sanh hay chăng? Ðáp: Phàm phu trí cạn, phần nhiều phải dựa vào tướng để cầu, họ quyết định được vãng sanh, nhưng do sức thiện căn hữu tướng nhỏ nhoi nên chỉ được sanh trong cõi hữu tướng, chỉ thấy được Báo Thân cùng Hóa Thân của Phật. Vì thế, trong phẩm Bồ Tát Bổn Hạnh của kinh Quán Phật Tam Muội, có nói: “Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: -Con nhớ trong quá khứ vô lượng kiếp số, lúc con còn là phàm phu. Trong thời ấy có đức Phật hiệu là Bảo Oai Ðức Thượng Vương Như Lai. Lúc đức Phật ấy xuất thế cũng giống hệt như ngày nay không khác. Thân đức Phật ấy cũng cao một trượng sáu, thân màu tử kim, giảng pháp Tam Thừa giống như đức Phật Thích Ca Văn. Lúc bấy giờ, trong cõi ấy có vị đại trưởng giả tên là Nhất Thiết Thí. Trưởng giả có đứa con tên là Giới Hộ. Lúc con còn nằm trong thai, bà mẹ vì kính tin nên đã thọ sẵn Tam Quy Y. Sau khi con đã sanh ra, đến năm lên tám, cha mẹ thỉnh Phật đến nhà cúng dường. Ðứa bé thấy Phật bèn lễ đức Phật, do tâm kính sâu xa nên mắt [nhìn Phật] chẳng tạm rời. Do một phen thấy Phật liền trừ được tội lỗi trong cả trăm vạn ức na do tha kiếp sanh tử. Từ đấy trở đi, thường sanh trong Tịnh Ðộ, liền được gặp gỡ trăm ức na do tha hằng hà sa Phật. Các đức Thế Tôn ấy cũng đều dùng tướng hảo để độ thoát chúng sanh. Khi ấy, đối với mỗi một đức Phật, đứa bé đều thân cận hầu hạ, chưa từng gián đoạn hay bỏ lỡ việc lễ bái, cúng dường, chắp tay quán Phật. Do sức nhân duyên ấy, lại được gặp gỡ trăm vạn a tăng kỳ đức Phật. Các đức Phật ấy cũng dùng sắc thân tướng hảo để hóa độ chúng sanh. Từ ấy trở đi, [đồng tử] liền đắc trăm ngàn ức pháp môn Niệm Phật tam muội và còn chứng đắcatăng kỳ đà-ra-ni môn. Ðã chứng đắc các môn ấy rồi thì chư Phật hiện tiền bèn giảng cho đồng tử pháp Vô Tướng. Trong khoảnh khắc liền đắc Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Ðồng tử khi ấy chỉ thọ Tam Quy, do một phen lễ Phật, quán kỹ thân Phật, tâm không chán nhọc nhưng do nhân duyên đấy được gặp vô số Phật; huống hồ là kẻ hệ niệm đầy đủ, tư duy quán sát sắc thân Phật. Ðồng tử khi ấy há phải người nào khác mà chính là thân con vậy! Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen ngài Văn Thù rằng: -Lành thay, lành thay, ông do một phen lễ Phật nên được gặp vô số chư Phật, huống là những đệ tử ân cần quán Phật, ân cần niệm Phật trong đời vị lai của ta. Phật truyền A Nan: “Ông đem lời của văn Thù Sư Lợi bảo khắp đại chúng và chúng sanh đời vị lai: nếu ai hay lễ Phật, nếu ai hay niệm Phật, nếu ai hay quán Phật thì nên biết là kẻ ấy bằng với Văn Thù Sư Lợi không khác. Xả thân rồi thì trong đời sau, các vị Bồ Tát: Văn Thù Sư Lợi v.v... sẽ làm hòa thượng của kẻ ấy”. Lấy đoạn kinh này làm chứng thì biết rằng Tịnh Ðộ bao gồm cả cõi hữu tướng, [kẻ phàm phu được] vãng sanh chẳng sai. Nếu biết lấy vô tướng ly niệm làm thể, duyên theo đó để cầu vãng sanh thì phần nhiều sẽ sanh trong bậc thượng. Vì thế, Thiên Thân Bồ Tát luận rằng: “Nếu có thể quán hai mươi chín thứ trang nghiêm thanh tịnh thì [hai mươi chín thứ trang nghiêm ấy có thể nói] đại lược là nhập trong một pháp cú. Một pháp cú chính là thanh tịnh cú. Thanh tịnh cú tức là trí huệ vô vi Pháp Thân vậy”. Vì sao lại có tướng chứng nhập rộng hay lược? Chỉ v́ chư Phật, Bồ Tát có hai thứ Pháp Thân: Một là Pháp Tánh Pháp Thân; hai là Phương Tiện Pháp Thân. Từ Pháp Tánh Pháp Thân sanh ra Phương Tiện Pháp Thân; từ Phương Tiện Pháp Thân hiển xuất Pháp Tánh Pháp Thân. Hai thứ Pháp Thân này tuy khác nhưng bất khả phân, tuy là một nhưng lại chẳng đồng. Vì thế mới có tướng chứng nhập lược hay rộng. Bồ Tát nếu chẳng biết tướng chứng nhập rộng hay lược thì chẳng thể lợi mình và lợi người. Vô Vi Pháp Thân chính là Pháp Tánh Thân. Do pháp tánh tịch diệt nên Pháp Thân vô tướng. Vì Pháp Thân vô tướng nên không có tướng gì là chẳng thành tựu được. Vì thế, tướng hảo trang nghiêm chính là Pháp Thân. Vì Pháp Thân vô tri nên không chi là không biết; do đó, Nhất Thiết Chủng Trí chính là trí huệ chơn thật. Tuy xét về mặt duyên quán thì thành ra có hai thứ Tổng Quán và Biệt Quán, nhưng không có gì chẳng phải là Thật Tướng. Do biết Thật Tướng nên biết được tướng hư vọng của chúng sanh trong tam giới. Do biết chúng sanh trong tam giới đều là hư vọng nên liền khởi lòng từ bi chơn thật. Do đã biết được lòng từ bi chơn thật nên liền khởi tâm quy y chơn thật. Ở đây, chẳng cần biết hành giả là Tăng hay Tục, hễ ai hiểu được rằng Sanh và Vô Sanh chẳng hề trái nghịch với Nhị Đế thì phần nhiều sẽ được vãng sanh trong bậc thượng vậy. A7. Bàn định Tịnh Ðộ Di Ðà là thuộc vào tam giới hay chẳng thuộc? Hỏi: Xét trong tam giới, cõi nước An Lạc thuộc về giới nào? Ðáp: Tịnh Ðộ thể tánh mầu nhiệm tột bực vượt hẳn thế gian. Cõi tam giới đây chính là nhà tối của phàm phu sanh tử; tuy là có khổ vui hơn kém, dài ngắn sai khác, nhưng xét chung thì không đâu chẳng phải là bờ bến hữu lậu dài lâu, khởi lên, Ẩn mất tiếp nối, tuần hoàn không ngằn mé (ý nói: thế gian thành rồi hoại, hoại rồi lại thành liên tục), tạp sanh chung đụng (gọi là tạp sanh là vì thế gian có các loài noãn, sanh, thấp, hóa), Tứ Ðảo ngập tràn, nào nhân, nào quả, hư ngụy tích tập hết sức đáng chán. Do đó, Tịnh Ðộ chẳng thuộc vào tam giới. Hơn nữa, theo Trí Ðộ Luận: “Vì quả báo Tịnh Ðộ là vô dục nên [Tịnh Ðộ] chẳng phải là Dục giới. Do ở trên đất nên chẳng phải là Sắc giới. Do có hình sắc nên chẳng phải là Vô Sắc giới”. Tuy nói là ở trên đất (địa cư) nhưng tinh xảo, thù thắng, mầu nhiệm tuyệt vời, cho nên ngài Thiên Thân luận rằng: “Quán tướng thế giới ấy, Trỗi vượt cả tam giới. Rốt ráo dường hư không, Rộng lớn không ngằn mé”. Cũng vì thế mà bài tán Ðại kinh đã viết: “Cõi diệu rộng lớn ngoài hạn số, Tự nhiên do bảy báu hợp thành, Do Phật nguyện lực trang nghiêm thành. Kính lạy Thanh Tịnh Ðại Nhiếp Thọ! Thế giới sáng ngời, đẹp tuyệtvời Sung sướng, an ổn, không bốn mùa. Sức tự lợi, lợi tha viên mãn, Quy mạng Phương Tiện Xảo Trang Nghiêm”. B. Trong đề mục lớn thứ hai, có ba ý bàn định. *Một là luận về phát Bồ Ðề tâm. * Hai là phá dị kiến tà chấp. *Ba là nêu rộng các thứ vấn đáp, giải thích để dứt nghi tình. B1. Phát Bồ Ðề tâm: Trong phần này, có bốn ý: một là nêu lên công dụng của Bồ Ðề tâm; hai là nói đến danh và thể của Bồ Ðề; ba là chỉ rõ phát tâm có sai khác; bốn là vấn đáp giải thích. B1.1 Công dụng của Bồ Ðề tâm: Ðại kinh dạy: “Phàm muốn vãng sanh Tịnh Ðộ, cần phải lấy phát tâm Bồ Ðề làm nguyện’. Bồ Ðề là gì? Ấy là tên gọi của Vô Thượng Phật đạo. Nếu muốn phát tâm làm Phật thì tâm ấy rộng lớn trọn khắp cả pháp giới. Xét đến cùng tột thì tâm ấy bằng với hư không. Tâm ấy lâu xa đến tột cùng đời vị lai; tâm ấy trọn khắp, rời lìa Nhị Thừa chướng. Nếu có thể một phen phát được tâm ấy thì ắt sẽ dứt được mối sanh tử từ vô thỉ; tất cả công đức hồi hướng Bồ Ðề đều có thể vọng hướng về Phật quả, không gì bị mất mát. Ví như thứ hoa lạ Ngũ Tịnh, nắng gió chẳng làm héo nổi nó; sông thiêng Phụ Thủy dù trong đời có hạn hán, nước vẫn chẳng cạn. B1.2 Danh và thể của Bồ Ðề: Bồ Ðề có ba thứ: một là Pháp Thân Bồ Ðề, hai là Báo Thân Bồ Ðề, ba là Hóa Thân Bồ Ðề. Nói Pháp Thân Bồ Ðề là chỉ cho Chơn Như Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không: Tự tánh thanh tịnh, thể chẳng uế nhiễm, lý xuất thiên chơn, chẳng phải do tu tập mà thành nên gọi là Pháp Thân. Cái thể của Phật đạo vốn gọi là Bồ Ðề. Báo Thân Bồ Ðề là tu trọn vạn hạnh nên cảm được cái quả là Báo Thân Phật. Do cái quả ứng với cái nhân nên gọi là Báo Thân; vì viên thông vô ngại nên gọi Bồ Ðề. Hóa Thân Bồ Ðề là từ báo khởi ra công dụng để thích ứng với muôn căn cơ nên gọi là Hóa Thân; vì lợi ích muôn loài một cách viên thông nên gọi là Bồ Ðề. B1.3 Chỉ rõ phát tâm có sai khác: Nay nói về hành giả tu nhân phát tâm thì phải hội đủ ba điều: -Một là cần phải hiểu thấu có không, từ trước đến nay, tự tánh vốn thanh tịnh. -Hai là tu theo vạn hạnh, tám vạn bốn ngàn các ba la mật môn v.v... -Ba là lấy đại từ bi làm gốc, luôn nghĩ tưởng đến việc lấy chuyện độ sanh làm chí nguyện. Ba cái nhân ấy tương ứng với Ðại Bồ Ðề nên gọi là “phát Bồ Ðề tâm”. Lại như Tịnh Ðộ Luận đã viết: “Nay nói phát tâm Bồ Ðề thì đó chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là tâm cứu độ chúng sanh. Tâm cứu độ chúng sanh chính là tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi có Phật”. Nay đã nguyện sanh Tịnh Ðộ thì trước hết là phải phát tâm Bồ Ðề. B1.4 Giải thích vấn đáp: Hỏi: Nếu tu trọn vạn hạnh sẽ cảm được Bồ Ðề, sẽ được thành Phật thì tại sao kinh Chư Pháp Vô Hành lại dạy: “Nếu ai cầu Bồ Ðề thời sẽ chẳng có Bồ Ðề, người ấy xa cách Bồ Ðề ví như trời với đất”? Ðáp: Xét về mặt lý thì chánh thể của Bồ Ðề là vô tướng; nay lại tác tướng để cầu thì chẳng xứng lý cho nên nói là “người ấy xa cách”. Vì thế kinh dạy: “Bồ Ðề chẳng thể dùng tâm để được, chẳng thể dùng thân để được”. Ở đây, ý nói hành giả tuy biết tu các hạnh để cầu được vãng sanh, nhưng thấu hiểu rành rành là lý thể vô cầu cho nên chẳng hoại giả danh; bởi thế, tu trọn vạn hạnh thì có thể cảm được [Bồ Ðề]. Do đó, Ðại Trí Ðộ Luận mới viết: “Nếu ai thấy Bát Nhã thì là bị trói buộc, nếu chẳng thấy Bát Nhã thì cũng là bị trói buộc. Nếu thấy Bát Nhã thì là giải thoát. Nếu chẳng thấy Bát Nhã thì cũng là giải thoát”. Bồ Tát Long Thọ giải thích: “Ở trong đấy mà chẳng rời khỏi tứ cú (1) thì bị trói buộc; rời được tứ cú thì sẽ giải thoát”. Nay cầu Bồ Ðề thì chỉ nên tu hành như vậy, đấy chính là “chẳng hành mà hành”. Chẳng hành mà hành chính là chẳng trái nghịch đại đạo lý Nhị Ðế vậy. Hơn nữa, theo tác phẩm Tịnh Ðộ Luận của ngài Thiên Thân thì: “Phàm muốn phát tâm hiểu thấu Vô Thượng Bồ Ðề thì có hai nghĩa: -Một là trước hết phải lìa bỏ ba thứ pháp trái nghịch với Bồ Ðề môn. -Hai là phải biết hai thứ pháp thuận Bồ Ðề môn. Những gì là ba? Một là nương vào Trí Huệ Môn chẳng cầu mình được sung sướng, xa lìa tâm chấp ngã, tham đắm thân mình. Hai là thuận theo Từ Bi Môn để dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh, xa lìa cái tâm làm cho chúng sanh chẳng được an ổn. Ba là thuận theo Phương Tiện Môn, tâm xót thương hết thảy chúng sanh, xa lìa tâm cung kính, chăm chút thân tâm mình. Ðấy gọi là xa lìa ba pháp trái nghịch với Bồ Ðề môn. Thuận Bồ Ðề môn là Bồ Tát xa lìa ba pháp trái nghịch với Bồ Ðề môn như trên thì liền được ba thứ pháp thuận Bồ Ðề môn. Những gì là ba? Một là tâm vô nhiễm thanh tịnh, chẳng vì tự thân cầu các sự vui. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh vô nhiễm; nếu vì tự thân cầu các vui thì chính là trái nghịch với Bồ Ðề môn. Vì thế tâm vô nhiễm thanh tịnh là thuận Bồ Ðề môn. Hai là tâm an thanh tịnh vì dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh. Bồ Ðề an ổn là chỗ thanh tịnh của hết thảy chúng sanh; nếu chẳng khởi tâm dẹp tan tử khổ cho hết thảy chúng sanh thì là trái nghịch với Bồ Ðề. Vì thế dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh là thuận với Bồ Ðề môn. Ba là tâm vui thanh tịnh, muốn cho hết thảy chúng sanh đắc Ðại Bồ Ðề, dẫn dắt chúng sanh sanh về cõi nước [Cực Lạc] kia. Bồ Ðề là chốn thường vui rốt ráo; nếu chẳng khiến cho hết thảy chúng sanh được hưởng niềm vui rốt ráo thường hằng thì là trái nghịch vớiBồ Ðề môn. Dựa vào đâu để đạt được niềm vui thường hằng rốt ráo ấy? Phải dựa vào Ðại Nghĩa Môn. Ðại Nghĩa Môn chính là cõi Phật An Lạc vậy. Vì thế, [chư Phật, Bồ Tát] mới muốn cho [chúng sanh] một dạ chuyên chí nguyện sanh về cõi kia để họ sớm hiểu được Vô Thượng Bồ Ðề vậy”. B2. Phá dị kiến tà chấp: Trong phần này gồm có chín ý: -Một là phá những vọng chấp, dị kiến, thiên chấp vào vô tướng của Ðại Thừa. -Hai là giảng cho thông suốt ý nghĩa về ái kiến đại bi của Bồ Tát. -Ba là phá cái chấp ngoài tâm không có pháp. -Bốn là phá ý nguyện sanh trong cõi uế, chẳng nguyện sanh về cõi tịnh. -Năm là phá cái chấp: nếu sanh về Tịnh Ðộ thì phần đông sẽ ham đắm sự vui. -Sáu là phá ý tưởng cho rằng cầu sanh Tịnh Ðộ là Tiểu Thừa. -Bảy là phá quan niệm: cầu sanh trời Ðâu Suất, chẳng quy hướng Tịnh Ðộ. -Tám là giảng cho thông suốt rằng cầu sanh về mười phương Tịnh Ðộ chẳng bằng quy hướng về Tây Phương Cực Lạc. -Chín là biện định giáo nghĩa “biệt thời ý”. B2.1 Phá vọng chấp vào Ðại Thừa vô tướng: Trong tiểu đoạn này gồm có hai ý: Một là nêu tổng quát về sự sanh khởi [của những mối vọng chấp ấy] để kẻ hậu học thấy rõ đúng, sai, bỏ tà hướng chánh. Hai là bàn chi tiếtvề từng mối nghi để phá tan nghi tình. * Nêu tổng quát vấn đề: Danh nghĩa trong thâm tạng Ðại Thừa nhiều như cát bụi; vì thế kinh Niết Bàn dạy: “Một tên có vô lượng nghĩa, một nghĩa có vô lượng tên”. Cần phải xét suy khắp các kinh điển thì mới thấu hiểu được yếu chỉ của từng bộ kinh, chứ chẳng phải như kinh sách Tiểu Thừa hay sách vở thế tục, chỉ cần căn cứ vào câu văn là lãnh hội được ý nghĩa. Vì sao lại phải như thế? Chỉ vì kinh, luận Tịnh Ðộ sâu thẳm, [ý nghĩa] hoặc ẩn , hoặc hiển đến nỗi phàm tình bỡ ngỡ. Sợ họ bị vướng vào lời dối tua tủa, trăm mối thiên chấp sai lầm tạp loạn vô tri [đến nỗi] phương ngại việc vãng sanh nên nay tôi bèn nêu lên đôi điều để lần lượt đả phá. * Thứ nhất là vọng chấp vào vô tướng Ðại Thừa. Hỏi: Nếu có kẻ bảo: Ðại Thừa vô tướng chẳng luận đây, kia. Nếu nguyện sanh về Tịnh Ðộ thì chính là chấp tướng, lậu phược càng tăng thêm, cầu sanh làm chi? Ðáp: Chấp như vậy chẳng đúng. Vì sao? Hết thảy chư Phật nói pháp cần phải đủ cả hai duyên: Một là dựa vào Thật Lý của pháp tánh; hai là phải thuận theo Nhị Ðế (2). Nếu chấp vào vô niệm của Ðại Thừa thì mới chỉ là dựa theo pháp tánh, còn nếu báng rằng chẳng cần phải cầu thì lại chẳng thuận theo Nhị Ðế. Kiến giải như vậy là bị đọa vào kiến chấp Diệt Không. Vì thế, kinh Vô Thượng Y mới chép: “Phật bảo A Nan: Dù hết thảy chúng sanh khởi lên Ngã Kiến [to] như núi Tu Di, ta vẫn chẳng sợ. Vì sao vậy? Tuy những kẻ ấy chưa được xuất ly nhưng thường chẳng hoại nhân, quả, chẳng lầm quả báo. Nếu khởi lên Không Kiến dẫu chỉ bằng hạt cải thì ta chẳng chấp nhận. Vì sao thế? Cái thấy như vậy phá hoại nhân quả, phần nhiều sẽ bị đọa vào nẻo ác. Sanh trong đời sau ắt sẽ chống trái lời dạy của ta”. Nay khuyên hành giả: Tuy về lý là vô sanh nhưng trong đạo lý Nhị Ðế thì chẳng phải là không cần phải cầu cho hết thảy được vãng sanh. Do đó, kinh Duy Ma Cật dạy: “Tuy quán cõi nước của chư Phật và chúng sanh là không, nhưng thường tu Tịnh Ðộ, giáo hóa các quần sanh”. Kinh ấy còn dạy: “Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân; ấy là hạnh Bồ Tát. Tuy hành vô khởi mà khởi hết thảy hạnh lành; ấy là hạnh Bồ Tát”. Ðấy là lời chứng chơn thậtvậy. Hỏi: Nay trong đời có kẻ hành Ðại Thừa vô tướng chẳng chấp là đây hay kia, nhưng trọn chẳng giữ giới tướng thì nghĩa là làm sao? Ðáp: Chấp như vậy tai hại rất sâu. Vì sao? Như kinh Ðại Phương Ðẳng đã dạy: “Vì ưu bà tắc mà đức Phật lập ra giới cấm: chẳng được tới nhà quả phụ, gái trinh, nhà nấu rượu, nhà nhuộm chàm, nhà ép dầu, nhà thuộc da đều chẳng được vãng lai. A Nan bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Vì sao đối với những hạng người như vậy mà lập ra giới này?’ Phật bảo A Nan: -Hành giả có hai thứ: một là hành giả trong thế gian, hai là hành giả xuất thế gian. Ðối với người xuất thế, ta chẳng cấm những sự trên; còn đối với người thế tục, nay ta ngăn cấm. Vì sao vậy? Hết thảy chúng sanh đều là con ta; Phật là phụ mẫu của hết thảy chúng sanh. Phật ngăn cấm, ước thúc để họ sớm thoát khỏi thế gian, chứng đắc Niết Bàn”. B2.2 Giảng cho thấu suốt về ái kiến đại bi của Bồ Tát: Hỏi: Căn cứ theo Ðại Thừa thánh giáo thì nếu Bồ Tát đối với các chúng sanh mà khởi lên ái kiến đại bi thì liền phải nên xả ly. Nay lại khuyên chúng sanh cùng sanh Tịnh Ðộ, há chẳng phải là ái nhiễm, chấp lấy tướng đấy ư? Ðáp: Hạnh pháp công dụng của Bồ Tát có hai thứ. Ðó là gì? Một là chứng Không Huệ Bát Nhã. Hai là đầy đủ Ðại Bi. Một là nhờ vào sức tu Không Huệ Bát Nhã nên dẫu có vào trong sanh tử sáu đường vẫn chẳng bị trần nhiễm trói buộc. Hai là do vì Ðại Bi nghĩ tưởng đến chúng sanh nên chẳng trụ trong Niết Bàn; tuy Bồ Tát ở trong Nhị Ðế nhưng thường có thể khéo bỏ được cả hữu lẫn vô. Ðối với lấy, bỏ, Bồ Tát đã đạt được Trung Ðạo, chẳng trái với đại đạo lý. Vì thế kinh Duy Ma có dạy: “Ví như có người muốn tạo lập cung điện ở nơi đất trống thì tùy ý vô ngại; còn nếu muốn tạo dựng trên hư không thì trọn chẳng thành được. Cũng giống như vậy, vì muốn thành tựu chúng sanh nên Bồ Tát nguyện nhiếp thủ cõi Phật”. Nguyện nhiếp thủ Phật quốc thì chẳng phải là thuộc về Không vậy. B2.3 Phá cái chấp ngoài tâm không pháp Trong phần này, có hai ý: một là phá chấp; hai là vấn đáp, giải thích. *Hỏi: Nếu có kẻ nói rằng: Tịnh cảnh được quán tưởng đó là thuộc về nội tâm. Tịnh Ðộ dung thông, cứ hễ tâm tịnh là sẽ đạt được; ngoài tâm không có pháp, cần gì phải quy về Tây Phương? Ðáp: Về mặt lý thì Pháp Tánh Tịnh Ðộ dung thông rỗng rang, thể không hạn cuộc riêng ở một chỗ nào. Ấy là vô sanh mà sanh, chỉ bậc thượng sĩ mới chứng nhập nổi. Vì thế, kinh Vô Tự Bảo Khiếp dạy: “Này thiện nam tử! Lại có một pháp là điều giác ngộ của Phật, tức là: Các pháp chẳng đến, chẳng đi, không nhân, không duyên, chẳng sanh, chẳng diệt, không nghĩ, không chẳng nghĩ, không tăng, không giảm. Phật bảo La Hầu La: ‘Nay ngươi nên thọ trì chánh pháp nghĩa của ta vừa nói đây’.Lúc bấy giờ, chín ức Bồ Tát trong mười phương liền bạch Phật rằng: ‘Chúng con đều có thể thọ trì pháp môn này và sẽ vì chúng sanh lưu truyền chẳng dứt’. Thế Tôn đáp rằng: -Hạng thiện nam tử ấy chính là kẻ hai vai gánh vác Bồ Ðề. Họ liền sẽ được biện tài chẳng dứt, được [sanh trong] những thế giới lành thanh tịnh của chư Phật. Lúc mạng chung, họ liền được thấy A Di Ðà Phật cùng các thánh chúng hiện đến trước mặt, sẽ được vãng sanh. Còn như hạng trung căn, hạ căn chưa phá được tướng thì cần phải nương vào nhân duyên tin Phật để cầu sanh Tịnh Ðộ. Tuy đã sanh về cõi kia nhưng vẫn ở trong cõi hữu tướng”. Kinh còn dạy: “Nếu thâu tóm các duyên về cội gốc thì ngoài tâm không có pháp. Nếu phân ra Nhị Ðế để làm rõ nghĩa thì Tịnh Ðộ nào trở ngại gì đối với cái pháp ngoài tâm ấy đâu!” * Giải thích, vấn đáp: Hỏi: Trên đã nói là chỉ hạng thượng sĩ mới chứng nhập nổi “vô sanh mà sanh” còn hạng trung hạ căn chẳng kham được, đó chính là đem người sánh với pháp để phán định như thế, ngài có thể nêu thánh giáo làm chứng hay chăng? Ðáp: Theo Trí Ðộ luận: “Tân phát ý Bồ Tát căn cơ, kiến giải yếu kém, tuy nói phát tâm nhưng phần nhiều nguyện sanh về Tịnh Ðộ. Nghĩa là sao? Ví như trẻ thơ chẳng được gần gũi mẹ cha chăm sóc thì sẽ bị sảy hầm té giếng hoặc bị nạn rắn, nạn lửa v.v... hoặc khát sữa mà chết; cần phải được mẹ cha vỗ về, tắm rửa, nuôi nấng thì mới khôn lớn, mới nối được gia nghiệp. Bồ Tát cũng vậy, nếu phát được tâm Bồ Ðề thì phần nhiều nguyện sanh về Tịnh Ðộ để thân cận chư Phật, tăng trưởng Pháp Thân rồi mới có thể gánh vác, tiếp nối gia nghiệp của Bồ Tát và cứu giúp cả mười phương. Do những lợi ích như vậy nên phần nhiều các vị Bồ Tát nguyện được vãng sanh”. Luận ấy lại viết tiếp: “Ví như chim con lông cánh chưa mọc đủ thì chẳng thể thúc bách nó bay cao được; trước hết phải nương cành chuyền nhánh. Khi lông mọc đầy đủ, có đủ sức thì mới có thể rời khỏi rừng để bay lên không. Tân phát ý Bồ Tát cũng thế, trước hết phải nương vào nguyện [lực của Phật] để cầu được sanh về chỗ đức Phật. Khi Pháp Thân toàn vẹn rồi thì mới thuận theo chỗ nào cảm ứng thì đến đó để làm lợi ích”. Lại như A Nan bạch Phật rằng: “Vô Tướng Ba La Mật này nên thuyết ở chỗ nào? Phật dạy: ‘Pháp môn như thế nên nói với bậc đã thuộc địa vị A-tì-bạt-trí. Vì cớ sao? Có hạng tân phát ý Bồ Tát nghe Vô Tướng ba la mật này thì tất cả thiện căn thanh tịnh đều sẽ bị hư mất hết’. Thêm nữa, chỉ cần được sanh về cõi kia rồi thì hết thảy sự sẽ đều rốt ráo, cần gì phải tranh biện là lý này sâu hay cạn nữa! B2.4 Phá kiến chấp nguyện sanh vào uế độ, chẳng nguyện sanh trong Tịnh Ðộ Hỏi: Hoặc có kẻ nói: Nguyện sanh vào uế độ để giáo hóa chúng sanh, chứ chẳng nguyện sanh trong Tịnh Ðộ, việc ấy ra sao? Ðáp: Hạng người này cũng có một hạng, hạng gì? Ðó là bậc đã ở vào địa vị từ Bất Thoái trở lên; do vì hóa độ chúng sanh tạp ác nên mới ở trong chỗ nhơ mà chẳng bị nhiễm, gặp ác chẳng bị biến cải, giống như ngỗng, vịt vào trong nước mà nước chẳng thấm ướt chúng được. Hạng người như thế mới kham sống nổi trong cõi uế để dẹp khổ [cho chúng sanh]. Nếu thật sự còn là phàm phu thì chỉ e tự mình tu hành còn chưa vững, hễ gặp khổ liền bị biến đổi, muốn cứu giúp người khác nhưng lại bị chìm đắm chung với họ, giống như ép gà lội xuống nước, há nó chẳng bị ướt hay sao? Do đó, luận Trí Ðộ mới viết: “Nếu phàm phu phát tâm nguyện ở trong uế độ để vớt chúng sanh thì thánh ý chẳng chấp thuận”. Vì sao vậy? Bồ Tát Long Thọ giải thích: “Ví như băng đóng kín cả bốn mươi dặm, nếu như có một người dùng một đấu nước sôi đổ vào thì ngay lập tức băng dường như có giảm bớt. Nhưng qua một đêm đến sáng thì băng lại càng dày hơn trước. Phàm phu phát tâm cứu khổ ở trong cõi này cũng giống như vậy: đối nghịch lại cảnh giới tham sân thì ít mà thuận theo thì nhiều, tự khởi phiền não, sẽ lại đọa trong đường ác vậy”. B2.5 Phá cái chấp nếu sanh vào Tịnh Ðộ thì phần đông sẽ tham đắm sự vui. Hỏi: Hoặc là có kẻ bảo: Trong Tịnh Ðộ chỉ có sự vui nên rất có thể sẽ ham đắm sự vui đến nỗi bỏ phế việc tu đạo, vậy cần gì phải nguyện vãng sanh? Ðáp: Ðã nói là Tịnh Ðộ thì sẽ chẳng có các uế; nếu bảo là ham đắm sự vui thì chính là tham ái, phiền não, sao còn gọi là Tịnh được nữa? Vì thế Ðại kinh dạy: “Trời, người cõi ấy dù đến hay đi, dù tiến hay ngừng, lòng họ không còn ràng buộc’. Trong bốn mươi tám nguyện, cũng có lời nguyện: “Mười phương trời, người đến trong cõi ta nếu ai khởi ý tưởng tham chấp lấy thân thì chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Lại như Ðại kinh dạy: “Trời, người cõi ấy không có ưa ghét” thì lẽ nào còn ham đắm sự vui? B2.6 Phá kiến chấp coi cầu sanh Tịnh Ðộ thuộc về Tiểu Thừa Hỏi: Hoặc là có kẻ nói: Cầu sanh về Tịnh Ðộ chính là Tiểu Thừa nên cần chi phải tu! Ðáp: Ðiều ấy cũng chẳng đúng. Vì cớ sao? Vì giáo thuyết Tiểu Thừa hoàn toàn chẳng nói đến chuyện sanh về Tịnh Ðộ. B2.7 Ðả phá tư tưởng chỉ nguyện sanh lên Ðâu Suất, chứ chẳng nguyện quy hướng Tây Phương Hỏi: Hoặc là có kẻ nói: Nguyện sanh lên Ðâu Suất, chẳng nguyện quy Tây, việc ấy thế nào? Ðáp: Hai điều này nghĩa lý chẳng giống nhau, chỉ có chút phần tựa hồ giống nhau. Xét về thể, có bốn điều sai biệt lớn. Những điều ấy là gì? a. Một là Di Lặc Thế Tôn vì các thiên chúng chuyển bất thoái pháp luân, nếu ai nghe pháp mà sanh khởi lòng tin thì sẽ được lợi ích; đấy gọi là lòng tin giống nhau; nhưng số người ham vui, không tin chẳng phải là ít. Hơn nữa, dẫu sanh lên trời Ðâu Suất nhưng vẫn còn thuộc trong những địa vị còn bị thối chuyển cho nên kinh bảo: “Tam giới chẳng yên, ví như nhà lửa”. b. Hai là sanh về Ðâu Suất thọ mạng chỉ dài bốn ngàn năm. Sau khi mạng chung chẳng tránh khỏi bị lui sụt, đọa lạc. c. Ba là trên trời Ðâu Suất tuy có nước, chim, rừng cây vang ra những tiếng thánh thót, nhưng đó chỉ là những cái duyên phát sanh niềm vui cho chư thiên [khiến họ] thuận theo ngũ dục, chứ chẳng dạy về thánh đạo. Nếu một phen được sanh trong cõi tịnh Di Ðà thì sẽ đều là bậc A-tì-bạt-trí, lại chẳng có những kẻ thối thất và loài tạp cư; địa vị lại là vô lậu, vượt khỏi tam giới, chẳng còn bị luân hồi nữa. Luận về thọ mạng thì bằng với thọ mạng của Phật, không cách nào tính toán để biết được nổi. Cõi ấy có nước, chim, cây cối đều có khả năng thuyết pháp khiến cho người nghe ngộ giải, chứng hiểu vô sanh. d. Bốn là dựa theo Ðại kinh, chỉ lấy một thứ âm nhạc để so sánh thì kinh ấy khen ngợi: ‘Từ đế vương cõi trần lên đến trời Lục Dục, âm nhạc đã dần dần trở nên mầu nhiệm hơn đến cả tám điều, [nhạc cõi trên] càng hay hơn [nhạc cõi dưới] gấp vạn ức lần. Tiếng nhạc từ cây báu còn du dương gấp bội hơn thế. Lại có âm nhạc tự nhiên mầu nhiệm, pháp âm trong trẻo hòa điệu sảng khoái tinh thần, dìu dặt thánh thót vượt xa mười phương. Vì thế, con kính lễ bậc Thanh Tịnh Ðộng’. B2.8 So sánh để thấy rõ sanh về mười phương Tịnh Ðộ chẳng bằng sanh về Tây Phương Hỏi: Hoặc có kẻ nói: Nguyện sanh trong mười phương Tịnh Ðộ chẳng nguyện sanh về Tây Phương, nghĩa ấy ra sao? Ðáp: Ý ấy có ba điều chẳng đúng. Ðó là gì? a. Một là mười phương cõi Phật không có cõi nào là chẳng tịnh; nhưng nếu cảnh rộng thì tâm bị mê muội, còn cảnh hẹp thì ý [dễ] chuyên chú. Vì thế, mười phương đều nguyện vãng sanh Cực Lạc. Kinh chép: ‘Phổ Quảng Bồ Tát bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn! Mười phương cõi Phât đều nghiêm tịnh, vì sao trong các kinh lại riêng khen ngợi cõi Phật A Di Ðà ở phương Tây, khuyên nên vãng sanh? Phật bảo Phổ Quảng Bồ Tát: -Hết thảy chúng sanh trược loạn thì nhiều, chánh niệm thì ít. Phật muốn cho chúng sanh có chỗ chuyên chí nên đặc biệt khen ngợi cõi kia. Nếu có thể dựa vào bổn nguyện của Phật để tu hành thì không ai là không được lợi ích”. b. Hai là tuy mười phương Tịnh Ðộ đều tịnh, nhưng sâu cạn khó biết nổi; tịnh quốc của Phật A Di Ðà chính là sơ môn Tịnh Ðộ. Vì sao biết thế? Theo như kinh Hoa Nghiêm dạy: “Một kiếp trong thế giới Sa Bà là một ngày một đêm nơi Cực Lạc. Một kiếp trong cõi Cực Lạc là một ngày một đêm nơi thế giới Ca Sa Tràng”. Những tướng hơn kém như thế có đến cả mười a-tăng-kỳ nên ta biết là [cõi Cực Lạc] mới chỉ là sơ môn Tịnh Ðộ. Bởi vậy chư Phật mới đặc biệt khuyên nên vãng sanh Cực Lạc. Các cõi Phật phương khác chẳng được rành rành như vậy cho nên phần nhiều những ai có lòng tin đều nguyện vãng sanh Cực Lạc. c. Ba là cõi tịnh của Phật Di Ðà chính là cửa ngõ đầu tiên để bước vào Tịnh Ðộ; thế giới Sa Bà chính là chốn tận cùng của uế độ. Vì sao biết vậy? Như kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Ở về phía Ðông Bắc cõi này có một thế giới tên là Tư-Ha, đất đai chỉ có đá, cát hình tam giác. Một năm mưa ba lượt, mỗi lần mưa thấm ướt đất không sâu hơn năm tấc. Chúng sanh cõi ấy chỉ ăn trái cây, dùng vỏ cây làm áo, cầu sống chẳng được, cầu chết chẳng xong. Lại có một thế giới, hết thảy hổ, sói, cầm thú cho đến rắn rết thảy đều có cánh bay lượn, hễ gặp nhau liền ăn nuốt chẳng cần phân biệt thiện ác’. Chốn ấy há chẳng gọi là chỗ bắt đầu của uế độ hay sao? [Xét đến] y báo của thế giới Sa Bà đây và [do chúng sanh] cùng ở chung lẫn với hiền thánh nên chỉ có cõi này là chỗ cuối cùng của uế độ. Do thế giới An Lạc là cửa ngõ đầu tiên của Tịnh Ðộ nên phải tiếp giáp với cảnh giới cõi này; vãng sanh rất tiện sao lại chẳng sanh về? B2.9 Xét định chỗ mâu thuẫn giữa luận Nhiếp Ðại Thừa và kinh này để bàn định về “biệt thời ý” Trong Quán kinh đây, đức Phật dạy: “Người thuộc hạ phẩm thì trong hiện đời tạo tội nặng, lúc lâm chung gặp được thiện tri thức, mười niệm thành tựu liền được vãng sanh”. Luận Nhiếp Ðại Thừa thì cho rằng điều Phật dạy đó là “biệt thời ý” (3). Ða số các nhà sớ giải kinh lại thường hay cho rằng mười niệm lúc lâm chung ấy chỉ tạo thành cái nhân để vãng sanh chứ chưa được vãng sanh ngay. Vì sao biết như vậy? Vì luận Nhiếp Ðại Thừa viết: “Như dùng một đồng tiền vàng buôn bán [rồi dần dần có] được cả ngàn đồng tiền vàng; chẳng phải là chỉ trong một ngày sẽ đạt được như thế ngay. Vì thế, ta biết được là: Mười niệm thành tựu là chỉ thành tựu được cái nhân, chứ chưa được vãng sanh [thật sự], nên [lời Phật dạy trong Quán kinh] gọi là lời giảng có ý biệt thời”. Hiểu như vậy là chẳng đúng; vì sao? Hễ Bồ Tát tạo luận để giải thích kinh thì đều là muốn hỗ trợ Phật ý, khế hội thánh tâm; chẳng đời nào có bản luận nào lại trái nghịch ý kinh! Nay tôi sẽ giải thích về “lời nói có ý biệt thời”, ấy là: Khi đức Phật thuyết pháp luôn luôn là trước nêu cái nhân, sau bày cái quả, lý lẽ rạng ngời. Trong kinh này đây chỉ nói đến việc tạo nghiệp trong một đời và lúc lâm chung do mười niệm thành tựu liền được vãng sanh, chứ chẳng bàn đến chuyện quá khứ có nhân hay không nhân. Ðấy chính là đức Thế Tôn muốn tiếp dẫn bọn người tạo ác trong tương lai khiến cho họ lúc lâm chung sẽ xả ác, quy thiện, nương theo câu niệm mà vãng sanh. Ðó là Phật ẩn kín túc nhân; vì đức Thế Tôn ẩn giấu cái ban đầu, hiển thị cái chung cuộc, giấu nhân nói quả nên gọi là “lời nói có ý biệt thời”. Vì sao biết như vậy? Vì nếu chỉ mười niệm mà được thành tựu thì phải là đã có nhân quá khứ như kinh Niết Bàn nói: “Nếu ai trong quá khứ đã từng cúng dường nửa hằng hà sa chư Phật, lại đã từng phát tâm thì mới chỉ có thể ở trong đời ác nghe nói kinh giáo Ðại Thừa mà chẳng phỉ báng, chứ chưa có thể làm gì khác. Lại nếu ai từng cúng dường một hằng hà sa chư Phật và đã phát tâm thì sau đấy khi nghe kinh giáo Ðại Thừa mới chẳng những không phỉ báng mà còn thêm ưa thích”. Lấy các kinh đấy để suy nghiệm thì biết rõ là “mười niệm thành tựu” đều là do có cái nhân quá khứ chẳng sai vậy. Nếu như không có sẵn nhân trong quá khứ thì còn chẳng gặp được thiện tri thức, huống hồ là thành tựu được mười niệm hay sao? Ðối với câu: “Dùng một đồng tiền vàng để buôn bán [cho đến khi có được] ngàn đồng vàng, chẳng phải là chỉ trong một ngày sẽ đạt được như thế ngay” trong luận Nhiếp Ðại Thừa thì nếu xét theo ý Phật, ta thấy là [trong Quán kinh] đức Thế Tôn muốn cho chúng sanh tích tập nhiều nhân lành để nhờ vào câu niệm Phật mà được vãng sanh; còn ý của luận chủ (ngài Vô Trước, tác giả luận Nhiếp Ðại Thừa) là muốn nhấn mạnh đến cái nhân quá khứ nên về mặt lý thì [câu nói trên] cũng chẳng mâu thuẫn với Quán kinh. Nếu hiểu như thế thì trên thuận theo kinh Phật, dưới hợp với ý luận, đúng là kinh và luận hỗ trợ nhau, đường vãng sanh thênh thênh chẳng còn nghi hoặc nữa. B3. Nêu nhiều điều vấn đáp, giải thích để trừ nghi tình Dưới đây, tôi sẽ dùng luận Ðại Trí Ðộ để trình bày các câu vấn đáp một cách chi tiết. Hỏi: Từ bao kiếp lâu xa đến nay, hết thảy chúng sanh tạo đủ các nghiệp hữu lậu, bị buộc chặt vào tam giới, thế thì vì sao họ chẳng cần phải đoạn dứt các nghiệp trói buộc trong tam giới, chỉ nhờ vào một chút thời gian niệm A Di Ðà Phật sẽ liền được vãng sanh, thoát khỏi tam giới? Phải nên hiểu ý nghĩa của những nghiệp trói buộc ấy như thế nào đây? Ðáp: Có hai cách giải thích: một là dùng pháp để phá [mối nghi], hai là mượn thí dụ để hiển thị [nghĩa lý ấy]. Nói “dùng pháp để phá” nghĩa là chư Phật Như Lai có trí chẳng nghĩ bàn, trí Ðại Thừa rộng rãi, không chi bằng, không chi sánh, trí thù thắng tối thượng. Trí chẳng nghĩ bàn có khả năng biến ít thành nhiều, biến nhiều thành ít, biến gần làm xa, biến xa thành gần, chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành nặng. Có các trí vô lượng, vô biên như thế chẳng thể nghĩ bàn. Kể từ đây trở đi, trong mười bốn lần [lập luận], tôi đều dùng thí dụ để hiển thị. B3.1 Một, ví như trăm người trong trăm năm chất củi cao đến cả ngàn nhẫn, [nhưng chỉ] một đốm lửa nhỏ bằng hạt đậu [đã có thể] trong vòng nửa ngày đốt cháy sạch hết củi, há có dám bảo là củi chứa cả trăm năm chẳng thể cháy hết sạch trong vòng nửa ngày hay sao? B3.2 Hai, ví như kẻ thọt ngồi nhờ thuyền người khác chở, vì buồm thuận gió nên trong một ngày đi được cả ngàn dặm, há có dám bảo là trong một ngày, làm sao kẻ thọt đi xa được cả ngàn dặm ư? B3.3 Ba, cũng giống như kẻ hạ tiện có được một vật quý đem dâng lên vua. Vua mừng được của, bèn trọng thưởng cho. Trong chốc lát, kẻ ấy trở thành phú quí, dư dả, há có nên nói là [xét ra] kẻ sĩ tận sức nhọc nhằn cả mấy mươi năm còn chẳng đạt đến đâu nên phải lui về cho nên bảo là chẳng hề có sự phú quí như vậy ư? B3.4 Bốn, ví như kẻ yếu đuối dùng sức chính mình để cỡi lừa còn chẳng nổi, nhưng nếu đi theo Luân Vương thì lại bay lên không trung tự tại, há dám bảo là sức kẻ yếu đuối chẳng thể bay nổi lên hư không hay sao? B3.5 Năm, lại như dây thừng quấn quanh cả mười vòng, ngàn người chẳng bứt được, nhưng đứa bé con vung thanh gươm sắc chặt đứt ngay ra làm đôi, há dám bảo là sức đứa bé con chẳng chặt nổi thừng ư? B3.6 Sáu, ví như chim Trầm vào trong nước, cá, sò chạm phải [chất độc] đều chết; dùng sừng tê khuấy bùn thì [cá, sò] đã chết sẽ sống lại, há dám bảo là một khi sanh mạng đã dứt thì chẳng thể sống lại nổi ư? B3.7 Bảy là như lúc chim hoàng hạc gọi Tử An, Tử An liền sống lại, há dám bảo là kẻ đã chôn xuống đất ngàn năm, quyết sẽ chẳng sống lại được nổi? Hết thảy vạn pháp đều có tự lực, tha lực, tự nhiếp, nhiếp vật khác, ngàn mở, vạn đóng vô lượng vô biên, lẽ nào ông lại cậy vào cái hiểu biết còn có ngăn ngại để rồi ngờ vực pháp vô ngại hay sao? Thêm nữa, trong năm thứ chẳng thể nghĩ bàn, Phật pháp là chẳng thể nghĩ bàn bậc nhất. Ông coi cái nghiệp ràng buộc trong tam giới là trọng, ngờ chuyện niệm Phật trong thời gian ngắn là khinh, sẽ chẳng được vãng sanh cõi An Lạc thuộc vào trong Chánh Ðịnh Tụ thì thật chẳng đúng vậy! Hỏi: Kinh Ðại Thừa dạy: “Nghiệp đạo như cái cân, bên nào nặng hơn thì chúc xuống [bên đó]”, thế sao chúng sanh trong cả một đời hoặc là suốt trăm năm, hoặc là trong mười năm cho đến tận hôm nay, không điều ác gì chẳng làm thì tại sao lúc lâm chung gặp được thiện tri thức, do mười niệm liên tục liền được vãng sanh? Nếu đúng là như vậy thì làm sao tin được nổi nghĩa lý “nghiệp nào nặng sẽ kéo đi trước”? Ðáp: Ông coi ác nghiệp trong cả một đời là nặng, xem điều thiện mười niệm của kẻ hạ phẩm là nhẹ thì nay tôi sẽ dùng nghĩa lý để so lường ý nghĩa khinh trọng ấy. [Sự khác biệt ấy] rõ ràng là bởi tâm, bởi duyên, bởi quyết định, chứ chẳng phải là do thời gian [niệm Phật] lâu hay mau, nhiều hay ít. Thế nào là bởi tâm? Tức là khi kẻ ấy tạo tội thì chỉ nương vào cái tâm hư vọng, điên đảo mà làm, còn Thập Niệm đây là nương theo phương tiện của Bậc thiện tri thức an ủi, do nghe pháp Thật Tướng mà sanh. Một đằng thật, một đằng hư, há so sánh được ư! Vì sao? Ví như nhà tối suốt ngàn năm, ánh sáng vừa chiếu vào thì sẽ sáng tỏ ngay; há dám bảo là bóng tối cả ngàn năm trong nhà chẳng tan biến hay sao? Vì thế, kinh Di Nhật Ma Ni Bảo chép: “Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: ‘Chúng sanh tuy trong cả bao ngàn vạn ức kiếp ở trong ái dục, bị tội che lấp, nhưng nếu được nghe kinh Phật, một phen nghĩ tưởng điều lành thì tội sẽ liền được diệt hết’. Ðấy gọi là bởi tâm. Hai, thế nào là bởi duyên? Chính là khi kẻ ấy tạo tội thì [tội lỗi ấy] chỉ nương theo vọng tưởng, nương theo phiền não, quả báo, chúng sanh mà sanh; còn mười niệm đây nương theo Tín Tâm, nương vào danh hiệu có vô lượng công đức chơn thật thanh tịnh của đức Phật A Di Ðà mà sanh. Ví như có người bị trúng tên độc, đứt gân vỡ xương, nếu nghe tiếng trống thuốc Diệt Trừ thì mũi tên sẽ trồi ra, độc liền tiêu ngay, há dám bảo là tên ấy đã lút sâu, độc đã ngấm nặng, dẫu nghe tiếng trống cũng chẳng thể nhổ tên, trừ độc hay sao? Ðấy gọi là bởi duyên. Ba, thế nào là bởi quyết định? Lúc kẻ ấy tạo tội, tự nương theo cái tâm hữu hậu, tâm có gián đoạn mà sanh; còn mười niệm đây nương vào cái tâm vô hậu, tâm vô gián mà khởi. Ðó là quyết định. Lại nữa, Trí Ðộ Luận chép: “Hết thảy chúng sanh lúc lâm chung bị đao phong cắt thân, bị tử khổ đến bức bách, sanh lòng sợ hãi lớn; vì thế, gặp được thiện tri thức, phát đại dũng mãnh, tâm tâm tiếp nối chính là căn lành tăng thượng nên liền được vãng sanh”. Lại giống như người đối địch phá trận đem hết sức lực suốt cả đời mình ra vận dụng trong chốc lát; điều lành mười niệm cũng giống như thế. Lại như người lúc lâm chung nếu sanh khởi một niệm tà kiến, tâm ác tăng thượng thì liền có thể đánh tan cái phước trong tam giới, bị đọa vào trong nẻo ác. Hỏi: Ở trên vừa nói: Lúc lâm chung, điều lành mười niệm có thể khuynh loát được nghiệp ác trong cả một đời nên sẽ được sanh về Tịnh Ðộ, nhưng chưa rõ mười niệm ấy là mấy thời? Ðáp: Như kinh dạy rằng: “Một trăm lẻ một lần sanh diệt hợp thành một sát-na, sáu mươi sát-na là một niệm”. Ðấy là một niệm hiểu theo cách kinh, luận thường giải thích. Ở đây, ta chẳng hiểu “niệm” theo khoảng thời gian có hạn định ấy. Chỉ ức niệm tổng tướng hoặc là biệt tướng của đức A Di Ðà Phật, tùy duyên mà quán trong suốt mười niệm, không có niệm tưởng nào khác xen tạp thì gọi là “mười niệm”. [Có thuyết] lại nói: Mười niệm liên tục là danh số của Bậc thánh vậy, chỉ cốt giữ niệm lắng lòng chẳng bận tâm đến chuyện gì khác; hễ nghiệp đạo (ý nói tịnh niệm) được hoàn thành thì liền thôi không kể tới nữa, cũng chẳng nhọc công ghi nhớ số lần niệm. Lại nói: Nếu hành nhân niệm Phật đã lâu thì phần nhiều hay dùng cách này; còn nếu là người mới niệm thì ghi nhớ số lần niệm cũng được. Ðây cũng là dựa theo thánh giáo [mà luận như thế]. Lại hỏi: Nay tôi muốn tuân theo lời khuyên, thực hành Niệm Phật tam muội, nhưng chưa biết cách thức niệm như thế nào? Ðáp: Ví như có người nghỉ chân nơi đồng hoang, gặp phải oán tặc vung dao hùng hổ chạy đến toan giết. Người ấy bỏ chạy, gặp sông phải vượt qua. Chưa đến bờ sông đã nghĩ thế này: “Ðến bên bờ sông rồi thì mình nên cởi áo lội qua, hay là cứ mặc áo mà bơi? Nếucởi áo lội qua chỉ sợ không kịp. Nếu mặc áo lội, lại sợ khó giữ nổi đầu cổ vẹn toàn!” Khi ấy, người đó chỉ dốc một lòng tìm cách vượt sông, không còn có tâm tưởng nào khác xen lẫn. Hành giả cũng vậy: lúc niệm Phật A Di Ðà phải cũng giống như kẻ kia nghĩ cách vượt sông; niệm niệm nối nhau, không còn có tâm tưởng nào khác xen tạp. Hoặc là niệm Pháp Thân của Phật, hoặc niệm thần lực của Phật, hoặc niệm trí huệ của Phật, hoặc niệm tướng bạch hào của Phật, hoặc niệm tướng hảo của Phật, hoặc niệm bổn nguyện của Phật. Xưng danh cũng vậy: chỉ cốt chuyên chí liên tục chẳng dứt thì quyết định sẽ sanh về trước đức Phật. Nay khuyên người học Phật đời sau: Nếu muốn thấu hiểu Nhị Ðế thì chỉ cần biết là niệm niệm bất khả đắc, đấy chính là Trí Huệ Môn; còn hệ niệm liên tục chẳng ngớt thì đấy là Công Ðức Môn. Vì thế, kinh nói: “Bồ Tát Ma Ha Tát luôn dùng công đức trí huệ để tu tâm mình”. Nếu là người mới học, chưa phá được tướng thì chỉ nên dựa vào tướng để chuyên chí thời không ai là không được vãng sanh, chớ có nghi ngờ nữa! Lại hỏi rằng: Vô Lượng Thọ Ðại kinh chép: “Mười phương chúng sanh chí tâm tin ưa muốn sanh cõi ta, dẫu chỉ mười niệm mà nếu chẳng được vãng sanh thì ta chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Nay có người đời nghe thánh giáo ấy bèn trọn cả đời hiện tại chẳng hề tác ý, chỉ chờ đến lúc lâm chung mới tu niệm. Việc ấy như thế nào? Ðáp: Việc ấy chẳng đúng. Vì sao? Kinh nói mười niệm liên tục tựa hồ chẳng khó khăn gì, nhưng bọn phàm phu tâm như ngựa hoang, thức quá khỉ vượn, rong ruổi theo sáu trần chưa lúc nào ngơi thì ai nấy phải nên phát tín tâm, tự tập niệm Phật sẵn để tạo dần thành thói quen, căn lành kiên cố. Như [trong kinh] Phật bảo đại vương: “Người chứa hạnh lành thì chết không ác niệm, như cây đã nghiêng về phía nào thì khi đổ sẽ đổ xuống phía ấy”. Một khi phong đao xảy đến, trăm nỗi khổ bức bách thân, nếu chẳng từng tu tập từ trước thì làm sao mà tưởng niệm nổi! Ai nấy đều nên kết sẵn ước hẹn với năm ba kẻ cùng chí hướng để lúc lâm chung họ sẽ đến khai ngộ cho, xưng niệm danh hiệu Di Ðà cho, nguyện sanh về cõi An Lạc, từng tiếng nối tiếp nhau tạo thành mười niệm. Ví như ấn sáp ấn vào đất sét, ấn nát thì đường ấn hiện. Lúc mạng này dứt chính là lúc sanh về cõi An Dưỡng, một phen đã nhập vào Chánh Ðịnh Tụ thì còn lo chi nữa! Ai nấy đều nên suy xét cái lợi lớn này; sao còn chưa quyết chí trì niệmvậy? Lại hỏi: Các kinh, luận Ðại Thừa đều nói: “Hết thảy chúng sanh rốt ráo vô sanh dường như hư không”, cớ sao các vị Bồ Tát Thiên Thân, Long Thọ lại đều nguyện vãng sanh? Ðáp: “Chúng sanh rốt ráo vô sanh dường như hư không” vừa nói đó có hai nghĩa: a. Một là trong cái thấy của phàm phu thì thật có chúng sanh, thật có sanh tử; nhưng nếu xét theo [kiến giải của] Bồ Tát thì sự vãng sanh rốt ráo như hư không, như sừng thỏ. b. Hai là cái sanh được nói ở đây chính là nhân duyên sanh. Do nhân duyên sanh nên chính là giả danh sanh. Vì là giả danh sanh nên chính là vô sanh; do đó, chẳng trái với đại đạo lý chứ chẳng phải giống như phàm phu cho là thật có chúng sanh, thật có sanh tử. Lại hỏi rằng: Sanh là gốc của Hữu; cho nên sanh chính là nguồn cội của mọi hệ lụy. Nếu đã biết cái lỗi ấy thì phải nên bỏ sanh để cầu vô sanh mới hòng có kỳ giải thoát. Nay lại khuyên sanh về Tịnh Ðộ thì chính là “bỏ vô sanh để cầu sanh” thì làm sao hết sanh được? Ðáp: Cõi Tịnh Ðộ kia sanh từ bổn nguyện thanh tịnh vô sanhcủa A Di Ðà Như Lai chứ chẳng phải như tam giới được sanh ra từ những chấp trước hư vọng của chúng sanh. Vì cớ sao? Ðối với pháp tánh thanh tịnh rốt ráo vô sanh mà lại bảo là sanh thì đó chỉ là cái ý tưởng được sanh mà thôi! Lại hỏi rằng: Như trên vừa nói: Nếu biết sanh chính là vô sanh thì sẽ sanh trong thượng phẩm. Nếu thế, người hạ phẩm nương theo mười niệm để vãng sanh thì hóa ra họ chẳng phải là thật sanh hay sao? Nếu [kẻ thuộc hạ phẩm] thật sự được vãng sanh thì sẽ họ sẽ bị vướng vào hai mối nghi: một là sợ mình chẳng được vãng sanh; hai là điều thiện thuộc về hình tướng ấy chẳng thể tạo thành cái nhân của sự vô sanh được! Ðáp: Ðể giải mối nghi ấy thì có ba điều: Một là ví như tịnh ma-ni châu đặt trong nước đục; do oai lực của châu nước liền trong veo. Dẫu người có vô lượng tội ô trược sanh tử nhưng nếu được bảo châu danh hiệu tột bực vô sanh thanh tịnh của đức A Di Ðà Như Lai gieo vào trong tâm nhơ thì trong niệm niệm tội diệt tâm tịnh nên liền vãng sanh. Hai là như tịnh ma-ni châu, dùng lụa vàng hay đen bọc lấy, thả vào nước thì nước liền biến thành màu vàng hay đen tiệp màu với vật. Cõi Phật thanh tịnh kia có bảo châu danh hiệu vô thượng của đức A Di Ðà Như Lai, dùng lụa vô lượng công đức thành tựu bọc lấy châu, đem thả trong tâm thủy của người vãng sanh thì lẽ nào chẳng chuyển nổi “sanh” thành “trí vô sanh” hay sao? Ba là như đốt lửa trên mặt băng; lửa mạnh thì băng tan, băng tan lửa liền tắt. Kẻ vãng sanh trong hạ phẩm tuy chẳng biết pháp tánh vô sanh, chỉ nhờ vào sức xưng niệm danh hiệu Phật để tác ý vãng sanh, nguyện sanh cõi kia. Lúc đã đến được cõi vô sanh thì sẽ thấy lửa “sanh” tự nhiên tắtmất. Lại hỏi rằng: Trong việc vãng sanh vừa nói đó, thân nào sẽ vãng sanh? Ðáp: Trong cõi này, con người giả danh (4) tu các hạnh môn, lấy niệm trước và niệm sau làm nhân. Con người giả danh trong uế độ và con người giả danh trong cõi Tịnh Ðộ chẳng thể nói quyết định là một, mà cũng chẳng thể nói quyết định là khác. Tâm trước, tâm sau cũng như vậy. Vì cớ sao? Nếu quyết định là một thì không có nhân quả; nếu quyết định là khác thì chẳng liên tục. Do bởi nghĩa này nên xét về mặt ngang dọc thì tuy có khác, nhưng trước sau vẫn là một hành giả (Ý nói: xét về mặt không gian (ngang) và thời gian (dọc) thì hành giả niệm Phật trong uế độ và người đã được sanh trong Cực Lạc là khác, nhưng thật ra hai người đó vẫn là một). Lại hỏi rằng: Nếu như hành nhân chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật sẽ trừ được các chướng thì nếu thế, có kẻ lấy ngón tay chỉ mặt trăng, ngón tay ấy cũng có thể phá tan tăm tối hay sao? Ðáp: Chư pháp vạn phần sai khác, chẳng thể gộp hết thành một. Tại sao? Vì vốn có “danh chính là pháp” và “có danh khác với pháp”. “Có danh chính là pháp” là như danh hiệu của Phật, Bồ Tát, âm tiếng của chú thuật, các chương cú trong tu-đa-la (kinh) vậy. Chẳng hạn như sách chú thuật có nói: nói: “Mặt trời mọc lên từ phương Ðông có màu vàng hoặc đỏ. Ðợi đến giờ Dậu hay Hợi thực hành bí pháp thì bệnh được lành. Lại như có kẻ bị chó cắn bèn nướng xương cọp mà lăn [trên chỗ cắn] sẽ hết bị đau. Hoặc có lúc không có xương cọp thì khéo dùng tay vỗ xoa, miệng kêu: ‘Cọp đến, cọp đến’, bệnh cũng được lành. Lại hoặc là có kẻ chân bị rút gân, nướng cành mộc qua lăn lên thì bệnh liền được lành. Nếu không có mộc qua thì cứ hơ tay xoa lên, miệng gọi: ‘Mộc qua, mộc qua’, bệnh cũng được lành’. Thân ta được hưởng công hiệu ấy là do đâu? Do danh chính là pháp vậy. “Có danh khác với pháp” là như dùng ngón tay để chỉ mặt trăng vậy. Lại hỏi rằng: Nếu ai chỉ xưng niệm danh hiệu A Di Ðà thì sẽ trừ được vô minh tăm tối cho mười phương chúng sanh, sẽ được vãng sanh, thế nhưng có chúng sanh xưng danh, ức niệm mà vô minh vẫn còn, chẳng được mãn nguyện thì nghĩa là làm sao? Ðáp: Là do chẳng tu hành đúng như thật và do danh chẳng tương ứng với nghĩa vậy. Vì sao vậy? [Chẳng tu hành đúng như thật] nghĩa là: chẳng biết Như Lai là Thật tướng, còn cái thân đây chỉ là cái thân vật chất. Lại còn có ba thứ chẳng tương ứng: -Một là tín tâm chẳng thuần khi còn khi mất. -Hai là tín tâm bất nhất, tức là chẳng quyết định. -Ba là tín tâm chẳng liên tục, tức là bị các niệm khác xen vào, cứ lần lượt theo đuổi các duyên ấy. Nếu có thể [giữ được tín tâm] liên tục thì đấy chính là nhất tâm. Cứ hễ đạt được nhất tâm thì tâm thuần. Ðủ cả ba tâm này mà chẳng được vãng sanh thì không bao giờ có lẽ ấy. C. Trong môn thứ ba, có bốn thứ bàn định: -Một là bàn về đạo khó hành và đạo dễ hành. -Hai là luận về thời kiếp lớn, nhỏ sai khác. -Ba là chỉ rõ [chúng sanh] từ vô thỉ kiếp đến nay ở trong tam giới và ngũ đạo, do hai nghiệp thiện, ác phải chịu lấy hai báo khổ và vui, luân hồi vô cùng, thọ sanh vô số. -Bốn là lấy thánh giáo chứng minh lời chân thật để khuyên đời sau sanh lòng tin cầu vãng sanh. C1.Bàn về đạo khó hành và đạo dễ hành Tiểu đoạn này gồm có hai ý: -Một là chỉ ra hai thứ đạo. -Hai là vấn đáp, giải thích. Chúng ta đã tự ở trong hỏa giới, nghĩ thật đáng sợ! Ngưỡng nhờ Ðại Thánh dùng ba thứ xe chiêu dụ; nhưng xe dê, xe nai chỉ mới là tạm nghỉ, còn chưa đạt. Phật quở trách những tà chấp gây chướng ngại cho việc hướng thượng cầu đắc bồ Ðề. Ví như sau đó, quay đầu trở lại thì gọi là “vu hồi”. Nếu thuận theo con đường cỗ xe to chạy để mà đi thì cũnglà một cách, nhưng chỉ e mình hiện còn đang ở địa vị thối chuyển mà đường đi hiểm trở dài xa, đức của mình chưa lập nên sẽ khó bề thăng tiến! Vì thế,Bồ Tát Long Thọ bảo: “Có hai thứ đạo để cầu A-tì-bạt-trí: một là đạo khó hành, hai là đạo dễ hành”. Ðạo khó hành là ở trong đời ngũ trược nhằm lúc không có Phật mà cầu đạt A-tì-bạt-trí thì khó. Những sự khó khăn ấy có nhiều thứ, kể đại lược có năm điều. Những gì là năm? Một là tướng thiện của ngoại đạo làm loạn pháp Bồ Tát; hai là Thanh Văn chỉ tự lợi gây chướng ngại cho lòng đại từ bi; ba là kẻ ác chẳng đoái hoài nên chúng cứ phá hoại hạnh đức thù thắng của người khác; bốn là tất cả trời, người điên đảo thiện quả, phá hoại phạm hạnh của người khác; năm là chỉ có tự lực, không có tha lực gia trì. Các sự như thế mắt thấy đầy dẫy, ví như đi trên đường bộ thì khổ sở cho nên gọi là “đạo khó hành”. Ðạo dễ hành là tin vào nhân duyên của đức Phật, nguyện sanh về Tịnh Ðộ, khởi tâm, lập đức, tu các hạnh nghiệp. Nhờ vào nguyện lực của Phật nên liền vãng sanh; do Phật lực trụ trì nên liền thuộc vào hàng Chánh Ðịnh Tụ củaÐại Thừa. Chánh Ðịnh Tụ chính là địa vị A-tì-bạt-trí bất thoái vậy. Ví như ngồi thuyền theo đường thủy thì nhàn cho nên gọi là “đạo dễ hành”. Hỏi: Bồ Ðề đã là một thì tu nhân cũng phải nên chẳng hai, sao ở đây lại gọi sự tu nhân hướng đến Phật quả là đạo khó hành và gọi việc vãng sanh Tịnh Ðộ để mong chứng đắc Ðại Bồ Ðề là đạo dễ hành? Ðáp: Hết thảy các hành pháp giảng trong các kinh Ðại Thừa đều có tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp. Tự lực là gì? Ví như có người sợ hãi sanh tử, phát tâm xuất gia, tu Ðịnh, phát khởi thần thông, dạo trong tứ thiên hạ; đấy gọi là “tự lực”. Tha lực là gì? Như có kẻ yếu đuối, cậy vào sức chính mình chẳng leo lên lưng lừa nổi; nhưng nếu tùy tùng Luân Vương thì liền có thể bay lên không du hành tứ thiên hạ. Vì nhờ vào sức của Luân Vương nên gọi là “tha lực”. Cũng thế, chúng sanh ở cõi này khởi tâm, lập hạnh, nguyện sanh Tịnh Ðộ, đấy chính là tự lực! Lúc lâm chung, A Di Ðà Phật Như Lai dùng đài sáng nghênh tiếp liền được vãng sanh, đó là tha lực. Bởi vậy, Ðại kinh dạy: “Mười phương trời người muốn sanh về cõi ta thì không ai là chẳng lấy đại nguyện nghiệp lực của đức A Di Ðà làm tăng thượng duyên”. Nếu chẳng đúng như vậy thì hóa ra bốn mươi tám nguyện là chuyện bịa đặt hay sao? Khuyên hàng hậu học: Ðã có tha lực để nương dựa thì chẳng nên tự hạn cuộc lấy mình để cứ phải ru rú mãi trong nhà lửa nữa! C2. Nói về kiếp lớn, nhỏ: Như Trí Ðộ Luận chép: “Kiếp có ba thứ: một là tiểu kiếp, hai là trung kiếp, ba là đại kiếp. Như cái thành rộng bốn mươi dặm, cao thấp cũng thế, trong thành chứa đầy hạt cải. Có chư thiên trường thọ,cứ ba năm đến nhặt bỏ đi một hạt. Cho đến khi hết sạch hạt cải thì gọi là một tiểu kiếp. Hoặc là có cái thành rộng tám mươi dặm, chiều cao cũng thế, chứa đầy hạt cải. [Thời gian để] nhặt bỏ hết hạt cải theo cách giống như trên thì gọi là một trung kiếp. Hoặc có cái thành rộng đến một trăm hai mươi dặm, chiều cao cũng thế, chứa đầy hạt cải. [Khoảng thời gian để] nhặt hết hạt cải đi giống hệt như cách trên đã nói gọi là một đại kiếp. Hoặc có khối đá to tám mươi dặm chiều cao cũng thế. Có chư thiên trường thọ cứ mỗi ba năm lại dùng áo trời phảy qua một lượt. Áo trời nặng ba thù dùng phất mãi chẳng thôi thì đá ấy mới mòn hết, [khoảng thời gian đó] gọi là một trung kiếp”. [Kích thước] hòn đá nhỏ, hòn đá to [để hình dung tiểu kiếp và đại kiếp thì cứ] dựa theo trung kiếp mà biết, chẳng cần phải thuật đủ. C3. Trong đề mục thứ ba, có năm ý: C3.1 Một là từ vô thỉ kiếp đến nay, trong cõi này, [chúng sanh] luân hồi vô cùng, thọ thân vô số như Trí Ðộ Luận ghi: “Ở trong loài người, hoặc là chết nơi nhà họ Trương, sanh vào nhà họ Vương; chết nơi nhà họ Vương, sanh vào nhà họ Lý. Cứ như thế sanh trong khắp cả cõi Diêm Phù Ðề. Hoặc là sanh trong cùng một nhà, hoặc sanh vào nhà khác họ; hoặc chết ở Nam Diêm Phù Ðề, sanh vào Tây Câu Gia Ni. Như Diêm Phù Ðề, ba cõi thiên hạ kia cũng như vậy. Hoặc giả chết trong Tứ Thiên Hạ (5), sanh nơi tứ thiên vương thiên cũng thế. Hoặc chết nơi tứ thiên vương thiên, sanh trời Ðao Lợi. Chết nơi trời Ðao Lợi, sanh trong cõi phía trên tầng trời Tứ Thiên cũng vậy. Sắc giới có mười tám tầng trời; Vô Sắc giới có bốn tầng trời. Chết đây sanh kia, mỗi mỗi đều giống như vậy. Hoặc chết nơi sắc giới sanh trong A Tì địa ngục. Chết từ A Tì địa ngục, sanh trong các cõi địa ngục khác nhẹ hơn. Chết trong các địa ngục nhẹ, sanh trong súc sanh. Chết trong súc sanh, sanh trong ngạ quỉ đạo. Chết nơi ngạ quỉ đạo, sanh trong trời hoặc người. Luân hồi sáu nẻo như vậy, chịu hai thứ báo khổ và vui, sanh tử vô cùng”. Thai sanh là như vậy, ba cách sanh kia (noãn, thấp, hóa) cũng giống như thế. Vì thế, kinh Chánh Pháp Niệm dạy: “Bồ Tát hóa sanh bảo các thiên chúng rằng: ‘Phàm nhân trong trăm ngàn kiếp sống nơi đây, cứ ham vui, phóng dật, chẳng tu đạo, chẳng biết phước xưa dần dần sẽ tận, sẽ lại đọa trong tam đồ chịu các khổ”. Do đó, kinh Niết Bàn dạy: “Thân này là do các khổ hợp thành, hết thảy đều bất tịnh: nghẽn, buộc, ung loét... [xét đến] căn bản thì thân này chẳng có ích lợi gì. Thậm chí, thân của chư thiên cũng giống như vậy”. Bởi đó, kinh ấy lại dạy: “Phải siêng tu, đừng phóng dật, vì cớ sao? Phóng dật chính là cội gốc của các điều ác; chẳng phóng dật chính là cội nguồn của các điều thiện. Như ánh sáng mặt trời, mặt trăng sáng nhất trong các thứ ánh sáng; chẳng phóng dật cũng lại như vậy, nó là cùng tột nhất, cao cả nhất trong các thiện pháp. Cũng như núi chúa Tu Di là cùng tột nhất, cao nhất trong các núi; pháp chẳng phóng dật cũng giống như vậy: trong các thiện pháp nó là cùng tột nhất, cao cả nhất. Vì cớ sao? Hết thảy ác pháp do phóng dật mà sanh, hết thảy pháp lành lấy chẳng phóng dật làm gốc”. C3.2 Hỏi: Tuy nói là từ vô thỉ kiếp đến nay, luân hồi sáu nẻo không bờ bến, nhưng chẳng biết là trong một kiếp sẽ thọ mấy thân mà nói là lưu chuyển? Ðáp: Như kinh Niết Bàn nói: “Lấy cỏ cây trong khắp tam thiên đại thiên thế giới cắt thành từng cái thẻ dài bốn tấc để đếm số đầu cha mẹ thọ thân trong một kiếp còn chẳng đếm hết nổi”. Hoặc nói: “Trong một kiếp uống sữa mẹ còn nhiều hơn nước bốn đại hải”. Hoặc nói: “Xương từ nơi các thân trong một kiếp chất đống như núi Tỳ Phú La”. Như thế, từ bao kiếp xa xưa đến nay chúng ta chịu đựng sanh tử, cho đến giờ đây vẫn còn là thân phàm phu, có bao giờ tự nghĩ ngợi than thở thương cảm hay chăng? C3.3 Hỏi: Ðã nói là từ vô thỉ kiếp đến nay thọ thân vô số, nhưng đó vẫn chỉ là nói chung chung để khiến người sanh chán [tam giới], có kinh văn nào để dẫn chứng hay chăng? Ðáp: [Những điều vừa nói đó] đều có thánh giáo làm bằng cớ, kinh nào vậy? Như kinh Pháp Hoa dạy: “Trong đời quá khứ lâu xa chẳng thể nói được có đức Phật xuất thế hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, có mười sáu vương tử, mỗi vị đều lên pháp tòa giáo hóa chúng sanh. Mỗi một vị vương tử đều giáo hóa sáu trăm vạn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh”. Từ khi đức Phật ấy diệt độ đến nay, thật là rất lâu xa chẳng biết nổi được số. Vì sao? Kinh nói: “Ðem hết tất cả đại địa trong tam thiên đại thiên thế giới nghiền làm mực. Phật dạy: Người ấy đi qua ngàn cõi nước mới chấm xuống một điểm to bằng vi trần. Lần lượt như thế cho đến hết sạch luợng mực chế bằng đất ấy. Phật bảo: ‘Ðem những cõi nước kẻ ấy đi qua dù chấm hay không chấm, đều nghiền thành bụi cả. Cứ một bụi là một kiếp thì từ khi đức Phật ấy diệt độ đến nay, [thời gian] lại còn hơn số ấy”. Chúng sanh ngày nay từng thọ giáo pháp dưới tòa của mười sáu vị vương tử khi ấy. Vì thế kinh nói: “Vốn do nhân duyên ấy nên nói kinh Pháp Hoa”. Kinh Niết Bàn cũng nói: “Một đằng là vương tử, một đằng là kẻ nghèo, hai người như thế qua lại với nhau”. Nói “vương tử” là chỉ đức Thích Ca Như Lai hiện tại chính là một trong mười sáu vị vương tử khi ấy; còn nói “kẻ nghèo” là chỉ cho bọn chúng sanh ngày nay. C3.4 Hỏi: Ðã bảo là bọn chúng sanh bị lưu chuyển nhiều kiếp, nhưng trong tam giới họ thọ thân trong đường nào nhiều nhất? Ðáp: Tuy nói là lưu chuyển, nhưng phần nhiều thọ thân trong tam ác đạo như kinh có dạy: “Ở trong hư không, đo lấy một khoảng rộng chừng tám chẩu (6) tính từ mặt đất lên tới trời Sắc cứu Cánh. Trong khoảng ấy, tất cả chúng sanh mà ta thấy được phần nhiều là thân trời hay thân người trong tam thiên đại thiên thế giới”. Do đó, ta biết là thọ thân trong ác đạo thật nhiều.Vì sao như vậy? Chỉ vì pháp ác dễ khởi, tâm lành khó sanh. Hiện giờ đây chỉ thấy chúng sanh trong hiện tại nếu được phú quý thì lại chỉ lo phóng dật, phá giới; trong cõi trời kẻ ham vui cũng nhiều. Vì vậy, kinh nói: “Chúng sanh lưu chuyển luôn lấy ba ác đạo làm nhà thường ở; còn đường trời, người chỉ tạm đến rồi đi như là nhà trọ vậy”. Xin mượn luận Ðại Trang Nghiêm để khuyên hết thảy chúng sanh thường phải hệ niệm hiện tiền, kệ rằng: Lúc khỏe không bịnh tật, Biếng lười chẳng tinh tấn Luôn tham công tiếc việc Chẳng tu Thí, Giới, Thiền, Chợt bị cái chết nuốt Mới hối, cầu tu thiện Bậc trí nên quán sát, Dứt trừ ý ngũ dục, Siêng năng tu tâm mình, Lâm chung không hối hận, Tâm ý đã chuyên chí, Không còn niệm lầm loạn. Bậc trí siêng dốc lòng, Lâm chung ý chẳng tán. Chẳng tập tâm chuyên chí, Lâm chung ắt tán loạn. Nếu khi tâm tán loạn, Như cỡi ngựa dùng cương, Hoặc như khi chiến đấu, Xoay chuyển chẳng thẳng tiến. C3.5 Hỏi: Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, từ bao kiếp đến nay lẽ ra nên gặp được nhiều đức Phật, do nhân gì mà mãi đến nay cứ tự luân hồi sanh tử, chẳng thoát khỏi nhà lửa? Ðáp: Xét theo Ðại Thừa thánh giáo thì chẳng qua là vì chẳng có được hai thứ thắng pháp để đánh tan sanh tử nên không ra khỏi nhà lửa được. Những gì là hai? Một là thánh đạo; hai là vãng sanh Tịnh Ðộ. Hiện thời khó chứng nổi thánh đạo ấy, một là do xa cách đức Phật đã lâu; hai là vì Lý sâu nên chỉ hiểu được chút ít. Vì thế kinh Ðại Tập Nguyệt Tạng nói: “Ta thấy trong đời Mạt pháp, ức ức chúng sanh khởi hạnh tu đạo nhưng chưa có một kẻ nào chứng đắc”. Nay là thời Mạt Pháp, hiện đang là đời ác năm trược nên chỉ có một môn Tịnh Ðộ mới là con đường thông suốt. Vì vậy, Ðại kinh nói: “Nếu có chúng sanh dù chỉ suốt đời tạo ác, lúc mạng sắp dứt, mười niệm liên tục xưng danh hiệu ta mà nếu chẳng được vãng sanh thì chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Hơn nữa, chúng sanh đều chẳng biết tự lượng sức: Xét theo Ðại Thừa, họ chưa từng chú tâm đến Chơn Như Thật tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không; còn nếu xét theo Tiểu Thừa thì từ việc chứng nhập, lãnh hội Thánh Ðế, tu đạo, cho đến [chứng quả] Na Hàm, La Hán, đoạn ngũ hạ, trừ ngũ thượng, chẳng luận là đạo hay tục, họ tuyệt nhiên chẳng có phần. Ví dù có hưởng được quả báo trời, người thì cũng đều là do Ngũ Giới, Thập Thiện chiêu cảm những quả báo ấy; nhưng kẻ giữ được đã rất hiếm. Còn như bàn đến chuyện khởi ác, tạo tội thì có khác gì gió lốc mưa cuồng! Vì vậy, chư Phật đại từ bi khuyên nên quy hướng Tịnh Ðộ. Dẫu cho suốt đời tạo ác, chỉ cần dốc lòng chuyên tinh thường hay niệm Phật thì hết thảy các chướng tự nhiên tiêu trừ, quyết được vãng sanh. Sao chẳng xét nghĩ, không bận tâm gì cả vậy? C4. Lấy thánh giáo chứng thật để khuyên tin tưởng, cầu được vãng sanh: Theo như kinh Quán Phật Tam Muội chép: “Lúc bấy giờ, trong hội có Tài Thủ Bồ Tát bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn! Con nhớ đời quá khứ vô lượng kiếp, có đức Phật xuất thế cũng tên là Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi đức Phật ấy diệt độ rồi có một vương tử tên là Kim Tràng: kiêu mạn, tà kiến, chẳng tin chánh pháp. Có tri thức tì kheo tên là Ðịnh Tự Tại, bảo vương tử rằng: ‘Trong đời có tượng Phật thật là đáng yêu, hãy nên tạm vào tháp xem hình tượng Phật’. Khi ấy, vương tử theo lời bạn lành vào tháp quán tượng, thấy tượng đẹp đẽ, bảo với tỳ kheo: “Tượng Phật còn đoan nghiêm đến thế, huống hồ là chơn thân của Phật”. Tỳ kheo bảo rằng: “Vương tử! Ngài nay đã thấy Phật tượng mà chẳng lễ kính sao?’ [Vương tử] bèn xưng ‘Nam Mô Phật’. Vương tử về cung chăm chắm nghĩ mãi đến tượng Phật trong tháp, vào lúc cuối đêm mộng thấy tượng Phật, tâm hoan hỉ lớn bèn, xả ly tà kiến, quyy Tam Bảo. Khi thọ mạng dứt, do công đức vào tháp niệm Phật nói trên liền được gặp gỡ chín trăm ức na do tha Phật. Ở nơi chư Phật, thường siêng năng tinh tấn, luôn đắc Niệm Phật tam muội rất sâu. Do sức của Niệm Phật tam muội đều được chư Phật hiện tiền thọ ký cho. Từ ấy trở đi, trong trăm vạn a tăng kỳ kiếp chẳng đọa ác đạo, cho đến ngày nay chứng được Thủ Lăng Nghiêm tam muội. Vương tử khi ấy nay chính là Tài Thủ con đây’. Lúc bấy giờ, trong hội có mười phương các đại Bồ Tát, số đến vô lượng ai nấy đều nói bổn duyên là đều nhờ vào Niệm Phật mà chứng đắc. Phật bảo A Nan: -Quán Phật tam muội là thuốc cho hết thảy chúng sanh phạm tội, là sự hộ vệ cho kẻ phá giới, là người dẫn đường cho kẻ lạc đường, là mắt cho kẻ mù lòa, là trí huệ cho kẻ ngu si, là đèn soi tăm tối, là ông tướng đại dũng mãnh giữa đám giặc phiền não, là chỗ dạo chơi của chư Phật Thế Tôn, là chỗ phát sanh đầu tiên của các đại tam muội như Thủ Lăng Nghiêm v.v… Phật bảo A Nan: -Ông nay khéo trì, chớ để quên mất, quá khứ, vị lai, hiện tại tam thế chư Phật đều giảng Niệm Phật tam muội như thế. Ta với mười phương chư Phật và ngàn đức Phật trong Hiền kiếp từ lúc mới phát tâm đều do sức của Niệm Phật tam muội mà đắc Nhất Thiết Chủng Trí”. Lại như kinh Mục Liên Sở Vấn chép: ‘Phật bảo Mục Liên: ‘Ví như trên ngàn con sông to nước chảy mạnh, có những thứ cỏ, cây trôi nổi, trước chẳng đoái sau, sau chẳng ngó trước mà đều vào trong biển lớn cả. Thế gian cũng vậy, dẫu có hào quý, giàu vui tự tại nhưng tất cả đều chẳng thoát khỏi sanh, lão, bịnh, tử. Chỉ vì chẳng tin kinh Phật nên đời sau làm người lại thật khốn khổ, chẳng thể được sanh trong ngàn cõi nước Phật. Vì thế, ta nói: cõi Phật Vô Lượng Thọ dễ qua, dễ đạt mà con người chẳng chịu tu hành vãng sanh, lại chạy theo chín mươi lăm thứ tà đạo. Ta nói kẻ ấy là kẻ không mắt, đáng gọi là kẻ không tai”. Kinh giáo đã như vậy, sao chẳng bỏ cái khó để nương theo cái đạo dễ hành vậy thay!
Chú thích: (1) Tứ cú: có, không, cũng có cũng không, chẳng có chẳng không. (2) Nhị đế: Chơn Ðế và Tục Ðế. (*) Trong chánh văn, không ghi rõ bài kệ này trích từ bản kinh hay bộ luận nào. (3) Biệt thời ý: Quan điểm cho rằng chúng sanh tạo ngũ nghịch, thập ác không được vãng sanh trong hiện thời. Mười niệm thành tựu chỉ tạo thành nhân duyên để được vãng sanh trong đời sau hay trong tương lai. Do chẳng được vãng sanh trong hiện tại nên gọi là “biệt thời” (thời khác). Nhiếp Luận cho rằng đức Phật nói những chúng sanh ấy vẫn được vãng sanh trong đời này chỉ là để khuyến khích nên gọi chung khái niệm này là “biệt thời ý”. (4) Con người giả danh (giả danh nhân): Con người do tứ đại cùng các tâm vương, tâm sở giả hợp thành nên gọi là giả danh nhân. (5) Tứ thiên hạ: chỉ thế gian, gồm bốn đại châu: Diêm Phù Ðề, Ðông Thắng, Tây Ngưu, Bắc Câu Lô. Do bốn châu này ở dưới tầng trời Tứ Thiên Vương nên thế gian này thường được gọi là Tứ Thiên Hạ. (6) Chẩu hay chửu là đơn vị đo lường thời cổ, thường còn được dịch là một khủy tay. 2D. Trong đề mục lớn thứ tư, có ba ý bàn định: -Thứ nhất là như các vị Tam Tạng pháp sư Ấn Ðộ cùng các vị đại đức cõi này (Trung Hoa) đều cùng xét kỹ thánh giáo, khen ngợi quy hướng Tịnh Ðộ nên nay dùng [gương những vị ấy] để khuyên quy hướng. -Thứ hai, Căn cứ vào tông chỉ của kinh này và các bộ kinh Ðại Thừa khác thì phàm, thánh tu chứng phần nhiều lấy Niệm Phật tam muội làm môn chính yếu. -Thứ ba, vấn đáp, giải thích để chỉ rõ niệm Phật được các thứ công năng lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. D1. Xét theo sở hành của các bậc đại đức Ấn Ðộ và cõi này, tôi tối tăm mờ mịt (1) há dám tự tiện xác quyết, chỉ biết tìm lấy cái mình có thể kham hiểu để kính vâng ý thầy. Các vị ấy là ai? Chính là Ðại Thừa pháp sư Bồ Đề Lưu Chi từ Ấn Ðộ. Kế đó, ở cõi này, bậc đại đức quở trách, né tránh danh lợi thì có Huệ Sủng pháp sư. Tiếp đấy, bậc đại đức mỗi lần diễn giảng đều cảm Thánh Tăng đến nghe thì có Ðạo Tràng pháp sư. Tiếp đến có vị đại đức tuy sống lẫn với chúng mà vẫn giữ hạnh tịch tĩnh, được cả hai nước cùng ngưỡng mộ chính là Ðàm Loan pháp sư. Kế đến, có vị đại đức riêng tự thấu suốt Thiền Quán chính là Ðại hải thiền sư. Tiếp đó, có vị đại đức thông huệ, giữ giới chính là Tề Triều Thượng Thống. Sáu vị đại đức vừa kể đều là gương thần nơi Nhị Ðế, đều là giềng mối Phật pháp, chí hạnh tuyệt vời, cổ kim thật hiếm có, đều cùng nghiên cứu kỹ Ðại Thừa, khen ngợi Tịnh Ðộ chính thật là vô thượng yếu môn. Hỏi: Ðã bảo là các vị ấy khen ngợi, quy hướng Tịnh Ðộ chính là yếu môn, nhưng chưa rõ là các vị đại đức ấy khi lâm chung có sự linh nghiệm chi chăng? Ðáp: Ðều có linh nghiệm chẳng dối. Như Ðàm Loan pháp sư, bình thời thường tu Tịnh Ðộ cũng thường có bọn quân tử thế tục đến quở trách pháp sư rằng: “Mười phương cõi Phật đều là Tịnh Ðộ. Sao pháp sư lại chỉ riêng chú tâm vào Tây phương, há đó chẳng phải là thiên kiến sanh khởi hay sao?’ Pháp sư bảo: “Tôi đã làm phàm phu, trí huệ cạn cợt, chưa nhập địa vị nên phải giữ cho niệm lực quân bình giống như khi dẫn trâu qua ruộng lúa thì luôn phải chú tâm ràng giữ, há nào dám phóng túng, trọn không chỗ quy hướng!” Tuy lắm kẻ cật vấn bắt bẻ nhiều phen, pháp sư đã riêng có chủ ý. Bởi vậy, chẳng luận là đạo hay tục, hết thảy mọi người hễ một phen chạm mặt pháp sư nếu là người chưa sanh chánh tín thì ngài khuyên lơn cho đến khi sanh lòng tin. Nếu đã sanh chánh tín thì ngài đều khuyên quy hướng Tịnh Quốc. Vì thế, lúc pháp sư lâm chung, Tăng, tục đều thấy hai bên chùa có phan, hoa sáng rực cả viện, khắp nơi thoảng mùi hương lạ, âm nhạc nghênh tiếp, pháp sư liền vãng sanh vậy. Lúc lâm chung của những vị đại đức khác đều có điềm lành, nếu muốn thuật đủ những tướng vãng sanh thì thật là chẳng thể nghĩ bàn được. D2. Trong các kinh phần nhiều minh thị tông chỉ Niệm Phật tam muội Phần này gồm có tám ý: Hai ý đầu nói về Nhất tướng tam muội. Sáu ýsau là Căn cứ vào tướng để trình bày rõ Niệm Phật tam muội. D2.1 Thứ nhất, theo như kinh Hoa Thủ: “Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát: -Tam muội có hai thứ: Một là có Nhất tướng tam muội, hai là Chúng Tướng tam muội. Nhất tướng tam muội là có Bồ Tát nghe thế giới ấy có đức Như Lai hiện đang thuyết pháp thì Bồ Tát coi Phật tướng ấy như đang hiện tiền: hoặc là ngồi đạo tràng, hoặc là chuyển pháp luân, đại chúng vây quanh. Giữ lấy tướng như vậy, thâu nhiếp các căn, tâm chẳng tán loạn, chuyên niệm một đức Phật, chẳng bỏ duyên ấy. Vị Bồ Tát như thế thấu hiểu rõ tướng của Như Lai và tướng của thế giới đều là vô tướng. Thường quán như thế, hành như thế, chẳng lìa duyên ấy. Ngay khi ấy, Phật tướng liền hiện ra trước để thuyết pháp cho Bồ Tát. Khi đó, Bồ Tát sanh lòng cung kính sâu xa, lắng nghe pháp ấy, dù là pháp sâu hay cạn đều bội phần tôn trọng. Bồ Tát trụ trong tam muội này, nghe nói các pháp đều là tướng có thể hoại. Nghe xong thọ trì, từ tam muội dậy, có thể vì tứ chúng diễn nói pháp ấy’. Phật bảo KiênÝ: -Ðó gọi là Bồ Tát Nhất tướng tam muội môn”. D2.2 Thứ hai, theo như kinh Văn Thù Bát Nhã nói về Nhất Hạnh tam muội thì: “Khi ấy, Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn! Thế nào là Nhất Hạnh tam muội? Phật dạy: -Nhất Hạnh tam muội là thiện nam tử, thiện nữ nhân ở chỗ vắng vẻ bỏ các loạn ý, ngồi ngay ngắn hướng thẳng về chỗ Phật ngự, chẳng chấp lấy hình, chú tâm nơi một đức Phật, chuyên xưng danh hiệu ngài, niệm không ngơi nghỉ thì trong mỗi niệm sẽ thấy được quá khứ, hiện tại, vị lai tam thế chư Phật. Vì cớ sao? Niệm một đức Phật công đức vô lượng, vô biên chẳng khác gì với công đức niệm vô lượng chư Phật. Ðó gọi là Nhất Hạnh tam muội của Bồ Tát’. D2.3 Thứ ba, theo như kinh Niết Bàn: “Phật dạy: ‘Nếu ai chỉ có thể chí tâm thường tu Niệm Phật tam muội thì thập phương chư Phật luôn thấy người ấy như đang ở trước mặt”. Vì thế kinh Niết Bàn chép: “Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: ‘Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, thường hay chí tâm chuyên niệm Phật dù trong rừng núi hoặc nơi xóm làng, dù ngày hay đêm, dù ngồi hay nằm thì chư Phật Thế Tôn luôn thấy người ấy như ở trước mắt, luôn ở cùng chỗ người ấy để nhận sự cúng dường”. D2.4 Thứ tư, theo như Quán kinh và các kinh thì khác thì nếu với vạn hạnh đã tu đều đem hồi hướng để nguyện được vãng sanh thì không ai là chẳng được vãng sanh. Vì sao nên lấy một hạnh Niệm Phật làm con đường chính yếu? Xét kỹ trong thánh giáo thì có hai thứ lợi ích ban đầu và sau rốt. Nếu muốn sanh thiện khởi hạnh thì [pháp Niệm Phật] gồm đủ các độ. Nếu muốn diệt ác, tiêu tai thì pháp niệm Phật trị tất cả các chướng. Vì thế kinh nói: “Nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật chẳng bỏ. Khi tuổi thọ hết ắt đều được vãng sanh”; đó gọi là cái lợi ích ban đầu. Cái lợi ích rốt sau là như kinh Quán Âm Thọ Ký dạy:“A Di Ðà Phật trụ thế dài lâu triệu tải vĩnh kiếp cũng có diệt độ. Lúc ngài bát Niết Bàn, chỉ có Quán Âm, Thế Chí trụ trì trong cõi An Lạc để tiếp dẫn mười phương. Thời gian Phật ấy diệt độ cùng với thời gian trụ thế cũng như nhau; nhưng hết thảy chúng sanh cõi ấy không được thấy Phật, chỉ có những kẻ một dạ chuyên niệm A Di Ðà Phật để vãng sanh thì luôn thấy Phật Di Ðà hiện hữu bất diệt”. Ðấy chính là cái lợi ích sau rốtvậy. Dùng các hạnh tu khác để hồi hướng thì đều được vãng sanh; nhưng sau khi Thế Tôn diệt độ thì có kẻ thấy Phật hoặc chẳng thấy. Bởi thế, khuyên người hậu học nên suy xét kỹ để được hưởng sự lợi ích lâu xa vậy. D2.5 Thứ năm, theo như kinh Ban Châu: “Khi ấy, trong cõi nước này có Bạt Ðà Hòa Bồ Tát (Hiền Hộ Bồ Tát) nghe có đức Phật A Di Ðà bèn nhiều lần hệ niệm. Do bởi niệm như thế liền được thấy A Di Ðà Phật; đã thấy đức Phật rồi liền thưa hỏi rằng: ‘Con nên hành pháp nào để được sanh về cõi ngài?’ Khi ấy, A Di Ðà Phật bảo Bồ Tát ấy rằng: ‘Muốn sanh về nước ta thì nên thường niệm danh hiệu ta chẳng hề ngơi nghỉ, như thế sẽ được sanh về cõi nước ta. Nên niệm thân Phật có ba mươi hai tướng thảy đều đầy đủ; quang minh chiếu suốt, đoan chánh khôn sánh”. D2.6 Thứ sáu, theo như Ðại Trí Ðộ Luận thì có ba cách giải thích: a. Một, Phật là vô thượng pháp vương, Bồ Tát là pháp thần (quan), chỉ có đức Phật Thế Tôn đáng tôn, đáng trọng. Vì thế phải nên thường niệm Phật. b. Hai là có các Bồ Tát tự bảo: ta từ bao kiếp lâu xa đến nay được nhờ đức Thế Tôn trưởng dưỡng pháp thân, trí thân, đại từ bi thân của chúng ta, Thiền Ðịnh, trí huệ, vô lượng hạnh nguyện là do Phật mà được thành tựu. Ðể báo ân nên thường nguyện gần Phật cũng như đại thần được vua ân sủng thì thường nghĩ đến chúa. c. Ba là có các Bồ Tát lại bảo như sau: Khi ta còn tu nhân, gặp ác tri thức phỉ báng Bát Nhã bị đọa trong ác đạo trải qua vô lượng kiếp. Tuy tu các hạnh khác vẫn chưa ra thoát được. Sau đó, có một lúc tuân theo sự chỉ dạy của thiện tri thức, ta hành Niệm Phật tam muội thì khi đó liền trừ sạch được ngay các chướng, mới được giải thoát. Do Niệm Phật có lợi ích lớn như thế nên nguyện chẳng rời Phật. D2.7 Theo như kinh Hoa Nghiêm nói: “Thà trong vô lượng kiếp chịu đủ hết thảy khổ, trọn chẳng xa Như Lai, chẳng thấy tự tại lực”. Kinh còn chép: “Do Niệm Phật tam muội ắt được thấy Phật. Sau khi mạng chung sẽ sanh về trước chư Phật”. Thấy kẻ lâm chung nên khuyên niệm Phật, lại còn bày tôn tượng bảo họ chiêm ngưỡng. Lại nữa, Thiện Tài đồng tử cầu thiện tri thức, đến bên tỳ kheo Công Ðức Vân rằng: ‘Bạch đại sư! Làm thế nào để tu Bồ Tát đạo quy hướng Phổ Hiền hạnh?’ Khi ấy, tỳ kheo bảo Thiện Tài rằng: “Trong biển trí huệ của đức Thế Tôn, ta chỉ biết được một pháp, ấy chính là môn Niệm Phật tam muội. Ðó là gì? Trong môn tam muội này, do trông thấy hết thảy chư Phật và quyến thuộc ngài, cõi Phật nghiêm tịnh nên khiến cho chúng sanh xa lìa điên đảo. Niệm Phật tam muội môn là trong cảnh giới vi tế, thấy được cảnh giới tự tại của hết thảy đức Phật, trong các kiếp chẳng bị điên đảo. Niệm Phật tam muội là có thể khởi lên hết thảy cõi Phật chẳng thể hoại, thấy khắp chư Phật trong tam thế chẳng điên đảo”. Khi ấy, tỳ kheo Công Ðức Vân bảo Thiện Tài rằng: “Biển sâu Phật pháp rộng lớn vô biên, ta chỉ biết được một môn Niệm Phật tam muội này, các cảnh giới mầu nhiệm khác vượt khỏi số lượng, ta chẳng biết được”. D2.8 Thứ tám, theo như kinh Hải Long Vương: “Khi ấy, Hải Long Vương bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Ðệ tử cầu sanh cõi Phật A Di Ðà, nên tu hạnh gì để được sanh về cõi ấy?’ Phật bảo long vương: ‘Nếu muốn sanh trong cõi ấy thì nên hành tám pháp. Những gì là tám? Một là thường niệm chư Phật. Hai là cúng dường Như Lai. Ba là khen ngợi Thế Tôn. Bốn là tạo hình tượng Phật, tu các công đức. Năm là hồi hướng nguyện được vãng sanh. Sáu là tâm chẳng khiếp nhược. Bảy là nhất tâm tinh tấn. Tám là cầu được trí huệ chơn chánh của Phật’. Phật bảo long vương: ‘Hết thảy chúng sanh đủ tám pháp ấy sẽ thường chẳng lìa Phật”. Hỏi: Chẳng đủ tám pháp thì có được sanh về trước đức Phật, chẳng rời Phật chăng? Ðáp: Ðược sanh, chẳng còn ngờ chi. Vì sao biết thế? Như lúc đức Phật nói kinh Bảo Vân cũng dạy hễ đầy đủ mười hạnh thì được sanh về Tịnh Ðộ, thường chẳng lìa Phật. Khi ấy, có Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật: “Nếu chẳng đủ mười hạnh thì có được vãng sanh chăng?” Phật dạy: “Ðược vãng sanh. Chỉ cần hành trọn vẹn một hạnh trong mười hạnh chẳng khuyết thì chín hạnh kia đều coi như thanh tịnh”, chớ nghi chi nữa! Lại như kinh Ðại Thọ Khẩn Na La Vương chép: “Bồ Tát hành bốn pháp sẽ thường chẳng lìa chư Phật, những gì là bốn? Một là tự tu thiện pháp, kiêm khuyên chúng sanh phát tâm vãng sanh để được gặp gỡ Như Lai. Hai là tự khuyên, khuyên người thích nghe chánh pháp. Ba là tự khuyên, khuyên người phát Bồ Đề tâm. Bốn là một dạ chuyên chí hành Niệm Phật tam muội. Ðủ cả bốn hạnh ấy thì sanh trong hết thảy chỗ nào cũng thường ở trước đức Phật, chẳng lìa chư Phật”. Kinh ấy lại chép: “Phật nói hạnh pháp của Bồ Tát có ba mươi hai khí cụ. Là gì? Bố thí là khí cụ đại phú. Nhẫn nhục là khí cụ đoan chánh, trì giới là khí cụ thánh nhân; ngũ nghịch chẳng hiếu thuận là khí cụ núi đao, rừng kiếm, chảo nước sôi. Phát Bồ Đề tâm là khícụ thành Phật, thường hay niệm Phật vãng sanh Tịnh Ðộ là khí cụ để thấy Phật…” Lược nêu sáu môn, các môn khác chẳng thuật. Thánh giáo đã dạy như thế, sao hành giả nguyện được vãng sanh lại chẳng thường niệm Phật? Lại theo như kinh Nguyệt Ðăng Tam Muội: “Niệm tướng hảo và các đức hạnh của Phật có thể khiến cho các căn chẳng loạn động, tâm chẳng mê hoặc, được tương hợp với pháp, được văn Ðắc Trí như đại hải. Kẻ trí trụ trong tam muội này nhiếp niệm hạnh thì ngay nơi kinh hành sẽ được thấy ngàn ức chư Như Lai và cũng gặp gỡ vô lượng hằng sa Phật”. D3. Vấn đáp, giải thích để chỉ rõ Niệm Phật tam muội có các điều lợi ích Ðoạn này gồm năm ý: D3.1 Hỏi: Nay nói thường tu Niệm Phật tam muội, còn đối với các tam muội khác thì sao? Ðáp: Ở đây nói “thường niệm” chứ chẳng nói là chẳng hành các tam muội khác. Vì chỉ hành Niệm Phật tam muội nhiều nên nói là “thường niệm”, chứ chẳng nói là hoàn toàn chẳng thực hành các tam muội khác. D3.2 Hỏi: Nếu khuyên thường tu Niệm Phật tam muội là có ý coi nhẹ các tam muội khác chăng? Ðáp: Niệm Phật tam muội tướng thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Sao biết được như thế? Như trong Ma Ha Diễn nói: “Các tam muội khác chưa phải là tam muội. Vì sao? Là vì có tam muội chỉ trừ được tham, chẳng trừ được sân si. Hoặc có tam muội chỉ trừ được sân, chẳng trừ được tham si. Hoặc có tam muội chỉ trừ được si, chẳng trừ được tham sân. Hoặc có tam muội chỉ trừ được chướng hiện tại, chẳng trừ được quá khứ,vị lai hết thảy các chướng. Nếu hay thường tu niệm Phật tam muội thì chẳng luận là quá khứ, hiện tại hay vị lai, hết thảy các chướng đều trừ được cả”. D3.3 Hỏi: Niệm Phật tam muội đã có khả năng trừ chướng, được phước, có công năng và lợi ích lớn lao, nhưng chưa rõ là nó cũng có thể khiến cho hành giả được cái lợi sống lâu, thêm tuổi thọ hay chăng? Ðáp: Ắt phải có. Vì sao? Như kinh Duy Vô Tam Muội nói: “Có hai người là anh em. Anh tin nhân quả, em không có tín tâm nhưng khéo hiểutướng pháp. Người em nhân soi gương thấy trên mặt mình tướng chết đã hiện, chẳng sống được quá bảy ngày. Khi ấy, có kẻ trí dạy qua hỏi Phật. Phật liền đáp rằng: -Bảy ngày nữa [sẽ chết] chẳng sai chạy vậy. Nếu có thể nhất tâm niệm Phật, tu giới thì có thể thoát nạn. Gã liền tuân lời hệ niệm. Ðến ngày thứ sáu, có hai con quỉ đi đến, tai nghe tiếng niệm Phật liền không tiến đến trước được, đành về báo với vua Diêm La. Vua Diêm La truyền lấy lệnh phù ghi rằng: “Do công đức trì giới, niệm Phật sẽ được sanh lên từng trời Viêm Thiên thứ ba”. Lại như trong kinh Thí Dụ có ghi: “Có một trưởng giả chẳng tin tội phước, tuổi đã năm mươi, đêm chợt mộng thấy: chẳng quá mười ngày sau, sát quỉ sẽ xách trát đến lôi mình đi. Người ấy tỉnh giấc, hoảng hốt phi thường, đến sáng kiếm thầy bói đoán mộng. Thầy giảng điềm mộng như sau: “Trong vòng mười ngày nữa, ắt sẽ có sát quỉ muốn đến hại; [ông sẽ còn sống] chẳng quá mười ngày nữa!”. Người ấy kinh hoảng bội thường, đến cầu thỉnh Phật. Phật liền dạy rằng: “Nếu muốn diệt tai nạn ấy thì từ nay trở đi phải chuyên tâm niệm Phật, trì giới, thắp hương, đốt đèn, treo phan lọng màu, tin tưởng Tam Bảo thì mới khỏi chết’. Ông ta liền thực hành theo pháp ấy, chuyên tâm tin tưởng. Sát quỉ đến cửa thấy ông tu công đức, chẳng hại được liền bỏ chạy. Nhờ công đức ấy, ông ta thọ đủ trăm tuổi, chết đi được sanh lên trời”. Lại có một trưởng giả tên là Chấp Trì, vì trả giới lại cho Phật nên bị ác quỉ đánh. D3.4 Hỏi: Niệm Phật tam muội này chỉ có thể đối trị các chướng, chỉ chiêu lấy quả báo thế gian hay là cũng có thể chiêu cảm Vô Thượng Bồ Ðề xuất thế hay chăng? Ðáp: Ðược, vì sao? Như kinh Hoa Nghiêm, trong phẩm Thập Ðịa, bắt đầu từ Sơ Ðịa cho đến Thập Ðịa, trong mỗi một địa đều nói gia hạnh đạo để tiến nhập từng địa và nêu cái lợi công đức khi Bồ Tát viên mãn từng địa vị nhưng chẳng trụ đạo xong rồi thì đều kết thúc bằng câu: “Các vị Bồ Tát ấy tuy tu các hạnh khác nhưng đều chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm tăng, dùng nhạc cụ để cúng dường Tam Bảo”. Theo đoạn kinh trên, ta thấy rõ: Các vị Bồ Tát cho đến những vị thuộc vào Thập Ðịa phải thường học niệm Phật, niệm Pháp, niệm tăng thì mới có thể thành tựu vô lượng hạnh nguyện, viên mãn biển công đức. Lẽ nào Nhị Thừa, phàm phu cầu sanh Tịnh Ðộ lại chẳng học đòi niệm Phật ư! Vì cớ sao? Chính là vì Niệm Phật tam muội đây gồm đủ hết thảy Tứ Nhiếp, Lục Ðộ, thông với các hạnh, hỗ trợ các hạnh vậy. D3.5 Hỏi: Từ Sơ Ðịa trở lên, Bồ Tát cùng chứng lý Chơn Như giống như đức Phật, đáng gọi là sanh trong nhà Phật, tự mình có thể làm Phật để cứu độ chúng sanh thì sao lại cần phải học Niệm Phật tam muội, nguyện thấy Phật vậy? Ðáp: Luận về Chơn Như thì nó rộng lớn vô biên dường như hư không, khó biết nổi lượng. Ví như một căn nhà tối to lớn, nếu thắp một ngọn đèn, hai ngọn đèn thì dẫu ánh sáng chiếu tỏa mà nhà vẫn còn tối. Dần dần dùng nhiều đèn hơn, tuy có thể bảo là sáng rỡ nhưng đâu có bằng nổi ánh sáng mặt trời! Chứng trí của các vị Bồ Tát trong từng địa vị tuy lần lượt hơn hẳn nhau nhưng vẫn còn thấp thỏi, đâu có sánh nổi với Phật trí tựa như ánh mặt trời! E. Trong đề mục lớn thứ năm có bốn ý bàn định: Một là bàn chung về tu đạo là dài hay gọn, ý muốn cho [hành nhân] mau đạt được bất thoái. Hai là so sánh thiền quán nơi cõi này và cõi kia để khuyên vãng sanh. Ba là suy bì hai cảnh tịnh, uế trong cõi này và cõi kia, hay còn gọi là so lường lậu với vô lậu. Bốn là dẫn thánh giáo để chứng minh sự đúng đắn, khuyên đời sau sanh lòng tin cầu vãng sanh. E1. Bàn chung về đường tu đạo là dài hay gọn Gồm có hai ý: một là luận về tu đạo là dài hay gọn; hai là vấn đáp, giải thích. E1.1 Tu đạo là dài hay gọn Hết thảy chúng sanh không ai là chẳng chán khổ, cầu vui, sợ trói buộc, cầu giải thoát, đều muốn sớm chứng Vô Thượng Bồ Ðề. Trước hết, phải lấy phát Bồ Ðề tâm làm đầu. Tâm ấy khó biết, khó khởi. Giả sử như đã phát khởi được tâm ấy thì theo như kinh dạy, lại cần phải tu mười thứ hạnh là: Tín, Tinh Tấn, Niệm, Giới, Ðịnh, Huệ, Xả, Hộ Pháp, Phát Nguyện, hồi hướng để đạt đến Bồ Ðề; nhưng hành nhân phải tu đạo liên tục chẳng dứt suốt cả vạn kiếp mới chứng được địa vị bất thoái. Nay chúng sanh hiện còn là phàm phu, lòng tin hiện đang còn nhỏ nhoi, hời hợt, đáng gọi là giả danh, cũng gọi là bất định tụ, cũng gọi là ngoại phàm phu, chưa ra khỏi nhà lửa được. Vì sao biết thế? Theo kinh Bồ Tát Anh Lạc thì phải thực hiện đầy đủ các hạnh vị nhập đạo như trên cho nên gọi là “đạo khó hành”. Lại chỉ vì trong một kiếp, thọ thân sanh tử đã còn chẳng biết nổi số, huống hồ là trong vạn kiếp phải chịu đựng nỗi đớn đau, thiêu đốt. Nếu có thể tin hiểu rõ kinh Phật, nguyện sanh về Tịnh Ðộ thì tùy theo thọ mạng dài hay ngắn, chỉ trong một đời liền đạt được địa vị bất thoái, [sánh ra] bằng với công sức tu đạo suốt cả một vạn kiếp. Sao các hàng đệ tử chẳng chịu suy xét, chẳng bỏ cái khó để cầu cái dễ? Ngay như trong luận Câu Xá cũng có nói tới hai thứ đạo dễ hành và khó hành. “Khó hành” là như luận ấy đã giảng: “Trong ba đại a-tăng-kỳ kiếp, trong mỗi một kiếp, đều đầy đủ phước trí tư lương, sáu ba-la-mật, hết thảy các hạnh, mỗi mỗi hạnh nghiệp đều phải đầy đủ trămvạn đạo khó hành thì mới viên mãn được một địa vị; đấy là đạo khó hành vậy”. Ðạo dễ hành là như luận ấy nói: “Nếu do có phương tiện riêng liền được giải thoát thì gọi là đạo dễ hành”. Nay đã khuyên quy hướng Cực Lạc, hết thảy hạnh nghiệp đều hồi hướng về cõi ấy, chỉ cần thì khi tuổi thọ hết thì ắt sẽ được vãng sanh. Ðược sanh sang cõi kia liền rốt ráo thanh lương, há chẳng đáng gọi là đạo dễ hành hay sao? Phải nên hiểu ý này vậy. E1.2 Hỏi: Ðã nói là nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ thì khi mạng này tận sẽ liền được vãng sanh, như vậy có thánh giáo nào chứng minh điều đó hay chăng? Ðáp: Có bảy ý, tôi đều dẫn kinh luận để chứng minh sự đúng đắn của giáo thuyết ấy. Một là dựa theo Ðại kinh: “Phật bảo A Nan: ‘Có chúng sanh nào muốn trong đời này thấy Vô Lượng Thọ Phật thì nên phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, tu hành công đức nguyện sanh về cõi kia thì liền được vãng sanh”. Vì vậy, Ðại kinh khen ngợi: “Nếu nghe đức hiệu của Phật A Di Ðà mà hoan hỷ khen ngợi, ngưỡng mộ, quy y dù chỉ trong một niệm thì sẽ được đại lợi, đấy chính là đã được đầy đủ của báu công đức. Ví dù lửa đầy khắp cả tam thiên thế giới thì cũng phải vượt thẳng qua để nghe danh hiệu Phật. Nghe A Di Ðà Phật sẽ chẳng bị lui sụt nữa. Vì thế, chí tâm rập đầu lễ”. Hai, theo như Quán kinh, trong phần giảng về chín phẩm đều nói khi lâm chung chánh niệm thì liền được vãng sanh. Ba là theo như Khởi Tín Luận dạy các chúng sanh: khuyên quán Chơn Như bình đẳng nhất thực. Cũng có bậc bồ Tát vừa mới phát ý, tâm còn yếu kém, tự cho là chưa thể thường gặp được chư Phật để thân cận, thừa sự, cúng dường, ý muốn lui sụt. Phải nên biết là đức Như Lai có phương tiện thù thắng để gìn giữ tín tâm, đó chính là do nhân duyên chuyên tâm niệm Phật sẽ được tùy nguyện vãng sanh. Do thường thấy Phật nên sẽ vĩnh viễn thoát khỏi ác đạo. Bốn là theo như kinh Cổ Âm Ðà Ra Ni chép: “Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các tỳ kheo: ‘Ta sẽ vì các ông diễn nói: Nay trong thế giới An lạc ở phương Tây hiện đang có Phật hiệu là A Di Ðà. Nếu có tứ chúng có thể thọ trì danh hiệu đức Phật ấy một cách chơn chánh, kiên cố tâm ý, ức niệm chẳng quên, trong mười ngày, mười đêm trừ bỏ tán loạn, ròng rặt siêng gắng tu tập Niệm Phật tam muội. Nếu có thể niệm niệm chẳng ngơi thì trong mười ngày ắt sẽ được thấy đức A Di Ðà Phật, đều được vãng sanh’. Năm, theo như kinh Pháp Cổ: “Nếu người lúc lâm chung chẳng thể khởi niệm, chỉ biết là phương kia có Phật bèn phát khởi ý muốn vãng sanh thì cũng được vãng sanh”. Sáu, theo như kinh Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sanh: “Nếu có kẻ lâm chung chết đọa địa ngục, quyến thuộc trong nhà vì kẻ chết niệm Phật và đọc tụng [kinh điển], thiết trai, làm phước thì kẻ chết liền ra khỏi địa ngục, vãng sanh Tịnh Ðộ”. Huống hồ là kẻ trong hiện tại tự mình niệm Phật thì lẽ nào chẳng được vãng sanh? Vì thế, kinh ấycũng nói: “Quyến thuộc hiện tại vì người chết tạo phước thì như gởi lương cho người ở xa, người ấy quyết định ăn được”. Bảy, dẫn nhiều kinh để chứng minh sựđúng đắn, chẳng hạn như kinh Ðại Pháp Cổ dạy: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thường hay chuyên tâm xưng niệm danh hiệu chư Phật thì mười phương chư Phật và hết thảy hiền thánh thường thấy người ấy như đang hiện diện trước mắt. Vì thế kinh này tên là Ðại Pháp Cổ. Nên biết là đối với mười phương Tịnh Ðộ, người ấy sẽ tùy nguyện vãng sanh”. Lại như kinh Ðại Bidạy: “Thế nào gọi là đại bi? Nếu chuyên niệm Phật liên tục chẳng đoạn thì khi lâm chung, quyết sẽ sanh về An Lạc. Nếu có thể lần lượt khuyên nhau tu hành niệm Phật thì nên biết những kẻ ấy đáng gọi là người hành đại bi vậy”. Vì thế, kinh Niết Bàn có chép: “Phật bảo đại vương: ‘Giả sử mở kho tàng lớn để bố thí cho hết thảy chúng sanh trong cả một tháng thì công đức đạt được chẳng bằng nổi công đức của người niệm Phật một tiếng. Công đức sau hơn công đức trước chẳng thể so sánh nổi”. Lại như kinh Tăng Nhất A Hàm dạy: “Phật bảo A Nan: ‘Nếu có chúng sanh cúng dường y phục, thức ăn, đồ nằm, thuốc men cho mọi người trong một Diêm Phù Ðề thì công đức đạt được há có nhiều chăng?’ A Nan bạch Phật rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Rất nhiều, thật nhiều, chẳng thể tính nổi số lượng’. Phật bảo A Nan: ‘Nếu có chúng sanh dùng thiện tâm liên tục xưng danh hiệu Phật [trong khoảng thời gian lâu chừng bằng] thời gian vắt sữa bò thì sẽ đạt được công đức hơn hẳn công đức trên chẳng thể lường nổi”. Kinh Ðại Phẩm dạy: “Nếu ai tán tâm niệm Phật cho đến khi hết khổ thì phước ấy chẳng tận. Nếu ai rải hoa niệm Phật cho đến khi hết khổ thì phước ấy chẳng tận”. Do đó, ta biết: niệm Phật có lợi ích lớn lao chẳng thể nghĩ bàn vậy. Trong kinh Thập Vãng Sanh và các kinh Ðại Thừa đều có những đoạn [có thể dùng để] chứng thực [những lợi ích ấy], chẳng thể dẫn trọn hết được! E2. So sánh thiền quán nơi cõi này và cõi kia để khuyên vãng sanh Phương này uế cảnh, loạn tưởng, khó nhập. Những người tu đắc thì chỉ đạt được định về mặt sự, nhưng phần nhiều đắm nhiễm nơi sự hỷ lạc của Thiền; còn nếu như ai có thể nương theo nghiệp báo sanh lên thượng giới thì khi mạng hết, phần nhiều lại bị đọa xuống. Vì thế, luận Trí Ðộ bảo: “Ða Văn, Trì Giới, Thiền nhưng chưa được pháp vô lậu thì dẫu có những công đức như vậyvẫn chưa đáng tin”. Nếu như hướng về Tây phương tu tập thì sự lẫn cảnh đều quang tịnh, Ðịnh, Quán dễ thành, trừ tội nhiều kiếp, quyết chắc chắn mau đạt đến cảnh giới rốt ráo thanh lương như Ðại kinh đã nói chi tiết. Hỏi: Nếu như có thể dùng Thiền Ðịnh để cảm được cảnh giới thù thắng của Tây phương, mà trời sắc Giới là kém hơn thì lẽ nào Thiền Ðịnh lại chẳng chiêu cảm được Sắc Giới? Ðáp: Nếu luận về cái nhân tu Ðịnh thời đã bao trùm cả đây lẫn kia; nhưng địa vị nơi cõi kia (Cực Lạc) là bất thoái, lại còn có tha lực gia trì nên mới bảo là cõi kia thù thắng. Tuy có thể tu định để cảm được [Sắc giới của] cõi này; nhưng chỉ có mỗi cái nhân của tự mình, tuyệt không có tha lực dẫn dắt nên khi nghiệp hết sẽ chẳng tránh khỏi bị lui sụt. Vì thế nói là chẳng bằng vậy. E3. Luận về hai cảnh tịnh và uế của cõi này và cõi kia, hay cũng gọi là so lường lậu và vô lậu Nếu luận về cảnh giới cõi này thì chỉ có tam đồ, gò, hố, núi, khe, cát mặn, gai góc, mưa hạn, gió dữ, ác xúc, sấm, chớp, sét, hổ, sói, ác thú, ác tặc, ác tử, hoang loạn, phá tán, tam tai bại hoại. Còn luận về chánh báo thì tam độc, bát đảo, ưu bi, ganh ghét, lắm bệnh, chết non, đói khát, nóng, lạnh, thường bị tư mạng, hại quỉ truy bức, ô uế cực độ không thể tả xiết! Vì thế gọi là “hữu lậu”, thật là đáng chán. Vãng sanh cõi kia thì thù thắng vì theo như Ðại kinh tả: “Mười phương trời người chỉ cần sanh về cõi ấy thì không ai là chẳng đạt được các thứ lợi ích”. Lợi ích gì? Một là sanh trong cõi ấy, đi thời có hoa sen vàng đỡ chân, ngồi liền có tòa báu nâng mình, đi ra liền có Thiên Ðế dẫn đường, vào thì có Phạm vương theo sau. Hết thảy thánh chúng đều là bè bạn của mình, A Di Ðà Phật là đại sư của ta. Tùy ý ngao du dưới cây báu, bên rừng báu. Rửa chân nơi ao bát đứcsảng khoái tinh thần. Hình vóc thì đều cùng là thân sắc vàng. Thọ mạng ngang bằng với Phật. Học thì học đủ các môn; Chỉ thì rỗng rang Nhị Ðế. Dùng đại thần thông tế độ khắp mười phương, lúc tạm ngơi nghỉ liền trụ trong Tam Không Môn. Vào dạo chơi trong đường Bát Chánh, đến thẳng Ðại Niết Bàn. Hết thảy chúng sanh chỉ cần sanh về cõi ấy sẽ đều liền chứng được những lợi ích đó. Sao lại chẳng xét suy, chẳng mau cầu sanh về ư? E4. Dẫn thánh giáo để chứng minh sự đúng đắn, khuyên đời sau sanh lòng tin phát nguyện vãng sanh Theo như kinh Quán Phật Tam Muội chép: “Lúc bấy giờ, mười phương chư Phật trong hội đều ngồi xếp bằng trên hoa đài, hiện ra trên không. Phương Ðông ThiệnÐức Như Lai cầm đầu, bảo đại chúng rằng: -Các ông nên biết, ta nhớ trong quá khứ vô lượng kiếp có đức Phật tên là Bảo Oai Ðức Thượng Vương. Lúc đức Phật ấy hiện ra đời, cũng giống như ngày nay, nói pháp ba thừa. Trong đời Mạt Pháp sau khi đức Phật ấy diệt độ, có một tỳ kheo dẫn chín người đệ tử đến tháp Phật lễ bái tượng Phật. Thấy một tượng báu trang nghiêm rạng rỡ ưa nhìn. Xem xong kính lễ, mắt ngắm chăm chú, ai nấy đều nói một bài kệ để tán thán. Tùy theo thọ mạng dài ngắn, ai nấy đều mạng chung. Sau khi mạng chung liền sanh về trước Phật. Từ ấy trở đi, luôn được gặp gỡ vô lượng chư Phật; ở bên chư Phật tu nhiều phạm hạnh, đạt được biển cả Niệm Phật tam muội. Ðã chứng đắc như thế liền được chư Phật hiện tiền thọ ký tùy ý làm Phật trong mười phương. Phật Thiện Ðức ở phương Ðông chính là thân ta. Các vị Phật ở chín phương khác chính là chín người đệ tử khi ấy. Mười phương chư Phật Thế Tôn do lễ tháp Phật, đọc một bài kệ tán thán nên được thành Phật há nào phải ai khác mà chính là mười phương Phật chúng ta vậy. Khi ấy, mười phương chư Phật đều từ trên không đáp xuống, phóng ngàn quang minh hiển hiện sắc thân và bạch hào tướng quang, mỗi vị đều cùng ngồi chung giường với Phật Thích Ca Mâu Ni, bảo A Nan rằng: -Ông nên biết Phật Thích Ca Văn dùng vô số tinh tấn, trăm ngàn khổ hạnh, để cầu Phật trí huệ nên cảm được thân này, nay giảng cho các ông. Ông nên vâng giữ lời Phật; hãy vì trời, rồng, đại chúng, bốn bộ đệ tử trong đời vị lai mà nói pháp Quán Tướng Hảo Của Phật và Niệm Phật Tam Muội. Nói xong lời ấy rồi chư Phậtmới chào hỏi Thích Ca Văn Phật; hỏi thăm xong đều trở về nước mình”. F. Trong đề mục lớn thứ sáu, có ba ý bàn luận: một là lấy mười phương Tịnh Ðộ để so sánh; hai là suy xét nghĩa lý; ba là bàn về sự trụ, diệt của các kinh. F1. Lấy mười phương Tịnh Ðộ để cùng so sánh Gồm có ba ý: a. Một là như kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh dạy: “Cõi Phật mười phương đều nghiêm tịnh, tùy theo ý nguyện đều được vãng sanh, tuy nhiên, [các cõi ấy] đều chẳng bằng được cõi Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây”. Nghĩa là sao? Ðấy chỉ vì đức A Di Ðà Phật cùng Quán Âm, Ðại Thế Chí, trước kia đã phát tâm từ cõi này sanh sang đó, đối với chúng sanh cõi này đặc biệt có duyên cho nên Phật Thích Ca khen ngợi quy hướng Tịnh Ðộ trong nhiều kinh. b. Hai là theo Ðại kinh, lúc Pháp Tạng Bồ Tát tu nhân, đã ở nơi đức Thế Nhiêu Vương Phật phát trọn các hoằng nguyện, thâu tóm các Tịnh Ðộ. Lúc ấy, đức Phật nói hai trăm mười ức các cõi Phật: trời, người thiện ác, quốc độ tinh, thô; tất cả đều hiện cho thấy. Ngay khi đó, Pháp Tạng Bồ Tát nguyện chọn Tây phương để thành Phật, nay chính là cõi cực Lạc. Ðấy là chứng cớ thứ hai. c. Ba là theo Quán kinh, khi Vy Ðề Hy phu nhân thỉnh vấn về Tịnh Ðộ, Như Lai liền dùng đài quang minh để hiển hiện hết thảy Tịnh Ðộ trong mười phương. Vy Ðề Hy phu nhân tự bạch Phật rằng: “Tuy các cõi Phật ấy đều thanh tịnh, đều có quang minh, nhưng con nay thích sanh về Cực Lạc thế giới của đức A Di Ðà Phật”. Ðấy là chứng cớ thứ ba để biết rằng rằng trong các Tịnh Ðộ, thế giới An Lạc là thù thắng nhất. F2. Suy lường nghĩa lý Hỏi:Vì sao cần phải ngồi quay mặt về Tây để lễ niệm, quán tưởng? Ðáp: Là vì người Diêm Phù Ðề cho rằng chỗ mặt trời mọc là sanh, chỗ mặt trời lặn là tử; vì mượn tướng tử địa [là nơi] thần minh tiến nhập để làm phương tiện phụ trợ nên Pháp Tạng Bồ Tát nguyện thành Phật ở phương Tây, thương xót tiếp độ chúng sanh. Còn ngồi, quán, lễ niệm… quay mặt hướng về Phật là thuận theo lễ nghi thế gian. Nếu đã là thánh nhân được báo bay đi tự tại thì chẳng cần nệ vào phương chốn; còn hạng phàm phu do thân và tâm phụ thuộc vào nhau nên nếu hướng về phương khác ắt sẽ khó vãng sanh Tây phương. Vì thế, Trí Ðộ Luận chép: “Có một vị tỳ kheo bình thời tụng kinh A Di Ðà và niệm Bát Nhã Ba La Mật; lúc lâm chung, bảo đệ tử rằng: ‘A Di Ðà Phật và các thánh chúng nay đang ở trước mặt ta’. Ngài chắp tay quy y, trong khoảnh khắc xả mạng. Liền đó, đệ tử dùng pháp hỏa táng lấy lửa thiêu xác. Tất cả cháy sạch chỉ còn cuống lưỡi vẫn y nguyên như cũ,họ liền nhặt lấy dựng tháp cúng dường”. Long Thọ Bồ Tát chú thích như sau: “Do tụng kinh A Di Ðà nên lúc lâm chung Phật tự đến đón, bởi niệm Bát Nhã Ba La Mật cho nên cái lưỡi chẳng tận”. Lấy đoạn kinh này làm chứng thì biết là đối với hết thảy hạnh nghiệp, chỉ cần hồi hướng thì không ai là chẳng được vãng sanh. Vì vậy, kinh tu Di Tứ Vực chép: “Lúc trời đấtmới mở, chưa có mặt trời, mặt trăng, tinh tú. Ví như có thiên chúng trời đáp xuống đất thì họ chỉ dùng quang minh nơi cổ mình để tự soi sáng. Khi ấy, nhân dân sanh nhiều khổ não. Liền đó, Phật A Di Ðà sai hai vị Bồ Tát: Một tên là Bảo Ứng Thanh, hai tên Bảo Cát Tường; đấy chính là Phục Hy và Nữ Oa. Hai vị Bồ Tát cùng bàn nhau lên tầng trời Phạm Thiên thứ bảy lấy bảy báu, rồi đến cõi này tạo ra mặt trời, mặt trăng và hăm tám ngôi sao để chiếu thiên hạ, định ra bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông. Khi ấy hai vị Bồ Tát bảo với nhau rằng: ‘Sở dĩ nhật, nguyệt, tinh tú hai mươi tám ngôi xoay theo phía Tây là vì khắp hết thảy chư thiên và nhân dân cùng cúi lạy A Di Ðà Phật. Do đó, nhật, nguyệt, tinh tú đều dốc lòng hướng về ngài bèn xoay theo phương Tây”. F3. Bàn về sự trụ diệt của các kinh Một đời Chánh Pháp của đức Phật Thích Ca Mâu Ni dài năm trăm năm; Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp một vạn năm. Khi chúng sanh diệt hết thì các kinh cũng diệt. Ðức Như Lai xót thương chúng sanh bị khổ sở thiêu đốt nên riêng lưu kinh này tồn tại thêm một trăm năm. Dùng đoạn kinh trên làm chứng thì biết là cõi ấy (Cực Lạc) tuy là Tịnh Ðộ mà thể tánh của nó thông cả thượng căn lẫn hạ căn. Nếu biết tướng là vô tướng thì sanh trong bậc thượng. Phàm phu trong nhà lửa nếu một lòng nương về thì sẽ được vãng sanh. G. Trong đề mục lớn thứ bảy, có hai ý bàn định: một là đem tướng cõi này và cõi kia so sánh để bàn định về sự trói buộc và giải thoát; hai là sẽ bàn về việc dụng công tu đạo trong cõi này và cõi kia là nặng hay nhẹ, đạt quả báo là chơn hay ngụy để khuyên hướng về cõi kia. G1. So sánh sự tướng cõi này và cõi kia để bàn định về sự trói buộc cùng giải thoát Nếu xét về tịnh tướng của Tây phương thì [ở đó] mau được giải thoát, thuần hưởng sự rất vui, trí nhãn khai rạng; còn nếu xét đến uế tướng của cõi này thì chỉ có sự vui giả tạo, mù quáng, ách nạn, trói buộc, lo sợ. Hỏi: Theo như các kinh Ðại Thừa đều nói Vô Tướng mới là đạo chính yếu để xuất ly, còn chấp tướng là bị ngăn ngại, chẳng thoát khỏi trần lụy; nay khuyên chúng sanh chán uế ưa tịnh là nghĩa lý gì? Ðáp: Nghĩa ấy chẳng phải như vậy. Vì sao? Phàm là tướng thì có hai thứ: a. Một là ngũ trần dục cảnh, vọng ái tham nhiễm, chấp trước theo cảnh. Những tướng như thế gọi là “trói buộc”. b.Hai là mến công đức Phật, nguyện sanh Tịnh Ðộ, tuy bảo là tướng nhưng là giải thoát, vì sao biết vậy? Như kinh Thập Ðịa nói: “Sơ Ðịa Bồ Tát còn phải tự riêng quán Nhị Ðế, gắng lòng dốc ý; trước hết phải nương vào tướng để cầu, rốt cuộc mới thành Vô Tướng. Phải tăng tấn dần mới thành Ðại Bồ Tát. Cho đến khi đã viên mãn bậc Thất Ðịa thì tâm chấp tướng mới dứt, nhập vào Bát Ðịa tuyệt không còn dùng tướng để cầu thì mới gọi là Vô Công Dụng”. Vì thế luận chép: “Từ Thất Ðịa trở lại, bị ác tham làm chướng thì dùng thiện tham đối trị. Từ Bát Ðịa trở lên, bị thiện tham làm chướng thì dùng vô tham đối trị”. Huống hồ nay nguyện sanh Tịnh Ðộ, hiện đang còn là phàm phu, những thiện căn đã tu đều phát sanh từ lòng mến mộ công đức của Phật công đức thì có lý đâu chúng lại là triền phược? Vì vậy, kinh Niết Bàn dạy: “Hết thảy chúng sanh có hai thứ ái: một là thiện ái, hai là bất thiện ái. Bất thiện ái chỉ kẻ ngu tìm cầu, thiện pháp ái thì được chư Bồ Tát cầu”. Vì thế, Tịnh Ðộ Luận ghi: “Quán Phật quốc độ thanh tịnh vị, nhiếp thọ chúng sanh Ðại Thừa vị, loại sự khởi hạnh nguyện thủ Phật độ vị (đạovị suy xét sự để khởi hạnh nhằm nguyện giữ lấy cõi Phật), tất cánh trụ trì bất hư tác vị (địa vị rốt ráo trụ trì, chẳng tạo tác một cách hư dối)”. Có vô lượng Phật đạo vị như thế ấy nên tuy là giữ lấy tướng nhưng chẳng chấp trước, trói buộc. Hơn nữa, tướng Tịnh Ðộ vừa nói đó chính là tướng vô lậu, tướng Thật tướng vậy. G2. Bàn về dụng công tu đạo nặng hay nhẹ ở nơi này và cõi kia, được báo là chơn hay ngụy Nếu như phát tâm quy hướng Tây phương thì chỉ dùng chút ít thời gian lễ, quán, niệm v.v… Tùy theo thọ mạng dài hay ngắn, lúc lâm chung, đài quang minh sẽ đến đón, vượt thẳng về phương kia, đạt địa vị bất thoái. Vì thế,Ðại kinh chép: “Mười phương trời, người sanh về cõi ta, nếu chẳng đều là đã đạt đến Diệt Ðộ mà lại còn bị thoái chuyển thì ta chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác’. Phương này phải tu lâu dài các môn: Thí, Giới, Nhẫn, Ðịnh, Huệ, nếu chưa tu đủ một vạn kiếp hoặc lâu hơn nữa thì vẫn mãi chưa thể thoát khỏi nhà lửa, điên đảo, đọa trụy. Bởi vậy, mới bảo là dụng công rất nặng mà đạt được quả báo hư ngụy. Ðại kinh lại chép: “Sanh trong nước ta thì sẽ vượt ngang ra khỏi năm đường ác”. Nay đem sánh với cõi tịnh của Phật A Di Ðà, cả năm đường nơi Sa Bà đều gọi là đường ác: Ðịa ngục, ngạ quỉ, súc sanh là chỗ thuần ác tụ hội về nên gọi là “đường ác”; trời, người trong Sa Bà vì gom nhóm tạp nghiệp nên cũng gọi là “nẻo ác”. Nếu tính theo phương này để tu trị, đoạn trừ thì trước hết phải đoạn được Kiến Hoặc, lìa cái nhân tam đồ, diệt cái quả tam đồ; sau đấy, đoạn trừ Tu Hoặc, lìa cái nhân trời ¬người, tuyệt quả trời-người. Ðấy đều là lần lượt đoạn trừ dầndần nên chẳng gọi là “hoành tiệt” (cắt ngang). Nếu được sanh trong cõi tịnh của Phật A Di Ðà thì sẽ bỏ ngay của Sa Bà cùng một lúc cho nên gọi là “cắt ngang”. Chặt đứt năm đường ác là chặt đứt cái quả. Ðường ác tự nhiên bị đóng lấp là lấp đi cái nhân. Ðấy là nói về cái bị xa lìa; còn bảo “tiến lên cái đạo vô cùng cực” là chỉ cho cái sẽ đạt được. Nếu có thể phát tâm hồi hướng, nguyện sanh Tây phương, trên thì trọn cả một đời, dưới thì chỉ mười niệm, không ai là chẳng được vãng sanh. Một phen đã đến được cõi kia thì sẽ liền thuộc vào trong Chánh Ðịnh Tụ, bằng với công sức tu hành cả vạn kiếp trong cõi này. H. Trong đề mục lớn thứ tám cóba ý bàn định: một là lược dẫn các kinh để chứng minh [các kinh] đều khuyên bỏ cõi này, ưa thích cõi kia; hai là so sánh hai đức Phật Di Ðà và Thích Ca; ba là giải thích về ý nghĩa vãng sanh. H1. Lược nêu các kinh Ðại Thừa để làm chứng [các kinh] đều khuyên bỏ cõi này, cầu cõi kia Một là Ðại kinh hai quyển (tức bản kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh, hai quyển do ngài Khang Tăng Khải dịch vào đời Tào Ngụy) được nói tại núi Kỳ Xà Quật. Hai là một bộ Quán kinh gồm hai hội giảng tại vương cung và núi Kỳ Xà (hội thứ nhất giảng tại vương cung cho Vy Ðề Hy và các thị nữ nghe, hội thứ hai do ngài A Nan trùng tuyên cho chúng tăng ở tinh xá Kỳ Viên nghe. Bản kinh này do ngài Cương Lương Gia Xá dịch). Ba là Vô Lượng Thọ kinh tiểu quyển (tức là kinh A Di Ðà do ngài Cưu Ma La Thập dịch) nói tại thành Xá Vệ. Bốn là lại có kinh Mười Phương Tùy Nguyện Vãng Sanh để làm chứng. Năm là lại có Vô Lượng Thanh Tịnh Giác Kinh (cũng là kinh Vô Lượng Thọ, bản dịch đời Hán của ngài Chi Lâu Ca Sấm) hai quyển gồm một hội chánh thuyết. Sáu là lại có Thập Vãng Sanh kinh, một quyển. Các kinh, luận Ðại Thừa khác có nhiều đoạn chỉ bày, khen ngợi Tịnh Ðộ như kinh Thỉnh Quán Âm, kinh Ðại Phẩm... hoặc như các bộ luận của các vị Long Thọ, Thiên Thân… Chẳng phải là chỉ có một bộ khen ngợi, khuyên lơn [nên quy hướng Tịnh Ðộ]. Tịnh Ðộ các phương khác chẳng được trình bày rành mạch như thế. H2. So sánh hai đức Phật Thích Ca và A Di Ðà Phật Thích Ca Như Lai trụ thế tám mươi năm, tạm hiện rồi tịch diệt; tịch diệt xong chẳng hiện trở lại; sánh với [thời gian của] chư thiên trời Ðao Lợi thì [Phật trụ thế] chẳng đến một ngày. Lại nữa, khi đức Thích Ca trụ thế, duyên cứu độ cũng kém chẳng hạn như khi cứu người mắc bệnh nơi thành Tỳ Xá Ly v.v... Chuyện ấy ra sao? Khi đó, nhân dân thành Tỳ Xá Ly mắc phải năm thứ ác bệnh: một là mắt đỏ như máu; hai là hai tai chảy mủ; ba là mũi tuôn ra máu; bốn là lưỡi đớ không nói được, năm là thức ăn nuốt vào biến thành thô ráp, sáu thức bế tắctựa hồ người say. Có năm dạ xoa: một con tên là Ngật Noa Ca La, mặt đen như mực, lại có năm mắt, nanh chó chĩa lên chuyên ăn tinh khí của người… Lương y Kỳ Bà vậndụng hết y thuật mà chẳng trị nổi. Khi ấy có trưởng giả Nguyệt Cái làm người cầm đầu, dẫn đám bịnh nhân đều đến chỗ Phật, khấu đầu xin xót thương. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khởi ra vô lượng bi mẫn, bảo bịnh nhân rằng: “Phương Tây có A Di Ðà Phật, Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí Bồ Tát. Các ông nên nhất tâm chắp tay cầu được thấy”. Ngay khi đó, đại chúng đều tuân theo lời Phật khuyên, chắp tay cầu khN n. Lúc bấy giờ, đức Phật ấy phóng quang lớn, Quán Âm, Thế Chí đồng thời hiện đến nói đại thần chú khiến hết thảy bịnh khổ đều tiêu trừ cả, được bình phục như cũ. Thật ra, hai đức Phật thần lực bình đẳng như nhau, nhưng đức Thích Ca chẳng đích thân hiện oai thần chỉ là vì muốn đề cao đức Di Ðà hòng khiến hết thảy chúng sanh không ai là chẳngquy hướng Phật Di Ðà vậy. Vìthế, trong nhiều pháp hội, đức Thích Ca khen ngợi, khuyên quy y Phật A Di Ðà. Ta phải nên hiểu ý ấy. Bởi thế, pháp sư Ðàm Loan mới một dạ quy hướng Tây phương, dâng lời tán Ðại kinh như sau: Cõi An Lạc: Thanh Văn, Bồ Tát, Trời, người trí huệ đều thông đạt Thân tướng, trang nghiêm đẹp khôn sánh, Thuận theo phương khác gọi trời, người. Dung nhan đoan chánh khôn chi sánh, Thân diệu tinh vi vượt trời, người, Tấm thân hư vô, thể vô cực, Nên cúi lạy đấng Bình Ðẳng Lực H3. Giải thích về ý nghĩa vãng sanh: Gồm có hai ý: một là giải thích về ý nghĩa vãng sanh; hai là vấn đáp, giải thích. Hỏi: Nay nguyện sanh Tịnh Ðộ nhưng chưa biết phát ý ra sao? Ðáp: Chỉ mong mau thành tựu [hạnh] tự lợi, lợi tha, lợi vật sâu rộng như bậc Thập Tín, Tam Hiền: nhiếp thọ chánh pháp, khế hội Bất Nhị, kiến chứng Phật tánh, hiểu rành Thật tướng, quán chiếu sáng tỏ cái tâm và hai Ðế hữu-vô, [hiểu rõ] nhân quả trước, sau, [hiểu sự] hơn kém [trong các địa vị của] Thập Ðịa, [hiểu] Tam Nhẫn, Tam Ðạo, Kim Cang vô ngại, chứng Ðại Niết Bàn [dùng] Ðại Thừa để rộng cứu tế; muốn ở đời không thời hạn cho đến khi biển sanh tử vô biên bị tận diệt cả. [Trong phần nêu] câu hỏi có ba ý. Hỏi: Nguyện sanh về Tịnh Ðộ là nhằm muốn lợi lạc muôn vật. Nếu vậy thì những chúng sanh ta sẽ cứu độ nay hiện vẫn còn ở nơi đây, nếu như ta đã phát được cái tâm như vậy, lẽ ra phải nên ở lại đây để cứu khổ chúng sanh! Vì sao đã có được cái tâm [lợi vật] như vậy mà lại nguyện sanh về Tịnh Ðộ trước, tựa hồ bỏ rơi chúng sanh để cầu cái vui Bồ Ðề cho riêng mình đó chăng? Ðáp: Chẳng đúng như vậy. Vì sao? Vì như Trí Ðộ Luận nói: “Ví như có hai người cùng thấy cha mẹ, quyến thuộc bị rớt xuống đầm sâu. Một người nhảy ngay xuống, tận lực cứu vớt, vì sức chẳng kham nổi nên cũng bị chìm đắm theo. Một người chạy ra xa, tìm một cái thuyền chèo ra cứu vớt thì [tất cả] cùng được thoát nạn. Bồ Tát cũng vậy, nếu lúc còn chưa phát tâm thì cũng bị lưu chuyển trong sanh tử chẳng khác gì chúng sanh. Lúc đã phát được tâm Bồ Ðề thì trước sẽ nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ, lấy thuyền Ðại Bi nương Vô Ngại Biện Tài vào biển Sanh Tử cứuvớt chúng sanh”. Hai là Ðại Luận còn chép: “Bồ Tát sanh vào Tịnh Ðộ đủ đại thần thông, biện tài vô ngại; khi giáo hóa chúng sanh còn chẳng thể khiến cho chúng sanh được sanh thiện, diệt ác, tăng trưởng đạo vị, xứng hợp với ý của Bồ Tát”. Nếu cứ ở trong uế độ để cứu tế thì tuyệt chẳng có cái lợi ích ấy, như thể ép gà xuống nước, há nó chẳng bị ướt hay sao? Ba là như trong bài khen ngợi Ðại kinh [của pháp sư Ðàm Loan] có viết: Các Bồ Tát cõi nước An Lạc, Dạy bảo gì cũngdo trí huệ. Với bản thân mình cùng vạn vật, Ðã chẳng hề còn có ngã sở. Sạch như hoa sen chẳng dính bụi. Qua, lại, tiến, dừng như thuyền bè. Lợi lạc, an vui là trách nhiệm, Bỏ hẳn tâm tình ghét cùng ưa. Ví như hư không, đoạn hai tưởng Thắp đuốc trí huệ chiếu đêm dài. Tam minh, thần thông đã trọn đủ, Bồ Tát vạn hạnh quán tâm nhãn, Công đức như thế lượng vô biên, Nên chí tâm nguyện sanh cõi ấy. i. Trong đề mục lớn thứ chín, có hai ý bàn định. Một là đối chiếu khổ, vui, thiện, ác; hai là so sánh về thọ mạng dài ngắn nơi cõi này cùng cõi kia i1. Trong ý thứ nhất, lại gồm hai phần: một là đối chiếu khổ, vui, thiện, ác; hai là dẫn Ðại kinh làm chứng. i1.1 Trong thế giới Sa Bà đây, tuy có hai báo khổ, vui nhưng vẫn luôn luôn là vui ít, khổ nhiều. Nặng thì là khổ sở, bị thiêu đốt trong tam đồ; nhẹ thì là đao binh, tật bịnh liên miên trong cõi trời, người; từ bao kiếp lâu xa đến nay chưa lúc nào ngơi. Ví dù có chút niềm vui trong cõi trời, người thì cũng hệt như bọt nước, ánh chớp, vừa khởi lên liền mất ngay. Vì thế bảo là “chỉ có cái khổ, chỉ có cái ác”. Trong cõi tịnh của Phật Di Ðà thì: nước, chim, cây cối thường tấu pháp âm, giảng rõ đạo giáo, đủ đầy thanh bạch, khiến cho chúng sanh mau được ngộ nhập. i1.2. Dẫn thánh giáo để làm chứng Tịnh Ðộ Luận chép: “Trời, người mười phương sanh về cõi ấy sẽ chẳng khác gì bậc tịnh tâm Bồ Tát. Bậc tịnh tâm Bồ Tát cùng với bậc địa thượng Bồ Tát (2) cùng rốt ráo chứng đắc Tịch Diệt Nhẫn. Vì thế, họ chẳng bị thoái chuyển”. Lại dẫn bốn mươi tám nguyện trong Ðại kinh để nêu lên năm thứ lợi ích lớn. Một là như Ðại kinh nói: “Nếu có trời, người trong mười phương sanh về nước ta, nếu chẳng đều được thân kim sắc thì chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Hai là: “Trời, người trong mười phương sanh về cõi ta nếu hình sắc chẳng giống nhau, có xấu đẹp thì chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác’. Ba là: “Trời, người trong mười phương sanh về cõi ta nếu chẳng được Túc Mạng Trí, nếu chẳng biết được tối thiểu là sự việc trong trăm ngàn ức na do tha các kiếp thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Bốn là: “Trời, người trong mười phương sanh về cõi ta nếu chẳng được Thiên Nhĩ Thông, nếu chẳng nghe được ít nhất lời của trăm ngàn ức na do tha chư Phật dạy mà chẳng thọ trì thì chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác”. Năm là: “Trời, người trong mười phương sanh về cõi ta nếu chẳng được Tha Tâm Trí, chí ít là chẳng biết được tâm niệmcủa chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha các cõi Phật thì chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Nếu bàn về sự lợi ích nơi cõi kia thì khó lòng thuật đủ; chỉ nên nguyện sanh về thì ắt[được lợi ích] chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế cơi kia chỉ là vui, chỉ là lành, không khổ, không ác vậy. i2. Nói về thọ mạng dài ngắn Phương này, nói chung thọ mạng chẳng quá trăm năm. Trong trăm năm ấy, ít ai sống được lâu hơn, đa phần chết trước hoặc tuổi trẻ chết non, thậm chí mới là đứa trẻ con đã bị mất mạng, hoặc là còn trong thai đã sảy, vì sao như vậy? Chỉ vì chúng sanh lúc tạo nhân sai khác nên khi thọ báo cũng chẳng giống nhau. Vì thế, kinh Niết Bàn dạy: “Khi tác nghiệp đen đủi thì quả báo cũng đen đủi. Lúc tác nghiệp trắng trẻo thì quả báo cũng trắng trẻo”. Thanh tịnh cùng tạp nhiễm là như vậy. Lại theo như kinh Tịnh Ðộ Bồ Tát dạy: “Người thọ trăm tuổi, đêm tiêu mất nửa (ngủ mất nửa thời gian), tức là bị giảm mất năm mươi năm. Trong năm mươi năm ấy, mười lăm năm đầu chưa biết thiện, ác; từ tám mươi trởđi, già suy yếu kém, chịu cái khổ vì già cả. Ngoài ra chỉ còncó năm mươi năm, trong thời gian ấy, bị vua quan bức bách trường chinh phương xa, hoặc bị giam cầm trong lao ngục. Trong thì bị những việc tốt xấu trong gia đình chèo kéo, lo lắng bồn chồn, luôn cầu chẳng đủ. Suy xét như vậy thì có mấy lúc tu được đạo nghiệp?”. Nghĩ suy thếấy chẳng buồn thương ư, sao vẫn chẳng chán nhàm? Lại như Ðại kinh dạy: “Người sanh trong thế gian, trong một ngày, một đêm có tám ức bốn ngàn vạn niệm. Một niệm khởi ác sẽ thọ một thân ác. Mười niệm nghĩ ác thì mười đời chịu thân ác. Trăm niệm nghĩ ác phải chịu trăm thân ác”. Xét thân cả đời của một chúng sanh thì nếu trăm năm nghĩ ác sẽ phải chịu thân ác đầy khắp cả tam thiên quốc độ. Ác pháp đã như vậy thì thiện pháp cũng như thế. Một niệm khởi thiện, hưởng một thân thiện. Trăm niệm nghĩ lành, hưởng trăm thân lành. Xét trong một đời của chúng sanh, nếu trăm năm nghĩ lành thì thân lành cũng đầy cả tam thiên quốc độ. Nếu như được mười năm, năm năm nghĩ đến A Di Ðà Phật hoặc là nhiều năm thì thân sau sẽ sanh trong cõi Vô Lượng Thọ, liền hưởng lấy tịnh Ðộ pháp thân hằng sa vô tận chẳng thể nghĩ bàn vậy. Nay trong uế độ, mạng báo ngắn ngủi chẳng lâu; nếu sanh về cõi tịnh A Di Ðà, thọ mạng sẽ dài lâu chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, kinh Vô Lượng Thọ dạy: “Phật bảo Xá Lợi Phất: ‘Vì sao đức Phật ấy hiệu là A Di Ðà? Này Xá Lợi Phất! Mười phương trời người sanh về cõi ấy, thọ mạng sẽ dài lâu ức trăm ngàn kiếp, bằng với đức Phật. Vì thế, ngài hiệu là A Di Ðà”. Ai nấy phải nên suy lường cái lợi ích lớn lao này, đều nên nguyện vãng sanh. Lại như Thiện vương Hoàng Ðế Tôn kinh chép: “Nếu như có kẻ học đạo nghĩ muốn vãng sanh cõi Phật A Di Ðà ở phương Tây, ức niệm ngày đêm, trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, cho đến sáu ngày, bảy ngày. Nếu trong khoảng thời gian ấy toan sanh lòng hối mà nghe ta nói công đức của Thiện vương đây thì lúc mạng sắp hết, sẽ có tám vị Bồ Tát thảy đều bay đến tiếp rước người ấy về cõi A Di Ðà Phật ở phương Tây trọn chẳng ngừng nghỉ”. Từ đây trở đi, lại dẫn kệ tán Ðại kinh để làm chứng. Kệ tán như sau: ‘Nếu có chúng sanh sanh An Lạc, Sẽ đều trọn đủ băm hai tướng. Trí huệ đầy đủ, nhập pháp sâu. Thấu suốt yếu đạo không chướng ngại. Tùy theo căn tánh lợi hay độn Thành tựu các nhẫn như ba nhẫn Cho đến chẳng thể nói các nhẫn. Túc Mạng, Ngũ Thông thường tự tại, Ðến bên đức Phật, chẳng còn sanh Ở trong các đường ác khác nữa, Trừ khi sanh về các phương khác Ở trong cõi đời ác ngũ trược, Thị hiện như đức Ðại Mâu Ni. Sanh cõi An Lạc thành đại lợi Nên chí tâm nguyện sanh cõi kia’. J. Trong đề mục lớn thứ mười có hai ý bàn định: một là dựa theo Ðại kinh dẫn chứng các ý tương đồng để chứng thực; hai là giải thích ý nghĩa của hồi hướng. J1. Dựa vào Ðại kinh, dẫn chứng các ý tương đồng để chứng thực Mười phương chư Phật không vị nào là chẳng khuyên nên quy hướng Tây phương; thập phương Bồ Tát không ai là chẳng cùng sanh về đấy, mười phương đều mong được vãng sanh. Do đó, ta thấy vãng sanh là sự chẳng thể nghĩ bàn. Vì thế, bài tán Ðại Kinh có câu: A Di Ðà thần lực vô cực, Mười phương vô lượng Phật khen ngợi. Từ hằng sa cõi Phật phương Ðông Vô số Bồ Tát đến thân cận Lại cũng cúng dườngcác Bồ Tát, Thanh Văn, đại chúng cõi An Lạc. Nghe nhận kinh pháp, giảng, hóa độ, Trong chín phương kia cũng giống vậy. J2. Giải thích ý nghĩa hồi hướng: Chỉ vì hết thảy chúng sanh đã sẵn có Phật tánh, ai ai cũng có ý nguyện thành Phật; nhưng nếu chỉ dựa vào hạnh nghiệp tu hành chưa được trọn đủ một vạn kiếp thì vẫn chưa thoát ra khỏi được nhà lửa, chẳng thoát nổi luân hồi. Vì thế, đức Phật thương xót nỗi khổ triền miên ấy bèn khuyên hồi hướng Tây phương để [hành nhân được] thành tựu lợi ích lớn lao; mà công phu hồi hướng chẳng ngoài sáu điều. Những gì là sáu? Một là đem tất cả các nghiệp mình đã tu hồi hướng về đức Di Ðà, khi đã sanh trong cõi ngài sẽ đắc lục thông để cứu tế chúng sanh. Ðấy chính là chẳng trụ đạo vậy. Hai là hồi nhân hướng quả. Ba là hồi hạ hướng thượng. Bốn là hồi chậm hướng nhanh, đây chính là chẳng trụ thế gian. Năm là hồi thí [công đức] cho chúng sanh, bi niệm hướng thiện. Sáu là hồi nhập [Thật tướng] trừ bỏ cái tâm phân biệt. Công phu hồi hướng chỉ gồm sáu điều này. Vì thế, Ðại kinh dạy: “Nếu có chúng sanh sanh về nước ta thì tự nhiên sẽ tiến vượt lên bội phần, vượt hẳn hạnh của các địa bình thường, cho tới khi thành Phật đạo sẽ không còn bị nạn lui sụt”. Vì thế bài tán Ðại kinh viết: Bồ Tát, Thanh Văn cõi An Lạc, Bồ Tát cõi này chẳng sánh được Thích Ca vô ngại đại biện tài Khéo bày phương tiện chỉ ít phần: Ðem vua so ăn mày hèn nhất, Ðế vương lại sánh Kim Luân Vương. Lần lượt như thế đến lục Dục Thảy đều so sánh giống như trước Sắc thân cõi trời sánh Cực Lạc Chẳng bằng một phần ngàn vạn ức! Ðều là Pháp Tạng nguyện lực thành, Cúi đầu đảnh lễ Ðại Tâm Lực’. K. Trong đề mục lớn thứ mười một, có hai ý bàn định: một là khuyên hết thảy chúng sanh nương theo thiện tri thức phát tâm hướng về Tây; hai là bàn về cái duyên vãng sanh hơn kém sau khi chết. K1. Khuyên nương theo thiện tri thức Kinh Pháp Cú [dạy về những bậc đáng làm] làm thiện tri thức cho chúng sanh. [Trong kinh có thuật chuyện] Bảo Minh Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là thiện tri thức?” Phật dạy: -Thiện tri thức là người có thể nói những pháp sâu như là: Không, Vô Tướng, Vô Nguyện; các pháp bình đẳng, không nghiệp, không báo, không nhân, không quả, rốt ráo như như, trụ trong Thực Tế, mà trong Tất Cánh Không lại kiến lập rực rỡ hết thảy các pháp. Ấy là thiện tri thức. Thiện tri thức là cha mẹ của ông vì dưỡng dục thân Bồ Ðề của ông. Thiện tri thức là con mắt của ông vì thấy được hết thảy đạo lành, ác vậy. Thiện tri thức là thuyền lớn của ông, chuyên chở các ông vượt biển sanh tử. Thiện tri thức là dây thừng của ông vì có thể lôi kéo các ông ra khỏi sanh tử. Kinh còn khuyên tuy làm thiện tri thức cho chúng sanh nhưng cần phải quy hướng Tây phương, vì cớ sao? Ấy là vì hễ trụ trong hỏa giới này thì có nhiều cảnh nghịch thuận, nhiều sự làm cho bị thối chuyển khó lòng thoát khỏi nổi. Vì thế, ngài Xá Lợi Phất ở trong cõi này phát tâm tu hạnh Bồ Ðề đã hơn sáu mươi kiếp, gặp phải ác tri thức tạo nhân duyên đòi xin mắt thì liền bị thoái chuyển. Do đó, ta biết là tu đạo trong hỏa giới thật là khó khăn nên Phật mới khuyên quy hướng Tây phương. Một phen được vãng sanh thì Tam Học (Văn, Tư, Tu) tự nhiên tăng tiến, viên mãn vạn hạnh; bởi thế, Ðại kinh mới nói: “Cõi tịnh của Phật Di Ðà trọn chẳng có chỗ tạo ác dẫu bằng mảy lông tóc’. K2. Bàn định về sự vãng sanh hơn kém sau khi chết Chúng sanh cõi này khi thọ hết mạng tận, không ai là chẳng phải thuận theo hai nghiệp thiện ác, luôn bị tư mạng, ngục tốt, vọng ái phiền não cùng theo mình thọ sanh. Từ vô số kiếp đến nay chưa thể thoát nạn nổi! Nếu sanh được lòng tin quy hướng Tịnh Ðộ, gắng ý chuyên cần tinh tấn thì lúc mạng sắp hết, A Di Ðà Phật sẽ cùng với Quán Âm và thánh chúng đem đài quang minh đến nghênh tiếp hành giả. Hành giả hoan hỷ theo sau [chân Phật] chắp tay ngồi trên đài, trong khoảnh khắc đến nơi. Cho đến khi thành Phật không điều chi là chẳng khoái lạc. Lại nữa, hết thảy chúng sanh tạo nghiệp bất đồng; nghiệp có ba thứ, tức là: thượng, trung, hạ. Không ai là chẳng phải đến chỗ Diêm La phán tội. Nếu có nhân duyên tin Phật nguyện sanh Tịnh Ðộ, các hạnh nghiệp đã tu đều đem hồi hướng [Cực Lạc] cả thì lúc mạng chung, Phật tự nhiên đến đón, chẳng phải đi đến chỗ Tử Vương. L. Trong đề mục lớn thứ mười hai, có một ý bàn định, tức là dùng kinh Thập Vãng Sanh làm chứng để khuyên vãng sanh. [Trong kinh ấy] đức Phật giảng về cõi Phật A Di Ðà, ngài vì các đại chúng nói cách quán thân, chánh niệm giải thoát. Kinh Thập Vãng Sanh chép: “A Nan bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn! Pháp quán thân của hết thảy chúng sanh là như thế nào? Kính xin Phật giảng cho. Phật bảo A Nan: -Pháp quán thân là chẳng quán Ðông, Tây, chẳng quán Nam, Bắc, chẳng quán bốn góc, trên, dưới; chẳng quán hư không, chẳng quán ngoại duyên, chẳng quán nội duyên, chẳng quán thân sắc, chẳng quán sắc thanh, chẳng quán sắctượng, chỉ quán vô duyên. Ấy là pháp quán thân chơn chánh. Ngoại trừ pháp quán này ra dù có chăm chăm tìm cầunơi nơi chốn chốn trong khắp mười phương cũng chẳng có pháp nào khác để giải thoát. Phật lại bảo A Nan: -Chỉ tự quán thân, thiện lựctự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên. Vì sao thế? Ví như có người tinh tấn, tâm chất trực thì sẽ đắc chánh giải thoát. Người như vậy chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến. A Nan lại bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sanh trong thế gian có được chánh niệm giải thoát như vậy ắt sẽ chẳng có hết thảy địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, ba ác đạo. Phật bảo A Nan: -Chúng sanh trong thế gian chẳng được giải thoát là vì cớ sao? Là vì hết thảy chúng sanh đều dối nhiều, thật ít, không có lấy một chánh niệm. Bởi nhơn duyên ấy, địa ngục thì nhiều, giải thoát lại ít. Ví như có kẻ đối với cha mẹ cùng sư tăng của mình thì ngoài mặt làm ra vẻ hiếu thuận nhưng trong lòng bất hiếu, ngoài hiện vẻ tinh tấn nhưng trong lòng chẳng thật. Kẻ ác như thế tuy chưa bị quả báo, nhưng đã chẳng xa tam đồ! Chẳng có chánh niệm thì chẳng được giải thoát. A Nan lại bạch Phật rằng: -Nếu như vậy thì nên tu thiện căn gì để được chánh giải thoát? Phật bảo A Nan: -Ông nay nghe kỹ, ta nay sẽ vì ông nói. Có mười pháp vãng sanh đạt được giải thoát, những gì là mười? a. Một là quán thân chánh niệm, thường ôm lòng hoan hỷ, dùng thức ăn, y phục cúng Phật cùng Tăng sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. b. Hai là chánh niệm, dùng thuốc men ngon ngọt dâng lên một vị tỳ kheo bị bệnh và hết thảy chúng sanh sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. c. Ba là chánh niệm chẳng hại một sanh mạng, từ bi đối với hết thảy sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. d. Bốn là chánh niệm: đối với giới đã thọ từ nơi thầy thường thanh tịnh tu phạmhạnh, tâm thường hoan hỷ sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. e. Năm là chánh niệm hiếu thuận cha mẹ, kính phụng sư trưởng, chẳng khởi tâm kiêu mạn sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. f. Sáu là chánh niệm đi đến tăng phòng, cung kính chùa tháp, nghe pháp hiểu một nghĩa sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. g. Bảy là chánh niệm trong một ngày một đêm thọ trì tám trai giới, chẳng phá một giới sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. h. Tám là chánh niệm: trong ngày trai hoặc trong tháng trai, có thể xa lìa phòng nhà, luôn đến chỗ thầy lành thì sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. i.Chín là chánh niệm, thường hay trì tịnh giới, chăm tu Thiền Ðịnh, hộ pháp, chẳng ác khẩu. Nếu hành được như thế sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. j. Mười là chánh niệm, nếu đối với Vô Thượng Ðạo chẳng khởi tâm phỉ báng, tinh tấn trì tịnh giới, lại dạy kẻ vô trí lưu truyền kinh pháp này, giáo hóa vô lượng chúng sanh thì những người như vậy đều được vãng sanh. Lúc bấy giờ, trong hội có mộtvị Bồ Tát tên là SơnHải Huệ bạch đức Phật rằng: -Bạch Thế Tôn! Cõi Phật A Di Ðà ấy có những sự vui thù thắng mầu nhiệm gì mà hết thảy chúng sanh đều nguyện sanh vềđó? Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát: -Ông nay nên đứng dậy, chắp tay, đứng ngay ngắn hướng về Tây, chánh niệm quán cõi Phật A Di Ðà, nguyện thấy A Di Ðà Phật. Lúc bấy giờ, hết thảy đại chúng cũng đều đứng dậy chắp tay, cùng quán A Di Ðà Phật. Lúc bấy giờ, A Di Ðà Phật hiện đại thần thông, phóng đại quang minh chiếu đến thân Sơn Hải Huệ Bồ Tát. Lúc ấy, Sơn Hải Huệ Bồ Tát v.v… liền thấy trong cõi nước của Phật A Di Ðà: tất cả sự trang nghiêm diệu hảo đều là thất bảo, núi bảy báu, cõi nước bảy báu; nước, chim, cây cối thường vang ra pháp âm. Cõi ấy ngày ngày thường chuyển pháp luân, nhân dân cõi ấy chẳng tu tập sự gì khác, tu tập nội sự một cách chơn chánh, miệng nói lời Phương Ðẳng, tai nghe Phương Ðẳng, tâm hiểu nghĩa Phương Ðẳng. Lúc ấy, Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn! Ngày hôm nay chúng con trông thấy cõi ấy thắng diệu lợi ích chẳng thể nghĩ bàn, con nay nguyện hết thảy chúng sanh đều được vãng sanh. Sau đó, chúng con cũng nguyện vãng sanh cõi ấy. Phật thọ ký rằng: -Chánh quán, chánh niệm, được chánh giải thoát thì đều được sanh trong cõi kia. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân chánh tín kinh này, yêu thích kinh này, khuyên dạy chúng sanh thì dù nói hoặc nghe sẽ đều được vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. Nếu có những người như thế thì từ ngày nay ta sai hai mươi lăm vị Bồ Tát hộ trì họ, thường khiến cho họ chẳng bịnh, không khổ não, dù người hay phi nhân đều chẳng kiếm cách hại đượchọ. Ði, đứng, nằm ngồi, chẳng luận là ngày hay đêm đều thường được an ổn. Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: -Bạch Thế Tôn! Con nay cúi lãnh lời dạy tôn quý, chẳng dám ngờ vực, nhưng trong đời sẽ có chúng sanh phỉ báng và chẳng tin kinh này. Mai sau, đối với những kẻ như vậy, chúng con nên làm sao? Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát: -Mai sau trong Diêm Phù Ðề sẽ có tỳ kheo hoặc là tỳ kheo ni thấy có người đọc tụng kinh này sẽ hoặc là giận dữ hay đem lòng phỉ báng. Do vì báng chánh pháp, kẻ ấy ngay trong thân hiện đời sẽ cảm lấy các bịnh nặng ác, thân căn chẳng đủ, điếc, lòa, ngọng, câm, thủy thũng, quỉ mị, nằm ngồi chẳng yên, cầu sống chẳng được, cầu chết chẳng xong, hoặc đến lúc chết đi lại bị đọa địa ngục. Trong tám vạn kiếp chịu khổ não lớn, trăm ngàn vạn đời chưa từng nghe tên thức ăn, nước uống. Mãi sau mới được thoát ra, lại sanh làm trâu, ngựa, heo, dê, bị người giết hại chịu khổ não lớn. Sau đấy mới được làm người nhưng thường sanh vào chỗ hèn hạ, trăm ngàn vạn đời chẳng được tự tại, vĩnh viễn chẳng nghe danh tự Tam Bảo. Vì thế, đối với kẻ vô trí chẳng tin, chớ nên nói kinh này”. [Nguyện đem] công đức soạn tập, lưu truyền [tác phẩm này] thí cho khắp hết thảy, trước là phát Bồ Ðề tâm, sau cùng quy hướng Tịnh Ðộ, đều cùng thành Phật đạo.
Chú thích: (1) Tạm dịch chữ ngũ ế diện tường: Ngũ ế là năm thứ che đậy mặt trời, mặt trăng: khói, mây, bụi, sương mù và bàn tay. Diện tường: nhìn vào vách. Hết phần nội dung Bản dịch Việt ngữ số 2 của AN LẠC TẬP. -------------oooo0O0oooo-------------